Lời người viết: Bài viết với nhan đề này đã được đăng báo từ năm 1992, sau đó tạp chí Thời văn và Hợp Lưu đã sử dụng lại trong các số báo đặc biệt về Bùi Giáng. Trong bài viết có một chữ cốt yếu tôi nói về Bùi Giáng mà tạp chí Hợp Lưu in lộn nên gây ra ngộ nhận trầm trọng. Đó là chữ là “vô sư tự ngộ” (không thầy mà vẫn tự mình giác ngộ), nhưng bị đánh nhầm thành “vô sở ngộ” (không có sở ngộ nào) một cách cực kỳ tai hại! Vô tình những chữ này lại được dùng trong mục nêu những nhận định tiêu biểu về Bùi Giáng trong những bài viết phổ biến trên mạng, khiến tôi đau khổ và ray rức suốt bình sinh với vong linh trung niên thi sĩ. Nay điều kiện thời gian đã cho phép chúng ta ngồi với nhau để cùng nhìn lại chân dung Bùi Giáng, tôi xin đăng lại nguyên văn bài này để đính chính và cùng bạn đọc “giải oan” cho một nhà thơ kỳ ảo nhất nhân gian.
Một buổi sáng nào đó, nếu bạn tình cờ gặp trên đường phố Sài Gòn một người đàn ông đứng tuổi áo quần xốc xếch, với cặp mắt kiếng dày cộm, trên vai mang đủ thứ lỉnh kỉnh, thỉnh thoảng huơ chân múa tay, miệng nói lảm nhảm, thì bạn cứ tin rằng bạn đã gặp một bậc kỳ tài rồi đó. Ðó chính là Trung Niên Thi Sĩ Bùi Giáng.
Tại một quán cà phê vỉa hè, chúng tôi đã từng nghe ông thuyết về cái thế giới của người điên. Té ra cái thế giới ấy lại kỳ diệu biết bao.
Càng nghe ông nói chúng tôi càng ngẩn ngơ tự hỏi giữa ông và chúng tôi ai mới là người điên thực sự ? Thế thì cái cõi đời dưới mắt ông và cái cõi đời theo cách nhìn của chúng ta, cõi nào là cõi thực ? Thế giới của ông là Thực hay là Mộng ? Là Ảo hay là Chân? Câu chuyện “Trang Châu hóa bướm”[1], hay câu chuyện tiêu lộc (lá chuối và con hươu)[2] nào phải chỉ có với người xưa ? Chính ông cũng tự nói về mình:
Kể từ khởi sự mọc răng
Ðến bây giờ vẫn thường hằng chiêm bao
(Biển đông xe cát)
Hay:
Tiêu lộc mộng trường tâm bất cạnh[3]
(Cuộc đời như giấc mộng tiêu lộc dài, không còn để tâm đua chen theo nữa)
(Sa mạc trường ca)
Theo thuyết nhà Phật nếu tâm ta tịnh thì cõi thế sẽ thanh tịnh (Tùy kì tâm thanh tịnh tức Phật độ tinh – Duy Ma Cật kinh), thế thì cái Thái Bình Ðiên Quốc của ông có phải là một Quốc Ðộ Thanh Tịnh hay không? Một vị đại đức uyên thâm có lần nói với chúng tôi: “Có lẽ ông Giáng đã đạt đến mức: “tâm như hư không, vô sở chướng ngại”[4] rồi chăng?”. Mà giữ được tâm hồn như tấm gương sáng cứ tùy vật đến mà cảm ứng, đó là cực điểm của sự tu học theo truyền thống Đông phương. Chúng ta có nên đem tâm hồn hạn hẹp của mình để tìm hiểu tâm hồn của ông ?
Bùi Giáng quê ở Duy Xuyên[5], Quảng Nam, từng theo học trường Quốc học ở Huế với các ông Hoài Thanh, Trần Ðình Ðàn, Ðào Duy Anh, là những vị thầy mà ông vô cùng kính mến về nhân cách lẫn sở học. Ông mê truyện Kiều, mê thơ Huy Cận, và đột nhiên bỏ học mà lý do, theo lời ông, là bị “chấn động dị thường” bởi tập thơ Lửa Thiêng của Huy Cận (Ði vào cõi thơ) để rồi trở về quê đi chăn dê và đọc sách. Người ta kể ông thường gánh sách vô núi để đọc. Ông cũng tự giới thiệu mình:
Ngã tích tại Trung Việt địa phương
Quảng Nam châu quận biến am tường
Sơ khai du mục tầm phương thảo
…………………………………………………
(Lời Cố Quận)
( Tôi vốn là người ở địa phương Trung Việt
Ðã biết thấu rõ cả vùng Quảng Nam
Ban đầu sống đời du mục đi tìm cỏ thơm… )
Có lẽ trong giai đoạn này, hình ảnh châu chấu, chuồn chuồn bay trên những cánh đồng mùa thu miền trung du xứ Quảng đã để lại trong tâm hồn ông những ấn tượng đặc biệt không thể phai nhòa nên nó thường xuất hiện trong thơ ông, đến nỗi ông phải nói:
”Thơ tôi làm ra là để tặng chuồn chuồn, châu chấu, xin các vị học giả hãy xa lánh thơ tôi” (Thi ca tư tưởng)
Tâm hồn kẻ tài hoa mở ra đón nhận mọi viễn tượng kì diệu của thiên nhiên để nó trở thành lẽ sống và lẽ chết của mình. Khi được hỏi về tiểu sử, ông chỉ nói:
Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn
( Tư tưởng hiện đại)
Bùi Giáng là bậc thượng trí, hầu như “vô sư tự ngộ“. Ở miền trung du hẻo lánh xứ Quảng đó ông chỉ do đọc sách mà “phát minh tâm địa”, như trường hợp thiền sư Huyền Giác đọc kinh Duy Ma Cật. Từ đó, ông suốt đời cứ âm thầm đi theo con đường tư tưởng riêng biệt của mình. Sau giai đoạn du mục, ông vào Sài Gòn dạy học và viết sách giáo khoa văn học như: Một vài nhận xét về truyện Kiều, về Lục Vân Tiên, về Chinh phụ ngâm, về Tản Ðà, về Chu Mạnh Trinh v.v…Song cũng chẳng được bao lâu. Ðiều đó cũng dễ hiểu vì sách giáo khoa làm thế nào dung hợp được tư tưởng ngông cuồng của ông ? Từ đó ông chỉ làm thơ, dịch thuật và biên khảo. Từ các tác phẩm đầu tiên như Mưa nguồn, Lá Hoa cồn v.v…cho đến các tác phẩm về sau như Sương Bình Nguyên, Trăng Châu Thổ, Ðường đi trong rừng v.v…hầu như ông đã không ngừng nổ lực sáng tạo nên một phong cách ngôn ngữ riêng biệt mà ta có thể tạm gọi là “ngôn ngữ Bùi Giáng”. Ông đã khai mở một con đường kì lạ đi vào các tác phẩm của thi hào Nguyễn Du mà theo ông là một thiên tài quán tuyệt cổ kim, chỉ đứng sau đức Như Lai về phương diện lập ngôn! Ông thường dùng Kiều để chú giải Heidegger, Shakespeare v.v…Song giống như trường hợp Quách Tượng chú giải Trang Tử, dùng tư tưởng cổ nhân để giải thích tư tưởng của mình, nên đọc Trang cũng là để hiểu Quách. Cũng thế, đọc các lời giải thích của Bùi Giáng về Nguyễn Du, Heidegger, Shakespeare cũng là cách để tìm hiểu tư tưởng của chính ông.
Ðọc sách của ông khó phân biệt được biên giới giữa thi ca và triết học. Ông bàn vè triết học như chuyện làm thơ và làm thơ như chuyện đùa rỡn. Ông đưa vào ngôn ngữ của mình cái lối cà rỡn trào lộng của người dân Quảng Nam, đặc biệt là cách nói lái tinh quái của quê hương ông. Người đọc thường gặp trong sách của ông những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp, bốn lần bấn loạn …Trong các cụm từ nói đó, ngay chỗ oái ăm nhất ông ưa đặt một chữ hợp nghĩa khác (ngọ, trung, họp, loạn). Ông cũng ưa đùa bỡn như thế trong thơ mình:
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)
Người đọc “đứng đắn“ ắt cảm thấy khó chịu, song dường như ông cố tình đem cái tài hoa của mình trộn lẫn vào cái thô tục – cái thô tục cụ thể chứ không bóng bẩy kiểu Hồ Xuân Hương. Âu đó cũng là cái nét ương bướng của kẻ tài hoa. Ông đùa giỡn với triết học, với thi ca, ông đùa rỡn với cuộc đời, với chính bản thân ông. Khoảng đầu năm 1975, người ta thường thấy ông lang thang trên vỉa hè Sài Gòn, khi thì với khỉ trên vai, khi thì với chó trên tay. Ông chơi với thú vật có phải vì ông không có được một người bạn tư tưởng như ông từng than thở trong lá thư gửi cho F. Nietszche? (Lễ Hội Tháng Ba)
Trước 1975, ông thường sống trong lô cốt trước đại học Vạn Hạnh với các lon cơm bẩn thỉu . Lối sống kỳ dị đó cũng không ảnh hưởng gì đến sự sáng tạo phi thường của ông . Ngay vào giai đoạn người ta xem như ông bị điên nặng thì ông cho ra đời tập thơ Bài ca quần đảo mà theo nhà xuất bản thì đây là cả một đại dương thi ca. Ông làm thơ dễ dàng như công việc ăn uống đời thường. Nhiều thi sĩ xem ông là hóa thân của thi ca. Chính ông cũng tự nhận mình là : Trung Niên Thi Sĩ. (Ðến bây giờ có lẽ ông đã là Lão Niên Thi Sĩ rồi!). Ông làm thơ bằng tiếng Việt, tiếng Hán, thỉnh thoảng bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngôn ngữ đã nhập diệu trong ông như cây đàn trong tay người nghệ sĩ kiệt xuất. Chỉ ấn tay là thành giai điệu. Tự nhiên như nước chảy, mây bay mà chẳng có chút dụng công nào.
Một lần khác chúng tôi ngồi uống café với ông, một ông bạn người Quảng Nam hỏi:”Thầy thường làm thơ như thế nào?”. Ông mỉm cười:” Qua làm thơ cũng giống như em là kĩ sư mà làm toán lớp ba rứa thôi “ (!). Chúng tôi thấy ông nói câu nói đó rất tự nhiên, rất thành thực chẳng có vẻ gì tự mãn, bởi vì tự thân các tác phẩm cũng đã chứng minh được cho cái thi tài của ông rồi. Ðôi lúc chúng tôi còn cảm tưởng rằng ông có thể đọc ngẫu hứng thơ lục bát từ sáng đến chiều mà vẫn không vấp.
Ông rất mê sách kiếm hiệp mà không biết có bao giờ ông so sánh mình với Hồng Thất Công chưa? Ông ăn mặc tồi tàn đến độ có lần vào trong một tiệm sách lớn để nhìn các tác phẩm của mình bày trong tủ kính thì ông bị người bán sách đuổi ra ngoài. Có lẽ họ không ngờ ông là tác giả. Ông mê đọc sách đến mức độ kỳ lạ, điều đó cũng giải thích vì sao ông có một kiến thức phi thường về thi ca và triết học. Khi chợ sách ở đường Ðặng Thị Nhu Sài gòn chưa giải thể, ông cũng hay lang thang ở đó để xem sách và uống café. Một hôm, vào khoảng 1980, ông ngồi uống café, mơ màng nhìn sang bên kia đường, đột nhiên mắt ông sáng rỡ lên. Té ra ông nhìn thấy một cuốn sách, dường như bằng tiếng Hi Lạp, bị chủ quầy đem lót dưới kệ sách thay cho gạch bởi vì đã từ lâu không có ai hỏi mua! Ông cuống quít móc những đồng bạc cuối cùng nài nỉ mua – vì không đủ tiền – rồi ông ngồi đọc say mê như người bị thôi miên, hoàn toàn không biết gì về mọi chuyện xung quanh.
Xin các bạn đọc đừng xem những mẩu chuyện trên đây là những “giai thoại” về ông. Ông đã từng gọi các “giai thoại văn học” là những “miếng giẻ rách” (Martin Heidegger-và Tư Tưởng Hiện Ðại, tập 1). Viết về ông quả là điều mạo muội nếu không muốn nói là liều lĩnh. Trước 1975 cũng đã có nhiều tác giả viết về ông rồi. Nếu bài viết này tình cờ đến được tay ông có lẽ ông sẽ rất giận (?).
Tôi xin kính tặng ông hai bài thơ thay cho lời cáo lỗi:
Bước ra từ cảnh giới Như Lai,
Làm người điên trong cõi trần ai.
Ẩn ngữ ngàn năm ai hiểu thấu
Trọn đời bạn với cỏ hoa bay
Và:
Bút hữu phong lôi, thiệt hữu thần
Tâm như lưu thủy, ý hành vân
Thần ni tòng tự qui sơn khứ
Hà xứ đê đầu tư cố nhân?
筆 有 風 雷 舌 有 神
心 如 流 水 意 行 雲
神 尼 從 自 歸 山 去
何 處 低 頭 思 故 人?
[1] Trang Châu nằm mơ thấy mình hóa thân thành bướm. Tỉnh dậy không biết mình hóa ra bướm hay bướm hóa ra mình ( Nam hoa kinh-Tề vật luận )
[2] Người nước Trịnh nằm mơ thấy mình săn được một con hươu, bèn bỏ vào hố lấy lá chuối che lại. Tỉnh dậy kể cho vợ nghe. Người hàng xóm nghe lén được, bèn theo lời kể mà tìm được hươu. Song rồi lại cho rằng mình nằm mơ. (trong Xung Hư Chân Kinh của Liệt Tử )
[3] Dường như đây là câu thơ chữ Hán của Nguyễn Du mà Bùi Giáng đã sử dụng trong môt bài thơ của ông, tôi không nhớ rõ là bài nào.
[4] Tâm bao la như hư không, chẳng bị ngăn ngại
[5] Trong bài viết ban đầu tôi nhớ lầm là Quế Sơn, nay xin đính chính.
Thảo luận