Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

CHƯƠNG 6 : HEIDEGGER VỚI THẾ KỶ 20

HEIDEGGER VỚI CHỦ NGHĨA PHÁT -XÍT

Như đoạn trước đã đề cập, tôi vì cố gắng đọc cho thông cuốn Sein und Zeit của Heidegger nên mới bắt đầu theo học triết học. Nhiều năm qua, tôi nhiều lần đọc đi đọc lại tác phẩm đó cùng những tác phẩm khác của ông, càng đọc càng tin chắc rằng Heidegger là tư tưởng vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Nhưng đồng thời, ông cũng là một tác gia luôn đem lại phiền toái, và gây nhiều nỗi khó khăn cho người đọc.

Đánh giá tư tưởng triết học của Heidegger, bất luận là ai cũng quan tâm đến vấn đề chủ nghĩa phát-xít. Năm 1933, sau khi chính quyền phát-xít thành lập không lâu, Heidegger đảm nhận chức hiệu trưởng đại học Freiburg, đồng thời gia nhập tổ chức phát-xít, được gọi là “hiệu trưởng chiến đấu”, tích cực tham gia vào các hoạt động bao vệ tổ chức phát-xít này. Đây là sự thực không thể tranh cãi. “Vấn đề Heidegger” đã được nhiều người bàn luận, tạo thành một khuyết điểm lớn trong cuộc đời của triết gia này. Ông không những là một đảng viên phát-xít, mà còn là người tích cực ủng hộ chủ nghĩa phát-xít. Đây là sự thực quá rõ ràng, không cần phải tranh luận nữa. Nghiên cứu tư tưởng Heidegger thì không thể tách rời chủ nghĩa phát-xít, nhưng cần phải phân biệt điều đó có phải là tư tưởng bản chất của ông, hay là do ông nhất thời hồ đồ?

Đồng thời cũng phải thừa nhận rằng Heidegger tuyệt nhiên không phải là người ủng hộ chính sách kỳ thị người Do Thái. Chung quanh Heidegger hầu hết đều là người Do Thái, nếu như mang tư tưởng kỳ thị thì cuộc sống của ông đã hoàn toàn mất tự do rồi.

Đầu tiên là thầy của ông, triết gia Husserl (1859 − 1938), rồi đến các sinh viên như Karl Löwith (1897 − 1973), Herbert Marcuse (1898 − 1979), Hans Jonas, Hannah Arendt. Cùng thời với ông còn có tư tưởng gia Georg Lukacs (1885 − 1971), Ernst Cassirer (1874 − 1945), Ludwig Wittgenstein (1889 − 1951), v.v… đều là người Do Thái. Sinh viên xuất sắc của ông mà không phải là người Do Thái có lẽ là hai người Hans-Georg Gadamer và Oscar Becker. Về điểm này, chủ trương của Heidegger hoàn toàn khác biệt với tư tưởng của A Nhĩ Phất Lôi Đức. La Lâm Bảo 阿 爾 弗 雷 德. 羅 林 堡[1] về tính ưu việt của dân tộc Đức.

Đương nhiên, chuyện không kỳ thị người Do Thái hoàn toàn không làm giảm bớt tội của Heidegger trong việc bảo vệ chủ nghĩa phát-xít. Với tư cách là người ủng hộ Hitler và chính đảng phát-xít, muốn thực hiện cuộc cách mạng thế giới, những sự kiện chính trị không thể nhầm lẫn như thế không sao xóa bỏ được. Nhưng trên thực tế, vì Lực lượng Bão Táp do Ernst Röhm[2] lãnh đạo bị thất thế, nên rốt cuộc vẫn không thấy Heidegger thực hiện lý tưởng chính trị gì. Có thể thấy trên lĩnh vực chính trị, Heidegger vẫn chỉ là người ngoại cuộc.

VẤN ĐỀ ĐỒNG HÓA NGƯỜI DO THÁI

Nhưng tụ tập đông đảo người Do Thái bên cạnh mình cũng không có nghĩa là Heidegger xem trọng và đặc biệt chiếu cố đến họ. Vào lúc bấy giờ, sau Chiến Tranh Thế Giới I, địa vị người Do Thái trong xã hội trở nên quan trọng, những người Do Thái quanh Heidegger là những “người Do Thái bị đồng hóa”, tức là những người Do Thái đã bị xã hội Đức đồng hóa hoàn toàn. Ở châu Âu, sau cuộc đại cách mạng nước Pháp, người Do Thái cũng có được quyền công dân bình đẳng. Tại các nước sử dụng tiếng Đức, số người Do Thái bỏ đạo Do Thái để cải đạo sang Cơ Đốc giáo cũng khá đông.

Đầu thế kỷ 19, những người Do Thái bị đồng hóa, thuộc thế hệ thứ nhất xuất thân từ những khu dân cư Do Thái, đã tham gia vào ngành tài chính rất sớm, và tích lũy được rất nhiều của cải. Thế hệ thứ hai, vì không thể nào tham gia được vào các lĩnh vực chính trị và quân sự để gầy dựng sự nghiệp nên phần đông họ tham gia vào lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Môn đồ của Heidegger phần lớn là những phần tử trí thức tôn sùng chủ nghĩa thế giới trong cộng đồng những “người Do Thái bị đồng hóa” thuộc thế hệ thứ hai đó. Trước Chiến Tranh Thế Giới I, “người Do Thái bị đồng hóa” muốn tìm một chân giảng dạy tại đại học cũng khá khó khăn, bởi vì đa số bọn họ đều xuất thân từ những gia đình giàu có, tiếp thu được một nền giáo dục tốt, cho nên khi gặp nạn tại các các nước Đông Âu mà chạy sang nước Đức thì đa số đều còn giữ truyền thống “người Do Thái phương Đông”, khác biệt với văn hóa châu Âu.

Sau Chiến Tranh Thế Giới I, những người Do Thái bị đồng hóa đó đã tạo thành một cộng động lớn mạnh tại các nước Âu Mỹ. Họ quốc tế hóa mạng lưới giao dịch tài chánh, khiến cho tư bản nội địa nước Đức phải chịu lép vế do phải vật lộn khó khăn trong tình cảnh lạm phát và suy thoái kinh tế với hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ,. Vì vốn của gia tộc James Warburg và Rothschild phân bố trùm khắp các quốc gia Mỹ, Anh, Pháp, Ý, cho nên vốn của nước Đức không thể nào là đối trọng được. Thêm vào đó, những người Do Thái tỵ nạn không ngừng đổ vào nước Đức, khiến tâm lý oán hận người Do Thái của dân tộc Đức ngày càng dâng cao, có thể thấy chủ nghĩa bài Do Thái của nước Đức không phải là không có nguyên nhân.

Lực lượng Bão Táp đã tấn công, đốt cháy một số cửa hàng của người Do Thái, và được một bộ phận dân chúng ủng hộ. Điều này diễn ra không chỉ vì những người đó tin vào thuyết “dân tộc Đức thượng đẳng”, mà còn một ly do nữa, đó là người Do Thái chiếm lĩnh hầu hết thị trường, thâu tóm vốn liếng, khiến người Đức đâm ra bất mãn, nên quay sang ủng hộ chủ nghĩa phát-xít. Vấn đề này hầu như vẫn là chuyện cấm kỵ, sau Chiến Tranh Thế Giới I, rất ít người bàn tới, mong rằng sau này sẽ có người phân tích sâu vấn đề này từ góc độ kinh tế.

NGỘ NHẬN VỀ HEIDEGGER

Có một thời gian rất dài Heidegger im hơi lặng tiếng, không những ít cho ra đời những tác phẩm mới, mà rất hiếm khi xuất hiện trước báo chí hoặc giới học thuật. Năm 1927, đột nhiên ông cho xuất bản tác phẩm Sein und Zeit, khẳng định ngay được vị trí rất cao của bản thân trong giới triết học. Tác phẩm đó gây nên một tác động mạnh mẽ, được gọi là “đã làm thay đổi tình hình triết học nước Đức.”

Do đó, Sein und Zeit tập I được xem là trước tác chủ yếu của ông, trong đó tư tưởng trung tâm là phân tích vấn đề tồn tại của con người (tức Dasein[3]), bản thân ông được gọi là triết gia tồn tại chủ nghĩa.

Trong lần đầu tiên xuất bản, Heidegger đã nhấn mạnh mục tiêu cơ bản của tác phẩm đó là “vấn đề cơ bản của tồn tại luận”, tức “nghiên cứu ý nghĩa của tồn tại nói chung”. Đối với việc phân tích cấu trúc Dasein thì đây chỉ là bước chuẩn bị mà thôi[4]. Cái gọi là “ý nghĩa của tồn tại nói chung” tức “từtồn tại nói chung’ có nghĩa là gì” chứ không chỉ giới hạn trong vấn đề tồn tại của con người.

Chủ đề của Sein und Zeit là phân tích Dasein, nhưng đó lại là tác phẩm chủ yếu của Heidegger, cho nên xem ông là triết gia tồn tại chủ nghĩa là điều sai lầm. Nhưng cho đến nay, hơn một nửa những nhà nghiên cứu Heidegger đều bảo vệ quan điểm đó, thậm chí hiện nay vẫn còn rất nhiều người cho điều đó đúng.

Vì sao đến tận hôm nay vẫn còn quan điểm sai lầm đó? Bởi vì Sein und Zeit là tác phẩm còn dở dang, phần luận giải then chốt nằm ở phần sau vẫn chưa được xuất bản, nên người đọc mới đưa ra kết luận như trên.

Nhưng nếu đọc kỹ những tác phẩm luận giải của ông trong thập niên 20 của thế kỷ 20, ta sẽ thấy đó là quan điểm sai lầm. Nếu ta kết hợp với quá trình hình thành tư tưởng của Heidegger để khảo cứu thì sự thất được phơi bày rất rõ ràng.

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HEIDGGER

Heidegger chào đời ở vùng quê Meßkirch, thuộc thành phố Baden-Württemberg, nước Đức. Nơi đây là khu dân cư của thiểu số tín đồ Thiên Chúa giáo, cha ông phụ trách công việc của giáo hội. Sau khi tốt nghiệp cấp hai, ông được giáo hội cấp học bổng để học tiếp cấp ba, dự định là sau khi tốt nghiệp, ông sẽ là một tu sĩ. Nhưng do thể chất yếu đuối hay bệnh nên nguyện vọng đó không thực hiện được, cuối cùng ông phải theo học thần học tại đại học Freiburg. Một năm sau, ông chủ yếu sang học triết học, bất chấp gia đình phản đối. Theo lời đồn thì khi còn học cấp ba, ông nhân đọc được luận án tiến sỹ Von der mannigfachen Bedeutung des Seienden nach Aristoteles (Bàn về ý nghĩa đa dạng của tồn tại theo Aristotle) của Franz Brentano (1838 − 1917) mà nảy sinh hứng thú với triết học. Công trình đầu tay của Heidegger là nghiên cứu về Aristotle.

Năm 1913, cậu sinh viên Heidegger 24 tuổi hoàn thành luận văn tốt nghiệp “Die Lehre vom Urteil im Psychologismus. Ein kritisch-theoretischer Beitrag zur Logik” (Học thuyết phán đoán trong tâm lý học: Một đóng góp quan trọng về mặt lý thuyết cho logic). Theo hồi ức của chính Heidegger thì trong thời kỳ sinh viên, ông đã đọc các tác phẩm của Hölderlin, Nietzsche, Kierkegaard, Dostoievsky, Rilke (1875 − 1926), Georg Trakl (1887 − 1914), Wilhelm Dilthey (1833 − 1911), v.v… và cảm động sâu sắc. Tại nước Đức lúc bấy giờ, Dostoievsky toàn tập bằng tiếng Đức được xuất bản năm 1905, Kierkegaard toàn tập bằng tiếng Đức được xuất bản năm 1909; tiếp theo đó, đến năm 1910 thì các tác phẩm của Rilke và toàn tập tác phẩm Der Wille zur Macht của Nietzsche ra đời. Di cảo của Nietzsche đã gây một ảnh hưởng cực kỳ to lớn đối với Heidegger.

 Vào thời điểm đó, trong khoa triết học của đại học Freiburg có Heinrich John Rickert (1963 − 1936) là đại biểu chủ chốt của chủ nghĩa Kant mới. Còn Schneider, giáo sư trực tiếp của Heidegger, là một giáo sư không tên tuổi. Năm 1915, ở vào tuổi 26, Heidegger đệ trình luận văn Die Kategorien- und Bedeutungslehre des Duns Scotus (Các phạm trù và ý nghĩa luận của Duns Scotus) để có đủ tư cách làm giảng viên, và bắt đầu công tác giảng dạy. Vào giai đoạn đó, những ai đọc tác phẩm Aristotle thường phải thông qua lời chú giải của triết học kinh viện, với Thomas Arquinas là người đứng đầu. Luận văn của Heidegger là một mắc xích trong chuỗi khảo cứu Aristotle theo nghĩa đó.

Năm 1916, Heinrich John Rickert rời đại học Freiburg để đến giảng dạy tại đại học Heidelberg, người đến đại học Freiburg nhậm chức tiếp theo là Husserl của đại học Göttingen. Husserl là người khởi xướng hiện tượng học. Lúc đó, Heidegger đã từng đọc qua tác phẩm của Husserl, kiến thức được mở mang rất nhiều, nên khi Husserl đến nhậm chức tại đại học Freiburg thì đó là điều ông mơ mà không được. Về sau, ông theo vị giáo sư này để học hiện tượng học.

Thoạt tiên, Husserl đối với Heidegger không mấy nhiệt tình, nhưng sau khi Heidegger giải ngũ, quay về lại đại học Freiburg thì Husserl bắt đầu thay đổi thái độ, đối với Heidegger vô cùng quý mến, xem như là truyền nhân của mình về hiện tượng học.

Nhưng bản thân Heidegger lại không hề có ý đó. Theo ông, Husserl chuyển từ toán học sang triết học thì công phu triết học của bản thân ông ta không được thâm hậu. Heidegger chỉ muốn theo Husserl để học hỏi về hiện tượng học, cho nên tôn vinh vị trí của ông ta trong lịch sử triết học. Vào khoảng năm 1920, ông cùng Karl Theodor Jaspers giao du rất thân thiết.

Trong giai đoạn này, giữa Husserl và Heidegger có cách lý giải hiện tượng học khác nhau. Xem trong bộ Bách khoa toàn thư Britannica sẽ thấy nhiều điểm thú vị.

PHẢN BỘI THIÊN CHÚA GIÁO

Năm 1915, sau khi Heidegger cho ra đời tác phẩm Die Kategorien- und Bedeutungslehre des Duns Scotus thì chung quanh ông phát sinh nhiều chuyện lớn. Năm thứ hai, bộ môn triết học Thiên Chúa giáo trong khoa Thần học của đại học Freiburg khuyết một chân giáo sư, Heidegger rất kỳ vọng mình sẽ được chọn vào vị trí đó, bởi vì xét về xuất thân thì ông là người có nhiều ưu thế hơn cả. Nhưng kết quả lại không như mong đợi.

Từ năm 1907 về sau, tổ chức Thiên Chúa giáo chia thành hai phe chung quanh vấn đề chủ nghĩa hiện đại. Hai bên đấu tranh kịch liệt, làn sóng ảnh hưởng lan đến đại học Freiburg. Hiển nhiên Heidegger đứng về phe chủ nghĩa hiện đại chống đức Giáo Hoàng, cho nên không thể chọn ông vào chức vụ giáo sư để giảng dạy thần học Thiên Chúa giáo được. Có thể còn một lý do khác nữa, đó là ngay từ lúc đầu, Heidegger đã dần tách lìa khỏi mối quan hệ với phe Thiên Chúa giáo của đại học Freiburg.

Mặt khác, bắt đầu từ khoảng đầu năm 1917, đại học Marburg và đại học Göttingen − vốn là các trường có khoa thần học Tin Lành sớm nhất ở nước Đức − sau nhiều lần tìm Husserl, đã mời Heidegger đảm nhận giảng dạy bộ môn triết học Trung Cổ và hiện tượng học. Đương nhiên, cứ mỗi lần mời là họ đều thẩm tra mối quan hệ của Heidegger với giáo hội Thiên Chúa giáo. Cũng có thể là như vầy do hoàn toàn tuyệt vọng trước chân giáo sư thần học tại đại học Freiburg, Heidegger thấy thuận lợi khi nhậm chức tại đại học của giáo đoàn mới, nên ông tự động cắt đứt mối quan hệ với các nhân vật trong giáo hội Thiên Chúa giáo.

Cũng đồng thời từ thời kỳ này, Heidegger không ngừng khảo cứu Aristotle, và bắt đầu duyệt lại tư tưởng của Paul, Augustine, Martin Luther cùng Kierkegaard, v.v… Vào năm 1919, một nhân vật đại biểu của tân chính thống thần học, xuất thân là mục sư, tên Karl Barth (1886 − 1968), cho xuất bản cuốn Der Römerbrief (Thư gởi người La-Mã), tác phẩm này gây một ảnh hưởng cực kỳ quan trọng với Heidegger. Tiếp cận thần học của Tin Lành một cách có ý thức, có mục đích, chỉ một điểm đó thôi cũng đủ khiến cho người đời chán ghét Heidegger rồi.

Trong thời kỳ đó, Heidegger chuyển mối quan tâm từ Thiên Chúa giáo sang Tin Lành, phần lớn là tập trung vào thần học. Năm 1921, ông viết thư cho Karl Löwith, nội dung có đoạn sau :

Không cần phải đem tiêu chuẩn của một triết gia sáng tạo ra để đánh giá tôi, tôi chỉ là một nhà thần học Cơ Đốc giáo.

BÁO CÁO NATORP

Mãi đến năm 1922, Heidegger mới được mời giảng dạy tại các trường đại học Göttingen, Königsberg và Marburg. Trong các trường đại học đó, đại học Marburg từ năm 1919 đã bốn lần mời Heidegger giảng dạy chính về triết học Trung Cổ. Lần nhậm chức này, Heidegger là người thay thế Paul Natorp, một triết gia thuộc trường phái tân-Kant của học phái Marburg, có nghĩa là ông đã được chọn để làm giáo sư về môn hiện tượng học.

Nhưng kể từ năm 1915, khi Heidegger đệ tình luận văn Die Kategorien-und Bedeutungslehre des Duns Scotus về sau, ông lại không có tác phẩm nào. Khi được hỏi “trước mắt liệu có chuẩn bị được tác phẩm nào không”, ông bèn đem những bài giảng vào học kỳ mùa đông trong các năm 1921-1922 chỉnh lý thành một bài báo cáo, nhan đề Phänomenologische Interpretationen zu Aristoteles (Giải thích Aristotle bằng hiện tượng học), rồi chia làm hai phần để gửi cho Paul Natorp ở đại học Marburg và Georg Misch ở đại học Göttingen. Tài liệu này thường được gọi là Báo cáo Natorp. Suốt một thời gian khá dài sau đó, hai phần bản thảo đó không biết lưu lạc về đâu. Về sau, phần bản thảo gởi cho Georg Misch được phát hiện, và được in trong Niên giám Dilthey cuốn 6.

Theo truyền thuyết thì lúc bấy giờ, mặc dầu Georg Misch tuy rất thích phần báo cáo của Heidegger, nhưng văn phong thể hiện cá tính quá mạnh mẽ khiến ông này phải dè chừng, nên cuối cùng phải chọn một ứng viên khác. Paul Natorp của đại học Marburg đánh giá bản báo cáo rất cao, nên qua năm sau, tức 1923, ông bổ nhiệm Heidegger làm trợ giảng. Từ đó, Heidegger chuyển lĩnh vực học thuật của mình sang đại học Marburg.

BẢN THẢO ĐẦU TIÊN CỦA SEIN UND ZEIT

Khi về già, Heidegger gọi Báo cáo Natorp là bản thảo đầu tiên của Sein und Zeit. Nhưng nhìn vào toàn bộ bản báo cáo, làm thế nào mà một bản báo cáo về Aristotle lại có thể biến thành bảo thảo cuốn Sein und Zeit, điều đó không khói khiến ta nảy sinh nghi vấn.

Bản báo cáo đó chủ yếu là phân tích và giải thích cặn kẽ các tác phẩm Tự nhiên học, Siêu hình học cùng Những bài giảng đạo đức cho Nicomachus của Aristotle, chứ chẳng hề có liên quan gì với tác phẩm Sein und Zeit mà ta được đọc ngày nay.

 Tuy nhiên, từ “hiện tượng học” trong nhan đề “Giải thích Aristotle bằng hiện tượng học” thật khiến người ta khó hiểu. Trước thời điểm đó, hễ ai nghiên cứu Aristotle đều phải dựa trên lời chú giải của triết học kinh viện, với Thomas Aquinas là người đứng đầu. Heidegger muốn thoát khỏi truyền thống Thiên Chúa giáo để đọc trực tiếp Aristotle. Chẳng có gì khó để thấy rằng Heidegger đã mang ý định thoát ly Thiên Chúa giáo.

Nhưng nếu xem Báo cáo Natorp là bản thảo của Sein und Zeit thì ta phải thay đổi hoàn toàn cách đọc Sein und Zeit.

HEIDEGGER TRONG THỜI KỲ Ở ĐẠI HỌC MARBURG

 Mùa thu năm 1923, Heidegger đến nhận công tác tại đại học Marburg. Nhưng trong thời kỳ còn ở đại học Freiburg, Heidegger tựa hồ như không có một luận văn nào, mà toàn là những bài giảng sinh động thông qua đối thoại giữa thầy trò, khiến rất nhiều người trên cả nước do hâm mộ tìm đến nghe. Trong nhóm bốn, năm người do Karl Löwith dẫn đầu cùng đến đại học Marburg thì về sau, Hans-Georg Gadamer trở thành học trò của Heidegger. Ngoài ra, vào lúc Heidegger mới đến nhận chức còn có Miki Kiyoshi là một sinh viên người Nhật do hâm mộ danh tiếng ông mà tìm đến nghe giảng. Năm 1924, cô sinh viên xinh đẹp người Do Thái mới 18 tuổi là Hannah Arendt theo học tại đại học Marburg. Dù lúc đó đã có vợ con, nhưng vị giáo sư 35 tuổi này lại mở đầu cho một thiên tình sử thầy trò.

Lúc bấy giờ, đại học Marburg đang lấy nhà thần học Tin Lành Rudolf Karl Bultmann − vốn là người ủng hộ thần học tư biện của Karl Barth và Wolfgang Köhler (1887 − 1967) (?)[5] − làm trung tâm để tổ chức thành hiệp hội thần học đại học Marburg. Heidegger giao lưu tích cực với hiệp hội này, ông đọc lại “Phúc âm của Thánh John” và đề ra một phương pháp mới để giải thích Kinh Thánh, gây được ảnh hưởng to lớn trong hiệp hội. Rudolf Bultmann nhân đó đề xướng quan điểm “loại bỏ thần thoại hóa = giải thích thực tại”.

Có một thời gian Heidegger cơ hồ biến đổi toàn bộ triết học kinh viện thành một loại thần học Tin Lành mới, nhưng về sau ông dần dần tách xa mối quan hệ với trường phái Bultmann.

Cũng vì vào năm 1928, khi Husserl về hưu lại có ý muốn tiến cử Heidegger thay thế vị trí của mình. Bản thân đã nhiễm dấu ấn Tin Lành mà muốn quay về lại với đại học Marburg của Thiên Chúa giáo thì đó chẳng phải là ý tưởng hay ho gì. Bởi vậy, Heidegger bắt đầu phản đối nhóm thần học của đại học Marburg, và phê phán nhóm này trên giảng đường. Đó cũng là điểm toan tính không được quang minh lỗi lạc của một triết gia danh tiếng như Heidegger.

Tuy nhiên, từ Tin Lành mà đột ngột quay về lại với Thiên Chúa giáo cũng không phải là chuyện ổn thỏa. Để giải quyết vấn đề này, ông dương cao lá cờ “từ thần học đến siêu hình học”. Chẳng hạn như trong khoa giảng mùa hè năm 1928, ông từng nói “Đại học Marburg bây giờ toàn là những kẻ sùng đạo giả dối.”, hoặc có lần ông nói “thà bị quở trách là kẻ vô thần dung tục còn hơn.”, hay “so với các tín đồ, nhân viên và ‘các nhà thần học’ ở đây thì những nhà siêu hình học chân chính còn có lòng sùng tín hơn.”

 Dưới chủ trương đó, tác phẩm Sein und Zeit được ra đời. Đúng như Heidegger dự đoán, tác phẩm đó được mọi người hân hoan chào đón, bản thân ông vào năm 1918 được kế nhiệm Husserl để trở thành giáo sư chủ nhiệm khoa triết đại học Marburg, ca khúc khải hoàn.

Toan tính đó của Heidegger không khỏi khiến người ta chán ghét. Nhưng còn có điều này khiến những người hôm nay phải kinh hãi, đó là ông hai lần chuyển biến, chỉ vì lợi ích cá nhân; chuyển từ thần học Thiên Chúa giáo sang thần học Tin Lành, rồi chuyển từ thần học sang siêu hình học. Hai lần chuyển đổi đó không chỉ làm thay đổi số mệnh của ông, mà còn thay đổi cả số mệnh thế giới, tạo thành một trào lưu lớn của thời đại. Người hôm nay không khỏi bội phục năng lực của một tư tưởng gia vĩ đại như ông.

“BÁO CÁO NATORP” VÀ “SEIN UND ZEIT”

Vì sao lại bảo nếu xem Báo cáo Natorp là bản thảo đầu tiên của Sein und Zeit thì cần phải thay đổ lại toàn bộ cách đọc Sein und Zeit?

Bởi vì xét từ ý tưởng của Sein und Zeit, phần giải thích tác phẩm của Aristotle − tương đương với bản Báo cáo Natorp này − lẽ ra sẽ được đưa vào trong phần hai của tập sau còn dang dở, với nhan đề “Nguyên lý phá hủy lịch sử tồn tại luận từ góc độ hiện tượng học theo hướng dẫn của vấn đề thời tính[6]. Trong đó truy đến tận ngọn ngành, từ Kant đến Descartes, sau đó lại đến triết học kinh viện, Aristotle, rồi từ đó triển khai thăm dò khái niệm tồn tại trong tồn tại luận truyền thống. Nói một cách khác, phần hai của Sein und Zeit có thể coi là tác phẩm mở rộng ý nghĩa phong phú của Báo cáo Natorp.

Như thế, cách chương 1 và 2 trong tập 1 của Sein und Zeit là lời tựa của Báo cáo Natorp − nội dung sau khi đã bổ sung của Anzeige der hermeneutischen Situation (Hiển thị thông diễn học tình huống) (tức Phänomenologische Interpretationen zu Aristoteles − Giải thích Aristotle bằng hiện tượng học), nhưng hoàn toàn không phải là cuốn luận này về tác phẩm Sein und Zeit.

Ý ĐỒ THỰC SỰ CỦA SEIN UND ZEIT

Báo cáo Natorp, thông qua việc đọc giải Aristotle, cuối cùng đưa ra kết luận thế này theo Aristotle thì “tồn tại” là cái “được sáng tạo”, nói gọn lại thì “tồn tại = tồn tại được sáng tạo”.

Bốn năm sau, Heidegger xuất bản tác phẩm Sein und Zeit. Trong nội dung của tiết thứ 6 trong lời tựa, có đoạn nói ông vẫn chưa cầm bút viết tập 2 của Sein und Zeit để thăm dò khái niệm tồn tại trong tồn tại luận truyền thống. Descartes thời cận đại kế thừa truyền thống của tồn tại luận thời Trung Cổ, tức “cái tồn tại” chính là “cái tồn tại được sáng tạo”.

Trong phần 2, Heidegger dự định đem kết luận của Báo cáo Natorp − khái niệm tồn tại của Aristotle “tồn tại = tồn tại được sáng tạo” bổ sung cho thêm phong phú, để chỉ ra khái niệm tồn tại đó đã bị sửa đổi và được kế thừa từ tồn tại luận trong triết học thời Trung Cổ. Nói tóm lại, từ Aristotle về sau, tồn tại luận trong truyền thống phương Tây đã nhất quán duy trì quan điểm “tồn tại = tồn tại được sáng tạo”.

Nhưng trong lòng Heidegger lại có một khái niệm tồn tại hoàn toàn khác hẳn. Khái niệm đó có thể là từ tư tưởng “tồn tại tự nhiên xuất hiện, tự nhiên sinh thành” của Nietzsche, tiếng Hy Lạp là phainesthai, tiếng Đức là walden[7], nói cho gọn thì đó là khái niệm tồn tại “tồn tại = biến dịch”.

Thông qua sự đối chiếu với