Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

Chương 1-3

Chương 1 : Đức hạnh

Dẫn nhập

Chương này gồm 47 tiết, nói về những nhân vật có phẩm tiết thanh cao được người đương thời tôn trọng, từ chốn triều đình đến chốn dân gian, mà lời nói và hành động được xem là chuẩn mực để học hỏi theo.

Trung hiếu hai chuẩn mực đạo đức của đạo lập thân thời cổ rất được đề cao ở đây. Bên cạnh đó, thái độ tôn trọng hiền sĩ không kể xuất thân cũng là những điểm đáng để đời sau học hỏi.

1

陳 仲 舉 言 為 士 則 , 行 為 世 範 , 登 車 攬 轡 , 有 澄 清 天 下 之 志 。 為 豫 章 太 守 , 至 , 便 問 徐 孺 子 所 在 , 欲 先 看 之 。 主 簿 白 : 「群 情 欲 府 君 先 入 廨 。 」 陳 曰 : 「武 王 式 商 容 之 閭 , 席 不 暇 煖 。 吾 之 禮 賢 , 有 何 不 可 ! 」

Trần Trọng Cử(1) ngôn vi sĩ tắc, hành vi thế phạm, đăng xa lãm bí, hữu trừng thanh thiên hạ chi chí. Vi Dự Chương thái thú, chí, tiện vấn Từ Nhụ Tử sở tại, dục tiên khán chi. Chủ bạ(3) bạch : “Quần tình dục phủ quân(4) tiên nhập giải.” Trần viết : “Võ vương thức Thương Dung(5) chi lư, tịch bất hạ noãn. Ngô chi lễ hiền, hữu hà bất khả! ”             

Dịch nghĩa

 Trần Trọng Cử lời nói thì làm chuẩn mực cho kẻ sĩ, hành vi thì làm khuôn phép cho người đời, lên xe thì tự cầm cương, có cái chí làm trong sạch thiên hạ. Khi làm thái thú Dự Chương; đến nơi, liền hỏi chỗ ở của Từ Nhụ Tử, muốn đến thăm trước. Viên quan chủ bạ thưa : “Mọi người đều mong đợi phủ quân vào quan nha trước.” Trần bảo : “Vũ vương qua làng của Thương Dung còn xuống xe cúi chào, không được an nhàn ngồi cho nóng chiếu. Nay ta ra mắt người hiền, có gì là không phải?”

Chú giải

(1) Trần Trọng Cử tên Phồn 蕃, tự Trọng Cử, là chức thái phó cho Hán Hoàn đế thời Đông Hán. Lúc bấy giờ, hoạn quan chuyên quyền, thao túng triều chính, ông cùng đại tướng qua là Đậu Vũ 竇武 lập mưu tru diệt; kế hoạch bại lộ, ông bị chúng giết chết.

(2) Từ Nhụ Tử tên là Trĩ 稺, tự Nhụ Tử, người đất Nam Xương, quận Dự Chương, thời Đông Hán; ông là hiền sĩ ẩn dật, tính tình cao khiết, được tôn là Nam Châu cao sĩ 南州高士.

(3) Chủ bạ là viên quan phụ trách công văn, giấy tờ, đứng đầu các thuộc quan ở một địa phương.

(4) Phủ quân là từ tôn xưng để gọi quan thái thú.

(5) Thương Dung là đại thần đời nhà Thương. Do chán nản với sự thối nát của triều đình nên ông lui về ở ẩn. Sau khi Vũ vương diệt nhà Thương, phong ông làm quan Tam công, ông từ chối; Vũ vương bèn tuyên dương cái làng nơi ông ở để tỏ lòng tôn kính đối với bậc hiền sĩ. Chữ “thức 式” ở đây chỉ dùng như chữ “thức 軾”, chỉ cái đòn ngang trước xe, khi đang đi gặp ai đáng kính thì tựa vào đòn mà cúi mình xuống để chào. 

2

周 子 居 常 云 : 「吾 時 月 不 見 黃 叔 度 , 則 鄙 吝 之 心 已 復 生 矣 。 」

Chu Tử Cư(1) thường vân : “Ngô thời nguyệt bất kiến Hoàng Thúc Đạc(2), tắc bỉ lận chi tâm dĩ phục sinh hỹ.”

Dịch nghĩa

Chu Tử Cư thường nói : “Ta mà nhiều tháng không được gặp Hoàng Thúc Đạt thì cái tâm thô bỉ hẹp hòi lại nảy sinh.”

Chú giải

(1) Chu Tử Cư tự Thừa 乘, người đời Đông Hán, tính tình cương nghị, không sợ uy quyền. Trần Trọng Cử khen ông là “trị quốc chi khí 治國之器” (công cụ để trị nước).

(2) Hoàng Thúc Đạt, tên Hiến 憲, tự Thúc Đạt, xuất thân nghèo hèn, nhưng có phẩm hạnh thanh cao, rất được người đương thời kính trọng.

3

郭 林 宗 至 汝 南 造 袁 奉 高 , 車 不 停 軌 , 鸞 不 輟 軛 。 詣 黃 叔 度 , 乃 彌 日 信 宿 。 人 問 其 故 ? 林 宗 曰 : 「叔 度 汪 汪 如 萬 頃 之 陂 。 澄 之 不 清 , 擾 之 不 濁 , 其 器 深 廣 , 難 測 量 也 。 」

Quách Lâm Tông(1) chí Nhữ Nam, tạo Viên Phụng Cao(2), xa bất đình quỹ, loan bất chuyết ách.(3) Nghệ Hoàng Thúc Đạc, nãi di nhật tín túc. Nhân vấn kỳ cố? Lâm Tông viết : “Thúc Đạc uông uông như vạn khuynh chi pha. Trừng chi bất thanh, nhiễu chi bất trọc, kỳ khí thâm quảng, nan trắc lượng dã.”          

Dịch nghĩa

Quách Lâm Tông tới Nhữ Nam, đến ra mắt Viên Phụng Cao, xe không dừng vết, lục lạc không rời ách. Đến nơi của Hoàng Thúc Đạt, ở lại trọn ngày. Có người hỏi lý do, Lâm Tông đáp : “Thúc Đạt thâm thúy như bờ biển mênh mông vạn dặm, lắng cũng không trong, khuấy cũng không đục, khí độ sâu thẳm bao la, không sao lường nỗi.”

Chú giải

(1) Quách Lâm Tông tên Thái 泰, tự Lâm Tông, người đời Đông Hán, học vấn uyên bác lại có phẩm hạnh thanh cao, được người đương thời vô cùng kính trọng.

(2) Viên Phụng Cao tên Lang 閬, tự Phụng Cao, người cùng làng ở Nhữ Nam với Hoàng Thúc Đạt, từng làm chức công bộ ở Như Nam, rồi chức quan dưới quyền quan thái úy. Sau đó từ quan, nhiều làn từ chối ra làm quan, được người đương thời kính trọng.

(3) Loan là cái chuông buộc nơi ách, tức cái đòn gỗ ở càng xe, bắc vào cổ ngựa; câu này ý nói không ở lại lâu, chỉ ghé thăm rồi đi ngay.

4

李 元 禮 風 格 秀 整 , 高 自 標 持 , 欲 以 天 下 名 教 是 非 為 己 任 。 後 進 之 士 , 有 升 其 堂 者 , 皆 以 為 登 龍 門 。

Lý Nguyên Lễ(1) phong cách tú chỉnh, cao tự tiêu trì, dục dĩ thiên hạ danh giáo thị phi(2) vi kỷ nhiệm. Hậu tiến chi sĩ, hữu thăng kỳ đường giả, giai dĩ vi đăng Long môn. 

Dịch nghĩa

Lý Nguyên Lễ phong cách đẹp đẽ chỉnh tề, phẩm chất cao quý tự thành chuẩn mực, muốn xem danh giáo thị phi của thiên hạ là nhiệm vụ của mình. Về sau ra làm quan, mỗi khi thăng đường đều xem đó như là lần đến Long môn.

Chú giải

(1) Lý Nguyên Lễ tên Ưng 膺, tự Nguyên Lễ, người đời Đông Hán, tưng nhậm chức tư lệ hiệu úy. Lúc bấy giờ triều đình kỷ cương rối loạn, mình ông giữ gìn pháp độ, nổi tiếng hanh cao. Sau vì âm mưu tiêu diệt hoạn quan bất thành nên bị giết.

(2) Danh giáo : dùng lễ giáo của Nho học làm tiêu chuẩn để chính danh định phận trong xã hội.

(3) Tại huyện Hà Tân, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, có một nơi nước xuống rất thấp, các loài thủy tộc không thể vượt qua được, truyền thuyết cho rằng con nào vượt qua được sẽ hóa thành rồng. Long môn Trung Quốc giống như Vũ môn trong truyện cổ Việt Nam. Cây này ý nói mỗi khi Nguyên Lễ thăng đường xử án đều nhân cơ hội để giáo hóa dân chúng.

5

李 元 禮 嘗 歎 荀 淑 , 鍾 皓 曰 : 「荀 君 清 識 難 尚 , 鍾 君 至 德 可 師 。

Lý Nguyên Lễ thường thán Tuân Thục, Chung Hạo viết : “Tuân quân thanh thức nan thượng, Chung quân chí đức khả sư.”       

Dịch nghĩa

Lý Nguyên Lễ từng thở dài mà nói về Tuân Thục và Chung Hạo : “Tuân quân kiến thức cao minh, khó có ai hơn; Chung Hạo đức hạnh rất cao, có thể làm thầy người khác.”

Chú giải

Tuân Thục tự Quý Hòa 季 和, người đất Dĩnh xuyên; Chung Hạo tự Quý Minh 季 明, cả hai đều sống vào đời Đông Hán, phẩm hạnh thanh cao, được người đương thời kính trọng.

6

陳 太 丘 詣 荀 朗 陵 , 貧 儉 無 僕 役 。 乃 使 元 方 將 車 , 季 方 持 杖 後 從 。 長 文 尚 小 , 載 箸 車 中 。 既 至 , 荀 使 叔 慈 應 門 , 慈 明 行 酒 , 餘 六 龍 下 食 。 文 若 亦 小 , 坐 箸 膝 前 。 于 時 太 史 奏 : 「真 人 東 行 。 」

Trần Thái Khâu(1) nghệ Tuân Lãng Lăng(3), bần kiệm vô bộc dịch. Nãi sử Nguyên Phương tương xa, Quý Phương trì trượng hậu tòng. Trường Văn thượng tiểu, tải trợ xa trung. Ký chí, Tuân sử Thúc Từ ứng môn, Từ Minh hành tửu, dư lục long hạ thực. Văn Nhược(3) diệc tiểu, tọa trợ tất tiền. Vu thời thái sử tấu : “Chân nhân đông hành.”     

Dịch nghĩa

Trần Thái Khâu đến thăm Tuân Lãng Lăng, nhà nghèo lại tiết kiệm nên không có người hầu. Sai Nguyên Phương đánh xe, Quý Phương cầm trượng đi sau. Trường Văn hãy còn nhỏ nên được ngồi trong xe. Đến nơi, Tuân sai Thúc Từ đứng đón ở cửa, Từ Minh dâng rượu, sáu người con còn lại dâng cơm rau. Văn Nhược cũng còn nhỏ, được ngồi trước gối của Tuân Thục. Lúc bấy giờ, quan thái sử tâu : “Bậc chân nhân đi về đông.”

Chú giải

(1) Trần Thái Khâu tên Thực 寔, tự Trọng Cung 仲弓, từng làm huyện lệnh ở Thái Khâu, nên có tên là Trần Thái Khâu.

(2) Tuân Lãng Lăng tức Tuân Thục荀淑(84—149), tự Quý Hòa, người đất Dĩnh Xuyên (nay là Hà Nam), nhân làm hầu tướng tại Lãng Lăng nên người đời gọi là Lãng Lăng. Ông thuở nhỏ đã có phẩm hanh thanh cao, kiến văn uyên bác.

(3) Nguyên Phương, Quý Phương đều là con của Trần Thực. Nguyên Phương là con lớn, tên Ký 紀, Quý Phương là con thứ tên Trạm 湛. Cả ba cha con đều tài đức vẹn toàn, nổi tiếng đương thời. Trường Văn là cháu của Trần Thực, tên Trần Quần 陳群. Tuân Thục có tám người con, được gọi là “bát long”; Thúc Từ, Từ Minh và Văn Nhược là ba người trong số đó.

7

 有 問 陳 季 方 : 「足 下 家 君 太 丘 , 有 何 功 德 , 而 荷 天 下 重 名 ? 」 季 方 曰 : 「吾 家 君 譬 如 桂 樹 生 泰 山 之 阿 , 上 有 萬 仞 之 高 , 下 有 不 測 之 深 ; 上 為 甘 露 所 霑 , 下 為 淵 泉 所 潤 。 當 斯 之 時 , 桂 樹 焉 知 泰 山 之 高 , 淵 泉 之 深 , 不 知 有 功 德 與 無 也 ! 」

Khách hữu vấn Trần Quý Phương : “Túc hạ gia quân(1) Thái Khâu, hữu hà công đức, nhi hà thiên hạ trọng danh? ” Quý Phương viết : “Ngô gia quân thí như quế thụ sinh Thái Sơn chi a, thượng hữu vạn nhận chi cao, hạ hữu bất trắc chi thâm; thượng vi cam lộ sở triêm, hạ vi uyên tuyền sở nhuận. Đương tư chi thời, quế thụ yên tri Thái Sơn chi cao, uyên tuyền chi thâm, bất tri hữu công đức dữ vô dã! ” 

Dịch nghĩa

Khách có người khách hỏi Trần Quý Phương : “Phụ thân Thái Khâu của túc hạ, có công đức gì mà có được tên lớn trong thiên hạ? ” Quý Phương viết : “Phụ thân của ta tỷ như cây quế sinh trên góc non Thái, trên thì có sự cao xa vạn nhận, dưới thì có cái sâu thẳm khôn lường; trên thì dược sương ngọt làm mát, dưới thì có suối sâu thấm nhuần. Đương lúc ấy, cây quế làm sao biết được cái cao của non Thái, độ thẳm của suối sâu, chẳng biết hay có công đức hay không nữa! ”

Chú giải

Gia quân : từ tôn xưng phụ thân của mình hoặc của người khác.

 8

陳 元 方 子 長 文 有 英 才 , 與 季 方 子 孝 先 , 各 論 其 父 功 德 , 爭 之 不 能 決 , 咨 於 太 丘 。 太 丘 曰 : 「元 方 難 為 兄 , 季 方 難 為 弟 。 」

Trần Nguyên Phương tử Trường Văn hữu anh tài, dữ Quý Phương tử Hiếu Tiên, các luận kỳ phụ công đức, tranh chi bất năng quyết, tư ư Thái Khâu. Thái khâu viết : “Nguyên Phương nan vi huynh, Quý Phương nan vi đệ.”

Dịch nghĩa

Con trai Trần Nguyên Phương là Trường Văn là kẻ anh tài, cùng con trai của Quý Phương là Hiếu Tiên, mỗi người bàn về công đức của cha mình, tranh luận không ngã ngũ, bèn xin ý kiến nới Thái Khâu. Thái khâu viết : “Nguyên Phương khó mà làm anh, Quý Phương khó mà làm em.”

9

荀 巨 伯 遠 看 友 人 疾 , 值 胡 賊 攻 郡 , 友 人 語 巨 伯 曰 : 「吾 今 死 矣 , 子 可 去 ! 」 巨 伯 曰 : 「遠 來 相 視 , 子 令 吾 去 ; 敗 義 以 求 生 , 豈 荀 巨 伯 所 行 邪 ? 」 賊 既 至 , 謂 巨 伯 曰 : 「大 軍 至 , 一 郡 盡 空 , 汝 何 男 子 , 而 敢 獨 止 ? 」 巨 伯 曰 : 「友 人 有 疾 , 不 忍 委 之 , 寧 以 我 身 代 友 人 命 。 」 賊 相 謂 曰 : 「我 輩 無 義 之 人 , 而 入 有 義 之 國 ! 」 遂 班 軍 而 還 , 一 郡 並 獲 全 。

Tuân Cự Bá viễn khán hữu nhân tật, trị Hồ tặc(2) công quận, hữu nhân ngữ Cự Bá viết : “Ngô kim tử hỹ, tử khả khứ! ” Cự Bá viết : “Viễn lai tương thị, tử lệnh ngô khứ; bại nghĩa dĩ cầu sinh, khởi Tuân Cự Bá sở hành da? ” Tặc ký chí, vị Cự Bá viết : “Đại quân chí, nhất quận tận không, nhữ hà nam tử, nhi cảm độc chỉ? ” Cự Bá viết : “Hữu nhân hữu tật, bất nhẫn ủy chi, ninh dĩ ngã thân đại hữu nhân mệnh.” Tặc tướng vị viết : “Ngã bối vô nghĩa chi nhân, nhi nhập hữu nghĩa chi quốc! ” Toại ban quân(3) nhi hoàn, nhất quận tịnh hoạch toàn.           

Dịch nghĩa

Tuân Cự Bá từ xa đến thăm người bạn bị bệnh, gặp lúc giặc Hồ sắp đánh quận, có người nói với Cự Bá : “Tôi nay sắp chết, ông có thể bỏ đi được đấy.” Cự Bá đáp : “Từ phương xa đến để gặp nhau, ông bảo tôi đi; hủy hoại đạo nghĩa để cầu sống, há đó là việc làm của Cự Bá sao? ” Khi giặc đến, có người nói với Cự Bá : “Đại quân đã đến, cả quận đều trống không, ông là hạng nam tử gì mà dám ở lại một mình? ” Cự Bá đáp : “Bạn bè bị bệnh, không nỡ bỏ mặc, thà lấy thân ta chết thay cho bạn còn hơn.” Tướng giặc nói : “Bọn ta là những người không đạo nghĩa lại vào một nước có đạo nghĩa! ”, rồi ra lệnh ban sư, cả quận đều được an toàn.

Chú giải

(1) Cự Bá người đời Đông Hán, nổi tiếng là người chuộng tinh thần hữu nghị.

(2) Thời cổ, người Trung Quốc gọi chung những bộ tộc phương bắc là Hồ.

(3) Ban quân, tức ban sư, là rút quân về.

10

華 歆 遇 子 弟 甚 整 , 雖 閒 室 之 內 , 嚴 若 朝 典 。 陳 元 方 兄 弟 恣 柔 愛 之 道 , 而 二 門 之 裡 , 不 失 雍 熙 之 軌 焉 。

Hoa Hâm(1) ngộ tử đệ thậm chỉnh, tuy nhàn thất chi nội, nghiêm nhược triều điển.(2) Trần Nguyên Phương huynh đệ tứ nhu ái chi đạo, nhi nhị môn chi lý, bất thất ung hy chi quỹ yên. 

Dịch nghĩa

Hoa Hâm khi gặp đệ tử đều rất nghiêm chỉnh, dù ở trong nhà cũng nghiêm túc như khi làm lễ ở triều đình. Anh em Trần Nguyên Phương thì dùng cái đạo mềm mỏng thân thiện, nhưng trong cửa hai nhà này đều không đánh mất cái khuôn phép vui vẻ, yên bình.

Chú giải

(1) Hoa Hâm (157 – 232), tự Tử Ngư 子魚, làm chức thượng thư lệnh thời Hán Hoàn đế, đến đời nhà Ngụy làm đến chức thái úy. Cũng với Bỉnh Nguyên 邴原, Quản Ninh 管寧 nổi tiếng tài năng xuất chúng nên được thiên hạ gọi cả ba là con rồng, trong đó Hoa Hâm là đầu rồng, Quản Ninh là thân rồng, và Bỉnh Nguyên là đuôi rồng.

(2) Triều điển : lễ nghi phép tắc nơi triều đình.

(3) Ung hy là vui vẻ, yên bình.

11

管 寧 、 華 歆 共 園 中 鋤 菜 , 見 地 有 片 金 , 管 揮 鋤 與 瓦 石 不 異 , 華 捉 而 擲 去 之 。 又 嘗 同 席 讀 書 , 有 乘 軒 冕 過 門 者 , 寧 讀 如 故 , 歆 廢 書 出 看 。 寧 割 席 分 坐 曰 : 「子 非 吾 友 也 。 」

Quản Ninh, Hoa Hâm cộng viên trung sừ thái, kiến địa hữu phiến kim, Quản huy sừ dữ ngõa thạch bất dị, Hoa tróc nhi trịch khử chi. Hựu thường đồng tịch độc thư, hữu thừa hiên miện(1) quá môn giả, Ninh độc như cố, Hâm phế thư xuất khán. Ninh cát tịch(2) phân tọa, viết : “Tử phi ngô hữu dã.”(3)  

Dịch nghĩa

Quản Ninh và Hoa Hâm cùng làm cỏ ngoài vườn, thấy trên mặt đất có một thỏi vàng, Quản vẫn cuốc, xem không khác chi gạch đá; Hoa lượm ném đi. Lại thường cùng nhau đọc sách, có kẻ ngôi xe lọng đi ngang qua cửa, Ninh vẫn đọc sách như cũ, Hâm bỏ sách chạy ra xem. Ninh cắt chiếu, chia chỗ ngồi, bảo : “Ông không phải là bạn ta.”

Chú giải

(1) Hiên miện nghĩa đen là “cái xe và mũ miện”, ở đây chỉ giới quý tộc quan quyền.

(2) Tịch nghĩa đen là cái chiếu, văn cổ dùng từ này để chỉ đồ để ngồi.

(3)Trước gọi là Quản, sau gọi là Ninh, đều chỉ Quản Ninh; trước gọi là Hoa, sau gọi là Hâm đều chỉ Hoa Hâm. Theo thông lệ của cổ văn Trung Quốc, hễ tên người đã được nhắc đến ở phần trước thì phần sau có thể chỉ đơn giản dùng họ làm tên.

12

王 朗 每 以 識 度 推 華 歆 。 歆 蠟 日 , 嘗 集 子 姪 燕 飲 , 王 亦 學 之 。 有 人 向 張 華 說 此 事 , 張 曰 : 「王 之 學 華 , 皆 是 形 骸 之 外 , 去 之 所 以 更 遠 。 」

Vương Lãng mỗi dĩ thức độ suy Hoa Hâm. Hâm lạp nhật, thường tập tử điệt yến(3) ẩm, Vương diệc học chi. Hữu nhân hướng Trương Hoa thuyết thử sự, Trương viết : “Vương chi học Hoa, giai thị hình hài chi ngoại, khứ chi sở dĩ cánh viễn.”               

Dịch nghĩa

Vương Lãnh trong mỗi kiến thức và khí độ đều tôn sùng Hoa Hâm. Vào ngày cuối năm, Hoa thường tập trung con cháu bày tiệc ăn uống, Vương cũng học theo. Có người nói lại cho Trương Hoa hay chuyện này, Trương nói : “Vương học theo Hoa đều là cái hình hài bề ngoài, cho nên khoảng cách ngày càng xa.”

Chú giải

(1) Vương Lãng tự Cảnh Hưng 景興, làm thái thú quận Cối Kê thời Hán mạt.

(2) Thức độ : kiến thức và khí độ. (3) Yến 燕 ở đây dùng như chữ yến 宴.

13

華 歆 、 王 朗 俱 乘 船 避 難 , 有 一 人 欲 依 附 , 歆 輒 難 之 。 朗 曰 : 「幸 尚 寬 , 何 為 不 可 ? 」 後 賊 追 至 , 王 欲 舍 所 攜 人 。 歆 曰 : 「本 所 以 疑 , 正 為 此 耳 。 既 已 納 其 自 託 , 寧 可 以 急 相 棄 邪 ? 」 遂 攜 拯 如 初 。 世 以 此 定 華 、 王 之 優 劣 。

Hoa Hâm, Vương Lãng câu thừa thuyền tỵ nạn, hữu nhất nhân dục y phụ, Hâm triếp nan chi. Lãng viết : “Hạnh thượng khoan, hà vi bất khả? ” Hậu tặc truy chí, Vương dục xả sở huề nhân. Hâm viết : “Bản sở dĩ nghi, chính vi thử nhĩ. Ký dĩ nạp kỳ tự thác, ninh khả dĩ cấp tương khí da? ” Toại huề chửng như sơ. Thế dĩ thử định Hoa, Vương chi ưu liệt.              

Dịch nghĩa

Hoa Hâm, Vương Lãng đi thuyền lánh nạn, có một người muốn đi nhờ. Hoa do dự không chịu, Vương nói : “May là thuyền còn rộng, có gì là không được? ” Lúc giặc đuổi đến phía sau, Vương muốn bỏ người kia lại, Hâm nói : “Lúc nãy, ta do dự chính là vì việc này, nay đã nhận lời người ta rồi, sao có thể trong lúc nguy cấp mà bỏ được? ” Rồi cứ mang người kia đi như trước. Người đời lấy chuyện đó mà xác định được sự hơn, kém của Hoa, Vương.

14

王 祥 事 後 母 朱 夫 人 甚 謹 , 家 有 一 李 樹 , 結 子 殊 好 , 母 恆 使 守 之 。 時 風 雨 忽 至 , 祥 抱 樹 而 泣 。 祥 嘗 在 別 床 眠 , 母 自 往 闇 斫 之 。 值 祥 私 起 , 空 斫 得 被 。 既 還 , 知 母 憾 之 不 已 , 因 跪 前 請 死 。 母 於 是 感 悟 , 愛 之 如 己 子 。

Vương Tường(1) sự hậu mẫu Chu phu nhân thậm cẩn, gia hữu nhất lý thụ, kết tử thù hảo, mẫu hằng sử thủ chi. Thời phong vũ hốt chí, Tường bão thụ nhi khấp. Tường thường tại biệt sàng miên, mẫu tự vãng ám chước chi. Trị Tường tư khởi(2), không chước đắc bị. Ký hoàn, tri mẫu hám chi bất dĩ, nhân quỵ tiền thỉnh tử. Mẫu ư thị cảm ngộ, ái chi như kỷ tử.               

Dịch nghĩa

Vương Tường thờ mẹ sau là Chu phu nhân vô cùng kính cẩn. Trong nhà có cây mận kết trái đẹp lạ thường, người mẹ thường sai giữ gìn. Đội nhiên gió mưa nổi lên, Tường ôm cây mà khóc. Tường thường ngủ ở giường riêng, người mẹ lén chém ông, gặp lúc Tường nửa đêm tỉnh giấc ra ngoài đi tiểu, nên chỉ chém trúng cái mền. Khi quay vào, biết mẹ vì chuyện đó là hối hận không thôi, Tường nhân đó quỳ xuống xin chịu chết, người mẹ cảm kích mà tỉnh ngộ, yêu thương Tường như con ruột.

Chú giải

(1) Vương Tường tự Thể Chinh 休征, người đời Ngụy Tấn, do phải lo phụng sự người mẹ sau, nên đến lúc lớn tuổi mới ra làm quan, làm đến chức thái thường, thái bảo.

(2) Tư khởi : thức giấc đi tiểu lúc nửa đêm.

15

晉 文 王 稱 阮 嗣 宗 至 慎 , 每 與 之 言 , 言 皆 玄 遠 , 未 嘗 臧 否 人 物 。

Tấn Văn vương xưng Nguyễn Tự Tông chí thận(1), mỗi dữ chi ngôn, ngôn giai huyền viễn, vị thường tang bĩ(2) nhân vật.               

Dịch nghĩa

Tấn Văn vương ca ngợi Nguyễn Tự Tông là người cực kỳ cẩn thận, mỗi khi cùng ông trò chuyện toàn nói những điều huyền diệu xa xôi, chứ chưa từng khen chê một người nào.

Chú giải

(1) Nguyễn Tự Tông (210 – 263) tức Nguyễn Tịch 阮籍, một trong Trúc Lâm thất hiền 竹林七賢, là một tác gia nổi tiếng đời Đông Tấn. Dưới triều đại của Tấn Văn vương Tư Mã Chiêu 司馬昭 (211 – 265), ông làm chức đại tướng quân tòng sự lang trung, binh bộ hiệu úy. Ông sống ngang tàng, hành vi cuồng phóng, không giữ lễ nghi, thích bàn luận về cái học Lão Trang.

(2) Tang bĩ là bình luận, khen chê.

16

王 戎 云 : 「與 嵇 康 居 二 十 年 , 未 嘗 見 其 喜 慍 之 色 。 」

Vương Nhung vân : “Dữ Kê Khang cư nhị thập niên, vị thường kiến kỳ hỷ uẩn chi sắc.”

Dịch nghĩa

Vương Nhung nói : “Cùng Kê Khang chung sống hai mươi năm, chưa từng thấy ông ta lộ vẻ vui mừng hay giận dữ.”

Chú giải

Kê Khang (224 – 263), tự Thúc Dạ 叔夜, một trong Trúc Lâm thất hiền 竹林七賢, nổi tiếng chơi đàn, bị Tư Mã Chiêu giết chết, để lại khúc Quảng Lăng tán nổi tiếng cho đời.

17

王 戎 、 和 嶠 同 時 遭 大 喪 , 俱 以 孝 稱 。 王 雞 骨 支 床 , 和 哭 泣 備 禮 。 武 帝 謂 劉 仲 雄 曰 : 「卿 數 省 王 、 和 不 ? 聞 和 哀 苦 過 禮 , 使 人 憂 之 。 」 仲 雄 曰 : 「和 嶠 雖 備 禮 , 神 氣 不 損 ; 王 戎 雖 不 備 禮 , 而 哀 毀 骨 立 。 臣 以 和 嶠 生 孝 , 王 戎 死 孝 。 陛 下 不 應 憂 嶠 , 而 應 憂 戎 。 」

Vương Nhung, Hòa Kiều đồng thời tao đại táng, câu dĩ hiếu xưng.(1) Vương Kê cốt chi sàng, Hòa khốc khấp bị lễ. Võ đế vị Lưu Trọng Hùng viết : “Khanh sổ tỉnh Vương, Hòa phủ? (2) Văn họa ai khổ quá lễ, sử nhân ưu chi.” Trọng Hùng viết : ‘ Hòa Kiểu tuy bị lễ, thần khí bất tổn; Vương Nhung tuy bất bị lễ, nhi ai hủy cốt lập. Thần dĩ Hòa Kiểu sinh hiếu, Vương Nhung tử hiếu. Bệ hạ bất ưng ưu Kiều, nhi ứng ưu Nhung. ‘        

Dịch nghĩa

Vương Nhung và Hòa Kiều cùng lúc gặp đại tang, đều được khen là có hiếu. Vương mình gầy như que củi, Hòa khóc nức nở, đầy đủ lễ nghi. Võ đế hỏi Lưu Trọng Hùng : “Khanh có thường quan sát Vương, Hòa chăng? Nghe tiếng Hòa khóc quá đỗi bi thương, vượt hẳn lễ nghi thường tình, khiến người ta phải lo âu.” Trọng Hùng đáp : “Hòa Kiều tuy đầy đủ lễ nghi, nhưng thần khí vẫn không hao tổn; Vương Nhung tuy không đầy đủ lễ nghi, nhưng gầy rộc người như bộ xương. Thần cho rằng Hòa Kiều có hiếu lúc cha mẹ còn sống, Vương Nhung có hiếu lúc cha mẹ đã mất. Bệ hạ không nên lo cho Kiều mà nên lo cho Nhung.”

Chú giải

(1) Vương Nhung (23 – 305), tự Tuấn Xung 濬沖 làm quan đời Đông Tấn, lĩnh mệnh đi chinh phạt nước Ngô, bình định xong, được phong tước An Phong hầu, nhậm chức sử bộ thượng thư. Ngày mẹ mất, ông mới nhân đó từ bỏ việc quan. Trong thời gian cư tang, ông vẫn không giữ lễ nghi, rượu thịt thoái mái, đến mức mặt mày hốc hác. Hòa Kiểu tự Trường Dư 長輿, làm chức trung thư lệnh, rồi thượng thư, cũng nhân ngày mẹ mất mà từ bỏ việc quan. Trong thời gian cư tang, ông kính cẩn gìn giữ lễ nghi, ăn uống dè xẻn, nhưng không hốc hác như Vương Nhung. Đại tang là tang cha hoặc mẹ.

(2) Tấn Võ đế là Tư Mã Viêm (236 – 290). Lưu Trọng Hùng tên Nghị 毅, tính tình cương trực, làm chức thượng thư tả bộc xạ. Chữ 不 đọc là phủ, dùng như phủ 否.

18

梁 王 、 趙 王 , 國 之 近 屬 , 貴 重 當 時 。 裴 令 公 歲 請 二 國 租 錢 數 百 萬 , 以 恤 中 表 之 貧 者 。 或 譏 之 曰 : 「何 以 乞 物 行 惠 ? 」 裴 曰 : 「損 有 餘 , 補 不 足 , 天 之 道 也 。 」

Lương vương, Triệu vương, quốc chi cận thuộc, quý trọng đương thời.(1) Bùi lệnh công tuế thỉnh nhị quốc tô tiền sổ bách vạn, dĩ tuất trung biểu chi bần giả.(2) Hoặc cơ chi viết : “Hà dĩ khất vật hành huệ? ” Bùi viết : “Tổn hữu dư, bổ bất túc, thiên chi đạo dã.”(3)       

Dịch nghĩa

Lương vương và Triệu vương là hai người thân thuộc của hoàng đế, rất được kính trọng đương thời. Hằng năm Bùi lệnh công xin tiền thuế của hai nước đến vài trăm vạn để cứu tế gia quyến của những người nghèo. Có người chế giễu ông : “Sao lại phải đi xin để ban ân huệ? ” Bùi đáp : “Lấy bớt chỗ dư thừa để bù đắp nơi thiếu hụt, đó là đạo trời vậy.”

Chú giải

(1) Lương vương tức Tư Mã Dung 司馬肜, Triệu vương tức Tư Mã Luân司馬倫, cả hai đều là con của Tư Mã Ý. Còn Tấn Võ đế là cháu nội Tư Mã Ý.

(2) Bùi lệnh công tức Bùi Khải 裴楷, tự Thúc Tắc 叔則, nhân làm chức quan trung thư lệnh nên được tôn xưng là Bùi lệnh công. Nhị quốc (hai nước) ở đây chỉ hai lãnh thổ được phong của Lương vương và Triệu vương. Trung biểu chỉ tất cả các mối quan hệ bà con thân thích.

(3) Câu này lấy từ Đạo đức kinh của Lão Tử : “Thiên chi đạo, kỳ do trương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi; hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc. Nhân chi đạo, tắc bất nhiên, tổn bất túc dĩ phụng hữu dư. 天 之 道 , 其 猶 張 弓 與 ? 高 者 抑 之 , 下 者 舉 之 ; 有 餘 者 損 之 , 不 足 者 補 之 。 天 之 道 , 損 有 餘 而 補 不 足 。 人 之 道 , 則 不 然 , 損 不 足 以 奉 有 餘 。 (Đạo Trời giống như dương cung chăng. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù vào. Đạo Trời bớt chỗ dư bù chỗ thiếu. Đạo người thì chẳng vậy, bớt chỗ thiếu mà vun đắp chỗ dư.)” (câu 77)

19

王 戎 云 : 「太 保 居 在 正 始 中 , 不 在 能 言 之 流 。 及 與 之 言 , 理 中 清 遠 , 將 無 以 德 掩 其 言 ! 」

Vương Nhung vân : “Thái bảo cư tại Chính Thủy trung, bất tại năng ngôn chi lưu.(1) Cập dữ chi ngôn, lý trung thanh viễn, tương vô dĩ đức yểm kỳ ngôn! ”(2)           

Dịch nghĩa

Vương Nhung nói : “Vương Tường ở vào thời Chính Thủy, không theo trào lưu thanh đàm. Đến khi cùng ông ta nói chuyện mới thấy nghĩa lý thanh tân thâm viễn, không biết có phải là ông ta dùng đức hạnh để che giấu ngôn ngữ mình hay không! .”

Chú giải

(1) Thái bảo là Vương Tường ở câu 14, ông từng làm chức thái bảo nên người ta gọi là Vương thái bảo. Chính Thủy là niên hiệu của triều đại Ngụy đế Tào Phương (239 – 254). Năng ngôn là thanh đàm 清談, chuyên bàn về huyền học. Thời Ngụy Tấn, giới trí thức đua nhau luận bàn về những lời lẽ cao xa trong cái học Lão Trang, không vụ thực tế, tạo thành một phong khí trong xã hội đương thời, gọi thanh đàm.

(2) Tương vô : chỉ e là (dùng để biểu đạt sự phỏng đoán mang ý khẳng định).

20

王 安 豐 遭 艱 , 至 性 過 人 。 裴 令 往 弔 之 , 曰 : 「若 使 一 慟 果 能 傷 人 , 濬 沖 必 不 免 滅 性 之 譏 。 」

Vương An Phong tao gian, (1) chí tính quá nhân. Bùi lệnh vãng điếu chi, viết : “Nhược sử nhất đỗng quả năng thương nhân, Tuấn Xung tất bất miễn diệt tính chi cơ.”              

Dịch nghĩa

Vương An Phong chịu tang mẹ, chỗ chí tình vượt hơn người thường. Bùi lệnh công di điếu, nói : “Nếu một lần bi thương cực độ mà có thể hại người thì Tuấn Xung không tránh khỏi lời cười chê là hủy diệt tính mệnh.”

Chú giải

Vương An Phong tức Vương Nhung (xem tiết 17); tao gian : chịu tang cha mẹ.

21

王 戎 父 渾 有 令 名 , 官 至 涼 州 刺 史 。 渾 薨 , 所 歷 九 郡 , 義 故 懷 其 德 惠 , 相 率 致 賻 數 百 萬 , 戎 悉 不 受 。

Vương Nhung phụ Hồn hữu lệnh danh, (1) quan chí Lương Châu thứ sử. Hồn hoăng, sở lịch cửu quận nghĩa cố, (2) hoài kỳ đức huệ, tương suấttrí phụ sổ bách vạn, Nhung tất bất thụ.       

Dịch nghĩa

Phụ thân của Vương Nhung là Hồn có danh tiếng, làm quan đến chứ thứ sử Lương Châu. Hồn mất, trong chín quận mà ông từng làm quan, các bậc nghĩa cố từng chịu ân đức của ông đi điếu có đến vài trăm vạn, Nhung đều không nhận.

Chú giải

(1) Lệnh danh là thanh danh, tiếng thơm.

(2) Theo Tấn Thư, Địa lý chí, thì Lương Châu chỉ có tám quận chứ không phải là chín quận. Có nhà nghiên cứu cho rằng do đọc nhầm chữ “châu” trong “châu quận 州郡” thành chữ “cửu 九(chín)” mà ra. Nghĩa cố là những người cố cựu kết giao với nhau vì điều nhân nghĩa.

22

劉 道 真 嘗 為 徒 , 扶 風 王 駿 以 五 百 疋 布 贖 之 , 既 而 用 為 從 事 中 郎 。 當 時 以 為 美 事 。

Lưu Đạo Chân thường vi đồ, Phù Phong vương Tuấn dĩ ngũ bách thất bố thục chi, ký nhi dụng vi tòng sự trung lang. Đương thời dĩ vi mỹ sự.                  

Dịch nghĩa

Lưu Đạo Chân từng là tội đồ, Phù Phong vương Tư Mã Tuấn dùng năm trăm tấm vải để chuộc ra, rồi dùng làm tòng sự trung lang. Đương thời cho là việc tốt đẹp.

Chú giải

Lưu Bảo 劉寶 (? – 301), tự Đạo Chân, là nhà văn và vị tướng thời Tây Tấn. Phù Phong vương Tuấn tức Tư Mã Tuấn, con Tư Mã Ý.

23

王 平 子 、 胡 毋 彥 國 諸 人 , 皆 以 任 放 為 達 , 或 有 裸 體 者 。 樂 廣 笑 曰 : 「名 教 中 自 有 樂 地 , 何 為 乃 爾 也 ! 」

Vương Bình Tử, Hồ Vô Ngạn Quốc chư nhân, giai dĩ nhiệm phóng vi đạt, hoặc hữu lõa thể giả. Nhạc Quảng tiếu viết : “Danh giáo trung tự hữu lạc địa, hà vi nãi nhĩ dã! ”       

Dịch nghĩa

Các ông Vương Bình Tử, Hồ Vô Ngạn Quốc đều cho chuyện sống phóng túng bất cần là khoáng đạt; có người còn lõa lồ thân thể nữa. Nhạc Quảng cưới, nói : “Trong danh giáo tự có chỗ vui, đâu phải phải thế! ”

Chú giải

(1) Vương Bình Tử tên Trừng 澄, tự Bình Tử, từng làm thứ sử Kinh châu. Hồ Vô Ngạn Quốc, họ Hồ Vô, tên Bổ Chi 輔之, tự Quốc Ngạn, từng làm thứ sử Tương Châu.

(2) Nhạc Quảng tự Ngạn Phụ 彥 輔, từng là các chức quan lớn, thanh danh cực cao, nói năng đúng khuôn phép, lại có lòng khoan dung người khác. Danh giáo xem tiết 4.

24

郗 公 值 永 嘉 喪 亂 , 在 鄉 里 甚 窮 餒 。 鄉 人 以 公 名 德 , 傳 共 飴 之 。 公 常 攜 兄 子 邁 及 外 生 周 翼 二 小 兒 往 食 。 鄉 人 曰 : 「各 自 饑 困 , 以 君 之 賢 , 欲 共 濟 君 耳 , 恐 不 能 兼 有 所 存 。 」 公 於 是 獨 往 食 , 輒 含 飯 著 兩 頰 邊 , 還 吐 與 二 兒 。 後 並 得 存 , 同 過 江 。 郗 公 亡 , 翼 為 剡 縣 , 解 職 歸 , 席 苫 於 公 靈 床 頭 , 心 喪 終 三 年 。

Hy công trị Vĩnh Gia táng loạn, (1) tại hương lý thậm cùng nỗi. Hương nhân dĩ công danh đức, truyền cộng di chi. Công thường huề huynh tử Mại cập ngoại sinh(2) Chu Dực nhị tiểu nhi vãng thực. Hương nhân viết : “Các tự cơ khốn, dĩ quân chi hiền, dục cộng tế quân nhĩ, khủng bất năng kiêm hữu sở tồn.” Công ư thị độc vãng thực, triếp hàm phạn trứ lưỡng giáp biên, hoàn thổ dữ nhị nhi. Hậu tịnh đắc tồn, đồng quá giang.(3) Hy công vong, Dực vi Diệm huyện, giải chức quy, tịch thiêm ư công linh sàng đầu, tâm táng chung tam niên.(4)          

Dịch nghĩa

Hy công sống trong giai đoạn tang tóc, loạn lạc thời Vĩnh Gia, ở tại làng vô cùng đói khố. Người trong làng xem ông là người có danh tiếng lại hiền đức, nên thay nhau mà cho thức ăn. Ông thường dẫn theo con trai của người anh là Mại và đứa cháu bên ngoại là Chu Dực đi xin ăn. Người trong làng nói : “Nhà nào cũng đói khổ, vì thấy ông là người hiền nên mới cùng nhau giúp đỡ cho ông thôi, chỉ e là không thể kiêm thêm hai đứa nhỏ.” Ông nghe thế, bèn đi xin ăn một mình, rồi ngậm cơm hai bên má, khi về thì nhả ra cho hai đưa nhỏ ăn. Về sau đều được sống, cùng nhau qua sông Trường Giang. Hy công mất, Dực đang làm huyện lệnh huyện Diệm, liền nghỉ việc, về nằm trên chiếu cỏ thiêm ở đầu linh sàng Hy công, để tâm tang trọn ba năm.

Chú giải

(1) Hy công tự Hy giám 郗 鑒, có tiếng là người nho nhã, từng làm các chức quan thứ sử, tư không, tư khấu. Vĩnh Gia táng loạn : Dưới triều Tấn Hoài đế (307 – 312), sau loạn “bát vương”, xã hội loạn lạc, chính trị hủ bại, dân tình vô cùng khốn khổ.

(2) Ngọa sinh 外生 ở đây là ngoại sinh 外甥 (cháu bên ngoại).

(3) Quá giang (qua sông): giai đoạn loạn Vĩnh Gia, người ở Trung Nguyên ùn ùn kéo nhau qua sông Trường Giang để đến Giang Nam tỵ nạn. Sau giai đoạn đó, Lang Nha vương Tư Mã Duệ lên ngôi, mở ra triều đại Đông Tấn.

(4) Thiêm là loại cỏ thường dùng làm chiếu để nằm khi có tang. Theo quy định thời cổ, để tang cha mẹ 3 năm, để tang bên ngoại 5 tháng, Hy Giám là cậu, lẽ ra Chu Dực chỉ để tang 5 tháng, nhưng lại để tang đến 3 năm để bày tỏ hiếu tâm.

25

顧 榮 在 洛 陽 , 嘗 應 人 請 , 覺 行 炙 人 有 欲 炙 之 色 , 因 輟 己 施 焉 。 同 坐 嗤 之 。 榮 曰 : 「豈 有 終 日 執 之 , 而 不 知 其 味 者 乎 ? 」 後 遭 亂 渡 江 , 每 經 危 急 , 常 有 一 人 左 右 已 , 問 其 所 以 , 乃 受 炙 人 也 。

Cố Vinh tại Lạc Dương, thường ứng nhân thỉnh, giác hành chá nhân(1) hữu dục chá chi sắc, nhân xuyết kỷ thí yên. Đồng tọa xuy chi. Vinh viết : “Khởi hữu chung nhật chấp chi, nhi bất tri kỳ vị giả hồ? ” Hậu tao loạn độ giang, (2) mỗi kinh nguy cấp, thường hữu nhất nhân tả hữu dĩ, vấn kỳ sở dĩ, nãi thụ chá nhân dã.              

Dịch nghĩa

Cố Vinh khi ở Lạc Dương có lần nhận lời mời của người đi dự tiệc, thấy người nô bộc hầu tiệc lộ vẻ thèm thịt nướng, nhân đó đem phần mình mà nhường cho. Những người cùng ngồi đều cười nhạo, Vinh nói : “Há có chuyện một người suốt ngày cứ bưng thịt mà không biết đến mùi vị hay sao? ” Về sau gặp loạn qua sông, mỗi khi gặp nguy cấp đều có một người giúp đỡ, hỏi duyên cớ mới hay đó là người nhận thịt.

Chú giải

(1) Hành chá nhân là kẻ nô bộc phục vụ tiệc. (2) Xem tiết 24

26

祖 光 祿 少 孤 貧 , 性 至 孝 , 常 自 為 母 炊 爨 作 食 。 王 平 北 聞 其 佳 名 , 以 兩 婢 餉 之 , 因 取 為 中 郎 。 有 人 戲 之 者 曰 : 「奴 價 倍 婢 。 」 祖 云 : 「百 里 奚 亦 何 必 輕 於 五 羖 之 皮 邪 ? 」

Tổ Quang Lộc thiếu cô bần, tính chí hiếu, thường tự vi mẫu xuy thoán tác thực.(1) Vương Bình Bắc văn kỳ giai danh, dĩ lưỡng tỳ hướng chi, nhân thủ vi trung lang.(2) Hữu nhân hý chi giả viết : “Nô giá bội tỳ.” Tổ vân : “Bách Lý Hề diệc hà tất khinh ư ngũ cổ chi bì da? ”(3)     

Dịch nghĩa

Tổ Quang Lộc thuở nhỏ mồ côi cha, nhà nghèo, tính chí hiếu, thường tự mình nấu ăn cho mẹ. Vương Bình Bắc nghe tiếng ông, đem hai người hầu gái tặng cho, rồi nhân đó giữ ông làm quan trung lang. Có người đùa ông, nói : “Giá một hầu nam bằng hai hầu nữ.” Tổ nói : “Bách Lý Hề cũng rẻ hơn năm tấm da dê sao? ”

Chú giải

(1) Tổ Quang Lộc tức Tổ Nạp 祖納, tự Sĩ Ngôn 士言, nhân làm chức quan quang lộc đại phu đời Đông Tấn, nên được gọi là Tổ Quang Lộc.

(2) Vương Bình Bắc là Vương Nghĩa 王義, tự Thúc Nguyên 叔元, làm chức Bắc bình tướng quân. Trung lang là chức nhỏ theo hầu quan, giống như là nô bộc, cho nên mới có câu châm chọc “nô giá bội tỳ” tiếp theo.

(3) Bách Lý Hề người thời kỳ Xuân Thu, có tài năng nhưng không được thi thố. Năm 30 tuổi, vợ khuyến khích đi tìm công danh. Ông lưu lạc sang nhiều nước nhưng không thành đạt gì. Năm 70 tuổi, bị bắt ở biên giới nước Sở, Tần Mục công nghe tiếng Bách Lý Hề là người hiền tài, bèn sai người sang chuộc về nước, nhưng sợ người nước Sở biết ông là người giỏi không cho chuộc, nên chỉ dùng năm tấm da dê để chuộc. Vua Tần phong ông làm Thượng khanh, cai quản quốc chính, giúp nước Tần cường thịnh, và thường được gọi là Ngũ Cổ đại phu (Ngũ cổ là năm tấm da dê).

27

周 鎮 罷 臨 川 郡 還 都 , 未 及 上 住 , 泊 青 溪 渚 。 王 丞 相 往 看 之 。 時 夏 月 , 暴 雨 卒 至 , 舫 至 狹 小 , 而 又 大 漏 , 殆 無 復 坐 處 。 王 曰 : 「胡 威 之 清 , 何 以 過 此 ! 」 即 啟 用 為 吳 興 郡 。

Chu Trấn bãi Lâm Xuyên quận hoàn đô, vị cập thượng trú, bạc Thanh Khê chử. Vương thừa tướng(1) vãng khán chi. Thời hạ nguyệt, bạo vũ thốt chí, phảng chí hiệp tiểu, nhi hựu đại lậu, đãi vô phục tọa xứ.(2) Vương viết : “Hồ Uy chi thanh, hà dĩ quá thử! ” tức khải dụng vi Ngô Hưng quận.(3)

Dịch nghĩa

Chu Trấn từ Lâm Xuyên quay về kinh đô, chưa đến nơi, thuyền đậu ở bến Thanh Khê. Vương thừa tướngđến thăm. Lúc bấy giờ là mùa hè, cơn mưa lớn đột nhiên ập đến, thuyền quá nhỏ hẹp, lại có những chỗ thủng lớn, hầu như không có chỗ để ngồi. Vương nói : “Hồ Uy thanh liêm, có gì hơn người này! ” bèn bổ nhiệm làm thái thú quận Ngô Hưng.

Chú giải

(1) Vương thừa tướng, tức Vương đạo 王導, tự Mậu Hoằng 茂弘, giúp Tân Nguyên đế trị quốc, làm thứ sử Dương Châu, về sau làm thừa tướng.

(2) Đãi 殆có nghĩa là “hầu như”, “gần như.”

(3) Hồ Uy (? – 280), còn có tên là Hồ Tỳ 胡貔, cùng phụ thân là Hồ Chất 胡質, nổi tiếng là những vị quan thanh liêm thời Ngụy Tấn, tạo nên ảnh hưởng lớn việc giáo hóa đương thời. Khi Hồ Chất làm thứ sử Kinh Châu, Hồ Uy về thăm, khi lên đường chỉ được cha tặng cho một tấm lụa làm lộ phí. Viên đô đốc dưới trướng Hồ Chất liền xin nghỉ phép rồi tìm cách làm bạn đi theo Hồ Uy để ngầm giúp đỡ dọc đường. Đi được vài trăm dặm, Hồ Uy sinh nghi, liền hỏi rõ; biết sự thực, ông liền lấy xấp lụa cha tặng trao cho viên đô đốc rồi chia tay. Sau đó, Hồ Uy tố cáo việc này với cha, Hồ Chất liền sai đánh viên đô đốc 100 rồi rồi bắt nghỉ việc.

28

鄧 攸 始 避 難 , 於 道 中 棄 己 子 , 全 弟 子 。 既 過 江 , 取 一 妾 , 甚 寵 愛 。 歷 年 後 訊 其 所 由 , 妾 具 說 是 北 人 遭 亂 , 憶 父 母 姓 名 , 乃 攸 之 甥 也 。 攸 素 有 德 業 , 言 行 無 玷 , 聞 之 哀 恨 終 身 , 遂 不 復 畜 妾 。

Đặng Du thủy tỵ nan, ư đạo trung khí kỷ tử, toàn đệ tử. Ký quá giang, thủ nhất thiếp, thậm sủng ái. Lịch niên hậu tấn kỳ sở do, thiếp cụ thuyết thị bắc nhân tao loạn, ức phụ mẫu tính danh, nãi du chi sanh dã. Du tố hữu đức nghiệp, ngôn hành vô điếm, văn chi ai hận chung thân, toại bất phục súc thiếp.       

Dịch nghĩa

Ban đầu, Đặng Du lánh nạn, giữa đường bỏ lại hai đứa con của mình để bảo toàn cho con của người em. Khi đã qua sông Trường Giang, tìm được một người thiếp, cực kỳ sủng ái. Vài năm sau, hỏi về thân thế, nói là người phương bắc chạy loạn, nhớ lại họ của cha mẹ, hóa ra là cháu gái bên ngoại của Du. Du vốn là người có đức hạnh và sự nghiệp, lời nói và hành vi đều không có tỳ vết, nghe xong buồn bã và ân hận suốt đời, bèn không nạp thêm thê thiếp nữa.

Chú giải

Đặng Du tự Bá Đạo 伯道, người em mất sớm, để lại một đứa con nhỏ cho ông nuôi dưỡng. Trên đường chạy nạn để tránh loạn Vĩnh Gia, ông dẫn đứa cháu theo hai đứa con của mình. Đến lúc thấy không thể nào lo nỗi, ông đành lòng bỏ lại hai đứa con mình để mang đứa cháu đi.

29

王 長 豫 為 人 謹 順 , 事 親 盡 色 養 之 孝 。 丞 相 見 長 豫 輒 喜 , 見 敬 豫 輒 嗔 。 長 豫 與 丞 相 語 , 恆 以 慎 密 為 端 。 丞 相 還 臺 , 及 行 , 未 嘗 不 送 至 車 後 。 恆 與 曹 夫 人 併 當 箱 篋 。 長 豫 亡 後 , 丞 相 還 臺 , 登 車 後 , 哭 至 臺 門 。 曹 夫 人 作 簏 , 封 而 不 忍 開 。

Vương Trường Dự vi nhân cẩn thuận, sự thân tận sắc dưỡng chi hiếu. Thừa tướng kiến Trường Dự triếp hỷ, kiến Kính Dự(2) triếp sân. Trường Dự dữ thừa tướng ngữ, hằng dĩ thận mật vi đoan. Thừa tướng hoàn đài, (3) cập hành, vị thường bất tống chí xa hậu. Hằng dữ Tào phu nhân tính đương sương khiếp.(4) Trường Dự vong hậu, thừa tướng hoàn đài, đăng xa hậu, khốc chí đài môn. Tào phu nhân tác lộc, phong nhi bất nhẫn khai.        

Dịch nghĩa

Vương Trường Dự làm người rất thận trọng, hòa thuận, thờ cha mẹ hết lòng hiếu thảo mà luôn vui vẻ. Vương thừa tướng gặp Trường Dự thì vui vẻ, gặp Kinh Dự thì nổi nóng. Trường Dự cũng thừa tướng trò chuyện luôn lấy sự cẩn thận nghiêm mật làm đầu mối. Thừa tướng quay về thượng thư tỉnh, lúc sắp đi, không lúc nào là không đưa đến tận sau xe. Thường cùng Tào phu nhân sắp xếp lại vật dụng trong hòm, níp. Sau khi Trường Dự mất, thừa tướng quay về thượng thư đài, khóc đến tận đài môn. Tào phu nhân làm cái giỏ tre, đóng kín lại, không nỡ mở ra.

Chú giải

(1) Vương Trường Dự tức Vương Duyệt 王悅, tự Trường Dự, là con trai lớn của thừa tướng Vương Đạo, danh vọng rất lớn đương thời, có tiếng hiếu thuận. Sắc dưỡng : phụng dưỡng cha mẹ mà nét mặt luôn vui vẻ.

(2) Kính Dự là con trai thứ của Vương Đạo, từng làm thái thú Ngụy quân, tính tình phóng túng, không câu nệ lễ tiết.

(3) Đàithượng thư tỉnh 尚書省 (tiền thân là thượng thư đài 尚書臺); từ đời Nam Bắc triều đến đời Tống, dinh thự này là cơ quan trung ương tối cao của triều đình.

(4) Tào phu nhân là vợ thừa tướng Vương Đạo, mẹ của Trường Dự.

30

桓 常 侍 聞 人 道 深 公 者 , 輒 曰 : 「此 公 既 有 宿 名 , 加 先 達 知 稱 , 又 與 先 人 至 交 , 不 宜 說 之 。 」

Hoàn thường thị(1) văn nhân đạo Thâm công(2) giả, triếp viết : “Thử công ký hữu túc danh, gia tiên đạt tri xưng, hựu dữ tiên nhân chí giao, bất nghi thuyết chi.”(3)

Dịch nghĩa

Quan thường thị họ Hoàn nghe người ta bàn luận về Trúc Pháp Thâm liền nói : “Vị này nổi tiếng đã lâu, những bậc tiền bối thông đạt cũng biết tiếng mà ca ngợi, lại là chỗ chí giao với tiên phụ, nên không tiện nói gì.”

Chú giải

(1) Hoàng thường thị tên Hoàn Di 桓彝 (276-328), tự Mậu Luân茂倫, làm quan thường thị đời Đông Tấn. Thường thị là chức quan thời cổ, thường xuyên hầu cận bên vua.

(2) Thâm công (286 – 374) tức Trúc Pháp Thâm, tên là Tiềm 潛 hay Đạo Tiềm 道潛, họ Vương, người quận Lang Nha 琅邪 (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) pháp hiệu là Pháp Thâm, cao tăng thời Đông Tấn. Ấn Độ ngày trước được dịch là Thiên Trúc nên các vị tăng thời bấy giờ thường dùng Trúc làm họ, giống như các tăng ni bây giờ lấy chữ Thích làm họ vậy. Năm 18 tuổi, ông xuất gia, thọ giáo với danh tăng Lưu Nguyên Chân 劉元真, lần lần khắc phục được cái học phong phù hoa đương thời của giới sĩ tộc, thâm cứu lý luận của Phật giáo trong kinh Bát Nhã. Hơn nữa, ông lại có tướng mạo đường đường, nói năng phong nhã, đức hạnh cao khiết, giỏi bàn luận về huyền lý, nên nổi tiếng khắp thành Lạc Dương. Đến năm 24 tuổi, ông tự đăng đàn thuyết pháp, thuyết giảng các kinh Pháp Hoa, Đại Phẩm Bát Nhã, nghĩa lý thâm áo, phân tích rõ ràng, khúc chiết, thính chúng kéo đến nghe pháp, có khi lên đến năm, sáu trăm người.

(3) Túc danh 宿名là danh tiếng đã được nhiều người biết đến. Tiên đạt 先達 là các bậc tiền bối đức độ, tài giỏi; tiên nhân 先人 ở đây chỉ tiên phụ, tức người cha đã huất.

31

庾 公 乘 馬 有 的 盧 , 或 語 令 賣 去 。 庾 云 : 「賣 之 必 有 買 者 , 即 當 害 其 主 。 寧 可 不 安 己 而 移 於 他 人 哉 ? 昔 孫 叔 敖 殺 兩 頭 蛇 以 為 後 人 , 古 之 美 談 , 效 之 , 不 亦 達 乎 ! 」

Dữu công thừa mã hữu Đích Lô, hoặc ngữ lệnh mại khứ.(1) Dữu vân : “Mại chi tất hữu mãi giả, tức đương hại kỳ chủ. Ninh khả bất an kỷ nhi di ư tha nhân tai? Tích Tôn Thúc Ngao sát lưỡng đầu xà dĩ vi hậu nhân, cổ chi mỹ đàm, hiệu chi, bất diệc đạt hồ! ”

Dịch nghĩa

Trong số những con ngựa Dữu công cưỡi, có con Đích Lô, có người bảo nên bán đi; Dức nói : “Bán nó ắt có người mua, như vậy lại làm hại chủ. Há có thể vì sự an toàn của bản thân mà đẩy sang người khác ư? Thuở trước, Tôn Thúc Ngao vì người sau mà giết rắn hai đầu, thành câu chuyện được ngợi ca thời cổ, nay ta bắt chước ông ấy, cũng chẳng phải là điều tốt đẹp hay sao? ”

Chú giải

(1) Dữu công tên Lượng 亮, tự Nguyên Quy 元規, từng làm các chức vụ Chinh tây đại tướng quân, thứ sử Kinh Châu. Đích Lô là con ngựa có đốm trắng trên trán, tương truyền có tiếng phản chủ, hễ ai cưỡi nó đều gặp nạn.

(2) Tôn Thúc Ngao là danh thần nước Sở thời Chiến Quốc, tình tình nhân hậu. Khi còn bé, ông đi ngoài đường gặp con rắn hai đầu, bèn đập chết, đem chôn, rồi về nhà, khóc kể với mẹ : “Con nghe nói hễ ai gặp con rắn hai đầu đều bị chết, con chắc sẽ chết, nhưng con sợ người khác lại gặp phải nên đập chết nó và chôn nó rồi.” Người mẹ nghe xong liền bảo : “Con có lòng tốt như thế, thế nào cũng được báo đáp, đừng lo lắng gì.” Sau, ông làm đến chức lệnh đoãn nước Sở.

32

阮 光 祿 在 剡 , 曾 有 好 車 , 借 者 無 不 皆 給 。 有 人 葬 母 , 意 欲 借 而 不 敢 言 。 阮 後 聞 之 , 嘆 曰 : 「吾 有 車 而 使 人 不 敢 借 , 何 以 車 為 ? 」 遂 焚 之 。

Nguyễn quang lộc tại Diệm, tằng hữu hảo xa, tá giả vô bất giai cấp. Hữu nhân táng mẫu, ý dục tá nhi bất cảm ngôn. Nguyễn hậu văn chi, thán viết : “Ngô hữu xa nhi sứ nhân bất cảm tá, hà dĩ xa vi? ” Toại phần chi.        

Dịch nghĩa

Quan quang lộc họ Nguyễn tại huyện Diệm, từng có một cỗ xe đẹp, những người đến mượn chẳng có ai là không mượn được. Có người mẹ mất, muốn mượn xe mà không dám nói. Sau, Nguyễn nghe được, than rằng : “Ta có xe mà khiến người không dám mượn thì để xe làm gì? ” Bèn đốt xe đi.

Chú giải

Nguyễn Dụ 阮裕, tự Tư Khoáng 思曠, làm thái thú Đông Dương, sau làm chức quang lộc đại phu, nên có tên Nguyễn quang lộc.

33

謝 奕 作 剡 令 , 有 一 老 翁 犯 法 , 謝 以 醇 酒 罰 之 , 乃 至 過 醉 , 而 猶 未 已 。 太 傅 時 年 七 、 八 歲 , 著 青 布 褲 , 在 兄 膝 邊 坐 , 諫 曰 : 「阿 兄 ! 老 翁 可 念 , 何 可 作 此 。 」 奕 於 是 改 容 曰 : 「阿 奴 欲 放 去 邪 ? 」 遂 遣 之 。

Tạ Dịch tác Diệm lệnh, hữu nhất lão ông phạm pháp, Tạ dĩ thuần tửu phạt chi, nãi chí quá túy, nhi do vị dĩ. Thái phó(2) thời niên thất, bát tuế, trước thanh bố khố, tại huynh tất biên tọa, gián viết : “A huynh! Lão ông khả niệm, hà khả tác thử? ” Dịch ư thị cải dung viết : “A nô dục phóng khứ da? ”(3) Toại khiển chi.              

Dịch nghĩa

Tạ Dịch làm huyện lệnh huyện Diệm, có một ông lão phạm pháp, Tạ đem rượu nặng ra phạt, ông lão uống quá say mà vẫn không cho ngừng. Thái phó lúc đó mới bảy, tám tuổi, mặc chiếc quần xanh, ngồi bên cạnh gối của anh, lên tiếng can : “Anh ơi! Ông lão này đáng thương quá, sao lại có thể làm thế được? ” Dịch nghe nói liền đổi sắc mặt, hỏi : “Em muốn thả ra ư? ” Bèn tha cho ông lão.

Chú giải

(1) Tạ Dịch (? – 358), đời Đông Tấn, làm quan đến chức thứ sử Dự Châu.

(2) Thái phó là chức quan, ở đây chỉ Tạ An, em trai của Tạ Dịch. Tạ An 謝安 (320 – 385), tên tự là An Thạch 安石, là nhà chính trị, quân sự lớn và đại thần dưới thời Đông Tấn. Ngay từ thời trẻ, Tạ An đã tỏ ra là người thông minh xuất chúng, nhân trí hơn người, được mọi người kính trọng. Ông có những đóng góp to lớn trên lĩnh vực quân sự, chính trị, văn học. Khi ông mất, được truy tặng chức thái phó, nên được sử gọi là Đông Tấn thái phó hoặc Tạ thái phó.

(3) Em gọi anh là “a huynh”, anh gọi em là “a nô”.

34

謝 太 傅 絕 重 褚 公 , 常 稱 : 「褚 季 野 雖 不 言 , 而 四 時 之 氣 亦 備 。 」

Tạ thái phó tuyệt trọng Trữ công, thường xưng: “Trữ Quý Dã tuy bất ngôn, nhi tứ thời chi khí diệc bị.”

Dịch nghĩa

Tạ thái phó tuyệt đối tôn trọng Trữ Quý Dã, từng khen : “Trữ Quý Dã tuy không nói, nhưng khí tượng bốn mùa đều đầy đủ. ”

Chú giải

Chữ thường 常 ở đây dùng như chữ thường 嘗 (từng). Trữ Bầu 褚裒, tự Quý Dã, từng giữ chức thứ sử Duyện Châu, sau khi mất được truy tặng chức thái phó. TheoTrữ Bầu truyện trong Tấn thư, Hoàn Di cho rằng Quý Dã là người có “bì lý dương thu 皮裏陽秋”, có nghĩa là người thâm trầm, khen chê ai đều giấu kín trong lòng, không bao giờ biểu hiện ra lời nói.

35

劉 尹 在 郡 , 臨 終 綿 惙 , 聞 閣 下 祠 神 鼓 舞 。 正 色 曰 : 「莫 得 淫 祀 ! 」 外 請 殺 車 中 牛 祭 神 。 真 長 答 曰 : 「丘 之 禱 久 矣 , 勿 復 為 煩 。 」

Lưu Doãn tại quận, lâm chung miên chuyết, (1) văn các hạ từ thần cổ vũ, chính sắc viết : “Mạc đắc dâm tự! ” Ngoại thỉnh sát xa trung ngưu(2) tế thần. Chân Trường đáp viết : “Khâu chi đảo cửu hỹ, (3) vật phục vi phiền.”          

Dịch nghĩa

Lưu Doãn ở tại quận mình, lúc lâm chung sắp tắt hơi, nghe dưới lầu có tiếng chuông trống trong miếu thần liền nghiêm sắc mặt mà nói : “Đừng có cúng bái bừa bãi! ” Bên ngoài thỉnh cầu giết con bò kéo xe để cúng thần, Chân Trường đáp : “Khâu này cầu đảo đã lâu rồi, xin đừng làm phiền lần nữa! ”

Chú giải

(1) Lưu Doãn, tức Lưu Đàm 劉惔, tự Chân Trường, làm lệnh đoãn Đơn Dương. Miên chuyết là hơi thở yếu ớt, sắp tắt.

(2) Xa trung ngưu là con bò kéo xe. Đời Tấn thường dùng bò kéo xe, nên giết bò để cúng thần là chuyện thường tình.

(3) Sách Luận Ngữ, chương Thuật nhi, kể có lần Khổng Khâu, tức KhổngTử, bị bệnh, môn đồ là Tử Lộ muốn cầu đảo để thầy hết bệnh, ông nói : “Khâu chi đảo cửu hỹ.” (Khâu này đã cầu đảo từ lâu rồi.), ý nói ông luôn sống thuận theo thiên lý, hợp với đạo trời, tức đã là cầu đảo rồi. Lưu Đàm vốn chuộng cái học Lão Trang, chủ trương sống thuận theo tự nhiên nên không tin tưởng ở chuyện cúng tế, quỷ thần.

36

謝 公 夫 人 教 兒 , 問 太 傅 : 「那 得 初 不 見 君 教 兒 ? 」 答 曰 : 「我 常 自 教 兒 。 」

Tạ công phu nhân giáo nhi, vấn thái phó : “Na đắc sơ bất kiến quân giáo nhi? ” Đáp viết : “Ngã thường tự giáo nhi.” 

Dịch nghĩa

Phu nhân của Tạ thái phó dạy con, hỏi thái phó : “Sao chưa từng thấy chàng dạy con? ” Đáp : “Ta thường xuyên tự dạy cho con! ”

Chú giải

Thái phó đây tức Tạ An (xem tiết 33), ý Tạ An nói rằng những hành vi đối nhân xử thế hằng ngày của ông đã có tác dụng giáo dục đối với con rồi.

37

晉 簡 文 為 撫 軍 時 , 所 坐 床 上 塵 不 聽 拂 , 見 鼠 行 跡 , 視 以 為 佳 。 有 參 軍 見 鼠 白 日 行 , 以 手 板 批 殺 之 , 撫 軍 意 色 不 說 , 門 下 起 彈 。 教 曰 : 「鼠 被 害 , 尚 不 能 忘 懷 , 今 復 以 鼠 損 人 , 無 乃 不 可 乎 ? 」

Tấn Giản Văn vi phủ quân thời, (1) sở tọa sàng thượng trần bất thính phất, kiến thử hành tích, thị dĩ vi giai. Hữu tham quân kiến thử bạch nhật hành, dĩ thủ bản phê sát chi, phủ quân ý sắc bất duyệt, môn hạ khởi đàn.(2) Giáo viết : “Thử bị hại, thượng bất năng vong hoài, kim phục dĩ thử tổn nhân, vô nãi bất khả hồ? ”              

Dịch nghĩa

Tấn Giản Văn khi còn làm phủ quân, chỗ ghế ông ngồi, bụi bám đầy không nghe tiếng chổi quét, thấy được dấu chân chuột chạy, xem đó là điều tốt đẹp. Có viên tham quân nhìn thấy chuột chạy giữa ban ngày bèn lấy thủ bản đập chết. Phủ quân lộ vẻ không hài lòng, môn khách có người thắc mắc, ông dạy rằng : “Chuột bị đập chết, còn không thể quên được, nay lại vì chuột mà làm tổn hại đến cho người, há chẳng phải lại càng không thể hay sao? ”

Chú giải

(1) Tấn Giản Văn tức Tấn Giản Văn đế Tư Mã Dục 司馬昱, (320 – 372), khi chưa lên ngôi thì làm phủ quân tướng quân.

(2) Thủ bản tức cái hốt 笏, các quan cầm khi vào chầu, dùng để ghi các điều cần tấu; từ đời Ngụy Tấn về sau thường sử dụng thủ bản. Phê sát là đập chết. Chữ 說 đọc là duyệt, dùng như chữ duyệt 悅. Môn hạ tức môn khách trong các nhà quyền quý thời trước. Đàn tức đàn hặc 彈劾 là hạch hỏi, chất vấn.

38

范 宣 年 八 歲 , 後 園 挑 菜 , 誤 傷 指 , 大 啼 。 人 問 : 「痛 邪 ? 」 答 曰 : 「非 為 痛 , 身 體 髮 膚 , 不 敢 毀 傷 , 是 以 啼 耳 ! 」 宣 潔 行 廉 約 , 韓 豫 章 遺 絹 百 匹 , 不 受 。 減 五 十 匹 , 復 不 受 。 如 是 減 半 , 遂 至 一 匹 , 既 終 不 受 。 韓 後 與 范 同 載 , 就 車 中 裂 二 丈 與 范 , 云 : 「人 寧 可 使 婦 無 褌 邪 ? 」 范 笑 而 受 之 。

Phạm Tuyên(1) niên bát tuế, hậu viên khiêu thái, ngộ thương chỉ, đại đề. Nhân vấn : “Thống da? ” Đáp viết : “Phi vi thống, thân thể phát phu, bất cảm hủy thương, (2) thị dĩ đề nhĩ! ” Tuyên khiết hạnh liêm ước, Hàn Dự Chương, (3) di quyên bách thất, bất thụ. Giảm ngũ thập thất, phục bất thụ. Như thị giảm bán, toại chí nhất thất, ký chung bất thụ. Hàn hậu dữ Phạm đồng tải, tựu xa trung liệt nhị trượng dữ Phạm, vân : “Nhân ninh khả sử phụ vô côn da? ” Phạm tiếu nhi thụ chi.               

Dịch nghĩa

Phạm Tuyên lúc tám tuổi, ra vườn sau nhà hái rau, bị thương ngón tay, kêu khóc ầm ĩ. Có người hỏi : “Đau không? ” Tuyên đáp : “Không phải vì đau, thân thể tóc da không dám hủy hoại hay để bị tổn thương, bởi vậy mới kêu khóc.” Tuyên phẩm hạnh cao khiết, thanh liêm cần kiệm. Hàn Dự Chương tặng cho một trăm vuông lụa thô, không chịu nhận. Giảm xuống còn năm chục tấm cũng không nhận, cứ giảm một nửa như vậy đến khi chỉ còn một tấm, rốt cuộc vẫn không nhận. Về sau, Hàn đi cùng xe với Phạm, ở trong xe xé tấm lụa hai trượng đưa cho Phạm, nói : “Người ta có thể để cho vợ không có cả cái quần ngắn hay sao? ” Phạm cười mà nhận lấy.

Chú giải

(1) Phạm Tuyên tự Tuyên Tử 宣子, gia cảnh bần hàn, tôn sùng kinh điển Nho gia, ở tại quân Dự Chương, sau được mời làm thái học bác sĩ, tán kỵ lang, từ chối không được, phải ra làm quan.

(2) Hiếu kinh có câu : “Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã. 身 體 發 膚,受 之 父 母,不 敢 毀 傷,孝 之 始 也。”(Thân thể tóc da nhận được từ cha mẹ, không dám hủy hoại hay để bị tổn thương, đó là khởi đầu của đạo hiếu.) Câu này có thâm ý muốn ngăn ngừa chuyện tự vẫn, về sau bị hiểu một cách máy móc đến mức có nhiều “nhà nho” suốt đời không dám hớt tóc hay cắt móng tay! Thân là cái mình, thể là đầu và tay chân.

(3) Hàn Dự Chương là Hàn Bá, tự Khang Bá, nhân làm thái thú Dự Chương nên có tên là Hàn Dự Chương.

39

王 子 敬 病 篤 , 道 家 上 章 應 首 過 , 問 子 敬 「由 來 有 何 異 同 得 失 ? 」 子 敬 云 : 「不 覺 有 餘 事 , 惟 憶 與 郗 家 離 婚 。 」

Vương Tử Kính(1) bệnh đốc, đạo gia thượng chương ứng thú quá, (2) vấn Tử Kính “do lai hữu hà dị đồng đắc thất? ” Tử Kính vân : “Bất giác hữu dư sự, duy ức dữ Hy gia ly hôn.”

Dịch nghĩa

Vương Tử Kính bệnh nặng, đạo gia làm nghi thức thượng chương thú quá, hỏi Tử Kính về những việc được xưa nay mất có gì lớn lao không. Tử Kính đáp : “Chẳng biết được việc gì khác, chỉ nhớ chuyện ly hôn với Hy gia.”

Chú giải

(1) Vương Tử Kính tức Vương Hiến Chi 王獻之, tự Tử Kinh, con trai của nhà thư pháp lỗi lạc Vương Hy Chi 王羲之, rất sung mộ đạo giáo.

(2) Đạo giáo được thành lập bởi Trương Lăng đời Đông Hán, chủ trương dùng phép thuật và bùa chú để xua đuổi tà ma và chữa bệnh. Khi chữa bệnh, các đạo gia dùng tờ giấy, gọi là chương biểu, ghi rõ tên họ bệnh nhân, cũng những điều mà bệnh nhân muốn ăn năn hối lỗi, đưa lên trời cầu xin tiêu trừ tai họa, gọi là thượng chương; hỏi để bệnh nhân thú nhận lỗi lầm gọi thú quá.

(3) Hiến Chi cưới con gái của Hy Đàm, về sau ly hôn. Hy Đàm (320 – 361) tự Trọng Hy重熙, một đại thần đời Đông Tấn.

40

殷 仲 堪 既 為 荊 州 , 值 水 儉 , 食 常 五 碗 盤 , 外 無 餘 肴 。 飯 粒 脫 落 盤 席 閒 , 輒 拾 以 噉 之 。 雖 欲 率 物 , 亦 緣 其 性 真 素 。 每 語 子 弟 云 : 「勿 以 我 受 任 方 州 , 云 我 豁 平 昔 時 意 。 今 吾 處 之 不 易 。 貧 者 士 之 常 , 焉 得 登 枝 而 捐 其 本 ? 爾 曹 其 存 之 ! 」

Ân Trọng Kham ký vi Kinh Châu, trị thủy kiệm, thực thường ngũ uyển bàn, ngoại vô dư hào. Phạn lạp thoát lạc bàn tịch nhàn, triếp thập dĩ đạm chi. Tuy dục suất vật, (2) diệc duyên kỳ tính chân tố. Mỗi ngữ tử đệ vân : “Vật dĩ ngã thụ nhiệm phương châu, vân ngã khoát bình tích thời ý. Kim ngô xử chi bất dịch. Bần giả sĩ chi thường, yên đắc đăng chi nhi quyên kỳ bản? (3) Nhĩ tào kỳ tồn chi! ”    

Dịch nghĩa

Ân Trọng Kham làm thứ sử Kinh Châu, gặp lúc lũ lụt hoành hành, ăn chỉ thường dùng mâm năm chén, ngoài ra không có món ngon nào khác. Một hạt cơm rớt trên mâm, trên chiếu cũng nhặt lấy mà ăn. Tuy làm thế là muốn nêu gương cho người khác, nhưng cũng do bản tính ông chất phác thật thà. Ông thường bảo với con cháu : “Đừng thấy ta vì cai quản châu quận này mà bảo rằng ta lơ là với những thói quen cũ. Bây giờ ta vẫn sống không đổi. Nghèo là cảnh thường của kẻ sĩ, sao có thể leo lên cành mà quên mất gốc? Các ngươi hãy ghi nhớ lời ta! ”

Chú giải

(1) Ân Trọng Kham (? – 399) làm thứ sử Kinh Châu đời Đông Tấn. Năm 394-395, Kinh Chau và Từ Châu bị lũ lụt, ông dốc lòng tin đạo giáo, sống vô cùng cần kiệm để cầu phước cho dân.

(2) Suất vật : tự mình làm gương mẫu, mô phạm cho người khác.

(3) Đăng chi (leo lên cành) : ý nói cảnh làm quan hiển đạt.

41

初 桓 南 郡 、 楊 廣 共 說 殷 荊 州 , 宜 奪 殷 覬 南 蠻 以 自 樹 。 覬 亦 即 曉 其 旨 , 嘗 因 行 散 , 率 爾 去 下 舍 , 便 不 復 還 。 內 外 無 預 知 者 , 意 色 蕭 然 , 遠 同 鬥 生 之 無 慍 。 時 論 以 此 多 之 。

Sơ, Hoàn Nam quận, Dương Quảng cộng thuyết Ân Kinh Châu, nghi đoạt Ân Ký nam man dĩ tự thụ.(1) Ký diệc tức hiểu kỳ chỉ, thường nhân hành tản, suất nhĩ khứ hạ xá, tiện bất phục hoàn.(2) Nội ngoại vô dự tri giả, ý sắc tiêu nhiên, viễn đồng Đấu sinh chi vô uẩn.(3) Thời luận dĩ thử đa chi.(4)            

Dịch nghĩa

Ban đầu, Hoàn Huyền và Dương Quảng cùng bàn với Ân Trọng Kham nên đoạt lấy binh quyền Nam man tướng quân của Ân Ký để tự kiến lập, Ký cũng lập tức hiểu ngay điều này, có lần lợi dụng chuyện hành tán, tùy tiện bỏ nhà đi, rồi không quay về. Trong ngoài chẳng một ai hay biết trước, vì vẻ mặt ông luôn ung dung tiêu sái, giống với vẻ không oán hận của Đấu sinh thời xa xưa. Dư luận đương thời lấy chuyện đó để khen ngợi.

Chú giải

(1) Hoàn Huyền 桓玄 tự Kính Đạo 敬道, được phong làm Nam Quận công nên có tên Hoàn Nam quận. Khi Ân Trọng Kham là thứ sử Kinh Châu, dùng em của Dương Quảng là Dương Thuyên Kỳ là quan tư mã. Khi Ân Trọng Kham khởi binh chống lại triều đình, đã đem toàn bộ vậy dụng trong quan lữ giao cho Thuyên Kỳ quản lý.

Ân Ký tự Bá Thông 伯通, là anh của Ân Trọng Kham, làm chức Nam man hiệu úy, cai quản địa khu Nam man. Trọng Kham khởi binh, Ký không chịu tham gia, Dương Quảng bao nên giết đi, Kham không đồng ý, Ký bèn tự ý nhường chức.

(2) Thời Nguỵ Tấn, giới sĩ đại phu mê thuyết luyện đơn, thường uống một phương thuốc gọi là ngũ thạch tán (còn gọi là hàn thực tán) gồm năm vị thuốc là thạch chung nhũ, thạch lưu hoàng, bạch thạch anh, tử thạch anh, xích thạch chi; uống xong thường đi tản bộ để thuốc phát tán khắp cơ thể, gọi là hành tản. Suất nhĩ là khinh suất, tùy tiện.

(3) Tiêu nhiên là dáng vẻ ung dung, tiêu sái. Đấu sinh tức Đấu Tử Văn, quan lệnh doãn nước Sở thời Chiến Quốc. Theo chương Công Dã Trường 公冶長 trong sách Luận Ngữ, ông ba lần được phong làm lệnh doãn (tương đương tể tướng) cũng không lộ vẻ vui mừng, ba lần bị bãi chức quan cũng không lộ vẻ oán hận.

(4) Đa ở đây là khen ngợi.

42

王 僕 射 在 江 州 , 為 殷 、 桓 所 逐 , 奔 竄 豫 章 , 存 亡 未 測 。 王 綏 在 都 , 既 憂 慼 在 貌 , 居 處 飲 食 , 每 事 有 降 。 時 人 謂 為 試 守 孝 子 。

Vương bộc xạ tại Giang Châu, vị Ân, Hoàn sở trục, (1) bôn thoán Dự Chương, tồn vong vị trắc. Vương Tuy(2) tại đô, ký ưu thích tại mạo, cư xử ẩm thực, mỗi sự hữu giáng. Thời nhân vị vi thí thủ hiếu tử.(3)           

Dịch nghĩa

Vương bộc xạ tại Giang Châu bị Ân, Hoàn truy đuổi, chạy trốn đến quận Dự Chương, chuyện sống còn chưa thể lường trước. Vương Tuy tại kinh đô, vẻ lo lắng hiện ra trên mặt, việc cư xử, ăn uống, chuyện gì cũng giảm bớt. Người đương thời cho là một thí thủ hiếu tử.

Chú giải

(1) Vương bộc xạ tức Vương Du 王愉, tự Mậu Hòa 茂和, năm 398, nhậm chức thứ sử Giang Châu, mang hiềm khích với thứ sử Dự Châu là Dữu Khải. Dữu cùng với Hoàn Huyền và An Trọng Kham suy tôn Vương Cung làm minh chủ, phát binh chống lại triều đình. Lúc bấy giờ, Vương Du vừa mới nhậm chức, chưa kịp chuẩn bị, nên chạy trốn đến Lâm Xuyên, rồi bị bắt. Hoàn Huyền sau khi soán ngôi lại phong ông làm bộc xạ thượng thư (chưc phó trong thượng thư tỉnh).

(2) Vương Tuy, tự Ngạn Do 彥猷, con trai của Vương Du, trong giai đoạn Hoàn Huyền làm thái úy, ông là thái úy tả trưởng sứ.

(3)Thí thủ hiểu tử : thời cổ, một vị quan trước khi nhậm chức chính thức phải trải một một giai đoạn thử việc để kiểm tra năng lực, gọi là thí thủ. Vương Tuy trong thời gian chưa biết rõ được phụ thân mất hay còn mà đã hành xử như người con có hiếu cư tang, nên người ta mô phỏng theo cách thử việc của quan chức mà gọi là thí thủ hiểu tử.

43

桓 南 郡 。 既 破 殷 荊 州 , 收 殷 將 佐 十 許 人 , 咨 議 羅 企 生 亦 在 焉 。 桓 素 待 企 生 厚 , 將 有 所 戮 , 先 遣 人 語 云 : 「若 謝 我 , 當 釋 罪 。 」 企 生 答 曰 : 「為 殷 荊 州 吏 , 今 荊 州 奔 亡 , 存 亡 未 判 , 我 何 顏 謝 桓 公 ? 」 既 出 市 , 桓 又 遣 人 問 欲 何 言 ? 答 曰 : 「昔 晉 文 王 殺 嵇 康 , 而 嵇 紹 為 晉 忠 臣 。 從 公 乞 一 弟 以 養 老 母 。 」 桓 亦 如 言 宥 之 。 桓 先 曾 以 一 羔 裘 與 企 生 母 胡 , 胡 時 在 豫 章 , 企 生 問 至 , 即 日 焚 裘 。

Hoàn Nam quận ký phá Ân Kinh Châu, thu Ân tướng tá thập hứa nhân, tư nghị La Xí Sinh diệc tại yên.(1) Hoàn Tố đãi Xí Sinh hậu, tương hữu sở lục, tiên khiển nhân ngữ vân : “Nhược tạ ngã, đương thích tội.” Xí Sinh đáp viết : “Vi Ân Kinh Châu lại, kim Kinh Châu bôn vong, tồn vong vị phán, ngã hà nhan tạ hoàn công? ” Ký xuất thị, Hoàn hựu khiển nhân vấn dục hà ngôn? Đáp viết : “Tích Tấn Văn vương sát Kê Khang, nhi Kê Thiệu vi Tấn trung thần.(2) Tòng công khất nhất đệ dĩ dưỡng lão mẫu.” Hoàn diệc như ngôn hựu chi. Hoàn tiên tằng dĩ nhất cao cừu dữ Xí Sinh mẫu hồ, hồ thời tại Dự Chương, Xí Sinh vấn(3) chí, tức nhật phần cừu. 

Dịch nghĩa

Hoàn Nam quận sau khi phá được Ân Kinh Châu, bắt được tướng tá của Ân hơn mười người, trong số đó có cả tư nghị tham tướng La Xí Sinh. Hoàn hậu đãi Xí Sinh, khi sắp đem một vài người ra giết, mới sai người đến bảo : “Nếu cảm tạ ta sẽ được thoát tội chết.” Xí Sinh đáp : “Làm kẻ lại cho Ân Kinh Châu, nay Kinh Châu đào vong, sống còn chưa biết, tôi có mặt mũi nào mà cảm tạ Hoàn công? ” Khi bị đưa ra pháp trường, Hoàn lại sai người hỏi có muốn nói điều gì không. Sinh đáp : “Ngày trước Tấn Văn vương giết Kê Khang nhưng Kê Thiệu vẫn là trung thần của nhà Tấn. Xin công tha cho một người em để phụng dưỡng phụ mẫu.” Hoàn lại làm theo lời đó mà tha cho. Hoàn Huyền từng đem một cái áo lông cừu tặng cho sinh mẫu của Sinh là Hồ thị. Hồ thị ở tại Dự Chương, khi nghe tin Xí Sinh bị hại, bà liền đem cái áo cừu đó đốt đi.

Chú giải

(1) Năm 399, Hoàn Huyền (tức Hoàn Nam quận) hạ được Kinh Châu, giết thứ sử là Ân Trọng Kham (tức Ân Kinh Châu), tất cả quan chức đều đến ra mắt Hoàn Huyền, chỉ có La Xí Sinh không chịu đến. La Xí Sinh, tự Tông Bá 宗伯, làm chức tư nghị tham tướng dưới trướng Ân Trọng Kham, lo việc vận trù sách lược. Khi Ân bại tẩu, quan viên văn võ không một ai đưa đi, ngoài Xí Sinh.

(2) Kê Thiệu là con của Kê Khang (xem tiết 16). Khang bị Tấn Văn vương Tư Mã Chiêu giết, Thiệu vẫn làm quan lớn của nhà Tấn, đến chức tán kỵ thường thị. Năm Vĩnh Hưng thứ nhất (304), Tấn Huệ đế thân chinh đánh Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh, bại trận ở Đãng Âm, bá quan văn võ đều bỏ chạy, chỉ có Thiệu dùng thân che chở cho Huệ đế mà bị chết. Xí Sinh nói câu này là muốn xin Hoàn Huyền tha cho em của mình.

(3) Vấn ở đây là tin tức.

44

王 恭 從 會 稽 還 , 王 大 看 之 。 見 其 坐 六 尺 簟 , 因 語 恭 : 「卿 東 來 , 故 應 有 此 物 , 可 以 一 領 及 我 。 」 恭 無 言 。 大 去 後 , 即 舉 所 坐 者 送 之 。 既 無 餘 席 , 便 坐 薦 上 。 後 大 聞 之 甚 驚 , 曰 : 「吾 本 謂 卿 多 , 故 求 耳 。 」 對 曰 : 「丈 人 不 悉 恭 , 恭 作 人 無 長 物 。 」

Vương Cung tòng Cối Kê hoàn, Vương Đại khán chi.(1) Kiến kỳ tọa lục xích điếm, nhân ngữ Cung : “Khanh(2) đông lai, cố ưng hữu thử vật, khả dĩ nhất lĩnh cập ngã.” Cung vô ngôn. Đại khứ hậu, tức cử sở tọa giả tống chi. Ký vô dư tịch, tiện tọa tiến thượng. Hậu Đại văn chi thậm kinh, viết : “Ngô bản vị khanh đa, cố cầu nhĩ.” Đối viết : “Trượng nhân(3) bất tất Cung, Cung tác nhân vô trưởng vật.”   

Dịch nghĩa

Vương Cung từ quận Cối Kê về, Vương Đại đến thăm, thấy chỗ ngồi là cái chiếu tre sáu tấc, nhân đó nói với Cung : “Khanh từ đông về, dĩ nhiên phải có vật này, có thể cho ta một cái.” Cung không nói gì. Đại đi rồi, Cung liền lấy cái chiếu tre đang ngồi đem theo. Cung không còn cái ghế nào khác, phải ngồi trên chiếu cỏ. Về sau, Đại nghe chuyện, vô cùng kinh hãi, nói : “Ta vốn tưởng khanh có nhiều nên mới xin khanh.” Cung hồi đáp : “Trượng nhân không hiểu Cung, Cung sống làm người, không có nhiều đồ vật.”

Chú giải

(1) Vương Cung (? – 398) tự Hiếu Bá 孝伯, làm chức trung thư lệnh, rồi thứ sử Thanh Châu và Duyện Châu, làm quan nổi tiếng thanh liêm; khi Tấn An đế nổi binh chống triều đình, ông bị giết. Cối Kê là địa danh hiện thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang. Vương Đại là thứ sử Kinh Châu thuộc hàng thúc phụ của Vương Cung.

(2) Thời Lục Triều, người lớn tuổi gọi hậu bối là khanh.

(3) Trượng nhân là từ tô xưng người lớn tuổi trong thời cổ.

45

 溪 清吳 郡 陳 遺 , 家 至 孝 , 母 好 食 鐺 底 焦 飯 。 遺 作 郡 主 簿 , 恆 裝 一 囊 , 每 煮 食 , 輒 貯 錄 焦 飯 , 歸 以 遺 母 。 後 值 孫 恩 賊 出 吳 郡 , 袁 府 君 即 日 便 征 , 遺 已 聚 斂 得 數 斗 焦 飯 , 未 展 歸 家 , 遂 帶 以 從 軍 。 戰 於 滬 瀆 , 敗 。 軍 人 潰 散 , 逃 走 山 澤 , 皆 多 饑 死 , 遺 獨 以 焦 飯 得 活 。 時 人 以 為 純 孝 之 報 也 。

Ngô quận Trần Di, gia chí hiếu, mẫu hiếu thực sanh để tiêu phạn.(1) Di tác quận chủ bạ, hằng trang nhất nang, mỗi chử thực, triếp trữ lục tiêu phạn, quy dĩ di mẫu. Hậu trị Tôn Ântặc xuất Ngô quận, Viên phủ quân tức nhật tiện chinh, (2) Di dĩ tụ liễm đắc sổ đẩu tiêu phạn, vị triển quy gia, toại đái dĩ tòng quân. Chiến ư Hỗ Độc, (3) bại. Quân nhân hội tán, đào tẩu sơn trạch, giai đa cơ tử, Di độc dĩ tiêu phạn đắc hoạt. Thời nhân dĩ vi thuần hiếu chi báo dã.     

Dịch nghĩa

Trần Di người Ngô Quận, ở nhà rất có hiếu, mẹ thích ăn cơm cháy dưới đáy nồi. Di làm quan chủ bạ ở quận, thường đem theo một cái túi, mỗi khi nấu cơm đều để dành cơm cháy lại đem về cho mẹ. Về sau, gặp lúc giặc Tôn Ân xâm nhập Ngô quận, phủ quân Viên Sơn Tùng ngay ngày hôm đó đem quân chinh phạt, Di gom được mấy đấu cơm cháy, chưa kịp về nhà thì đã bị đưa đi tòng quân. Đánh nhau ở Hỗ Độc, Vi bại trận. Quân đội tan rã, chạy trốn vào các đầm, núi, phần lớn đều chết đói. Riêng Di nhờ có cơm nguội mà được sống. Người đương thời cho đó là sự báo đáp của lòng hiếu thảo.

Chú giải

(1) Tiêu phạn là cơm cháy, về sau từ “tiêu phạn” được dùng trong văn học Trung Quốc để chỉ lòng hiếu thảo.

(2) Cuối đời Đông Tấn, Tôn Ân tụ tập được mấy vạn người, nổi dậy đánh chiếm các châu quận, đánh đến quận Lâm Hải thì thất bại, Ân bị giết. Viên phủ quân là Viên Sơn Tùng 袁山松, làm chức nội sử (tương đương thái thú) lập tức đem quân chống cự và bị bại trận ở Hỗ Độc.

(3) Hỗ Độc là nhánh sông hạ lưu của sông Hoàng Phố.

46

孔 僕 射 為 孝 武 侍 中 , 豫 蒙 眷 接 烈 宗 山 陵 。 孔 時 為 太 常 , 形 素 羸 瘦 , 著 重 服 , 竟 日 涕 泗 流 漣 , 見 者 以 為 真 孝 子 。

Khổng bộc xạ vi Hiếu Võ thị trung, (1) dự mông quyến tiếp Liệt Tông sơn lăng.(2) Khổng thời vi thái thường, hình tố luy sấu, trước trọng phục, cánh nhật thế tứ lưu liên, kiến giả dĩ vi chân hiếu tử.          

Dịch nghĩa

Quan bộc xạ họ Khổng làm quan thị trung triều Hiễu Võ đế, may mắn được chăm sóc lăng mộ của Liệt Tông. Khi Khổng làm quan thái thường, hình thể gầy gò, mặc tang phục, suốt ngày khóc sụt sùi, nước mắt chảy ròng ròng, người nhìn thấy cho là chân hiếu tử.

Chú giải

(1) Khổng bộc xạ tự An Quốc 安國 (? – 408, không phải là Khổng An Quốc đời Hán sinh năm 156 TCN và mất năm 74 TCN) từng làm chức thị trung, thái thường, thực thư tả bộc xạ, dưới triều Hiếu Võ đế đời Tấn (thị trung là chức quan hầu cận bên vua; thái thường là cứ quan phụ trách nghi thức cúng tế, lễ nhạc; bộc xạ là một chức quan võ). Quyến tiếp là may mắn nhận được ân sũng.

(2) Hiếu Võ đế là Tư Mã Diệu 司馬曜 (362 – 396) lên ngôi năm 372, khi mất có miếu hiệu là Liệt Tông.

47

吳 道 助 、 附 子 兄 弟 , 居 在 丹 陽 郡 。 後 遭 母 童 夫 人 艱 , 朝 夕 哭 臨 。 及 思 至 , 賓 客 弔 省 , 號 踊 哀 絕 , 路 人 為 之 落 淚 。 韓 康 伯 時 為 丹 陽 尹 , 母 殷 在 郡 , 每 聞 二 吳 之 哭 , 輒 為 悽 惻 。 語 康 伯 曰 : 「汝 若 為 選 官 , 當 好 料 理 此 人 。 」 康 伯 亦 甚 相 知 。 韓 後 果 為 吏 部 尚 書 。 大 吳 不 免 哀 制 , 小 吳 遂 大 貴 達 。

Ngô Đạo Trợ, Phụ Tử huynh đệ, (1) cư tại Đan Dương quận. Hậu tao mẫu Đồng phu nhân gian, triêu tịch khốc lâm.(2) Cập tư chí, (3) thấn khách điếu tỉnh, hào dũng ai tuyệt, lộ nhân vi chi lạc lệ. Hàn Khang Bá thời vi Đan Dương doãn, mẫu Ân tại quận, mỗi văn nhị Ngô chi khốc, triếp vi thê trắc. Ngữ Khang Bá viết : “Nhữ nhược vi tuyển quan, đương hảo liệu lý thử nhân.” Khang Bá diệc thậm tương tri. Hàn hậu quả vi lại bộ thượng thư.(4) Đại Ngô bất miễn ai chế, tiểu Ngô toại đại quý đạt.              

Dịch nghĩa

Hai anh em Ngô Đạo Trợ, Ngô Phụ Tử sống tại quận Đơn Dương. Về sau, gặp lúc mẹ là Đồng phu nhân mất, sớm chiều đều làm lễ lâm khốc. Đến ngày giỗ, tan khác đến đi điếu, thăm hỏi thì gào khóc, giậm chân, lộ vẻ cùng cực bi ai, người đi đường cũng phải sa lệ. Hàn Khang Bá lúc đó làm lệnh doan Đơn Dương, mẹ là Ân ở trong quận, mỗi khi nghe hai anh em Ngô khóc lóc đều thấy bùi ngùi trong dạ, bảo Khang Bá : “Nếu con tuyển quan, nên quan tâm chiếu cố đến những người này.” Khang Bá cũng rất quý mến họ. Về sau, quả nhiên Hàn làm lại bộ thượng thư đại Ngô vì buồn đau mà mất, tiểu Ngô được phú quý hiển đạt vô cùng.

Chú giải

(1) Ngô Thản Chi 吳坦之là anh, lúc nhỏ tên Đạo Trợ; Ngô Ẩn Chi 吳隱之 là em, lúc nhỏ tên Phụ Tử.

(2) Khốc lâm : nghi thức cúng tế trước linh vị theo lễ để bày tỏ nỗi bi ai.

(3) Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc căn cứ vào Tấn thư có ghi câu : “Mỗi chí khốc lâm chi thời, hằng hữu song hạc kinh hô. Cập tường luyện chi tịch phục hữu quần nhạn câu tập. 每 至 哭 臨 之 時, 恒 有 雙 鶴 驚 呼。及 祥 練 之 夕 復 有 群 雁 俱 集 。” (Mỗi lần đến lễ khúc lâm luon một có một đôi hạc cất tiếng bi ai, rồi đến ngày giỗ, buổi tối có đàn nhac tụ tập.), để cho rằng hai chữ “tư chí” là do hai chữ “chu kỵ 周忌” (ngày giỗ; ngày kỵ) viết nhầm, do đọc nghe na ná nhau, tôi dịch theo ý này.

(4) Lại bộ thượng thư quản lý việc đề bạt, bổ nhiệm hay phế truất quan lại.


Chương 2 : Ngôn ngữ

Dẫn nhập

Chương  này gồm 108 tiết, nội dung là những lời đối đáp dạng ứng khẩu. Thời Ngụy Tấn, phong cách thanh đàm rất thịnh hạnh. Thanh đàm 清談 theo nghĩa đen “lời đàm luận thanh nhã”, nội dung chủ yếu là huyền học, tức bàn về  cái học Lão Trang. Thanh đàm phục hồi lại văn hóa biện luận “thanh nghị”(dư luận bàn bạc khen chê) thời Đông Hán.  

Trong phong cách thanh đàm thời Ngụy Tấn, mỗi lời nói không chỉ cần phải sắc bén, mà kiến giải cũng cần phải tinh thâm thấu triệt, do đó mỗi chữ mỗi câu không chỉ ngắn gọn, súc tích mà âm điệu còn cần phải trầm bổng du dương, dung mạo cử chỉ phải ung dung tiêu sái. Do chịu  ảnh hưởng của phong cách này, giới trí thức  đương thời đều khổ công rèn luyện tác phong ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp. Mỗi lời nói đều một như một ngọn tuyệt đao, tung ra vừa tấn công đối phương vào những yếu huyệt chí mạng lại vừa giữ gìn thân phận mình và chặn đứng sự phản kích của đối phương. Có những đoạn đối thoại cực ngắn mà nội dung lại không tập trung vào chủ đề đối thoại,  khiến ta không khỏi liên tưởng đến những lời đối đáp ngoại lý giữa các thiền sư và môn đồ trong các ngữ lục Thiền tông.

Các  câu đối thoại sau đây được thực hiện trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng hầu hết chúng đều có một điểm chung là các lời nói đều ngắn gọn nhưng đắc thể, xảo diệu; nội dung đa dạng mỗi câu một vẻ,  khi thì thâm thúy sâu xa, khi thì ẩn tàng bất lộ, khi thì hàm ý cao xa, khi thì sắc như mũi kiếm, khi thì khí thế bàng bạc, câu nào cũng mang ý vị khôn cùng, đồng thời cũng phản ảnh được nếp suy tư đương thời.

Giới trí thức ngày trước, khi đàm dạo hay sử dụng điển cố và dẫn chứng lời nói cổ nhân, một phần để phô bày sở học, một phần để lời nói tăng thêm phần ý vị và tính thuyết phục. Các lời đối thoại trong chương này thường mang phong cách đó.Cho nên hiểu được các điển cố sẽ cảm thấy câu nói thú vị hơn.

1

邊 文 禮 見 袁 奉 高 , 失 次 序 。 奉 高 曰 : 「昔 堯 聘 許 由 , 面 無 怍 色 , 先 生 何 為 顛 倒 衣 裳 ? 」 文 禮 答 曰 : 「明 府 初 臨 , 堯 德 未 彰 , 是 以 賤 民 顛 倒 衣 裳 耳 。 」

Biên Văn Lễ kiến viên phụng cao, thất thứ tự. Phụng Cao(1) viết : Tích Nghiêu sính Hứa Do, (2) diện vô tạc sắc, tiên sinh hà vi điên đảo y thường? ” Văn Lễ đáp viết : “Minh phủ sơ lâm, Nghiêu đức vị chương, thị dĩ tiện dân điên đảo y thường nhĩ.”               

Dịch nghĩa

Biên Văn Lễ ra mắt Viên Phụng Cao, y phục xộc xệch. Phụng Cao hỏi : “Ngày trước, vua Nghiêu nhường ngôi cho Hứa Do, mặt không lộ vẻ ngượng ngùng, tiên sinh cớ sao lại xộc xệch áo quần?” Văn Lễ đáp : “Minh phủ mới đến, đức của Nghiêu chưa hiện rõ nên tiện dân xộc xệch áo quần.”

Chú giải

(1) Biên Văn Lễ là Biên Nhượng 邊讓, tự Văn Lễ, người quận Đông Lưu, làm chức thái thú Cửu Giang, bị Tào Tháo giết chết. Viên Phụng Cao x.1-3.

(2) Tương truyền vua Nghiêu nghe Hứa Do là người hiền tài nên muốn nhường ngôi. Hứa Do nghe được, cho rằng điều đó làm bẩn tai mình nên đến sông Dĩnh rửa tai.

(3) Minh phủ là từ tôn xưng vị thái thú anh minh.

2

徐 孺 子 年 九 歲 , 嘗 月 下 戲 。 人 語 之 曰 : 「若 令 月 中 無 物 , 當 極 明 邪 ? 」 徐 曰 : 「不 然 , 譬 如 人 眼 中 有 瞳 子 , 無 此 必 不 明 。 」

Từ Nhụ Tử niên cửu tuế, thường nguyệt hạ hý. Nhân ngữ chi viết : “Nhược linh nguyệt trung vô vật, đương cực minh da? ‘Từ viết : “Bất nhiên, thí như nhân nhãn trung hữu đồng tử, vô thử tất bất minh.”

Dịch nghĩa

Từ Nhụ Tử năm lên chín, có lần đang nô đùa dưới trăng, có người nói : “Nêu nu mặt trăng không có vật gì cả, chẳng phải sẽ vô cùng sáng hay sao? ” Từ nói : “Không phải, ví như mắt người có đồng tử, không có sẽ không thấy gì.”

Chú giải

Từ Trĩ 徐稺 (97 – 168) tự Nhụ Tử, là danh sĩ đời Đông Hán, được tôn xưng là Nam Châu cao sĩ 南州高士.

3

孔 文 舉 年 十 歲 , 隨 父 到 洛 。 時 李 元 禮 有 盛 名 , 為 司 隸 校 尉 , 詣 門 者 皆 俊 才 清 稱 及 中 表 親 戚 乃 通 。 文 舉 至 門 , 謂 吏 曰 : 「我 是 李 府 君 親 。 」 既 通 , 前 坐 。 元 禮 問 曰 : 「君 與 僕 有 何 親 ? 」 對 曰 : 「昔 先 君 仲 尼 與 君 先 人 伯 陽 , 有 師 資 之 尊 , 是 僕 與 君 奕 世 為 通 好 也 。 」 元 禮 及 賓 客 莫 不 奇 之 。 太 中 大 夫 陳 韙 後 至 , 人 以 其 語 語 之 。 韙 曰 : 「小 時 了 了 , 大 未 必 佳 ! 」 文 舉 曰 : 「想 君 小 時 , 必 當 了 了 ! 」 韙 大 踧 踖 。

Khổng Văn Cử(1) niên thập tuế, tùy phụ đáo Lạc. Thời Lý Nguyên Lễ hữu thịnh danh, vi ty lệ hiệu úy, (2) nghệ môn giả giai tuấn tài thanh xưng cập trung biểu thân thích nãi thông. Văn Cử chí môn, vị lại viết : “Ngã thị Lý phủ quân thân.” Ký thông, tiền tọa. Nguyên Lễ vấn viết : “Quân dữ bộc hữu hà thân? ” Đối viết : “Tích tiên quân Trọng Ni dữ quân tiên nhân Bá Dương, hữu sư tư chi tôn, thị bộc dữ quân dịch thế vi thông hiếu dã.” Nguyên Lễ cập tân khách mạc bất kỳ chi. Thái trung đại phu Trần Vĩ Hậu chí, nhân dĩ kỳ ngữ ngữ chi. Vĩ viết : “Tiểu thời liễu liễu, đại vị tất giai! ” Văn Cử viết : “Tưởng quân tiểu thời, tất đương liễu liễu.” Vĩ đại túc tích.

Dịch nghĩa

Khổng Văn Cử năm mười tuổi, theo cha đến Lạc Dương. Lúc bấy giờ Lý Nguyên Lễ tiếng tăm vang đội, giữ chức tư lệ hiệu úy, những người tìm đến cửa đều là kẻ tài giỏi, thanh cao hoặc bà con thân thích. Văn Cử đến cửa, nói với viên lại : “Tôi là người thân của Lý phủ quân.” Sau khi được thông báo, bèn vào ngồi. Nguyên Lễ hỏi : “Ngài và kẻ quê mùa này có thân thích gì? ” Cử đáp : “Ngày trước, tổ tiên của tôi là Trọng Ni đối với tổ tiên của ngài là Bá Dương có sự tôn quý của người làm thầy, cho nên kẻ quê mùa này và ngài đã nhiều đời giao hảo.” Nguyên Lễ cùng tân khách chẳng ai là không lấy làm lạ. Thái trung đại phu Trần Vĩ tới, người ta kể lại lời đó, Vĩ bảo : “Lúc nhỏ thông minh, lớn lên chưa chắc đã hay.” Văn Cử nói : “Ta nghĩ lúc còn nhỏ, ngài hẳn rất thông minh.” Vĩ vô cùng lúng túng.

Chú giải

(1) Khổng Văn Cử tức Khổng Dung (153 – 208), danh sĩ lỗi lạc thời Hán mạt, bị Tào Thào mượn cớ giết chết. Lý Nguyên Lễ xem chương 1, tiết 4.

(2) Tư lệ hiệu úy là chức quan giám sát toàn bộ quan lại ở kinh sư.

4

孔 文 舉 有 二 子 , 大 者 六 歲 , 小 者 五 歲 。 晝 日 父 眠 , 小 者 床 頭 盜 酒 飲 之 。 大 兒 謂 曰 : 「何 以 不 拜 ? 」 答 曰 : 「偷 , 那 得 行 禮 ! 」

Khổng Văn Cử hữu nhị tử, đại giả lục tuế, tiểu giả ngũ tuế. Trú nhật phụ miên, tiểu giả sàng đầu đạo tửu ẩm chi. Đại nhi vị viết : “Hà dĩ bất bái? ” Đáp viết : “Thâu, na đắc hành lễ! ”        

Dịch nghĩa

Khổng Văn Cử có hai đứa con trai, đứa lớn sáu tuổi, đứa nhỏ năm tuổi. Ban ngày, người cha ngủ, đứa nhỏ lấy trộm rượu ở đầu giường để uống. Đứa lớn bảo : “Sao chẳng lạy? ” Đáp : “Đã ăn trộm còn hành lễ được sao? ”

Chú giải

Rượu là thứ dùng trong nghi thức thời cổ, nên trước khi uống thường phải vái chào.

5

孔 融 被 收 , 中 外 惶 怖 。 時 融 兒 大 者 九 歲 , 小 者 八 歲 。 二 兒 故 琢 釘 戲 , 了 無 遽 容 。 融 謂 使 者 曰 : 「冀 罪 止 於 身 , 二 兒 可 得 全 不 ? 」 兒 徐 進 曰 : 「大 人 豈 見 覆 巢 之 下 , 復 有 完 卵 乎 ? 」 尋 亦 收 至 。

Khổng Dung bị thu, (1) trung ngoại hoàng bố. Thời Dung nhi đại giả cửu tuế, tiểu giả bát tuế. Nhị nhi cố trác đinh hý, (2) liễu vô cự dung. Dung vị sứ giả viết : “Ký tội chỉ ư thân, nhị nhi khả đắc toàn phủ? ” Nhi từ tiến viết : “Đại nhân khởi kiến phúc sào chi hạ, phục hữu hoàn noãn hồ? ” Tầm diệc thu chí.   

Dịch nghĩa

Khổng Dung bị bắt, trong ngoài đều kinh hoảng. Lúc bấy giờ con của Dung, đứa lớn chín tuổi, đứa nhỏ tám tuổi đang chơi trò trác đinh, hoàn toàn không lộ vẻ sợ hãi. Dung nói với sứ giả : “Mong rằng tội chỉ mình ta, hai đứa nhỏ có được an toàn tính mệnh không? ” Đứa nhỏ thong thả tiến lên nói : “Phụ thân há chẳng thấy cái tổ chim bị lật úp đó hay sao, còn có cái trứng nào nguyên vẹn không? ” Dứt lời, bọn bắt người đến ngay.

Chú giải

(1) Khổng Dung theo hầu Hán Hiến đế cuối đời Hán, Tào Tháo lấn át quyền vua nên ông nhiều lần chống đối, sau ông bị vu cáo làm phản, Tháo lấy cớ giết cả nhà.

(2) Trác đinh là một trò chơi của trẻ con Trung Quốc thời cổ, không rõ là trò gì.

6

潁 川 太 守 髡 陳 仲 弓 。 客 有 問 元 方 : 「府 君 何 如 ? 」 元 方 曰 : 「高 明 之 君 也 。 」 「足 下 家 君 何 如 ? 」 曰 : 「忠 臣 孝 子 也 。 」 客 曰 : 「易 稱 『 二 人 同 心 , 其 利 斷 金 ; 同 心 之 言 , 其 臭 如 蘭 。 』 何 有 高 明 之 君 而 刑 忠 臣 孝 子 者 乎 ? 」 元 方 曰 : 「足 下 言 何 其 謬 也 ! 故 不 相 答 。 」 客 曰 : 「足 下 但 因 傴 為 恭 不 能 答 。 」 元 方 曰 : 「昔 高 宗 放 孝 子 孝 己 , 尹 吉 甫 放 孝 子 伯 奇 , 董 仲 舒 放 孝 子 符 起 。 唯 此 三 君 , 高 明 之 君 ; 唯 此 三 子 , 忠 臣 孝 子 。 」 客 慚 而 退 。

Dĩnh Xuyên thái thú khôn Trần Trọng Cung. Khách hữu vấn Nguyên Phương : “Phủ quân hà như? ” Nguyên Phương viết : “Cao minh chi quân dã.” “Túc hạ gia quân hà như? ” Viết : “Trung thần hiếu tử dã.” Khách viết : “Dịch xưng ‘nhị nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim; đồng tâm chi ngôn, kỳ xú như lan.’ Hà hữu cao minh chi quân nhi hình trung thần hiếu tử giả hồ? ” Nguyên Phương viết : “Túc hạ ngôn hà kỳ mậu dã! Cố bất tương đáp.” Khách viết : “Túc hạ đãn nhân ủ vi cung bất năng đáp.”(2) Nguyên Phương viết : “Tích Cao Tông phóng hiếu tử Hiếu Kỷ, Doãn Cát Phủ phóng hiếu tử Bá Kỳ, Đổng Trọng Thư phóng hiếu tử Phù Khởi. Duy thử tam quân, cao minh chi quân; duy thử tam tử, trung thần hiếu tử.”(3) Khách tàm nhi thoái.

Dịch nghĩa

Thái thú Dĩnh Xuyên phạt cạo trọc đầu Trần Trọng Cung.(1) Khách có người hỏi Nguyên Phương : “Thái thú là người thế nào? ” Nguyên Phương đáp : “Là vị quan cao minh.” “Phụ thân ngài là người thế nào? ” Đáp : “Là trung thần hiếu tử.” Khách nói : “Kinh Dịch nói : ‘hai người đồng tâm thì sự sắc bén cắt đứt cả kim loại; lời nói đồng tâm thì mùi thơm như hoa lan.’; làm gì có chuyện một thái thú cao minh lại đi phạt trung thần hiếu tử.” Nguyên Phương đáp : “Lời của túc hạ quá sai rồi! Nên không sao trả lời được! ” Khách hỏi : “Túc hạ chỉ nhân cái lưng còng để làm ra vẻ cung kính, chứ không thể đáp được.” Nguyên Phương nói : “Ngày trước, Cao Tông đuổi con hiếu là Hiếu Kỷ, Doãn Cát Phủ đuổi con hiếu là Bá Kỳ, Đổng Trọng Thư đuổi con hiếu là Phù Khởi. Ba người cha đó đều là những bậc phủ quân cao minh, ba người con đó đều là trung thần hiếu tử.” Khách xấu hổ mà lui ra.

Chú giải

(1) Trần Trọng Cung, xem lại Chương 1, tiết 6. Nguyên Phương là con trai lớn của ông.

(2) là cái lưng gù. Người có lưng gù phải cúi người xống không phải vì cung kính mà vì không thể đứng thẳng được, ý nói Nguyên Phương cố tình lập lờ chứ không thể trả lời.

(3) Hiếu Kỷ là con trai của vua Cao Tông (Vũ Đinh) nhà Ân, thờ cha mẹ rất hiếu thuận, về sau Cao Tông bị vợ sau mê hoặc, trục xuất Hiếu Kỷ đến chết. Bá Kỳ là con trai của Doãn Cát Phủ, làm chấp chính quan đời Chu, cha nghe lời mẹ kế vu hãm, đuổi ông đi. Phù Khởi là con trai của tư tưởng gia lỗi lạc Đổng Trọng Thư đời Hán, bị cha ngộ nhận là bất hiếu nên đuổi ra khỏi nhà. Khởi đến sống tại Cựu Huyện thôn 舊縣村, trong nhà người bạn của phụ thân là Vương Thiện Hữu. Sau khi mẹ Vương qua đời, Khởi sống luôn tại đó.

7

荀 慈 明 與 汝 南 袁 閬 相 見 , 問 潁 川 人 士 , 慈 明 先 及 諸 兄 。 閬 笑 曰 : 「士 但 可 因 親 舊 而 已 乎 ? 」 慈 明 曰 : 「足 下 相 難 , 依 據 者 何 經 ? 」 閬 曰 : 「方 問 國 士 , 而 及 諸 兄 , 是 以 尤 之 耳 。 」 慈 明 曰 : 「昔 者 祁 奚 內 舉 不 失 其 子 , 外 舉 不 失 其 讎 , 以 為 至 公 。 公 旦 文 王 之 詩 , 不 論 堯 舜 之 德 , 而 頌 文 武 者 , 親 親 之 義 也 。 春 秋 之 義 , 內 其 國 而 外 諸 夏 。 且 不 愛 其 親 而 愛 他 人 者 , 不 為 悖 德 乎 ? 」

Tuân Từ Minh dữ Nhữ Nam Viên Lãng tương kiến, vấn Dĩnh Xuyên nhân sĩ, Từ Minh tiên cập chư huynh. Lãng tiếu viết : “Sĩ đãn khả nhân thân cựu nhi dĩ hồ? ” Từ Minh viết : “Túc hạ tương nan, , y cứ giả hà kinh? ” Lãngviết : “Phương vấn quốc sĩ, nhi cập chư huynh, thị dĩ vưu chi nhĩ.” Từ Minh viết : “Tích giả Kỳ Hề nội cử bất thất kỳ tử, ngoại cử bất thất kỳ thù, dĩ vi chí công.(1) Công Đán Văn Vương chi thi, bất luận Nghiêu Thuấn chi đức, nhi tụng Văn Võ giả, thân thân chi nghĩa dã.(2) Xuân Thu chi nghĩa, nội kỳ quốc nhi ngoại chư hạ. Thả bất ái kỳ thân nhi ái tha nhân giả, bất vi bội đức hồ? ”

Dịch nghĩa

Từ Minh và Viên Lãng ở Nhữ Nam gặp nhau, hỏi về nhân sĩ ở Dĩnh Xuyên. Từ Minh nói về các người anh của mình. Lãng cười, nói : “Kẻ sĩ lại có thể nhờ đến người thân của mình để dương danh sao? ” Từ Minh hỏi : “Túc hạ trách tôi là dựa theo lẽ thường nào? ” Lãnh nói : “Vừa hỏi đến quốc sĩ, liền nhắc đến các người anh của mình, đó là điều đáng trách.” Từ Minh nói : “Các bài thơ về Công Đán, Văn Vương không luận đến đức của Nghiêu Thuấn mà chỉ ca tụng Văn Vương và Võ Vương, đó là cái nghĩa thân với người thân vậy. Tôn chỉ của kinh Xuân Thu xem nước mình là trong mà những nước khác là ngoài. Vả lại, không yêu người thân của mình mà yêu người khác chẳng phải là trái với đức sao? ”

Chú giải

(1) Kỳ Hề làm chức trung quân úy nước Tấn, thời Xuân Thu. Khi ông cáo lão về hưu, Tấn Điệu công hỏi người thay thế, ông tiến cử Giải Hồ là người từng có tư thù với mình, Điệu công ưng thuận. Giải Hồ mất, Điệu công lại hỏi Kỳ Hề về người sẽ lên thay, Hề tiến cử con của mình là Kỳ Ngọ. Người đời sau khen ông biết tiến cử kẻ hiền tài.

(2) Công Đán, tức Chu Công Đán, là em của vua Võ Vương nhà Chu. Thơ ở đây nói đến những bài thơ trong Kinh Thi ca ngợi công đức của Văn Vương và Võ Vương nhà Chu.

 Lời bàn thêm

Lời nói của Từ Minh là con dao hai lưỡi. Đối với những kẻ tuấn tài thì đây là điều hay, nhưng nó rất dễ bị những kẻ quan chức bất tài vô tướng trong các chế độ độc tài dùng để cất nhắc, đề bạt đám bà con, thân thích vốn còn bất tài hơn họ nữa.

8

禰 衡 被 魏 武 謫 為 鼓 吏 , 正 月 半 試 鼓 。 衡 揚 枹 為 漁 陽 摻 檛 , 淵 淵 有 金 石 聲 , 四 坐 為 之 改 容 。 孔 融 曰 : 「禰 衡 罪 同 胥 靡 , 不 能 發 明 王 之 夢 。 」 魏 武 慚 而 赦 之 。

Nễ Hành bị Ngụy Võ trích vi cổ lại, chính nguyệt bán thí cổ.(1) Hành dương phù vi Ngư Dương tham quá, (2) uyên uyên hữu kim thạch thanh, tứ tọa vi chi cải dung. Khổng Dung viết : “Nễ Hành tội đồng tư mĩ, (3) bất năng phát minh vương chi mộng.” Ngụy Võ tàm nhi xá chi.            

Dịch nghĩa

Nễ Hành bị Ngụy Võ đế sai làm tên đánh trống, đúng vào ngày hội thi đánh trống. Hành giơ dùi đánh bài Ngư Dương tham quá, tiếng trống sâu lắng, nghe như có tiếng vàng tiếng đá, mọi người ngồi bốn phía đều biến sắc. Khổng Dung nói : “Tội của Nễ Hành đáng bị hủ hình, vì không phát huy sáng rỡ được giấc mộng của Ngụy vương.” Ngụy Võ đế thấy ngượng mà phải tha cho.

Chú giải

(1) Nễ Hành là danh sĩ thời Hán mạt, bản tính khinh thế ngạo vật, không xem ai ra gì. Khổng Dung mến tài, tiến cử Hoành lên Ngụy Võ đế (tức Tào Tháo). Tháo cho gọi đến bái kiến, Hành vẫn tỏ thái độ ngạo mạn. Tháo nổi giận, muốn làm nhục Hành nên sai làm kẻ đánh trống. Đến ngày triều đình hội họp xem thi đánh trống, ành trần truồng mà đánh trống khiến tất cả mọi người đều bẽ mặt.

(2) Ngư Dương tham quá, cũng viết 漁陽參撾 (tham 摻 dùng chữ tham 叄, tức là tam (ba); quá 撾 là cái dùi trống) là điệu trống có ba hồi, do Nễ Hành sáng tác. Nễ Hành dùng chữ Ngư Dương là muốn nhắc lại cố sự Bành Sủng (? – 29) phản Hán, lấy Ngư Dương làm căn cứ, tự lập làm Yên vương, về sau bị thủ hạ giết chết, nhằm ám chỉ chuyện Tào Tháo phản Hán.

(3) Tư mĩ là những tội đồ hoặc nô lệ lao dịch thời cổ; về sau dùng để chỉ hủ hình (hình phạt cắt bộ phận sinh dục).

9

南 郡 龐 士 元 聞 司 馬 德 操 在 潁 川 , 故 二 千 里 候 之 。 至 , 遇 德 操 采 桑 , 士 元 從 車 中 謂 曰 : 「吾 聞 丈 夫 處 世 , 當 帶 金 佩 紫 , 焉 有 屈 洪 流 之 量 , 而 執 絲 婦 之 事 。 」 德 操 曰 : 「子 且 下 車 , 子 適 知 邪 徑 之 速 , 不 慮 失 道 之 迷 。 昔 伯 成 耦 耕 , 不 慕 諸 侯 之 榮 ; 原 憲 桑 樞 , 不 易 有 官 之 宅 。 何 有 坐 則 華 屋 , 行 則 肥 馬 , 侍 女 數 十 , 然 後 為 奇 。 此 乃 許 、 父 所 以 慷 慨 , 夷 、 齊 所 以 長 歎 。 雖 有 竊 秦 之 爵 , 千 駟 之 富 , 不 足 貴 也 ! 」 士 元 曰 : 「僕 生 出 邊 垂 , 寡 見 大 義 。 若 不 一 叩 洪 鍾 , 伐 雷 鼓 , 則 不 識 其 音 響 也 。 」

Nam Quận Bàng Sĩ Nguyên văn Tư Mã Đức Tháo tại Dĩnh Xuyên, (1) cố nhị thiên lý hậu chi. Chí, ngộ Đức Tháo thái tang, Sĩ Nguyên tòng xa trung vị viết : “Ngô văn trượng phu xử thế, đương đái kim bội tử, yên hữu khuất hồng lưu chi lượng, nhi chấp ty phụ chi sự.” Đức Tháo viết : “Tử thả hạ xa, tử thích tri tà kính chi tốc, bất lự thất đạo chi mê. Tích Bá Thành ngẫu canh, (2) bất mộ chư hầu chi vinh; Nguyên Hiến tang xu, bất dịch hữu quan chi trạch.(3) Hà hữu tọa tắc hoa ốc, hành tắc phì mã, thị nữ sổ thập, nhiên hậu vi kỳ. Thử nãi Hứa, Phủ sở dĩ khảng khái; (4) Di, Tề sở dĩ trường thán.(5) Tuy hữu thiết Tần chi tước, (6) thiên tứ chi phú, bất túc quý dã! ” Sĩ Nguyên viết : “Bộc sinh xuất biên thùy, quả kiến đại nghĩa. Nhược bất nhất khấu hồng chung, phạt lôi cổ, (7) tắc bất thức kỳ âm hưởng dã.”

Dịch nghĩa

Bàng Sĩ Nguyên ở Nam Quận nghe danh Tư Mã Đức Tháo tại Dĩnh Xuyên, vượt hai ngàn dặm đến bái phỏng. Đến nơi, gặp Đức Tháo đang hái dâu, Sĩ Nguyên ngồi trong xe, nói : “Tôi nghe nói bậc trượng phu xử thế, nên mang đai vàng, mang áo tía, sao lại có việc bẻ cong cái khí lượng như sông lớn để làm những chuyện tơ tằm của hạng đàn bà con gái? ” Đức Tháo đáp : “Ông hãy xuống xe đã. Ông chỉ biết những con đường nhỏ đi nhanh, mà không lo đến chuyện lạc đường. Ngày trước, Bá Thành cày bừa, không ham cái vinh của chư hầu; Nguyên Hiến nhà cửa tồi tàn, không đổi lấy nhà của kẻ làm quan. Sao lại phải sống thì nhà hoa lệ, đi thì cưỡi ngựa béo, thị nữ vài chục người, sau đó mới xem là chuyện lạ. Đấy chính là điều khiến Hứa Do, Sào Phủ phải cảm khái; Bá Di, Thúc Tề phải thở dài. Dẫu có được tước lộc của kẻ ăn trộm nước Tần, sự giàu có của kẻ có ngàn cỗ xe, cũng không đủ là quý! ” Sĩ Nguyên nói : “Kẻ quê này sống ở biên thùy, ít thấy được đại nghĩa. Nếu không một lần đánh hồng chung, gõ lôi cổ ắt không biết được âm hưởng của chúng.”

Chú giải

(1) Bàng sĩ Nguyên tức Bàng Thống (178 – 214), nổi tiếng ngang với Khổng Minh đời Hán mạt. Thuở nhỏ đến thăm Tư Mã Đức Tháo, được Đức Tháo hết lời khen ngợi, gọi là Phượng Sồ (chim phượng con). Về sau làm mưu sĩ cho Lưu Bị, bị tử trận khi mới 36 tuổi. Tư Mã Đức Tháo (? -? ), tức Tư Mã Huy, sống thời Hán mạt, là danh sĩ có tài kinh bang tế thế, nhưng vì bất lực trước tình cảnh chính trị thối nát, đất nước bị xâu xé, nhân dân lầm than, ông chọn cuộc sống mai danh ẩn tích.

(2) Bá Thành tức Bá Thành Tử Cao伯成子高, theo truyền thuyết là vua nước chư hầu thời vua Nghiêu. Khi vua Đại Vũ lên nối ngôi vua Nghiêu, ông cho rằng vua Vũ không có đức nên tử quan, về quê cày ruộng. Ngẫu canh là phương pháp canh tác thời cổ, hai người cùng kéo một cái cày; về sau dùng để chung cho việc cày bừa.

(3) Nguyên Hiến là môn đệ Khổng Tử, rất nghèo mà luôn ung dung tự tại, sống trong cảnh nhà cửa tồi tàn mà trong nhà lúc nào cũng có tiếng đàn ca. Tang xu (then cửa bằng cây dâu) chỉ cảnh nhà cửa tồi tàn; chữ này lấy từ sách Trang Tử, chương Nhượng vương : “Nguyên Hiến cư Lỗ, hoàn đổ chi thất, tỳ dĩ sinh thảo, bồng hộ bất hoàn, tang dĩ vi khu nhi úng dũ. 原 憲 居 魯, 環 堵 之 室, 茨 以 生 草, 蓬 戶 不 完, 桑 以 為 樞…” (Nguyên Hiến ở nước Lỗ, nhà cửa chật hẹp, mái lợp bằng lấy cỏ tươi, cửa bằng cỏ bồng còn dở dang, cây dâu làm then cửa…)

(4) Tương truyền vua Nghiêu nghe Hứa Do là người hiền tài nên muốn nhường ngôi. Hứa Do nghe được, cho rằng điều đó làm bẩn tai mình nên đến sông Dĩnh rửa tai. Sào Phủ đang cho trâu uống nước gần đó, nghe chuyện, sự nước rửa tai làm bẩn miệng trâu nên dắt trâu đi ngược lên nguồn để uống.

(5) Bá Di Thúc Tề can Võ Vương đánh Trụ vì cho rằng bề tôi đem quân chinh phạt vua là vô đạo. Võ Vương diệt Trụ, lập nên nhà Chu; hai ông thề suốt đời không ăn thóc nhà Chu, lên núi Thú Dương hái rau vi mà sống, cuối cùng chết đói.

(6) Lã Bất Vi là một thương nhân thời Chiến Quốc. Khi thái tử nước Tần là Dị Nhân bị đưa sang Yên là con tin, Lã muốn đầu cơ chính trị, liền đem người thiếp đang mang thai của mình gã cho Dị Nhân. Dị Nhân về nước Tấn, lên ngôi, sinh ra Tần Thủy Hoàng (sử cho là con của Lã), phong Lã làm tể tướng, uy thế bao trùm cả thiên hạ. Cuối cùng bị Tần Thủy Hoàng ép uống thuốc độc mà chết. Lã dùng thủ đoạn buôn vua để giành được tước lộc tột đỉnh nơi nước Tần, nên ở đây gọi là “thiết Tần” (ăn trộm nước Tần).

(7) Hồng chung là chuông lớn; lôi cổ là trống lớn, thời cổ dùng trong lễ tế trời.

10

劉 公 幹 以 失 敬 罹 罪 , 文 帝 問 曰 : 「卿 何 以 不 謹 於 文 憲 ? 」 楨 答 曰 : 「臣 誠 庸 短 , 亦 由 陛 下 綱 目 不 疏 。 」

Lưu Công Cán dĩ thất kính ly tội, Văn Đế vấn viết : “Khanh hà dĩ bất cẩn ư văn hiến? ” Trinh đáp viết : “Thần thành dung đoản, diệc do bệ hạ cương mục bất sơ.”

Dịch nghĩa

Lưu Công Cán do thất kính mà mắc tội, Ngụy Văn đế hỏi : “Khanh vì sao mà bất cẩn nơi nghi lễ? ” Trinh đáp : “Thần quả là thô lậu, cũng là do mắt lưới pháp luật của bệ hạ không thưa.”

Chú giải

Lưu Trinh 劉楨 (179 – 217), tự Công Cán, là nhà thơ lớn, một trong Kiến An thất tử (bảy nhà thơ thời Kiến An), từng theo phò tá Ngụy Văn đế Tào Phi. Có một lần trong buổi tiệc, Tào Phi để quan đại phu họ Chân thay mình ra tiếp khách, tất cả tân khách đều qùy lạy, chỉ một mình Lưu Trinh đứng nhìn, lộ vẻ thất kính. Sau, Tào Phi hay được, bắt Trinh giam ngục, sai làm tạp dịch.

11

鍾 毓 、 鍾 會 少 有 令 譽 。 年 十 三 , 魏 文 帝 聞 之 , 語 其 父 鍾 繇 曰 : 「可 令 二 子 來 。 」 於 是 敕 見 。 毓 面 有 汗 , 帝 曰 : 「卿 面 何 以 汗 ? 」 毓 對 曰 : 「戰 戰 惶 惶 , 汗 出 如 漿 。 」 復 問 會 : 「卿 何 以 不 汗 ? 」 對 曰 : 「戰 戰 慄 慄 , 汗 不 敢 出 。 」

Chung Dục, Chung Hội thiếu hữu lệnh dự. Niên thập tam, Ngụy Văn đế văn chi, ngữ kỳ phụ Chung Do viết : “Khả lệnh nhị tử lai.” Ư thị sắc kiến. Dục diện hữu hãn, đế viết : “Khanh diện hà dĩ hãn? ” Dục đối viết : “Chiến chiến hoàng hoàng, hãn xuất như tương.” Phục vấn Hội : “Khanh hà dĩ bất hãn? ” Đối viết : “Chiến chiến lật lật, hãn bất cảm xuất.”

Dịch nghĩa

Chung Dục, Chung Hội tử nhỏ đã nổi tiếng tài giỏi. Năm mười ba tuổi, Ngụy Văn đế nghe tiếng, bèn nói phụ thân của họ là Chung Do : “Hãy ra lệnh cho hai người con khanh đến.” Rồi ra lệnh cho triệu kiến. Mặt Dục đổ mồ hôi, đế hỏi : “Mặt khanh sao lại đổ mồ hôi? ” Dục đáp : “Do quá run sợ nên mồ hôi chảy dầm dề.” Lại hỏi Hội : “Khanh sao lại không đổ mồ hôi? ” Hội đáp : “Do quá run sợ nên mồ hôi không toát được được.”

Chú giải

Chung Do (151-230) là tướng quốc dưới triệu Ngụy Văn đế Tào Phi, phụ thân của Chung Dục và Chung Hội. Chung Hội 9225 – 264), tự Sĩ Quý, từ nhỏ đã thông minh xuất chúng, được xem là một nhân vật phi thường, văn võ toàn tài lại tinh thông huyền học; làm quan đến chức tư đồ. Về sau, do âm mưu làm phản mà bị giết.

12

 鍾 毓 兄 弟 小 時 , 值 父 晝 寢 , 因 共 偷 服 藥 酒 。 其 父 時 覺 , 且 託 寐 以 觀 之 。 毓 拜 而 後 飲 , 會 飲 而 不 拜 。 既 而 問 毓 何 以 拜 , 毓 曰 : 「酒 以 成 禮 , 不 敢 不 拜 。 」 又 問 會 何 以 不 拜 , 會 曰 : 「偷 本 非 禮 , 所 以 不 拜 。 」

Chung Dục huynh đệ tiểu thời, trị phụ trú tẩm, nhân cộng thâu phục dược tửu. Kỳ phụ thời giác, thả thác mị dĩ quan chi. Dục bái nhi hậu ẩm, Hội ẩm nhi bất bái. Ký nhi vấn Dục hà dĩ bái, Dục viết : “Tửu dĩ thành lễ, bất cảm bất bái.” Hựu vấn Hội hà dĩ bất bái, Hội viết : “Thâu bản phi lễ, sở dĩ bất bái.”           

Dịch nghĩa

Anh em Chung Dục khi còn nhỏ, gặp lúc phụ thân ngủ ngày, nhân thế lấy trộm rượu thuốc để uống. Lúc đó, người cha đã thức giấc, nhưng giả vờ ngủ để quan sát. Dục vái lạy xong mới uống, Hội uống mà không vái lạy. Xong, mới hỏi Dục vì sao lạy, Dục đáp : “Rượu làm thành lễ, không dám không lạy.” Lại hỏi Hội vì sao không lạy, Dục đáp : “Rượu ăn trộm vốn là phi lễ, cho nên không lạy.”

13

魏 明 帝 為 外 祖 母 築 館 於 甄 氏 。 既 成 , 自 行 視 , 謂 左 右 曰 : 「館 當 以 何 為 名 ? 」 侍 中 繆 襲 曰 : 「陛 下 聖 思 齊 於 哲 王 ; 罔 極 過 於 曾 、 閔 。 此 館 之 興 , 情 鍾 舅 氏 , 宜 以 『 渭 陽 』 為 名 。 」

Ngụy Minh đế vi ngoại tổ mẫu trúc quán ư Chân thị.(1) Ký thành, tự hành thị, vị tả hữu viết : “Quán đương dĩ hà vi danh? ” Thị trung Mâu Tập viết : “Bệ hạ thánh tư tề ư triết vương; võng cực quá ư Tăng, Mẫn.(2) Thử quán chi hưng, tình chung cữu thị, nghi dĩ ‘Vị Dương’ vi danh.”

Dịch nghĩa

Ngụy Minh đế vì tổ mẫu bên ngoại mà xây một tòa quán cho mẹ là Chân thị. Xây xong, tự mình đến xem, hỏi kẻ tả hữu : “Tòa quán này nên lấy tên gì? ” Quan thị trung Mậu Tập thưa : “Bệ hạ tư tưởng thánh minh ngang với triết vương; lòng hiếu thuận bao la hơn cả Tăng, Mẫn. Tòa quán này dựng lên, tình cảm dồn cả về bên cậu, nên lấy tên là Vị Dương.”

Chú giải

(1) Ngụy Minh đế (204 – 239) tức Tào Duệ 曹睿, con của Tào Phi, trị vì từ năm 226. Quán là tòa dinh thự hoa lệ. Chân thị là họ bên mẹ của Tào Duệ.

(2) Võng cực cũng như vô cực, là bao la vô tận. Tăng Sâm và Mẫn Tử Khiên là hai cao đồ của Khổng Tử, nổi tiếng chí hiếu.

(3) Vị Dương là bờ bắc của sông Vị. Bài thơ Vị Dương trong chương Tần phong, Kinh Thi, có câu : “Ngã tống cửu thị, nhật đáo Vị Dương. 我 送 舅 氏,曰 至 渭 陽”. (Ta tống biệt cậu, đưa đến Vị Dương.) Theo truyền thuyết thì Tấn Khang công tiễn biệt cậu mình là Trùng Nhĩ, nhớ đến người mẹ đã khuất mà làm ra bài này; đời sau dùng bài thơ này để thuyết minh cho tình cậu cháu. Tào Duệ làm tòa quán này cho bên ngoại để tưởng niệm người mẹ đã khuất là Chân thị, nên phù hợp với hai chữ Vị Dương.

14

何 平 叔 云 : 「服 五 石 散 , 非 唯 治 病 , 亦 覺 神 明 開 朗 。 」

Hà Bình Thúc(1) vân : “Phục ngũ thạch tán, (2) phi duy trị bệnh, diệc giác thần minh khai lãng.”

Dịch nghĩa

Hà Bình Thúc nói : “Uống ngũ thạch tán, không chỉ trị được bệnh mà còn thấy tinh thần được mở mang sáng láng.”

Chú giải

(1) Hà Yến 何晏 (? – 249), tự Bình Thúc, rể của Tào Tháo, làm chức sứ bộ thượng thư dưới triều Tào Sảng. Ông là huyền học lỗi lạc thời Ngụy Tấn. Về sau, ông cùng Tào Sảng đều bị Tư Mã Ý tru diệt.

(2) Ngũ thạch tán, xem chương 1, tiết 41.

15

嵇 中 散 語 趙 景 真 : 「卿 瞳 子 白 黑 分 明 , 有 白 起 之 風 , 恨 量 小 狹 。 」 趙 云 : 「尺 表 能 審 璣 衡 之 度 , 寸 管 能 測 往 復 之 氣 ; 何 必 在 大 , 但 問 識 如 何 耳 ! 」

Kê trung tán(1) ngữ Triệu Cảnh Chân : “Khanh đồng tử bạch hắc phân minh, hữu Bạch Khởi(2) chi phong, hận lượng tiểu hiệp.”(3) Triệu vân : “Xích biểu năng thẩm cơ hành chi độ, (4) thốn quản năng trắc vãng phục chi khí; (3) hà tất tại đại, đãn vấn thức như hà nhĩ! ”

Dịch nghĩa

Quan trung tán Kê Khang nói với Triệu Cảnh Chân: “Đồng tử trong mắt ông đen trắng phân minh, có phong độ của Bạch Khởi, chỉ tiếc là con mắt lại nhỏ quá.” Triệu đáp : “Cái biểu dài một thước có thể tính được độ số của tinh tú, cây sáo dài một tấc có thể đo được độ cao thấp của âm thanh; đâu cần phải lớn, chỉ cần hỏi làm như thế nào để biết thôi! ”

Chú giải

(1) Kê trung tán tức Kê Khang, xem chương 1, tiết 16. Triệu Cảnh Chân tên thật là Triệu Chí 趙至, có khẩu tài, bản tính thanh liêm, làm chức tòng sự ở quận Liêu Đông.

(2) Bạch Khởi, danh tướng vĩ đại nhà Tần thời Chiến Quốc; ông hầu như bách chiến bách thắng, được phong là Vũ An Quân. Về sau, do vua Tần nghe lời gièm pha mà bắt ông phải tự vẫn. Tương truyền tròng trắng và tròng đen trong mắt Bạch Khởi phân biệt rất rõ ràng, tướng pháp cho rằng những người như vậy thường có kiến giải cao minh.

(3) Lượng ở đây là độ lớn của con mắt. Rất nhiều tài liệu giải thích chữ “lượng” ở đây là “khí lượng”, “khí độ”, e rằng không chuẩn. Giữa con ngươi hắc bạch phân minh và khí lượng của con người chẳng có liên quan gì cả; nếu hiểu lượng là “khí lượng”, “sự độ lượng” thì câu chuyển tiếp của Kê Khang nghe ra vô lý. Hơn nữa, câu trả lời của Triệu Cảnh Chân hàm ý tự hào là dù mắt nhỏ nhưng vẫn có thể nhìn xa trông rộng, khi so sánh nó với cái biểu một thước và ống sáo một tấc.

(4) Biểu là thước đo. Cơ hành là hồn thiên nghi, dụng cụ quan sát thiên tượng thời cổ.

16

司 馬 景 王 東 征 , 取 上 黨 李 喜 , 以 為 從 事 中 郎 。 因 問 喜 曰 : 「昔 先 公 辟 君 不 就 , 今 孤 召 君 , 何 以 來 ? 」 喜 對 曰 : 「先 公 以 禮 見 待 , 故 得 以 禮 進 退 ; 明 公 以 法 見 繩 , 喜 畏 法 而 至 耳 ! 」

Tư Mã Cảnh vương đông chinh, thủ Thượng Đảng Lý Hỷ, dĩ vi tòng sự trung lang.(1) Nhân vấn Hỷ viết : “Tích tiên công tịch quân bất tựu, kim cô triệu quân, hà dĩ lai? (2) Hỷ đối viết : “Tiên công dĩ lễ kiến đãi, cố đắc dĩ lễ tiến thoái; minh công dĩ pháp kiến thằng, Hỷ úy pháp nhi chí nhĩ! ”

Dịch nghĩa

Tư Mã Cảnh vương đông chinh, chọn Lý Hỷ ở Thượng Đảng đi theo làm tòng sự trung lang. Nhân đó hỏi Hỷ : “Ngày trước, tiên công cho vời ông đến, ông không đen, nay cô gọi ông, sao lại đến? ” Hỷ đáp : “Lệnh tôn dùng lễ tiếp đãi, cho nên được phép dùng lễ tiết để tính bề tiến thoái; còn minh công dùng pháp luật để ràng buộc, Hỷ sợ pháp luật mà đến vậy.”

Chú giải

(1) Tư Mã Cảnh vương là Tư Mã Sư, con trai Tư Mã Ý, từng làm đại tướng quân. Lý Hỷ tự Quý Hòa 季和, người quận Thượng Đảng. Khi Tư Mã Ý làm tướng quốc, mời ông ra làm quan, ông lấy cớ bị bệnh để từ chối. Tòng sự trung lang là chức quan đi theo đại tướng quân để tham dự việc bàn mưu tính kế trong quân.

(2) Tiên công hay tiên quân là từ tôn xưng người cha đã khuất của mình. (người kém đức) là tự tự xưng của các ông vua chư hầu, hàm ý khiêm tốn.

17

鄧 艾 口 喫 , 語 稱 艾 艾 。 晉 文 王 戲 之 曰 : 「卿 云 艾 艾 , 定 是 幾 艾 ? 」 對 曰 : 「鳳 兮 鳳 兮 , 故 是 一 鳳 。 」

Đặng Ngải khẩu khiết, ngữ xưng “Ngải Ngải”. Tấn Văn vương hý chi viết : “Khanh vân ‘Ngải Ngải’, định thị kỷ Ngải? ” Đối viết : “Phượng hề phượng hề, cố thị nhất phượng.”

Dịch nghĩa

Đựng Ngãi có tật nói lắp, khi nói thường xưng “Ngãi Ngãi”. Tấn Văn công đùa ông ta : “Khanh nói ‘Ngãi Ngãi’, vậy xác định có bao nhiêu Ngãi? ” Đáp : “Câu ‘Phượng hề, phượng hề’ cũng chỉ có một con chim phượng.”

Chú giải

Đặng Ngãi (197 – 264) là danh tướng đời Tam Quốc, có công giúp nhà Tấn tiêu diệt nước Thục.

18

嵇 中 散 既 被 誅 , 向 子 期 舉 郡 計 入 洛 , 文 王 引 進 , 問 曰 : 「聞 君 有 箕 山 之 志 , 何 以 在 此 ? 」 對 曰 : 「巢 、 許 狷 介 之 士 , 不 足 多 慕 。 」 王 大 咨 嗟 。

Kê trung tán ký bị tru, Hướng Tử Kỳ cử quận kế nhập Lạc, (1) Văn vương dẫn tiến, vấn viết : “Văn quân hữu Kỳ Sơn chi chí, hà dĩ tại thử? ” Đối viết : “Sào, Hứa quyến giới chi sĩ, bất túc đa mộ.” Vương đại tư ta.

Dịch nghĩa

Quan trung tán họ Kê bị giết, Hướng Tử Kỳ đưa sổ sách đến Lạc Dương. Tấn Văn vương tiến cử ông, hỏi : “Nghe nói ngươi có cái chí quy ẩn của Kỳ Sơn, sao lại ở đây? ” Hướng đáp : “Sào, Hứa là kẻ sĩ thanh cao nhưng cô độc ngạo đời, không đủ để ngưỡng mộ.” Vương hết lời khen ngợi.

Chú giải

(1) Kê trung tán tức Kê Khang. Hướng Tú 向秀, tự Tử Kỳ, bạn thân của Kê Khang, bản tính cao khiết, trầm mặc. Sau khi Kê Khang bị giết, ông thay đổi ý định ban đầu, không muốn ở ẩn nữa mà ra làm quan. Theo quy định cuối đời Hán, cứ đến cuối năm thì mỗi quận phải phái một viên lại mang hồ sơ sổ sách về nộp cho triều đình ở Lạc Dương. Hướng đưa sổ sách đến Lạc Dương và gặp Tấn Văn vương Tư Mã Chiêu. Trên đây là đoạn đối thoại giữa ông và Tư Mã Chiêu.

(2) Kỳ Sơn là nơi Hứa Do, Sào Phủ ở ẩn thời vua Nghiêu; ở đây chỉ tâm nguyện muốn sống ẩn dật, không ra làm quan.

19

晉 武 帝 始 登 阼 , 探 策 得 「一 」 。 王 者 世 數 , 繫 此 多 少 。 帝 既 不 說 , 群 臣 失 色 , 莫 能 有 言 者 。 侍 中 裴 楷 進 曰 : 「臣 聞 天 得 一 以 清 , 地 得 一 以 寧 , 侯 王 得 一 以 為 天 下 貞 。 」 帝 說 , 群 臣 歎 服 。

Tấn Võ đế thủy đăng tộ, thám sách đắc “nhất”. Vương giả thế số, hệ thử đa thiểu.(1) Đế ký bất duyệt, quần thần thất sắc, mạc năng hữu ngôn giả. Thị trung Bùi Khải tiến viết : “Thần văn thiên đắc nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ ninh, hầu vương đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh.”(2) Đế duyệt, quần thần thán phục.

Dịch nghĩa

Tấn Võ đế khi mới đăng cơ, bói được chữ “nhất”. Số đời vua của vương triều ít nhiều cũng quan hệ với con số này. Đế không hài lòng, quần thần thất sắc, không một ai nó được lời nào. Quan thị trung Bùi Khải bước ra tâu : “Thần nghe nói trời được nhất thì trong, đất được nhất thì yên, hầu vương được nhất thì thiên hạ trung trinh.” Đế vui mừng, quần thần thán phục.

Chú giải

(1) Thời cổ, khi vua mới lên ngôi thường dùng phép bói bằng cỏ thi gọi là “sách” để dự đoán thế số, tức số lượng các đời vua được truyền thừa trong một vương triều.

(2) Câu nói của Bùi Khải lấy từ Đạo Đức kinh, chương 39.

20

滿 奮 畏 風 。 在 晉 武 帝 坐 , 北 窗 作 琉 璃 屏 , 實 密 似 疏 , 奮 有 難 色 。 帝 笑 之 。 奮 答 曰 : 「臣 猶 吳 牛 , 見 月 而 喘 。 」

Mãn Phấn(2) úy phong. Tại Tấn Võ đế tọa, bắc song tác lưu ly bình, thực mật tự sơ, Phấn hữu nan sắc. Đế tiếu chi. Phấn đáp viết : “Thần do Ngô ngưu, kiến nguyệt nhi suyễn.”

Dịch nghĩa

Mãn Phấn sợ gió, có lần ngồi hầu Tấn Võ đế, cửa sổ phía bắc có tấm bình phong bằng lưu ly, thực tế rất kín nhưng nhìn giống như trống, Phấn lộ vẻ sợ hãi, Võ đế cười nhạo, Phấn thưa : “Thần như trâu xứ Ngô, thấy trăng thì thở phì phò.”

Chú giải

(1) Mãn Phấn tự Võ Thu 武秋, làm thượng thư lệnh đời Tấn Võ đế.

(2) Ngô ngưu ở đây chỉ trâu ở hai vùng Giang, Hoài. Tương truyền trâu ở đây rất sợ nóng, mặt trời lên là thờ phì phò; thậm chí khi thấy ánh trăng cũng tưởng là ánh mặt trời mà thở phì phò.

21

諸 葛 靚 在 吳 , 於 朝 堂 大 會 。 孫 皓 問 : 「卿 字 仲 思 , 為 何 所 思 ? 」 對 曰 : 「在 家 思 孝 , 事 君 思 忠 , 朋 友 思 信 , 如 斯 而 已 。 」

Gia Cát Tịnh tại Ngô, ư triều đường đại hội, Tôn Hạo vấn : “Khanh tự Trọng Tư, vi hà sở tư? ” Đối viết : “Tại gia tư hiếu, sự quân tư trung, bằng hữu tư tín, như tư nhi dĩ.”

Dịch nghĩa

Gia Cát tịnh tại nước Ngô, giữa đại hội triều đình. Tôn Hạo hỏi : “Khanh tự là Trọng Tư, vậy suy nghĩ những gì? ” Tịnh đáp : “Ở nhà nghĩ đến hiếu, thờ vua nghĩ đến trung, với bạn bè nghĩ đến tín, thần suy nghĩ như vậy đó.”

Chú giải

Gia Cát Tịnh tự Trọng Tư 仲思, ( là suy tư) phụ thân làm phản họ Tư Mã, bị Tư Mã Chiêu giết. Ông trốn sang nước Ngô, làm đại tư mã dưới triều Tôn Hạo. Nước Ngô mất, ông lại đầu hàng nhà Tấn, nhưng vì phụ thù nên suốt đời không ra làm quan.

22

蔡 洪 赴 洛 , 洛 中 人 問 曰 : 「幕 府 初 開 , 群 公 辟 命 , 求 英 奇 於 仄 陋 , 采 賢 俊 於 巖 穴 。 君 吳 楚 之 士 , 亡 國 之 餘 , 有 何 異 才 , 而 應 斯 舉 ? 」 蔡 答 曰 : 「夜 光 之 珠 , 不 必 出 於 孟 津 之 河 ; 盈 握 之 璧 , 不 必 采 於 崑 崙 之 山 。 大 禹 生 於 東 夷 , 文 王 生 於 西 羌 , 聖 賢 所 出 , 何 必 常 處 。 昔 武 王 伐 紂 , 遷 頑 民 於 洛 邑 , 得 無 諸 君 是 其 苗 裔 乎 ? 」

Thái Hồng(1) phó Lạc, Lạc trung nhân vấn viết : “Mạc phủ(2) sơ khai, quần công tịch mệnh, cầu anh kỳ ư trắc lậu, thái hiền tuấn ư nham huyệt. Quân Ngô Sở chi sĩ, vong quốc chi dư, (3) hữu hà dị tài, nhi ứng tư cử? ” Thái đáp viết : “Dạ quang chi châu, bất tất xuất ư Mạnh Tân chi hà; (4) doanh ác chi bích, bất tất thái ư Côn Luân chi sơn.(5) Đại Vũ sinh ư Đông Di, Văn Vương sinh ư Tây Khương, (6) thánh hiền sở xuất, hà tất thường xứ. Tích Võ Vương phạt Trụ, thiên ngoan dân ư Lạc Ấp, (7) đắc vô chư quân thị kỳ miêu duệ hồ? ”

Dịch nghĩa

Thái Hồng đến Lạc Dương, có người ở Lạc Dương hỏi : “Mạc phủ vừa lập, các bậc công hầu mời gọi hiền tài, cầu kẻ anh kỳ nơi thô lậu, tìm người hào tuấn chốn non sâu. Ông là kẻ sĩ miền Ngô, Sở; là kẻ vong quốc còn sót lại, có tài năng khác thường gì mà đến dự kỳ thi này? ” Thái đáp : “Ngọc châu dạ quang không hẳn phải xuất phát từ bến Mạnh Tân, ngọc bích một nắm không hẳn phải tìm nơi núi Côn Luân. Vua Đại Vũ sinh ở Đông Di, Võ vương sinh ở Tây Khương, chỗ ở của thánh hiền, hà tất phải cố định. Ngày trước Võ Vương phạt Trụ, dời đám dân cứng đầu đến Lạc Ấp, chẳng phải các ngài là con cháu của họ sao? ”

Chú giải

(1) Thái Hồng tự Thúc Khai 叔開, người Ngô quận, ban đầu làm quan tại nước Ngô; Ngô mất, ông về với nước Tấn, được cho là người tài hoa xuất chúng. Năm Thái Khang nguyên kiên nhà Tấn, bản quận đề cử ông đi thi tú tài nên mới đến Lạc Dương.

(2) Mạc phủ nguyên nghĩa là trướng phủ của tướng quân, ở đây chỉ triều đình.

(3) Thời Xuân Thu, hai nước Ngô và Sở đều ở phương nam, nên “Ngô Sở” dùng để chung địa danh phương nam. Năm 280, nước Ngô bị diệt, sáp nhập vào Tây Tấn, nên Thái Hồng bị xem là dân vong quốc còn sót lại.

(4) Ngọc dạ quang tương truyền là do một con đại xà từ sông Hòang Hà ngậm trong miệng mà mang đến. Mạnh Tân là cửa sông hiện thuộc tỉnh Hà Nam, khi Chu Võ Vương phạt Trụ đã tụ hội các lộ chư hầu ăn thề ở nơi đây.

(5) Bích là loại ngọc tròn có lỗ ở giữa. Côn Luân từ thời cổ là nơi sản xuất ngọc đẹp.

(6) Vua Đại Vũ nhà Hạ tương truyền có công trị thủy. Đông Di và Tây Khương dùng để chỉ những bộ tộc thiểu số ở phía đông và tây Trung Quốc, chưa được khai hóa.

(7) Võ Vương sau khi diệt Trụ cho đưa tất cả đám dân cứng đầu nhà Ân đến định cư ở bờ sông Lạc, sai Chu công xây dựng Lạc Ấp để an trí họ; từ thời Chiến Quốc về sau, biến thành Lạc Dương.

23

諸 名 士 共 至 洛 水 戲 。 還 , 樂 令 問 王 夷 甫 曰 : 「今 日 戲 樂 乎 ? 」 王 曰 : 「裴 僕 射 善 談 名 理 , 混 混 有 雅 致 ; 張 茂 先 論 史 漢 , 靡 靡 可 聽 ; 我 與 王 安 豐 說 延 陵 、 子 房 , 亦 超 超 玄 箸。」

Chư danh sĩ cộng chí Lạc thủy hý. Hoàn, Nhạc lệnh vấn Vương Di Phủ(1) viết : “Kim nhật hý lạc hồ? ” Vương viết : “Bùi bộc xạ thiện đàm danh lý, (2) hỗn hỗn hữu nhã trí; Trương Mậu Tiên luận Sử, Hán, mi mi khả thính; ngã dữ Vương An Phong thuyết Diên Lăng, Tử Phòng, diệc siêu siêu huyền trứ.”(3)

Dịch nghĩa

Các danh sĩ cùng đến sông Lạc để vui đùa. Khi về, Nhạc Hoàng hỏi Vương Di Phủ : “Hôm nay đi chơi có vui không? ” Vương đáp : “Bùi bộc xạ khéo bàn về danh lý, thao thao bất tuyệt, có nhã thú; Trương Mậu Tiên luận về Sử Ký và Hán Thư lôi cuốn đáng nghe, ta và Vương An Phong bàn về Diên Lăng, Tử Phòng cũng cao siêu huyền diệu.”

Chú giải

(1) Nhạc lệnh, tức Nhạc Hoàng 樂廣, tự Ngạn Phụ 彥輔, từng làm thượng thư lệnh nên gọi là Nhạc lệnh. Vương Di Phủ là Vương Diễn, từng làm thái úy. Bùi bộc xạ là Bùi Ngỗi 裴頠, tự Dật Dân 逸民, làm thượng thư tả bộc xạ. Trương Mậu Tiên là Trương Hoa張華, thông minh bác học, thời Tấn Võ đế làm thượng thư lệnh.

(2) Danh lý là môn học nghiên cứu sự quan hệ giữa danh và thực, phân tích cái đúng sai của sự vật.

(3) Vương An Lăng tức Vương Nhung, xem chương 1, tiết 17. Diên Lăng là Ngô Quý Trát 吳季札 (576 TCN – 485 TCN), công tử út của vua Thọ Mộng nước Ngô. Thọ Mộng biết ông là người hiền tài muốn truyền ngôi nhưng ông từ chối. Năm 561 TCN, Ngô vương Thọ Mộng qua đời, truyền ngôi là cho con đầu là Chư Phàn và dặn truyền ngôi cho em để tuần tự đến Quý Trát. Chư Phàn cũng muốn nhường ngôi luôn cho Quý Trát nhưng ông nhất định từ chối, bỏ về nhà cày ruộng. Năm 548 TCN, Chư Phàn qua đời, em kế là Dư Sái lên thay, phong Quý Trát ở đất Diên Lăng, nên ông có biệt hiệu là Diên Lăng Quý tử (người con út ở Diên Lăng).

Tử Phòng là Trương Lương, một trong Tam Kiệt đời Hán, giúp Lưu Bang diệt Hạng Vũ, lấy được thiên hạ, nhưng công thành thì thân thoái, lưu danh vạn cổ.

24

王 武 子 、 孫 子 荊 、 各 言 其 土 地 人 物 之 美 。 王 云 : 「其 地 坦 而 平 , 其 水 淡 而 清 , 其 人 廉 且 貞 。 」 孫 云 : 「其 山 嶵 巍 以 嵯 峨 , 其 水 浹 渫 而 揚 波 , 其 人 磊 呵 而 英 多 。 」

Vương Võ Tử, Tôn Tử Kinh, các ngôn kỳ thổ địa nhân vật chi mỹ. Vương vân : “Kỳ địa thản nhi bình, kỳ thủy đạm nhi thanh, kỳ nhân liêm thả trinh.” Tôn vân : “Kỳ sơn thôi nguy dĩ tha nga, kỳ thủy tiệp điệp nhi dương ba, kỳ nhân lỗi ha nhi anh đa.”

Dịch nghĩa

Vương Võ Tử, Tôn Tử Kinhmỗingười nói về vẻ đẹp của đất đai và nhân vật quê mình. Vương nói : “Quê tôi đất thì bằng phẳng, sông thì nhạt mà trong, người thì thanh liêm mà trung trinh.” Tôn nói : “Quê tôi núi thì hiểm trở lại cao chót vót, sông thì liên tục gợn sóng, người thì lắm kẻ tài tuấn anh hào.”

Chú giải

Vương Võ Tử tên Vương Tế王濟, người đất Tấn Dương, tỉnh Thái Nguyên, làm chức trung lang lệnh. Tôn Tử Kính tên Tôn Sở 孫楚, người đất Trung Đô, cũng tỉnh Thái Nguyên, làm thái thú Phùng Hủ.

25

樂 令 女 適 大 將 軍 成 都 王 穎 。 王 兄 長 沙 王 執 權 於 洛 , 遂 構 兵 相 圖 。 長 沙 王 親 近 小 人 , 遠 外 君 子 , 凡 在 朝 者 , 人 懷 危 懼 。 樂 令 既 允 朝 望 , 加 有 婚 親 , 群 小 讒 於 長 沙 。 長 沙 嘗 問 樂 令 , 樂 令 神 色 自 若 , 徐 答 曰 : 「豈 以 五 男 易 一 女 ? 」 由 是 釋 然 , 無 復 疑 慮 。

Nhạc Lệnh nữ thích đại tướng quân thành đô Vương Dĩnh. Vương huynh Trường Sa vương chấp quyền ư Nhạc, toại cấu binh tương đồ. Trường Sa vương thân cận tiểu nhân, viễn ngoại quân tử, phàm tại triều giả, nhân hoài nguy cụ. Nhạc Lệnh ký doãn triều vọng, gia hữu hôn thân, quần tiểu sàm ư Trường Sa. Trường Sa thường vấn Nhạc Lệnh, Nhạc Lệnh thần sắc tự nhược, từ đáp viết : “Khởi dĩ ngũ nam dịch nhất nữ? ”(2) Do thị thích nhiên, vô phục nghi lự.

Dịch nghĩa

Con gái của Nhạc lệnh được gã cho Thành Đô vương Dĩnh. Vương huynh là Trường Sa vương nắm quyền hành tại Lạc Dương, khởi binh mưu đồ tiến đánh. Trường Sa vương thân cận bọn tiểu nhân, xa rời người quân tử, phàm người nào ở trong triều cũng đều nơm nớp lo sợ. Nhạc lệnh có danh vọng rất lớn trong triều đinh, lại thêm có thân tính thông gia, nên bọn tiểu nhân gièm pha với Trường Sa vương. Trường Sa vương hỏi Nhạc lệnh, Nhạc lệnh thần sắc ung dung, từ tốn đáp : “Há có thể đem năm trai đổi lấy một gái chăng? ” Nhờ thế, vương thấy yên tâm, không còn nghi ngờ gì nữa.

Chú giải

(1) Nhạc lệnh xem tiết 23. Thành Đô vương Dĩnh tức Tư Mã Dĩnh 司馬穎, con trai thứ 16 của Tấn Võ đế, được phong Thành Đô vương. Trong giai đoạn loạn bát vương, con thứ 6 của Tấn Võ đế là Tư Mã Nghĩa 司馬義 đem quân tiến vào kinh đô năm 301 chiêu hàng các đại tướng quân. Năm 303, bọn Tư Mã Dĩnh cho rằng Tư Mã Nghiã chuyên quyền nên khởi binh tiến đánh, đoạn đối thoại trên đây nằm trong thời kỳ này.

(2) Ý nói đến sinh mệnh của năm người trai của mình đang ở kinh đô.

26

陸 機 詣 王 武 子 , 武 子 前 置 數 斛 羊 酪 , 指 以 示 陸 曰 : 「卿 江 東 何 以 敵 此 ? 」 陸 云 : 「有 千 里 蓴 羹 , 但 未 下 鹽 豉 耳 ! 」

Lục Cơ nghệ Vương Võ Tử, Võ Tử tiền trí sổ hộc dương lạc, chỉ dĩ thị Lục viết : “Khanh Giang Đông hà dĩ địch thử? ” Lục vân : “Hữu thiên lý thuần canh, đãn vị hạ diêm thị nhĩ! ”(2)

Dịch nghĩa

Lục Cơ đến bái phỏng Vương Võ Tử, Võ Tử đã sắp mấy hộc nhũ lạc bằng sữa dê, chỉ cho Lục thấy và hỏi : “Ở Giang Đông của ông có thứ gì sánh bằng không? ” Lục đáp : “Có canh rau thuần hồ Thiên Lý, đó là chưa nêm thêm tương đậu nành! ”

Chú giải

(1) Lục Cơ tự Sĩ Hành 士衡, một tác gia nổi tiếng đất Giang Đông. Ngô mất, ông theo về với triều Tấn. Về sau, theo Tư Mã Dĩnh khởi binh đánh Trường Sa vương Tư Mã Nghi, thất bại rồi bị giết. Vương Võ Tử xem tiết 24.

(2) Lạc tức nhũ lạc, sản phẩm cao cấp làm từ sữa, giống như bơ.

(3) Thiên Lý là hồ Thiên Lý, có thuyết cho rằng vị trí hồ hiện nay gần tỉnh Giang Tô. Rau thuần là một loại rau mọc dưới nước, lá non có thể dùng để nấu canh. Diêm thị là tương đậu nành. Có lẽ câu này có ý muốn nói canh rau thuần hồ Thiên Lý tự nó đã rất ngon, có thể sánh ngang nhũ lạc, nếu nêm thêm tương đậu nành cả nhũ lạc cũng không thể sánh bằng.

27

中 朝 有 小 兒 , 父 病 , 行 乞 藥 。 主 人 問 病 , 曰 : 「患 瘧 也 。 」 主 人 曰 : 「尊 侯 明 德 君 子 , 何 以 病 瘧 ? 」 答 曰 : 「來 病 君 子 , 所 以 為 瘧 耳 。 」

Trung triều hữu tiểu nhi, phụ bệnh, hành khất dược. Chủ nhân vấn bệnh, viết : “Hoạn ngược dã.” Chủ nhân viết : “Tôn hầu(1) minh đức quân tử, hà dĩ bệnh ngược? ” Đáp viết : “Lai bệnh quân tử, sở dĩ vi ngược nhĩ.”(2)

Dịch nghĩa

Thời Tấn có một đứa trẻ, phụ thân bị bệnh nên đi mua thuốc. Chủ nhân hỏi bệnh gì, đáp : “Bệnh sốt rét”. Chủ nhân nói : “Tôn hầu là bậc quân tử đức hạnh cao minh, sao lại bị bệnh sốt rét? ” Đứa trẻ đáp : “Bệnh đến làm hại người quân tử, cho nên mới gọi là ngược ngạo.”

Chú giải

(1) Tôn hầu là từ tôn xưng phụ thân của người đối diện, giống như lệnh tôn.

(2) Người thời cổ cho rằng bệnh sốt rét là do loài ngược quỷ gây ra. Ngược quỷ hình thể cực nhỏ, không bao giờ dám hại những bậc chính nhân quân tử, vì vậy mới có câu hỏi của thầy thuốc.

 (3) Câu trả lời của đứa trẻ là cách chơi chữ. Hai chữ ngược 瘧 (bệnh sốt rét) và ngược 虐 (ngược đãi, bạo ngược) đọc giống nhau, ý nói con ngược quỷ quá hung bạo nên mới dám gây bệnh cho bậc chính nhân quân tử như phụ thân mình.

28

崔 正 熊 詣 都 郡 。 都 郡 將 姓 陳 , 問 正 熊 : 「君 去 崔 杼 幾 世 ? 」 答 曰 : 「民 去 崔 杼 , 如 明 府 之 去 陳 恆 。 」

Thôi Chính Hùng nghệ Đô Quận. Đô Quận tướng tính Trần, vấn Chính Hùng : “Quân khứ Thôi Trữ kỷ thế? ” Đáp viết : “Dân khứ Thôi trữ, như minh phủ chi khứ Trần Hằng.”

Dịch nghĩa

Thôi Chính Hùng đến Đô Quận. Vị tướng quân đứng đầu Đô Quận họ Trần, hỏi Chính Hùng : “Ông và Thôi Trữ cách nhau mấy đời? ” Thôi đáp : “Tiểu dân cách đời với Thôi Trữ giống như minh phủ cách đời với Trần Hằng.”

Chú giải

(1) Thôi Báo 崔豹, tự Chính Hùng, làm chưc thái phó thừa (chức quan nhỏ dưới quyền thái phó) thời Tấn Huệ đế.

(2) Thôi Trữ 崔杼 (? -546 TCN) là tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Tề Trang công dâm loạn, ông bèn giết đi và thao túng chính sự nước Tề, cuối cùng bị họa diệt tộc. Trần Hằng là quan đại phu nước Tề thời Xuân Thu, giết vua là Tề Giản công; Khổng Tử từng vì chuyện này mà muốn Lỗ Ai công đem quân sang đánh.

29

元 帝 始 過 江 , 謂 顧 驃 騎 曰 : 「寄 人 國 土 , 心 常 懷 慚 。 」 榮 跪 對 曰 : 「臣 聞 王 者 以 天 下 為 家 , 是 以 耿 、 亳 無 定 處 , 九 鼎 遷 洛 邑 。 願 陛 下 勿 以 遷 都 為 念 。 」

Nguyên đế thủy quá giang, vị Cố phiêu kỵ viết : “Ký nhân quốc thổ, tâm thường hoài tàm.”(1) Vinh quỵ đối viết : “Thần văn vương giả dĩ thiên hạ vi gia, thị dĩ Cảnh, Bạc vô định xứ, cửu đỉnh thiên Lạc Ấp.(2) Nguyện bệ hạ vật dĩ thiên đô vi niệm.”

Dịch nghĩa

Ban đầu, Nguyên đế qua sông Trường Giang, nhìn Cố phiêu kỵ, nói : “Gởi thân nơi nước người, trong lòng thường xấu hổ.” Vinh quỳ xuống, tâu : “Thần nghe nói bậc vương giả lấy thiên hạ làm nhà, cho nên Cảnh, Bạc không có chỗ nhất định; chín đỉnh dời về Lạc Ấp. Mong bệ hạ đừng nghĩ đến chuyện dời đô.”

Chú giải

(1) Nguyên đế là Tư Mã Duệ, làm An đông tướng quân. Cuối đời Tây Tấn, quốc gia xảy ra nội chên, quốc đô thất thủ, Tấn Mẫn đế bị bắt. Ban đầu, Duệ vượt sông Trường Giang, trấn thủ Kiến Khang (tức Nam Kinh), mấy năm sau đăng cơ xưng đế. Kiến Khang nguyên là đất của Đông Ngô, thế lực của sĩ tộc Giang Đông còn rất mạnh, nên những ai từ nơi khác tới sống ở đó cũng đều mang nỗi niềm của người gởi thân nơi đất khách. Cố phiêu kỵ là Cố Vinh 顧榮, tự Ngạn Tiên 彥先, người nước Ngô; Ngô mất, mới về Lạc Dương. Khi Tư Mã Duệ trấn thủ Giang Đông, Vinh làm tán kỵ thường thị. Vinh là sĩ tộc Giang Đông, danh vọng rất lớn, nên Nguyên đế mới nói lời này.

(2) Đời nhà Thương, vua Thành Thang dời đô đến Hào Ấp, Đế Ất lại dời đô sang Cảnh Ấp, đến đời Bàn Canh lại dời đô về Hào Ấp. Từ đời Thành Thang đến Bàn Canh có đến năm lần dời đô, nên mới nói “không có chỗ nhất định”.

(3) Tương truyền vua Đại Vũ nhà Hạ đúc chín đỉnh đồng tượng trưng cho vương quyền. Khi Chu Võ vương diệt Trụ, cho dời chín đỉnh về Lạc Ấp.

30

庾 公 造 周 伯 仁 。 伯 仁 曰 : 「君 何 所 欣 說 而 忽 肥 ? 」 庾 曰 : 「君 復 何 所 憂 慘 而 忽 瘦 ? 」 伯 仁 曰 : 「吾 無 所 憂 , 直 是 清 虛 日 來 , 滓 穢 日 去 耳 。 」

Dữu công tạo Chu Bá Nhân. Bá Nhân viết : “Quân hà sở hân duyệt nhi hốt phì? ” Dữu viết : “Quân phục hà sở ưu thảm nhi hốt sấu? ” Bá Nhân viết : “Ngô vô sở ưu, trực thị thanh hư nhật lai, trử uế nhật khứ nhĩ.”

Dịch nghĩa

Dữu công đến thăm Chu Bá Nhân. Bá Nhân hỏi : “Ngài có điều gì vui sướng mà đột nhiên mập ra như thế? ” Dữu đáp : “Còn ngài có điều gì lo buồn mà đột nhiên ốm lại như vậy? ” Bá Nhân : “Tôi không có gì lo nghĩ, chỉ là nhờ cách sống thanh tĩnh đạm bạc ngày càng tăng, những thứ cặn bã nhơ bẩn ngày càng giảm vậy.”

Chú giải

Dữu công tức Dữu Lượng 庚亮, tự Nguyên Quy 元規, phụ chính thời Tấn Nguyên đế, làm chức trung thư lệnh. Chu Bá Nhân là quan thượng thư tả bộc xạ.

31

過 江 諸 人 , 每 至 美 日 , 輒 相 邀 新 亭 , 藉 卉 飲 宴 。 周 侯 坐 而 歎 曰 : 「風 景 不 殊 , 正 自 有 山 河 之 異 ! 」 皆 相 視 流 淚 。 唯 王 丞 相 愀 然 變 色 曰 : 「當 共 戮 力 王 室 , 克 復 神 州 , 何 至 作 楚 囚 相 對 ? 」

Quá giang chư nhân, mỗi chí mỹ nhật, triếp tương yêu Tân Đình, tạ hủy ẩm yến.(1) Chu hầu tọa nhi thán viết : “Phong cảnh bất thù, chính tự hữu sơn hà chi dị! ” Giai tương thị lưu lệ. Duy Vương thừa tướng(2) thiểu nhiên biến sắc viết : “Đương cộng lục lực vương thất, khắc phục thần châu, hà chí tác Sở tù tương đối? ”(3)

Dịch nghĩa

Những người qua sông Trường Giang, mỗi khi đến ngày đẹp trời là rủ nhau ra Tân đình, ngồi trên bãi cỏ mà ăn uống. Chu hầu ngồi thở dài, nói : “Phong cảnh không đổi, chỉ có sông núi là khác xưa.” Rồi nhìn nhau mà chảy nước mắt. Chỉ có Vương thừa tướng không vui, nghiêm mặt nói : “Bây giờ là lúc phải cùng nhau hợp lực cho vương thất để lấy lại thần châu, sao lại đem so với chuyện Sở tù? ”

Chú giải

(1) Cuối đời Tây Tấn, đất nước Trung Hoa loạn lạc, mọi người bỏ Trung Nguyên, qua sông Trường Giang để về Giang Nam tỵ nạn. “Quá giang chư nhân” (những người qua sông Trường Giang) ở đây chỉ các đại thần, sĩ tộc của triều đình. Tân đình là Lao Lao đình, được nước Ngô xây dựng vào thời Tam Quốc, di chỉ hiện ở Nam Kinh.

(2) Vương thừa tướng, xem chương 1, tiết 27.

(3) Lục trợ là hợp trợ. Thần châu chỉ Trung Quốc. Sở tù (người tù nước Sở): Tả Truyện có ghi lại câu chuyện một tù nhân nước Sở, thường đàn một điệu nhạc phương Nam, bày tỏ tấm lòng không quên cố quốc. Về sau từ “Sở tù” được sử dụng trong văn chương để chỉ người lâm vào cảnh ngộ khốn quẫn.

32

衛 洗 馬 初 欲 渡 江 , 形 神 慘 悴 , 語 左 右 云 : 「見 此 芒 芒 , 不 覺 百 端 交 集 。 苟 未 免 有 情 , 亦 復 誰 能 遣 此 ! 」

Vệ tẩy mã sơ dục độ giang, hình thần thảm tụy, ngữ tả hữu vân : “Kiến thử mang mang, bất giác bách đoan giao tập. Cẩu vị miễn hữu tình, diệc phục thùy năng khiển thử! ”

Dịch nghĩa

Vệ tẩy mã khi mới vượt sông Trường Giang, hình hài tinh thần đều tiều tụy, bảo kẻ tả hữu : “Nhìn nơi đây sông nước mênh mông, bỗng thấy lòng sầu ngổn ngang trăm mối. Chỉ cần là người chưa thoát khỏi cõi hữu tình, hỏi mấy ai có thể khuây khỏa được giữa cảnh này! ”

Chú giải

(1) Vương tẩy mã tên là Vương Giới 衛玠, tự Thúc Bảo 叔寶, làm chức thái tử tẩy mã (chức qua dạy thái tử về chính sự và văn chương).

(2) Mang mang 芒芒 dùng như mang mang 茫茫 : mênh mông, không bờ bến.

33

顧 司 空 未 知 名 , 詣 王 丞 相 。 丞 相 小 極 , 對 之 疲 睡 。 顧 思 所 以 叩 會 之 , 因 謂 同 坐 曰 : 「昔 每 聞 元 公 道 公 協 贊 中 宗 , 保 全 江 表 , 體 小 不 安 , 令 人 喘 息 。 」 丞 相 因 覺 , 謂 顧 曰 : 「此 子 珪 璋 特 達 , 機 警 有 鋒 。 」

Cố tư không(1) vị tri danh, nghệ vương thừa tướng. Thừa tướng tiểu cực, đối chi bì thụy. Cố tư sở dĩ khấu hội chi, nhân vị đồng tọa viết : “Tích mỗi văn Nguyên công đạo công hiệp tán Trung Tông, (2) bảo toàn giang biểu, (3) thể tiểu bất an, linh nhân suyễn tức.”(2) Thừa tướng nhân giác, vị cố viết : “Thử tử khuê chương đặc đạt, cơ cảnh hữu phong. “

Dịch nghĩa

Quan tư không họ Cố khi chưa nổi tiếng, đến bái phỏng thừa tướng Vương Đạo. Thừa tướng mỏi mệt quá độ nên ngồi đối diện với ông mà ngủ thiếp đi. Cố nghĩ đến cách đánh thức nên nói với những người cùng ngồi ở đó : “Ngày trước, mỗi khi nghe Nguyên công kể chuyện các bậc vương công phò tá Trung Tông bảo toàn được cõi Giang Nam, nay thân thể có đôi chút bất an, khiến người áy náy không yên.” Thùa tướng nhân nghe câu đó mà tỉnh giấc, nói với Cố : “Người này là khuê chương đặc đạt, thông minh nhạy bén.”

Chú giải

(1) Cố tư không là Cố Hòa 顧和, tự Quân Hiếu 君孝, khi thừa tướng Vương Đạo còn làm thứ sử Dương Châu đã mời ông ra làm quan. Sau khi mất, được phong chức tư không.

(2) Nguyên công chỉ Cố Vinh (x. tiết 29), chú của Cố Hòa. Cố Vinh khi mất, có thụy hiệu là Nguyên 元, nên gọi là Nguyên công. Trung Tông là miếu hiệu của Tấn Nguyên đế.

(3) Giang biểu nghĩa đen là “bên ngoài sông Trường Giang”, tức vùng Giang Nam.

(4) Khuê chương đặc đạt nghĩa đen là “một mình ngọc khuê và ngọc chương cũng đủ để thông đạt”. Khuê và chương là hai loại ngọc mà các vua chư hầu cầm theo khi yết kiến thiên tử trong các dịp đại lễ. Khi dùng ngọc khuê và ngọc chương thì không cần phải cầm thêm bất kỳ một lễ khí nào khác, cho nên “khuê chương đặc đạt” được dùng để nói về người có chân tài thực học, đức độ hơn người, có thể tự mình thành đạt mà không cần nhờ đến người khác tiến dẫn.

34

會 稽 賀 生 , 體 識 清 遠 , 言 行 以 禮 。 不 徒 東 南 之 美 , 實 為 海 內 之 秀 。

Cối Kê Hạ sinh, thể thức thanh viễn, ngôn hành dĩ lễ. Bất đồ đông nam chi mỹ, thực vi hải nội chi tú.

Dịch nghĩa

Hạ sinh ở Cối Kê, bản tính thanh cao, kiến thức thâm viễn, hành vi và lời nói đều hợp lễ. Không chỉ là một người tài giỏi ở đông nam, mà còn là nhân vật ưu tú trong hải nội.

Chú giải

Hạ sinh là Hạ Tuân賀循, tự Ngạn Tiên, người quận Cối Kê, là chức nội sử nước Ngô.

35

劉 琨 雖 隔 閡 寇 戎 , 志 存 本 朝 , 謂 溫 嶠 曰 : 「班 彪 識 劉 氏 之 復 興 , 馬 援 知 漢 光 之 可 輔 。 今 晉 阼 雖 衰 , 天 命 未 改 。 吾 欲 立 功 於 河 北 , 使 卿 延 譽 於 江 南 。 子 其 行 乎 ? 」 溫 曰 : 「嶠 雖 不 敏 , 才 非 昔 人 , 明 公 以 桓 、 文 之 姿 , 建 匡 立 之 功 , 豈 敢 辭 命 ! 」

Lưu Côn tuy cách ngại khấu Nhung, (1) chí tồn bản triều, vị Ôn Kiều viết : “Ban Bưu thức Lưu thị chi phục hưng, Mã Viện tri Hán Quang chi khả phụ.(3) Kim Tấn tộ tuy suy, thiên mệnh vị cải. Ngô dục lập công ư hà bắc, sử khanh diên dự ư Giang Nam. Tử kỳ hành hồ? ” Ôn viết : “Kiều tuy bất mẫn, tài phi tích nhân, minh công dĩ Hoàn, Văn(4) chi tư, kiến khuôn lập chi công, khởi cảm từ mệnh! ”

Dịch nghĩa

Lưu Côn bị tuy gặp trở ngại bởi giặc Nhung, nhưng lòng vẫn nghi đến bản triều, nói với Ôn Kiều : “Ban Bưu biết họ Lưu có thể phục hưng, Mã Viện biết Quang Vũ đáng phò tá. Cơ đồ nhà Tấn tuy suy, nhưng mệnh trời chưa đổi. Ta muốn lập công nơi Hà Bắc, để khanh được dương danh nơi Giang Nam, khanh có muốn đi chăng? ” Ôn đáp : “Kiều này tuy không không minh, tài chẳng được như người xưa, nhưng minh công đã dùng cái tài của Hoàn, Văn để dựng nên cái công khuôn phò xã tắc, thần há dám từ chối mệnh lệnh sao! ”

Chú giải

(1) Lưu Côn tự Triệu Thạch 趙石, được phong là Quảng Võ hầu, cuối đời Tây Tấn làm thứ sử Tịnh Châu, phụ trách quân sự cả ba châu Tịnh, Dực, U; có chí muốn phò tá vương thất, bình định bắc phương. Nhung là các bộ tộc thiểu số ở phía tây Trung Quốc. Cuối đời Tây Tấn các công hầu tranh quyền, đem quân đánh nhau hỗn loạn, các bộ tộc ở phương bắc và phương tây thừa cơ xâm nhập Trung Nguyên.

(2) Năm 316, kinh đô thất thủ. Năm 307, Tư Mã Duệ xưng là Tấn vương ở Giang Đông. Lúc bấy giờ, Lưu Côn đang ở phương bắc, sai Ôn Kiều đến Kiến Khang dâng biểu xin tiến binh, nên mới có lời đối thoại trên. Ôn Kiều tự Thái Chân 太真, thuộc hạ của Lưu Côn, làm chức tả tư mã.

(3) Ban Bưu : sử gia nổi tiếng đời Đông Hán. Ban đầu theo phò Ngỗi Hiêu 隗囂; Ngỗi Hiêu muốn làm phản Hán Quang vũ Lưu Tú, Ban phản đối. Về sau theo phò Đậu Dung 竇融, thuyết phục được Đậu Dung quy thuận Lưu Tú, giúp Lưu Tú khôi phục lại nhà Hán từ tay tay Vương Mãng. Mã Viện hiệu Phục Ba tướng quân, theo phò Hán Quang Vũ, đánh đông dẹp bắc, lập được nhiều công lao. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng của nước ta cũng bị thất bại trong tay Mã Viện.

(4) Hoàn, Văn là Tề Hòan công và Tấn Văn công, từng làm bá chủ chư hầu thời Chiến quốc.

36

溫 嶠 初 為 劉 琨 使 來 過 江 。 于 時 江 左 營 建 始 爾 , 綱 紀 未 舉 。 溫 新 至 , 深 有 諸 慮 。 既 詣 王 丞 相 , 陳 主 上 幽 越 , 社 稷 焚 滅 , 山 陵 夷 毀 之 酷 , 有 黍 離 之 痛 。 溫 忠 慨 深 烈 , 言 與 泗 俱 , 丞 相 亦 與 之 對 泣 。 敘 情 既 畢 , 便 深 自 陳 結 , 丞 相 亦 厚 相 酬 納 。 既 出 , 懽 然 言 曰 : 「江 左 自 有 管 夷 吾 , 此 復 何 憂 ? 」

Ôn Kiều sơ vị Lưu Côn sứ lai quá giang. Vu thời Giang tả doanh kiến thủy nhĩ, cương kỷ vị cử. Ôn tân chí, thâm hữu chư lự. Ký nghệ Vương thừa tướng, trần chủ thượng u việt, xã tắc phần diệt, sơn lăng di hủy chi khốc, hữu “Thử ly” chi thống.(1) Ôn trung khái thâm liệt, ngôn dữ tứ câu, thừa tướng diệc dữ chi đối khấp. Tự tình ký tất, tiện thâm tự trần kết, thừa tướng diệc hậu tương thù nạp. Ký xuất, hoan nhiên ngôn viết : “Giang tả tự hữu Quản Di Ngô, thử phục hà ưu? ”(2)

Dịch nghĩa

Lần đầu tiên, Ôn Kiều được Lưu Côn sai làm sử giả vượt qua sông Trường Giang. Lúc bấy giờ, miền Giang tả mới bắt đầu xây dựng, kỷ cương chưa được thiết lập. Ôn mới đến, lòng nặng trĩu âu lo. Đến ra mắt thừa tướng Vương Đạo, trình bày tình cảnh hoàng đế phải sống lưu vong, xã tắc bị thiêu hủy, sơn lăng chịu thảm khốc; có nổi đau xót của bài thơ Thử ly. Ôn Kiều có lòng trung trinh phẫn khái mãnh liệt, vừa nói vừa khóc, thừa tướng cũng nhìn ông mà khóc. Kể chuyện tâm tình xong, Ôn nhân tiện trình bày ý nguyện kết giao, thừa tướng cũng hân hoan kết nạp. Khi ra ngoài, Ôn vui mừng mà nói : “Giang tả tự có Quản Di Ngô, việc này đâu còn gì lo nữa? ”

Chú giải

(1) U việt là “u tù điên việt” chỉ cảnh ngộ gị giam cầm, khốn quẫn. Sơn lăng là lăng tẩm của hoàng tộc.Thử ly là một bài thơ trong Vương phong của Kinh Thi. Sau khi nhà Chu đã dời đô về đông, có người đến vùng đất phía tây, thấy bao nhiêu tông miếu và cung thất xưa đều thành bình địa, lúa nếp được trồng lên, thấy cảm thương cho nhà Chu đã suy vi mà làm ra bài thơ Thử ly vô cùng ai oán.

(2) Quản Di Ngô tức Quản Trọng, một thiên tài chính trị thời Xuân Thu, từ thân phận tù nhân vươn lên làm Tể tướng, giúp Tề Hòan công làm bá chủ chư hầu.

37

王 敦 兄 含 為 光 祿 勳 。 敦 既 逆 謀 , 屯 據 南 州 , 含 委 職 奔 姑 孰 。 王 丞 相 詣 闕 謝 。 司 徒 、 丞 相 、 揚 州 官 僚 問 訊 , 倉 卒 不 知 何 辭 。 顧 司 空 時 為 揚 州 別 駕 , 援 翰 曰 : 「王 光 祿 遠 避 流 言 , 明 公 蒙 塵 路 次 , 群 下 不 寧 , 不 審 尊 體 起 居 何 如 ? 」

Vương Đôn(1) huynh Hàm vi quang lộc huân.(2) Đôn ký nghịch mưu, đồn cứ Nam Châu, hàm ủy chức bôn Cô Thục.(3) Vương thừa tướng nghệ khuyết tạ. Tư đồ, thừa tướng, Dương Châu quan liêu vấn tấn, thương tốt bất tri hà từ. Cố tư không thời vi Dương Châu biệt giá, viên (viện) hàn viết : “Vương quang lộc viễn tỵ lưu ngôn, minh công mông trần lộ thứ, quần hạ bất ninh, bất thẩm tôn thể khởi cư hà như? ”

Dịch nghĩa

Anh của Vương Đôn là Vương Hàm làm chức quang lộc. Đôn mưu phản, chiếm đóng Nam Châu. Hàm từ bỏ chức quan, chạy đến Cô Thục. Thừa tướng Vương Đạo ra cửa khuyết xin chịu tội. Các quan tư đồ, thừa tướng, quan lại Dương Châu đều đến thăm hỏi, nhao nhao không biết là lời nào. Quan tư không Cố Hòa, lúc đó làm quan biệt giá Dương Châu, gởi thư nói : “Vương quang lộc tránh xa những lời đồn, minh công lại đứng giữa đường chịu cảnh gió bụi, những kẻ thuộc hạ trong lòng không yên, không hiểu tôn thể thường ngày sinh hoạt ra sao? ”

Chú giải

(1) Vương Đôn là anh họ của thừa tướng Vương Đạo, từng theo phò Tấn Nguyên đế, làm đại tướng quân, thứ sử Kinh Châu, trấn thủ Võ Xương. Năm 322, thấu triều đình thối nát, Đôn khởi binh ở Võ Xương mưu phản, tiến vào Kiến Khang. Tấn Nguyên đế sai thừa tướng Vương Đạo làm tiên phong đại đô đốc, đem quân đối địch. Bị thất bại, Nguyên đế phải nhượng bộ, phong Đôn làm thừa tướng, nhưng Đôn không nhận mà rút quân về Võ Xương. Sau Tấn Minh đế kế vị Nguyên đế, đánh bại Vương Đôn.

(2) Quang lộc huân là chức quan thời cổ, cũng gọi là lang trung lệnh.

(3) Cô Thục là địa danh thời cổ, được thành lập từ đời Đông Tấn, cũng có tên là Nam Châu 南洲(州), nay thuộc huyện Đương Đồ, tỉnh An Huy.

38

郗 太 尉 拜 司 空 , 語 同 坐 曰 : 「平 生 意 不 在 多 , 值 世 故 紛 紜 , 遂 至 台 鼎 。 朱 博 翰 音 , 實 愧 於 懷 。 」

Hy thái úy bái tư không, ngữ đồng tọa viết : “Bình sinh ý bất tại đa, trị thế cố phân vân, toại chí đài đỉnh. Chu Bác hàn âm, thực quý ư hoài.”

Dịch nghĩa

Quan tư không họ Hy nhậm chức tư không, nói với các đồng liêu : “Ta bình sinh không có ý muốn làm quan lớn, gặp lúc thời buổi nhiễu nhương mới lên được ngôi cao. Nghĩ đến tiếng chuông Chu Bác mà trong lòng thực không khỏi hổ thẹn.”

Chú giải

(1) Hy thái úy là Hy Giám 郗鑒, năm 329 nhậm chức tư không, về sau được thăng lên thái úy.

(2) Chu Bác (? – 5 TCN) tự Tử Nguyên 子元, người đất Thọ Lăng, đời Tây Hán. Khi ông làm lễ nhậm chức thừa tướng, bỗng nhiên giữa triều đình phát ra một âm thanh nghe như tiếng chuông. Có người giải thích rằng do hoàng đế mê muội, chọn một kẻ bất tài lên giữ ở ngôi cao nên mới có tiếng chuông vô hình đó. Hàn âm là âm thanh cao vút, dùng để so sánh với hư danh. Từ ngữ “Chu Bác hàn âm” được dùng để nói về những kẻ tài năng thấp kém mà giữ chức vị cao, chỉ hữu danh vô thực.

Lời bàn thêm

Kẻ sĩ khi nhận chức luôn lo sợ không làm tròn chức trách, phụ lòng người tiến cử và sưu mong đợi của người người dân, nên thường tự thấy hổ thẹn. Đám ngu quan tiến thân bằng gia thế và tiền bạc thì khi nhậm chức thì luôn hợm hĩnh và phô trương uy quyền vì sợ người khác khinh mình. Lời của Hy Giám đáng để đám tham quan hữu danh vô thực từ cổ chí kim trong thiên hạ lắng nghe.

39

高 坐 道 人 不 作 漢 語 , 或 問 此 意 , 簡 文 曰 : 「以 簡 應 對 之 煩 。 」

Cao Tọa đạo nhân bất tác Hán ngữ, hoặc vấn thử ý, Giản Văn viết : “Dĩ giản ứng đối chi phiền.”

Dịch nghĩa

Hòa thượng Cao Tọa không biết Hán ngữ, khi có người muốn hỏi ý kiến gì thì Giản Văn đế nói : “Hãy dùng giản dị ứng đối với phức tạp.”

Chú giải

Cao Tọa là hòa thượng từ Tây Vực đến Trung Quốc vào đời Tây Tấn. Theo Cao Tọa biệt truyện thì ông không biết Hán ngữ, các vị vương côngmuốn nói chuyện thì phải nhờ người thông dịch. Đạo nhân ở đây chỉ hòa thượng, chứ không phải là đạo sĩ.

40

周 僕 射 雍 容 好 儀 形 , 詣 王 公 , 初 下 車 , 隱 數 人 , 王 公 含 笑 看 之 。 既 坐 , 傲 然 嘯 詠 。 王 公 曰 : 「卿 欲 希 嵇 、 阮 邪 ? 」 答 曰 : 「何 敢 近 舍 明 公 , 遠 希 嵇 、 阮 ! 」

Chu bộc xạ ung dung hảo nghi hình, nghệ vương công, sơ hạ xa, ẩn sổ nhân, vương công hàm tiếu khán chi. Ký tọa, ngạo nhiên khiếu vịnh. Vương công viết : “Khanh dục hy Kê, Nguyễn da? Đáp viết : “Hà cảm cận xả minh công, viễn hy Kê, Nguyễn! ”

Dịch nghĩa

Quan bộc xạ họ Chu phong thái ung dung, tướng mạo oai nghi; đến bái phỏng Vương thừa tướng, lúc xuống xe phải có mấy người đỡ. Vương thừa tướng mĩm cười ra đón. Ngồi xong, ngâm vịnh rất ngạo mạn. Vương thừa tướng hỏi : “Ngài muốn học theo Kê, Nguyễn chăng? ” Chu đáp : “Sao dám bỏ minh công ở gần mà học theo Kê, Nguyễn ở xa? ”

Chú giải

Chu bộc xạ tức Chu Bá Nhân (x. tiết 30). Kê, Nguyễn là Kê Khang, và Nguyễn Tịch (x. các tiết 15, 16, chương 1).

 Lời bàn thêm

Ngạo nhiên khiếu vịnh” (ngạo mạn ngâm nga)là một phong cách phổ biến của các văn nghệ sĩ thời Đông Tấn, nhằm biểu hiện thái độ khinh thế ngạo vật, không chịu câu thúc của mình. Đối với kẻ sĩ có chân tài thực học thì điều này cũng đã khó coi rồi, nhưng dù sao cũng có thể tạm chấp nhận được, còn đối với những kẻ học có đôi chút tài mọn mà học đòi làm thiên tài thì chỉ là trò lố bịch.

41

庾 公 嘗 入 佛 圖 , 見 臥 佛 , 曰 : 「此 子 疲 於 津 梁 。 」 于 時 以 為 名 言 。

Dữu công thường nhập Phật đồ, kiến ngọa Phật, viết : “Thử tử bì ư tân lương.” Vu thời dĩ vi danh ngôn.

Dịch nghĩa

Dữu công có lần vào chùa, nhìn thấy tượng Phật nằm, liền nói : “Ngài này mệt mỏi vì tiếp dẫn chúng sinh đây.” Thời bấy giờ lấy câu đó làm danh ngôn..

Chú giải

(1) Dữu công x.chương 1, tiết 31.

(2) Tân lương ngoài nghĩa là “cái cầu”, còn có nghĩa là “tiếp dẫn”, “dìu dắt”. Phật giáo chủ trương phổ độ chúng sinh vượt qua sinh tử luân hồi, để đến “bờ bên kia”, giống như hình tượng vượt sông. Ý nói đức Phật vì quá bận rộn với chuyện tiếp dẫn chúng sinh mà đâm ra mệt mỏi, nên phải nằm.

42

摯 瞻 曾 作 四 郡 太 守 , 大 將 軍 戶 曹 參 軍 , 復 出 作 內 史 , 年 始 二 十 九 。 嘗 別 王 敦 , 敦 謂 瞻 曰 : 「卿 年 未 三 十 , 已 為 萬 石 , 亦 太 蚤 。 」 瞻 曰 : 「方 於 將 軍 , 少 為 太 蚤 ; 比 之 甘 羅 , 已 為 太 老 。 」

Chí Chiêm tằng tác Tứ quận thái thú, đại tướng quân hộ tào tham quân, phục xuất tác nội sử, niên thủy nhị thập cửu. Thường biệt Vương Đôn, Đôn vị Chiêm viết : “Khanh niên vị tam thập, dĩ vi vạn thạch, diệc thái tảo.” Chiêm viết : “Phương ư tướng quân, thiểu vi thái tảo; tỷ chi Cam La, dĩ vi thái lão.”

Dịch nghĩa

Chí Chiêm từng làm thái thú Tứ quận, hộ tào tham quân cho đại tướng quân, rồi lại làm nội sử, tuổi mới hai mươi chín. Có lần từ biệt Vương Đôn, Đôn nói với Chiêm : “Ngươi tuổi chưa đến ba mươi mà đã hưởng lộc vạn thạch cũng là quá sớm.” Chiêm đáp : “So với tướng quân thì có hơi quá sớm, nhưng so với Cam La thì lại quá già.”

Chú giải

(1) Chí Chiêm người cuối đời Tây Tấn, từng làm hộ tào tham quân (trong coi sổ sách, hộ tịch) cho đại tướng quân Vương Đôn, rồi thái thú các quận An Phong, Tân Thái, Tây Dương. Do ăn nói với Vương Đôn không hợp mà bị giáng làm nội sử (cũng tương đương thái thú).

(2) Thạch là khái niệm về bổng lộc của quan chức thời cổ. Chức quan thái thú hưởng hai ngànthạch; Chiêm là thái thú cả bốn quận, lại kiêm thêm chức nội sử nên hưởng lộc một vạn thạch. Tảo 蚤 ở đây dùng như tảo 早 (sớm).

(3) Cam La người thời Chiến Quốc, năm mười hai tuổi đã đi sứ cho nước Tần, được phong làm thượng khanh.

43

梁 國 楊 氏 子 , 九 歲 , 甚 聰 惠 。 孔 君 平 詣 其 父 , 父 不 在 , 乃 呼 兒 出 , 為 設 果 。 果 有 楊 梅 , 孔 指 以 示 兒 曰 : 「此 是 君 家 果 。 」 兒 應 聲 答 曰 : 「未 聞 孔 雀 是 夫 子 家 禽 。 」

Lương quốc Dương thị tử, cửu tuế, thậm thông tuệ. Khổng Quân Bình nghệ kỳ phụ, phụ bất tại, nãi hô nhi xuất, vi thiết quả. Quả hữu dương mai, Khổng chỉ dĩ thị nhi viết : “Thử thị quân gia quả.” Nhi ứng thanh đáp viết : “Vị văn khổng tước thị phu tử gia cầm.”(2)

Dịch nghĩa

Nhà họ Dương ở nước Lương có đứa con mới chín tuổi mà cực kỳ thông tuệ. Khổng Quân Bình đến thăm phụ thân nó, phụ thân không có nhà, bèn gọi đứa nhỏ ra để cho trái cây. Trong trái cây có hạt dương mai, Khổng chỉ cho đứa nhỏ thấy và nói: “Đây là trái cây của nhà con đây.” Đứa nhỏ liền trả lời ngay : “Chưa từng nghe khổng tước là loài chim của nhà phu tử.”

Chú giải

(1) Khổng Thản 孔坦, tự Quân Bình, làm chức thái úy, nên còn gọi là Khổng thái úy.

(2) Đây là cách chơi chữ. Dương trong hạt dương mai trùng với họ Dương, và khổng trong khổng tước (con chim công) trùng với họ Khổng.

44

孔 廷 尉 以 裘 與 從 弟 沈 , 沈 辭 不 受 。 廷 尉 曰 : 「晏 平 仲 之 儉 , 祠 其 先 人 , 豚 肩 不 掩 豆 , 猶 狐 裘 數 十 年 , 卿 復 何 辭 此 ? 」 於 是 受 而 服 之 。

Khổng đình úy dĩ cừu dữ tòng đệ Trầm, Trầm từ bất thụ. Đình úy viết : “Án Bình Trọng chi kiệm, (1) từ kỳ tiên nhân, đồn kiên bất yểm đậu, do hồ cừu sổ thập niên, khanh phục hà từ thử? ” Ư thị thụ nhi phục chi.

Dịch nghĩa

Quan đình úy họ Khổng đem cái áo lông cừu tặng cho em họ là Trầm, Trầm từ chối không nhận. Đình úy nói : “Án Bình Trọng tiết kiệm, khi cúng tổ tiên, vai lợn con không phủ nỗi mâm, nhưng vẫn mặc áo lông cừu đến vài chục năm, em việc gì lại từ chối? ” Trầm nghe vậy mới nhận mà mặc.

Chú giải

Án Anh, tên thụy là Bình, tự Trọng, là quan đại phu tài giỏi của nước Tề thời Xuân Thu, chủ trương sống cần kiệm, tương truyền ông mặc một cái áo cừu đến 30 năm.

45

佛 圖 澄 與 諸 石 遊 , 林 公 曰 : 「澄 以 石 虎 為 海 鷗 鳥 。」

Phật Đồ Trừng dữ chư Thạch du, Lâm công viết : :Trừng dĩ Thạch Hổ vi hải âu điểu.”

Dịch nghĩa

Phật Đồ trừng giao du với những người họ Thạch, Lâm công nói : “Trừng xem Thạch Hổ như chim hải âu.”

Chú giải

(1) Phật Đồ Trừng (232 – 348) là cao tăng đắc đạo người Tây Vực. Ông đến Lạc Dương vào năm 310, triều Tấn Hoài đế. Gặp loạn bát vương, ông phải ẩn mình nơi thảo dã, sau về với Thạch Lặc, được em của Thạch Lặc là Thạch Hổ cực kỳ sủng tín. Thạch Lặc là người bộ tộc Yết, đem quân xâm chiếm Trung Quốc, lập nên chính quyền Hậu Triệu. Lặc mất, em họ là Thạch Hổ lên thay.

(2) Lâm công là Chi Đạo支遁, tự Đạo Lâm 道林; Lâm công là cách gọi tôn xưng.

Lời bàn thêm

Theo sách Liệt Tử, có một người sống bên bờ biển, thích những con chim hải âu. Hàng ngày anh ta cứ ra biển chơi đùa với chúng. Một ngày nọ, cha anh ta yêu cầu anh ta bắt một con chim đem về chơi. Hôm sau anh ta ra biển, đàn chim hải âu không đáp xuống nữa.

Người xưa nói sống với vua như đùa với cọp, luôn phải nơm nơp lo sợ, vì không biết có thể mất mạng lúc nào Phật Đồ Trừng giữ tâm hồn nhiên không còn phân biệt vật, ngã; nên vẫn xem vua như hải âu trên biển.

46

謝 仁 祖 年 八 歲 , 謝 豫 章 將 送 客 , 爾 時 語 已 神 悟 , 自 參 上 流 。 諸 人 咸 共 歎 之 曰 : 「年 少, 一 坐 之 顏 回 。 」 仁 祖 曰 : 「坐 無 尼 父 , 焉 別 顏 回 ? 」

Tạ Nhân Tổ niên bát tuế, Tạ Dự Chương(1) tương tống khách, nhĩ thời ngữ dĩ thần ngộ, tự tham thượng lưu. Chư nhân hàm cộng thán chi viết : “Niên thiếu, nhất tọa chi Nhan Hồi.” Nhân Tổ viết : “Tọa vô Ni phủ, yên biệt Nhan Hồi? ”

Dịch nghĩa

Tạ Nhân Tổ năm lên tám được Tạ Dự Chương dẫn đi tiễn khách; lúc ấy, mỗi lời nói đều lĩnh ngộ thần tình, tự tham dự vào tầng lớp trí thức thượng đẳng. Mọi người đều trầm trồ khen ngợi : “Tuổi tuy còn nhỏ, nhưng là một Nhan Hồi trong những người ngồi nơi đây.” Nhân Tổ nói : “Ngồi nơi đây không có đức Khổng Tử, làm sao biết được Nhan Hồi? ”

Chú giải

Tạ Côn (281 – 324) tự Ấu Dư 幼輿, là danh sĩ đời Đông Tấn. Ông từng làm thái thú Dự Chương tên được gọi là Tạ Dự Chương. Tạ Nhân Tổ là con trai của Tạ Côn.

Lời bàn thêm

Thời Đông Tấn, các danh sĩ ngồi lại với nhau là thường hay luận bàn về huyền học và đánh giá rất cao Khổng Tử (xem thêm tiết 50). Khổng Tử có tên tự là Trọng Ni nên được người đương thời gọi là Ni phủ để biểu hiện sự kính trọng. Nhan Hồi là cao đồ yểu mệnh của Khổng Tử, thể hội được phần tâm truyền trong tư tưởng của thầy, được hậu nho tôn xưng là Á Thánh.

Câu nói của Nhân Tổ biểu hiện ngạo khí của tuổi trẻ. Các ngài ngồi quanh đây không một ai sánh được với Khổng Tử thì làm sao có đủ trình độ để biết được tôi là Nhan Hồi? Người xưa có nói : “Con quạ dẫu sống đến trăm năm vẫn là con quạ, phượng hoàng vừa sinh ra đã là phượng hoàng.” Về mặt trí tuệ bẩm sinh, câu này không phải là không đúng. Mái tóc bạc thường chỉ là biểu tượng của thời gian chứ chưa hẳn là của trí tuệ.

47

陶 公 疾 篤 , 都 無 獻 替 之 言 , 朝 士 以 為 恨 。 仁 祖 聞 之 曰 : 「時 無 豎 刁 , 故 不 貽 陶 公 話 言 。 」 時 賢 以 為 德 音 。

Đào công tật đốc, đô vô hiến thế chi ngôn, triều sĩ dĩ vi hận. Nhân Tổ văn chi viết : “Thời vô Thụ Điêu, cố bất di Đào công thoại ngôn.” Thời hiền dĩ vi đức âm.

Dịch nghĩa

Đào công bệnh nặng, mà chưa có lời trối chỉ định người thay thế, các quan trong triều đêu lấy làm hận. Nhân Tổ nghe được, nói “Thời này không có Thụ Điêu, nên không để lại những lời di ngôn của Đào công.” Người hiền thời bấy giờ đều cho đó là lời của người có đức.

Chú giải

(1) Đào công là Đào Khảng 陶侃 (259-334), tự Sĩ Hành 士行, được phong là Trường Sa quận công dưới triều Tấn Thành đế, làm chức thái úy, danh vọng cực cao.

(2) Thụ Điêu là một hoạn quan gian xảo, được Tề Hoàn công sủng ái. Tể tướng Quản Trọng lúc lâm chung dặn dò Tề Hoàn công không được sử dụng tên này. Tề Hoàn công không nghe, về sau bị Thụ Điêu phế ngôi, giam trong phóng kín, bắt nhịn đói mà chết.

 48

竺 法 深 在 簡 文 坐 , 劉 尹 問 : 「道 人 何 以 游 朱 門 ? 」 答 曰 : 「君 自 見 其 朱 門 , 貧 道 如 游 蓬 戶 。 」 或 云 卞 令 。

Trúc pháp thâm tại Giản Văn tọa, Lưu Doãn vấn : “Đạo nhân hà dĩ du chu môn? ”(2) Đáp viết : “Quân tự kiến kỳ chu môn, bần đạo như du bồng hộ.” Hoặc vân Biện lệnh.

Dịch nghĩa

Hòa thượng Trúc Pháp Thâm ngồi hầu Giản Văn đế, Lưu Doãn hỏi : “Đạo nhân lấy gì để giao du ở chu môn? ” Đáp : “Ngài tự thấy đó là chu môn, bần đạo xem như chơi nơi nhà tranh.” Có người nói thượng thự lệnh họ Biện đã hỏi câu đó.

Chú giải

(1) Pháp Thâm x. 1-30. Lưu Doãn x.1-35.

(2) Chu môn nghĩa đen là “cửa đỏ”, chỉ nơi quyền quý.

(3) Bồng hộ là nhà làm bằng cỏ bồng, dùng để chỉ nơi ở của người nghèo khổ.

(4) Biện lệnh là Biện Hồ 卞壺, tự Vọng Chi 望之, giữ chức thượng thư lệnh.

49

孫 盛 為 庾 公 記 室 參 軍 , 從 獵 , 將 其 二 兒 俱 行 。 庾 公 不 知 , 忽 於 獵 場 見 齊 莊 , 時 年 七 八 歲 。 庾 謂 曰 : 「君 亦 復 來 邪 ? 」 應 聲 答 曰 : 「所 謂 『 無 小 無 大 , 從 公 于 邁 』 。 」

Tôn Thịnh vi Dữu công ký thất tham quân, tòng liệp, tương kỳ nhị nhi câu hành. Dữu công bất tri, hốt ư liệp trường kiến Tề Trang, thời niên thất bát tuế. Dữu vị viết : “Quân diệc phục lai da? ” Ứng thanh đáp viết : “Sở vị ‘vô tiểu vô đại, tòng công vu mại.’”(2)

Dịch nghĩa

Tôn Thịnh làm ký thất tham quân cho Dữu công, theo Dữu công đi săn, dẫn hai đứa con nhỏ cùng đi. Dữu công không hay biết, hốt nhiên thấy Tề Trang tại bãi săn, lúc đó mới bảy, tám tuổi. Dữu hỏi : “Ngươi cũng đến đây sao? ” Tề Trang liên đap ngay : “Đó gọi là ‘không kể lớn hay nhỏ, đều theo ngài đi xa’ vậy”.

Chú giải

(1) Ký thất tham quân là chức quan trông coi sổ sách cho Dữu công (x.1-31).

(2) Đây là câu thơ trong bài thơ Phán thủy, thuộc Vệ phong, trong Kinh Thi.

50

孫 齊 由 、 齊 莊 二 人 小 時 詣 庾 公 。 公 問 : 「齊 由 何 字 ? 」 答 曰 : 「字 齊 由 。 」 公 曰 : 「欲 何 齊 邪 ? 」 曰 : 「齊 許 由 。 」 「齊 莊 何 字 ? 」 答 曰 : 「字 齊 莊 。 」 公 曰 : 「欲 何 齊 ? 」 曰 : 「齊 莊 周 。 」 公 曰 : 「何 不 慕 仲 尼 而 慕 莊 周 ? 」 對 曰 : 「聖 人 生 知 , 故 難 企 慕 。 」 庾 公 大 喜 小 兒 對 。

Tôn Tề Do, Tề Trang nhị nhân tiểu thời nghệ Dữu công. Công vấn : “Tề Do hà tự? ” Đáp viết : “Tự Tề Do.” Công viết : “Dục hà tề da? ” Viết : “Tề Hứa Do.” “Tề Trang hà tự? ” Đáp viết : “Tự Tề Trang.” Công viết : “Dục hà tề? ” Viết : “Tề Trang Chu.” Công viết : “Hà bất mộ Trọng Ni nhi mộ Trang Chu? ” Đối viết : “Thánh nhân sinh tri, cố nan xí mộ.”’ Dữu công đại hỷ tiểu nhi đối.

Dịch nghĩa

Hai anh em Tôn Tề Do và Tề Trang lúc nhỏ đến bái phỏng Dữu công. Công hỏi : “Tự của Tề Do là gì? ” Đáp : “Tự là Tề Do.” Công hỏi : “Muốn bằng với ai? ” Đáp : “Bằng Hứa Do.” “Tự của Tề Trang là gì? ” Đáp : “Tự là Tề Trang.” Công hỏi : “Muốn bằng với ai? ” Đáp : “Bằng Trang Chu.” Công hỏi : “Vì sao không ngưỡng mộ Trọng Ni mà ngưỡng mộ Trang Chu? ” Đáp : “Thánh nhân sinh ra đã biết, nên khó lòng ngưỡng mộ.” Dữu công rất hài lòng với câu trả lời của đứa nhỏ.

Chú giải

(1) Tên “tự” là biệt danh của một người, dùng để biểu hiện tâm tư, hoài bão hoặc cốt cách v.v… của một người. Kinh Lễ quy định con trai hai mươi tuổi làm lễ đội mũ, gọi là lễ gia quan, rồi mới đặt tên tự. Tề có nghĩa là “ngang bằng”.

(2) Hứa Do (x.2-1). Trang Chu là triết gia lỗi lạc thời Chiến Quốc, với Nam Hoa kinh được xem là một trong những tác phẩm kinh điển lỗi lạc nhất trong nền văn học Trung Quốc.

Lời bàn thêm

Khổng Tử, trong sách Luận ngữ, phân biệt ba loại tri thức theo thứ tự : “sinh nhi tri” (sinh ra đã biết) là cao nhất, “học nhi tri” (do học mà biết) kém hơn một bậc; “khốn nhi tri” (do lâm vào cảnh khốn cùng mà biết) còn kém hơn một bậc nữa. “Sinh nhi tri” chỉ dành cho các bậc thánh nhân “vô sự tự ngộ” như Khổng Tử. Trong Phật giáo, “sinh nhi tri” dành cho các vị Độc giác Phật trong Phật giáo; còn “học nhi tri” dành cho hàng thanh văn. “Tề Trang” mà không dám “Tề Khổng” là một trong những đặc điểm trong cái học thanh đàm thời Tấn.

51

張 玄 之 、 顧 敷 , 是 顧 和 中 外 孫 , 皆 少 而 聰 惠 。 和 並 知 之 , 而 常 謂 顧 勝 , 親 重 偏 至 , 張 頗 不 懨 。 于 時 張 年 九 歲 , 顧 年 七 歲 , 和 與 俱 至 寺 中 。 見 佛 般 泥 洹 像 , 弟 子 有 泣 者 , 有 不 泣 者 , 和 以 問 二 孫 。 玄 謂 「被 親 故 泣 , 不 被 親 故 不 泣 」 。 敷 曰 : 「不 然 , 當 由 忘 情 故 不 泣 , 不 能 忘 情 故 泣 。 」

Trương Huyền Chi, Cố Phu, thị Cố Hòa trung ngoại tôn, giai thiếu nhi thông tuệ. Hòa tịnh tri chi, nhi thường vị Cố thắng, thân trọng thiên chí, Trương phả bất yêm. Vu thời Trương niên cửu tuế, Cố niên thất tuế, Hòa dữ câu chí tự trung. Kiến Phật bàn nê hoàn tượng, đệ tử hữu khấp giả, hữu bất khấp giả, Hòa dĩ vấn nhị tôn. Huyền vị “Bị thân cố khấp, bất bị thân cố bất khấp”.(2) Phu viết : “Bất nhiên, đương do vong tình cố bất khấp, bất năng vong tình cố khấp.”

Dịch nghĩa

Trương Huyền Chi, Cố Phu là cháu ngoại của Cố Hòa, (1) khi còn nhỏ đã rất thông tuệ. Hòa đều khen ngợi cả hai, nhưng thường bảo là Cố giỏi hơn, nên đặc biệt gần gũi và xem trọng, khiến Trương tỏ vẻ không vui. Năm Trương chín tuổi, Cố mười một tuổi, Hòa dắt cả hai đi lễ chùa. Nhìn tượng Phật nhập Niết Bàn, đệ tử có người khóc, có người không, Hòa hỏi hai cháu. Huyền đáp : “Do được thân thiết nên khóc, không được thân thiết nên không khóc.” Cố nói : “Không phải, đó là do quên được tình nên không khóc, không quên được tình nên phải khóc.”

Chú giải

(1) Trương Huyền Chi, tự Tổ Hy 祖希, khi còn nhỏ đã nổi tiếng học giỏi, làm thượng thư bộ lại, rồi thái thú Ngô Hưng. Cùng với quan nội sử Cối Kê là Tạ Huyền 謝玄 được người đời xưng tụng là Nam Bắc nhị huyền. Cố Hòa x.2-33.

(2) Câu này có bản ghi là “Bỉ thân cố khấp, bất bỉ thân cố bất khấp. 彼 親 故 泣 ,彼不 親 故 不 泣.” (Do được người kia xem là thân thiết nên khóc, do không được người kia xem là thân thiết nên không khóc.)

Lời bàn thêm

Lệ là vật của kẻ hữu tình. Chỉ có kẻ hữu tình mới biết nhỏ lệ. Sống trong đời mà không nhỏ lệ chỉ có kẻ vô tình hoặc vong tình. Kẻ vô tình thì trái tim sắt đá, chỉ kẻ vong tình mới đạt đến cảnh giới siêu thoát với tâm bất động để rong chơi nơi làng Vô Hà Hữu của Trang Chu. Câu nói của Trương còn chút hờn dỗi, câu nói của Cố quả thực kinh nhân.

52

庾 法 暢 造 庾 太 尉 , 握 麈 尾 至 佳 , 公 曰 : 「此 至 佳 , 那 得 在 ? 」 法 暢 曰 : 「廉 者 不 求 , 貪 者 不 與 , 故 得 在 耳 。 」

Dữu Pháp Sướng tạo Dữu thái úy, ác chủ vĩ chí giai, công viết : “Thử chí giai, na đắc tại? ” Pháp Sướng viết : “Liêm giả bất cầu, tham giả bất dữ, cố đắc tại nhĩ.”

Dịch nghĩa

Dữu Pháp Sướng đến thăm Dữu thái úy, cầm theo cây phất trần cực đẹp, Dữu thái úy hỏi : “Vật này cực đẹp, sao lại ở đây? ” Pháp Sướng đáp : “Người liêm không cầu, người tham không tặng, nên nó được ở đây.”

Chú giải

(1) Dữu Phật Sướng, có bản ghi là Khang Pháp Sướng 康法暢, chưa rõ là vị tăng nào. Dữu thái úy tức Dữu Lượng (x.2-30)

(2) Chủ vĩ (đuôi con chủ) dùng để chỉ cây phất trần. Theo sách cổ, chủ là một giống thú giống như con hươu mà to, đuôi nó luôn phe phẩy để quét sạch bụi. Phất trần là vật cầm tay phổ biến của hòa thượng và đạo sĩ, vừa để trang sức, vừa để biểu cảm khi đàm đạo.

Lời bàn thêm

Câu đói thoại này khiên ta không khỏi nhó đe một giai thoại lý thú trong Triệu Châu ngữ lục.

Có một vị tú tài thấy cây trụ trượng trong tay sư, bèn hỏi :

-Phật không bao giờ đoạt mất nguyện vọng của chúng sinh, có phải không?

Sư đáp:

Phải!

Vị tú tài liền nói

– Vãn bối muốn xin cây trụ trượng trong tay hòa thượng có được không?

Sư đáp :

Quân tử không đoạt cái người ta thích.

Vị tú tài nói :

Vãn bối không phải là quân tử.

Sư đáp :

Lão tăng cũng chẳng phải là Phật.

(Tôi xin dẫn lại nguyên văn để bạn đọc tham khảo :

(Hữu tú tài kiến sư thủ trung trụ trượng, nãi vân : “Phật bất đoạt chúng sinh nguyện, thị phủ? ” Sư vân : “Thị.” Tú tài vân : “Mỗ giáp tựu hòa thượng khất thủ thủ trung trụ trượng, đắc phủ? ” Sư vân : “Quân tử bất đoạt nhân sở hiếu.” Tú tài vân : “Mỗ giáp bất thị quân tử.” Sư vân : “Lão tăng diệc bất thị Phật.” 有 秀 才 見 師 手 中 拄 杖 , 乃 云 : 「佛 不 奪 眾 生 願 , 是 否 ? 」 師 云 : 「是 。 」 秀 才 云 : 「某 甲 就 和 尚 乞 取 手 中 拄 杖 , 得 否 ? 」 師 云 : 「君 子 不 奪 人 所 好 。 」 秀 才 云 : 「某 甲 不 是 君 子 。 」 師 云 : 「老 僧 亦 不 是 佛 。 」)

Cây trụ trượng còn ở trong tay sư Triệu Châu vì người xin trụ trượng có không phải là quân tử đi nữa thì người giữ trụ trượng không phải là Phật. Nếu Dữu thái úy mà nói tiếp : “Ta không phải là người liêm.”, ắt Pháp Sướng sẽ đáp : “Nhưng lão tăng là người tham.”

53

庾 稚 恭 為 荊 州 , 以 毛 扇 上 武 帝 。 武 帝 疑 是 故 物 。 侍 中 劉 劭 曰 : 「柏 梁 雲 構 , 工 匠 先 居 其 下 ; 管 弦 繁 奏 , 鍾 、 夔 先 聽 其 音 。 稚 恭 上 扇 , 以 好 不 以 新 。 」 庾 後 聞 之 曰 : 「此 人 宜 在 帝 左 右 。 」

Dữu Trĩ Cung vi Kinh Châu, dĩ mao phiến thượng Võ đế.(1) Võ đế nghi thị cố vật. Thị trung Lưu Thiệu viết : “Bá Lương vân cấu, (2) công tượng tiên cư kỳ hạ; quản huyền phồn tấu, Chung, Quỳ tiên thính kỳ âm.(3) Trĩ Cung thượng phiến, dĩ hảo bất dĩ tân.” Dữu hậu văn chi viết : “Thử nhân nghi tại đế tả hữu.”

Dịch nghĩa

Dữu Trĩ Cung đem quạt lông chim dâng lên Tấn Võ đế. Võ đế ngờ là vật cũ. Quan thị trung Lưu Thiệu tâu : “Đài Bá Lương xây cao đến tận mây, thợ xây là người ở trước trong đó; tiếng sáo, tiếng đàn đua nhau hòa tấu, Chung, Quỳ là người nghe trước âm thanh. Trĩ Cung dâng quạt, là lấy cái đẹp chứ không phải lấy cái mới.” Dữu sau đó nghe được chuyện, nói : “Người này đáng để hầu cận bên hoàng đế.”

Chú giải

(1) Theo Tấn thư thì người dâng quạt là anh của Trĩ Cung, tên Canh Dịch 庚懌, làm thứ sử Dự Châu, chứ không phải là Trĩ Cung. Vũ phiến là loại quạt làm bằng lông chim, ban đầu được sản xuất tại vùng Giang Nam, sau đó mới nhập vào Trung Nguyên, được xem là vật quy nên thường dùng để tiến vua.

(2) Đài Bá Lương rất nguy nga, được xây dựng tại thành Trường An, vào đời Hán.

(3) Quản là nhạc cụ hơi, huyền là nhạc cụ dây, dùng để chỉ chung cho các loài nhạc cụ. Chung là Chung Tử Kỳ, người đời Xuân Thu. Tử Kỳ là người duy nhất nghe tiếng đàn của Bá Nha, lĩnh hội được hết diệu lý “cao sơn lưu thủy” bên trong. Tử Kỳ mất, Bá Nha đập đàn bên mộ, thề suốt đời không đàn cho ai nghe nữa. Qùy là tên một nhạc quan đời vua Thuấn. Chung, Quỳ ở đây chỉ người sành âm luật.

Lời bàn thêm

Đem vật báu dâng lên vua mà vua ngờ là đồ cũ thì điều đó đồng nghĩa với họa sát thân. Một lâu đài dù hoành tráng đến đâu, trước ngày khánh thành cũng đã có những người thợ xây ở trước; một ban nhạc dù hay đến mấy, trước khi trình diễn cũng phải qua lỗ tai của kẻ thâm âm. Kẻ hầu cận bên vua, một lời nói có thể giết người mà cũng có thể cứu người. Lời của Lưu Thiệu quả là tuyệt diệu, xứng đáng hầu cận bên vua để cứu đời.

54

何 驃 騎 亡 後 , 徵 褚 公 入 。 既 至 石 頭 , 王 長 史 、 劉 尹 同 詣 褚 。 褚 曰 : 「真 長 何 以 處 我 ? 」 真 長 顧 王 曰 : 「此 子 能 言 。 」 褚 因 視 王 , 王 曰 : 「國 自 有 周 公 。 」

Hà phiêu kỵ vong hậu, trưng Trữ công nhập.(1) Ký chí Thạch Đầu, (2) Vương trưởng sử,(3) Lưu Doãn đồng nghệ Trữ. Trữ viết : “Chân Trường hà dĩ xử ngã? ” Chân Trường cố Vương viết : “Thử tử năng ngôn.” Trữ nhân thị Vương, Vương viết : “Quốc tự hữu Chu Công.”(4)

Dịch nghĩa

Sau khi Hà phiêu kỵ mất, Trữ công được lệnh nhập triều. Khi đến thành Thạch Đầu, Vương trưởng sử, Lưu Doãn đều đến bái phỏng Trữ. Trữ hỏi : “Này Chân Trường, triều đình sẽ an trí ta thế nào? ” Chân Trường nhìn Vương mà nói : “Vị này có thể nói được.” Trữ nhân đó mà nhìn Vương, Vương nói : “Nước tự có Chu Công.”

Chú giải

(1) Hà phiêu kỵ là Doãn何充, làm chức phiêu kỵ tướng quân thời Đông Tấn; sau khi Tấn Mục đế (343-361) đăng cơ, Hà được thăng làm tể tướng, phò tá triều chính. Trữ công tức Trữ Bầu (x.1-34)

(2) Thạch Đầu là một thành ở gần Kiến Khang. Vương trưởng sử là Vương Mông王濛,, Trọng Tổ 仲祖, làm chức tư đồ tả trưởng sử. Lưu Doãn là Lưu Chân Trường (x.1-35)

(3) Trưởng sử là chức quan phụ trách quân vụ.

(4) Câu này có nghĩa là : “Triều đình vốn có sẵn Chu Công rồi.”, nhằm khen gợi Trữ Bầu. Chu Công là nhà chính trị huyền thoại của Trung Quốc thời Tây Chu. Ông phò tá Chu Thành Vương, có công xây dựng nên nền văn hóa và chính trị cho nhà Chu, và hầu như cho cả Trung Quốc suốt mấy ngàn năm.

55

桓 公 北 征 經 金 城 , 見 前 為 琅 邪 時 種 柳 , 皆 已 十 圍 , 慨 然 曰 : 「木 猶 如 此 , 人 何 以 堪 ! 」 攀 枝 執 條 , 泫 然 流 淚 。

Hoàn công bắc chinh kinh Kim Thành, kiến tiền vi Lang Da thời chủng liễu, giai dĩ thập vi, khái nhiên viết : “Mộc do như thử, nhân hà dĩ kham! ” Phan chi chấp điều, huyễn nhiên lưu lệ.

Dịch nghĩa

Hoàn công bắc chinh, đi qua Kim Thành, thấy những cây liễu trồng trong thời trấn thủ Lang Da dạo trước đều đã lớn mười vòng, nghe lòng cảm khái, nói : “Cây mới được như thế, người làm gì được vậy! ” Vịn thân, cầm nhánh mà dàn dụa nước mắt.

Chú giải

(1) Hoàn công là Hoàn Ôn 桓溫, từng làm các chức chinh tây đại tướng quân, rồi đại tư mã. Năm 369, Ôn dẫn quân bắc chinh, đánh nước Yên. Năm 341, Hoàn Ôn giữ chức Lang Da quốc nội sử, trấn thủ Kim Thành, đến khi mang quân bắc phạt thì thời gian trôi qua đã gần 30 năm.

(2) Vi (vòng) ở đây là chu vi của vòng tròn được tạo hai ngón cái và hai ngòn trỏ của hai bàn tay. Như vậy, một vi (vòng) dài tầm 35cm – 40cm.

56

簡 文 作 撫 軍 時 , 嘗 與 桓 宣 武 俱 入 朝 , 更 相 讓 在 前 。 宣 武 不 得 已 而 先 之 , 因 曰 : 「伯 也 執 殳 , 為 王 前 驅 。 」 簡 文 曰 : 「所 謂 『 無 小 無 大 , 從 公 于 邁 』 。 」

Giản Văn tác phủ quân thời, thường dữ Hoàn Tuyên Võ câu nhập triều, (1) cánh tương nhượng tại tiền. Tuyên Cõ bất đắc dĩ nhi tiên chi, nhân viết : “Bá dã chấp thù, vi vương tiền khu.” Giản Văn viết : “Sở vị ‘vô tiểu vô đại, tòng công vu mại.’”(2)

Dịch nghĩa

Giản Văn đế khi còn làm phủ quân tướng quân, thường cùng Hoàn Tuyên Võ vào chầu, hai bên cứ nhường cho người kia đi trước. Tuyên Võ bất đắc dĩ phải đi trước, nhân đó nói : “Ngài nắm giữ cây côn, làm tiền khu cho vua.” Giản Văn đáp : “Đó gọi là ‘không kể lớn hay nhỏ, đều theo ngài đi xa’ vậy”.

Chú giải

(1) Đừng nhầm phủ quân 撫軍 ở đây (gọi tắt của phủ quân tướng quân 撫軍將軍 là chức quan chỉ huy quân đội) với phủ quân 府君 (từ tôn xưng quan thái thú hoặc quan đứng đầu một địa phương). Tên thụy của Hoàn Ôn là Tuyên Võ. (x.2-55)

(2) Hai câu này trích từ bài thơ Bá hề trong Kinh Thi : “Bá hề khiết hề! Bang chi kiệt hề! Bá dã chấp thù, Vi vương tiền khu. 伯 兮 朅 兮,邦 之 桀 兮!伯 也 執 殳,為 王 前 驅。” (Chàng ơi, chàng dũng mãnh quá! Chàng là người tuấn kiệt trong cả nước! Chàng cầm cây côn, làm quân tiền khu cho nhà vua.) Thù là binh khí cán dài, không có mũi nhọn.

(3) “Vô tiểu vô đại, tòng công vu mại. (x.2-49)

57

顧 悅 與 簡 文 同 年 , 而 髮 蚤 白 。 簡 文 曰 : 「卿 何 以 先 白 ? 」 對 曰 : 「蒲 柳 之 姿 , 望 秋 而 落 ; 松 柏 之 質 , 經 霜 彌 茂 。 」

Cố Duyệt dữ Giản Văn đồng niên, nhi phát tảo bạch. Giản Văn viết : “Khanh hà dĩ tiên bạch? Đối viết : “Bồ liễu chi tư, vọng thu nhi lạc; tùng bách chi chất, kinh sương di mậu.”

Dịch nghĩa

Cố Duyệt với Giản Văn cùng tuổi, nhưng tóc sớm bạc. Giản Văn hỏi : “Ngài sao mà tóc bạc sớm thế? ” Cố đáp : “Tư chất như bồ liễu, hễ mùa thu đến thì rơi rụng; còn khí chất như tùng bách, trải sương tuyết càng thêm tươi tốt.”

58

桓 公 入 峽 , 絕 壁 天 懸 , 騰 波 迅 急 。 迺 歎 曰 : 「既 為 忠 臣 , 不 得 為 孝 子 , 如 何 ? 」

Hoàn công nhập Hiệp, (1) tuyệt bích thiên huyền, đằng ba tấn cấp. Nãi thán viết : “Ký vi trung thần, bất đắc vi hiếu tử, như hà? ”(2)

Dịch nghĩa

Hoàn ôn dẫn quân đến Tam Hiệp, vách núi cheo leo treo giữa trời, sóng nổi lớp lớp xô nhau. Bèn than : “Đã làm trung thần thì không thể làm hiếu tử, biết sao đây? ”

Chú giải

(1) Hoàn công là Hoàn Ôn (x.2-55). Năm Vĩnh Hòa thứ hai đời Tấn (346) daanx quân đánh Thục, nên phải qua vùng Tam Hiệp hiểm trở. Hiệp là vung Tam Hiệp (hoặc Tam Giáp) chỗ ba nhánh sông hợp thành sông Trường Giang, địa thế vô cùng hiểm trở.

(2) Theo Hán thư, Vương Dương 王陽 nhậm chức thái thú Ích Châu khi thị sát đến sườn núi gấp làm chín khúc, bèn than : “ Thân xác này là nhận từ mẹ cha, sao lại có thể đem dấn thân vào chỗ nguy hiểm này! ), bèn cáo bệnh từ quan. Về sau, Vương Tôn 王尊 làm thứ sử, đến nơi đó, hạ lệnh cho xa phu đẩy xe tiến lên, nói : “Vương Dương làm hiếu tử, Vương Tôn làm trung thần.

01

初 , 熒 惑 入 太 微 , 尋 廢 海 西 。 簡 文 登 阼 , 復 入 太 微 , 帝 惡 之 。 時 郗 超 為 中 書 在 直 。 引 超 入 曰 : 「天 命 脩 短 , 故 非 所 計 , 政 當 無 復 近 日 事 不 ? 」 超 曰 : 「大 司 馬 方 將 外 固 封 疆 , 內 鎮 社 稷 , 必 無 若 此 之 慮 。 臣 為 陛 下 以 百 口 保 之 。 」 帝 因 誦 庾 仲 初 詩 曰 : 「志 士 痛 朝 危 , 忠 臣 哀 主 辱 。 」 聲 甚 悽 厲 。 郗 受 假 還 東 , 帝 曰 : 「致 意 尊 公 , 家 國 之 事 , 遂 至 於 此 ! 由 是 身 不 能 以 道 匡 衛 , 思 患 預 防 , 愧 歎 之 深 , 言 何 能 喻 ? 」 因 泣 下 流 襟 。

Sơ, huỳnh hoặc nhập thái vi, (1) tầm phế Hải Tây.(2) Giản Văn đăng tộ, phục nhập thái vi, đế ố chi. Thời Hy Siêu vi trung thư tại trực.(3) Dẫn Siêu nhập viết : “Thiên mệnh tu đoản, cố phi sở kế, chính đương vô phục cận nhật sự phủ? ”(4) Siêu viết : “Đại tư mã phương tướng ngoại cố phong cương, nội trấn xã tắc, tất vô nhược thử chi lự. Thần vi bệ hạ dĩ bách khẩu bảo chi.” Đế nhân tụng Dữu Trọng Sơ thi viết : “Chí sĩ thống triều nguy, trung thần ai chủ nhục.” Thanh thậm thê lệ. Hy thụ giả hoàn đông, đế viết : “Trí ý tôn công, gia quốc chi sự, toại chí ư thử! Do thị thân bất năng dĩ đạo khuông vệ, tư hoạn dự phòng, quý thán chi thâm, ngôn hà năng dụ? ” Nhân khấp hạ lưu khâm.

Dịch nghĩa

Ban đầu, sao Huỳnh Hoặc nhập vào khu vực Thái Vi đàn. Chẳng lao lâu xảy ra chuyện phế Hải Tây. Giản Văn đế đăng cơ, sao Huỳnh Hoặc lại nhập vào khu vực Thái Vi đàn lần nữa, hoàng đế lấy làm chán ghét. Lúc bấy giờ, Hy Siêu giữ chức trung thư thị lang đang phiên trực, đế cho triệu Siêu vào triều, nói : “Mệnh trời dài hay ngắn vốn không phải là điều tính toán được, không biết có lặp lại những chuyện xảy ra gần đây không? ” Siêu tâu : “Đại tư mã ngoài thì giữ vững biên cương, trong thì an định xã tắc, chắc chắn không phải lo âu như thế. Thần xin vì bệ hạ mà dùng trăm mạng người ra để đảm bảo.” Hoàng đế nhân đó mà đọc hai câu thơ của Dữu Trọng Sơ : “Chí sĩ đau lòng vì triều đình lâm nguy, Trung thần xót xa vì quân chủ bị nhục.” Âm thanh cực kỳ thê lương. Hy có được kỳ nghỉ, quay về đông thăm nhà, đế bảo : “Ta gửi lời thăm lệnh tôn, chuyện quốc gia đã đến nước này! Đó là do bản thân ta không thể dùng đạo để sửa sai và giữ nước, không biết nghĩ đến những tai họa mà dự phòng, vậy lời nói làm sao có thể rõ ràng cho được! ” Nhân đó mà nước mắt chảy ướt đầm vạt áo.

Chú giải

(1) Huỳnh hoặc tức sao Hỏa. Thiên văn Trung Quốc thời cổ chia bầu trời thành ba khu vực gọi là đàn 垣, đó là Tử Vi đàn, Thái Vi đàn, và Thiên Thị đàn, Thái Vi đàn là một dãy sao nằm ở phía nam sao Bắc Đẩu.

(2) Hải Tây là Hải Tây công Tư Mã Dịch. Năm 365, Tấn Ai đế mất, Lang Nha vương Tư Mã Dịch đăng cơ, rồi bị phế làm Hải Tây công. Đến năm 371, là năm nhuận có hai tháng 10, sao Huỳnh Hoặc đi vào Thái Vi đàn. Đến tháng 11, đại tư mã Hoàn Ôn phế Tấn đế, giáng xuống bắt làm Đông Hải vương, đến tháng 12, giáng tiếp làm Đông Hải huyện công, lập Tư Mã Dục lên ngôi hoàng đế là Giản Văn đế. Đến tháng 12, sao Huỳnh Hoặc lại đi vào Thái Vi đàn, Giản Văn đế nhìn cảnh Hải Tây công bị phế, sợ chuyện phế lập lại tái diễn, nên mới có đoạn đối thoại trên.

(3) Hy Siêu ban đầu giữ chức tham quân cho Hoàn Ôn, thời Giản Văn đế giữ chức trung thư thị lang, rồi tư không tả trưởng sử.

(4) Người Trung Quốc gọi hoàng đế là “thiên tử” (con trời) vì tin rằng người lên ngôi vua là thuận theo “Mệnh trời”, nên “Mệnh Trời” dùng để chỉ số mệnh của quốc gia xã tắc. Chính đáng 政當 dùng như chính đáng 正當.

01

簡 文 在 暗 室 中 坐 , 召 宣 武 。 宣 武 至 , 問 上 何 在 ? 簡 文 曰 : 「某 在 斯 。 」 時 人 以 為 能 。

Giản Văn tại ám thất trung tọa, triệu Tuyên Võ. Tuyên Võ chí, vấn thượng hà tại? Giản Văn viết : “Mỗ tại tư.” Thời nhân dĩ vi năng.

Dịch nghĩa

Giản Văn đế ngồi trong căn phòng tối, chọ triệu Hoàn Tuyên Võ. Tuyên Võ đến hỏi hoàng thượng ở đâu? Giản Văn đế nói : “Ta ở đây.” Người đương thời cho ông là người tài giỏi.

Chú giải

Tuyên Võ (x.2-56). Ba chữ “Mỗ tại tư” lấy tích từ chương Vệ Linh công trong sách Luận Ngữ. Sư Miện là một nhạc sư mù đến thăm Khổng Tử. Khi ông ta bước gần đến thềm, Khổng Tử nói: “Đây là thềm”; bước gần tới chiếu, Khổng Tử nói: “Đây là chiếu”. Sa khi mọi người đã an toạn, Khổng Tử giới thiệu với ông ta: “Ông mỗ ngồi chỗ kia, ông mỗ ngồi chỗ kia” (Mỗ tại tư, mỗ tại tư.) Nhạc sư ra về rồi, Tử Trương hỏi: “Phép nói với nhạc sư là như vậy chăng? ” Khổng Tử đáp: “Phải. Đó đương nhiên là cách dắt dẫn nhạc sư (mù) vậy.”

Mỗ” nguyên được dùng để nói đến một người nào đó mang tính chung chung chứ không được chỉ định rõ ràng, như ta nói “ông X.”, “bà Y.”; nhưng về sau được dùng trong các cuộc trò chuyện để tự xưng về mình. Giản Văn đế đã khéo léo vận dụng lại câu này theo nghĩa đã biến đổi.

61

簡 文 入 華 林 園 , 顧 謂 左 右 曰 : 「會 心 處 , 不 必 在 遠 。 翳 然 林 水 , 便 自 有 濠 、 濮 閒 想 也 。 覺 鳥 獸 禽 魚 , 自 來 親 人 。 」

Giản Văn nhập hoa lâm viên, cố vị tả hữu viết : “Hội tâm xứ, bất tất tại viễn. Ế nhiên lâm thủy, tiện tự hữu Hào, Bộc nhàn tưởng dã.(2) Giác điểu thú cầm ngư, tự lai thân nhân.”

Dịch nghĩa

Giản Văn đế vào vườn Hoa Lâm, nhìn kẻ tả hữu, bảo : “Nơi để thể hội được tâm đâu cần phải xa. Nơi cây rừng rậm rạp, sông suối thâm u tự có những ý tưởng nhàn nhã nơi Hào, Bộc. Biết được các loài muông thú, chim cá thì tự nhiên sẽ thấy gần gũi với con người.”

Chú giải

(1) Hoa Lâm viên nguyên là ngự uyển của vua Ngô, được nhà Tấn tu bổ lại.

(2) Hào và Bộc là tên hai con sông được nhắc đến hai đoạn văn nổi tiếng trong sách Trang Tử.

Lời bàn thêm

Chương Thu Thủy trong Nam Hoa kinh của Trang Tử có hai đoạn văn vô cùng lý thú liên quan đến hai chữ Hào, Bộc. Hiểu được chúng mới cảm được hết cái hay trong câu nói của Giản Văn đế. Tôi xin dịch lại hai đoạn văn đó để bạn đọc tham khảo.

Đoạn 1

Trang Tử cùng Huệ Tử đứng chơi trên cầu sông Hào. Trang Tử nói:

– Đàn cá xanh bơi lội thung dung. Đó là cá vui vậy.

Huệ Tử nói:

– Ông không phải là cá, sao biết cái vui của cá?

Trang Tử nói:

– Ông không phải là tôi, sao biết tôi không biết cái vui của cá?

Huệ Tử nói:

– Tôi không phải là ông, dĩ nhiên không thể biết ông; còn ông dĩ nhiên không phải là cá, nên ông không biết được cái vui của cá cũng hoàn toàn như vậy!

Trang Tử nói:

– Xin hãy quay ngược lại từ gốc. Ông hỏi “ông làm sao biết cá vui? ”, nói như thế tức đã biết là tôi biết nên mới hỏi. Tôi biết được niềm vui đó trên sông Hào.”

Đoạn 2.

Trang Tử câu ở Bộc thủy, vua Sở sai hai quan đại phu đến trước, bảo :

– Muốn vì việc trong nước mà làm nhọc đến ngài.

Trang Tử cầm cần câu, chẳng ngoảnh lại nhìn, nói :

– Ta nghe nước Sở có con rùa thần, chết đã ba ngàn năm rồi, vua dùng vải gói nó trong giỏ tre mà cất nơi miếu đường. Con rùa ấy cam lòng chịu chết để lưu lại xương làm quý, hay là nó muốn sống để kéo lê đuôi trong bùn?

Hai vị đại phu nói :

– Muốn sống mà kéo lê đuôi trong bùn

Trang Tử nói :

– Về đi! Ta sắp kéo lê đuôi trong bùn đây!

62

謝 太 傅 語 王 右 軍 曰 : 「中 年 傷 於 哀 樂 , 與 親 友 別 , 輒 作 數 日 惡 。 」 王 曰 : 「年 在 桑 榆 , 自 然 至 此 , 正 賴 絲 竹 陶 寫 。 恆 恐 兒 輩 覺 , 損 欣 樂 之 趣 。 」

Tạ thái phó ngữ Vương hữu quân(1) viết : “Trung niên thương ư ai lạc, dữ thân hữu biệt, triếp tác sổ nhật ố.” Vương viết : “Niên tại tang du, tự nhiên chí thử, chính lại ty trúc đào tả. Hằng khủng nhi bối giác, tổn hân lạc chi thú.”

Dịch nghĩa

Tạ thái phó nói với Vương hữu quân : “Đến tuổi trung niên thì chịu cảnh đau thương vì chuyện buồn vui, chia tay bạn thân, còn được bao ngày lại muộn sầu chán ngán.” Vương nói : “Đến tuổi xế bóng, tự nhiên hiểu được điều đó, chắc phải nhờ đến tiếng trúc tiếng tơ để tiêu sầu giải muộn, nhưng lại luôn sợ con cháu biết, làm giảm mất thú vui.”

Chú giải

(1) Tạ thái phó (x.1-33); Vương hữu quân tức Vương Hy Chi 王羲之, (303—361, hoặc 321-379), tự Dật Thiểu 逸少, nhà thư pháp lỗi lạc của Trung Quốc, được hậu thế tôn xưng là “thư thánh” (ông thánh trong thư pháp).

(2) Tang du (cây dâu và cây du) : người Trung Quốc xưa cho rằng khi mặt trời lặn thì ánh nắng chỉ chiếu sáng trên đọt cây dâu và cây du, nên tang du dùng để nói cảnh hoàng hôn, và chỉ cảnh tuổi già xế bóng.

63

支 道 林 常 養 數 匹 馬 。 或 言 道 人 畜 馬 不 韻 , 支 曰 : 「貧 道 重 其 神 駿 。 」

Chi Đạo Lâm thường dưỡng sổ thất mã. Hoặc ngôn đạo nhân súc mã bất vận, Chi viết : “Bần đạo trọng kỳ thần tuấn.”

Dịch nghĩa

Chi Đạo Lâm có lần nuôi mấy con ngựa. Có người bảo đạo nhân nuôi ngựa không được phong nhã. Chi đáp : “Bần đạo xem trọng tài năng thần kỳ của chúng.”

Chú giải

Chi Đạo Lâm支道林 (314 – 366), còn có tên là Chi Độn 支遁, danh tăng đời Đông Tấn, giỏi về huyền học và Bát Nhã. Người Trung Quốc thời cổ dùng từ “đạo nhân” để gọi các đạo sĩ lẫn tăng sĩ, và các hòa thượng cũng tự xưng là “bần đạo” như các đạo sĩ.

Lời bàn thêm

Chi Đạo Lâm chẳng khác nào Bá Nhạc, xem tướng ngựa chỉ chú trọng thần thái, không xem hình tướng. Người hay vật mà tinh thần nội liễm đều có tài năng xuất chúng.

Sách Thái bình quảng ký trích dẫn U minh lục, kể rằng Sở Văn vương nước Sở lúc trẻ thích săn bắn. Có người dâng một con chim ưng, nhà vua thấy móng, cựa đều nhọn, màu sắc khắc hẳn chim thường, nên mang vào đầm Vân Mộng để đi săn. Bố trí lưới bẫy xong, đốt lửa khói nổi ngút trời. Trong lúc các loài thú cầm đều đang tranh nhau săn mồi thì con chim ưng chỉ nghiêng cổ, trừng mắt nhìn đăm đăm. Vua nói : “Chim ưng của ta đã bắt được hàng trăm con mồi rồi, còn chim ưng nhà người không có ý săn mồi, nhà ngươi muốn lừa ta sao? ” Người dâng chim ưng thưa : “Nếu nó chỉ biết bắt chim trĩ hay thỏ rừng thì thần há dám dâng cho đại vương? ” Được một lúc, ở tận cuối chân mây có một vật bay lượn không phân biệt rõ được hình dáng. Con chim ưng liền vỗ cánh bay vút lên cao, nhanh như điện chớp. Chẳng mấy chốc, lông đổ như tuyết, máu rơi như mưa, rồi có một con chim lớn rơi xuống đất, đôi cánh của nó dang rộng mười dặm. Mọi người chẳng ai biết là chim gì. Lúc đó, có một người học rộng nói : “Đây là chim đại bàng con.” Vua bèn trọng thường.

Ngựa của Chi Đạo Lâm cũng giống con thần ưng kia vậy.

64

劉 尹 與 桓 宣 武 共 聽 講 禮 記 。 桓 云 : 「時 有 入 心 處 , 便 覺 咫 尺 玄 門 。 」 劉 曰 : 「此 未 關 至 極 , 自 是 金 華 殿 之 語 。 」

Lưu Doãn dữ Hoàn Tuyên Võ cộng thính giảng Lễ Ký.(1) Hoàn vân : “Thời hữu nhập tâm xứ, tiện giác chỉ xích huyền môn.”(2) Lưu viết : “Thử vị quan chí cực, tự thị Kim Hoa điện chi ngữ.”(3)

Dịch nghĩa

Lưu Doãn và Hoàn Tuyên Võ cùng nghe giảng về Lễ Ký. Hoàn nói : “Khi đã có chỗ nhập tâm, mới biết chỉ cách với huyền môn trong gang tấc.” Lưu nói : “Những lời này chưa phải là chỗ chí cực mà chỉ những lời nói nơi điện Kim Hoa.”

Chú giải

(1) Lưu Doãn x.1-35; Hoàn Tuyên Võ x.2-55. Lễ Ký là một trong ngũ kinh của Nho giáo.

(2) Huyền môn dùng để chỉ những pháp môn huyền diệu của nhà Phật; ở đây chỉ lý lẽ sâu xa ảo diệu hoặc cảnh giới cao thâm.

(3) Đời Hán Võ đế, Trịnh Khoan Trung, Trương Vũ Tằng thường giảng cho hoàng đế nghe về Kinh ThưLuận Ngữ tại điện Kim Hoa. Câu này ý nói những điều vừa nghe giảng chỉ tầm thường như lời thường đàm giữa nho sinh và hoàng đế.

65

羊 秉 為 撫 軍 參 軍 , 少 亡 , 有 令 譽 。 夏 侯 孝 若 為 之 敘 , 極 相 讚 悼 。 羊 權 為 黃 門 侍 郎 , 侍 簡 文 坐 。 帝 問 曰 : 「夏 侯 湛 作 羊 秉 敘 絕 可 想 。 是 卿 何 物 ? 有 後 不 ? 」 權 潸 然 對 曰 : 「亡 伯 令 問 夙 彰 , 而 無 有 繼 嗣 。 雖 名 播 天 聽 , 然 胤 絕 聖 世 。 」 帝 嗟 慨 久 之 。

Dương Bỉnh(1) vi phủ quân tham quân, thiếu vong, hữu lệnh dự. Hạ Hầu Hiếu Nhược vi chi tự, (2) cực tương tán điệu. Dương Quyền vi hoàng môn thị lang, (3) thị Giản Văn tọa. Đế vấn viết : “Hạ Hầu Trạm tác ‘Dương Bỉnh tự’ tuyệt khả tưởng. Thị khanh hà vật? (4) Hữu hậu phủ? ” Quyền san nhiên đối viết : “Vong bá(5) linh vấn túc chương, nhi vô hữu kế tự. Tuy danh bá thiên thính, nhiên dận tuyệt thánh thế.”(6)Đế ta khái cửu chi.

Dịch nghĩa

Dương Bỉnh làm tham quân cho phủ quân, chết trẻ, có được tiếng khen. Hạ Hậu Nhược Hiếu vì ông mà viết bài tự, hết lời ca ngợi. Dương Quyền làm hoàng lang thị môn, có lần ngồi hầu Giản Văn đế. Đế hỏi : “Hạ Hầu Trạm viết ‘Dương Bỉnh tự’ tuyệt vời, khiến người ta tưởng nhớ Dương Bỉnh. Ông ta là người gì của khanh? Có con cái gì không? ” Quyền rưng rưng nước mắt, tâu : “Vong bá vốn nổi tiếng, nhưng lại không có con nối dõi. Tuy thanh danh thiên hạ đều nghe, nhưng dòng dõi lại bị dứt tuyệt nơi thánh thế.” Hoàng đế cảm khái, than thở không thôi.

Chú giải

(1) Khi Giản Văn đế còn làm phủ quân tướng quân thì Dương Bỉnh (không rõ năm sinh, năm mất) là tham tướng của ông. Bỉnh yểu mệnh, mất năm 32 tuổi. Chữ “thiếu vong” ở đây dùng không chính xác, vì nó chỉ dùng để nói về những thanh thiếu niên yểu mệnh.

(2) Tức Dương Bỉnh tự, tác phẩm nói về thân thế và hành trạng của Dương Bỉnh.

(3) Hạ Hầu Trạm tự là Nhược Hiếu. Dương Quyền là cháu của Dương bỉnh; hoàng môn thị lang là chức quan theo hầu cận hoàng đế, có nhiệm vụ truyền đạt chiếu chỉ.

(4) Hà vật 何物? ở đây là hà nhân 何人? . (5) Vong bá là người bác đã mất.

(6) Thánh thế là từ dùng để xưng tụng triều đại của đương kim hoàng đế.

66

王 長 史 與 劉 真 長 別 後 相 見 , 王 謂 劉 曰 : 「卿 更 長 進 。 」 答 曰 : 「此 若 天 之 自 高 耳 。 」

Vương trưởng sử dữ Lưu Chân Trường biệt hậu tương kiến, Vương vị Lưu viết : “Khanh cánh trường tiến.” Đáp viết : “Thử nhược thiên chi tự cao nhĩ.”

Dịch nghĩa

Vương trưởng sử và Lưu Chân Trường gặp lại nhau sau một thời gian chia tay. Vương nói với Lưu : “Ngài lại cao lớn thêm rồi.” Lưu đáp : “Cái đó cũng như trời tự cao lớn thêm.”

Chú giải

Vương trưởng sử x.2-54, Lưu Chân Trường x.1-35.

Lời bàn thêm

Lưu Chân Trường tự so mình với Trời, phản ánh phong cách cuồng ngôn trong lối thanh đàm thời Ngụy Tấn.

67

劉 尹 云 : 「人 想 王 荊 產 佳 , 此 想 長 松 下 當 有 清 風 耳 。 」

Lưu Doãn vân : “Nhân tưởng Vương Kinh Sản giai, thử tưởng trường tùng hạ đương hữu thanh phong nhĩ.”

Dịch nghĩa

Lưu Doãn nói : “Người ta cứ nghĩ rằng Vương Kính Sản tài giỏi, cũng nhứ cứ nghĩ rằng dưới bóng cây thông cao sẽ có gió mát.”

Chú giải

Vương Kính Sản tên Vương Huy 王徽, tự Ấu Nhân 幼仁, lúc nhỏ tên Kính Sản, làm chức tả quân tư mã. Ông nội là Vương Hựu làm bình bắc tướng quân, phụ thân là Vương Trừng làm thứ sử Kinh Châu lại là người sống phóng túng, không chịu câu thúc.

Lời bàn thêm

Câu này ám chỉ con cái xuất thân từ danh môn chưa hẳn đã là người tài giỏi. Người Việt Nam ta thường nói : “Cha làm thầy, con đốt sách.” là vậy.

68

王 仲 祖 聞 蠻 語 不 解 , 茫 然 曰 : 「若 使 介 葛 盧 來 朝 , 故 當 不 昧 此 語 。 」

Vương Trọng Tổ văn Man ngữ(1) bất giải, mang nhiên viết : “Nhược sử Giới Cát Lô(2) lai triều, cố đương bất muội thử ngữ.”

Dịch nghĩa

Vương Trọng Tổ nghe người Man nói, không hiểu, hoang mang bảo : “Nếu như có Cát Lô nước Giới đến triều, ắt sẽ không còn mê mờ với thứ tiếng này.”

Chú giải

(1) Người Trung Quốc cổ gọi những bộ tộc thiểu số ở đông bắc Trung Quốc là Man.

(2) Thời Xuân Thu, phía đông Trung Quốc có một nước nhỏ tên là Giới, vua là Cát Lô. Tương truyền Cát Lô hiểu được tiếng nói của trâu bò. Câu này có ý Vương Trọng Tổ nghe tiếng nói của người Man như tiếng trâu bò.

69

劉 真 長 為 丹 陽 尹 , 許 玄 度 出 都 就 劉 宿 。 床 帷 新 麗 , 飲 食 豐 甘 。 許 曰 : 「若 保 全 此 處 , 殊 勝 東 山 。 」 劉 曰 : 「卿 若 知 吉 凶 由 人 , 吾 安 得 不 保 此 ! 」 王 逸 少 在 坐 曰 : 「令 巢 、 許 遇 稷 、 契 , 當 無 此 言 。 」 二 人 並 有 愧 色 。

Lưu Chân Trường vi Đan Dương doãn, Hứa Huyền Độ(1) xuất đô tựu Lưu túc. Sàng duy tân lệ, ẩm thực phong cam. Hứa viết : “Nhược bảo toàn thử xứ, thù thắng Đông Sơn.” Lưu viết : “Khanh nhược tri cát hung do nhân, ngô an đắc bất bảo thử! ” Vương Dật thiếu tại tọa viết : “Linh Sào, Hứa ngộ Tắc, Khiết, (2) đương vô thử ngôn.” Nhị nhân tịnh hữu quý sắc.

Dịch nghĩa

Lưu Chân Trường khi còn làm quan doãn Đan Dương, Hứa Huyền Độ đến kinh đô, trọ tại nhà Lưu. Giường, màng đều mới tinh, hoa lệ, ăn uống dồi dào sang trọng. Hứa nói : “Nếu bảo toàn được chỗ này, còn khác biệt hơn cả Đông sơn.” Lưu nói : “Nêu ngài biết được lành dữ đều do người, tôi làm sao mà không bảo toàn được chỗ này! ” Vương Dật còn nhỏ, ngồi ở đó, nói : “Nếu để cho Sào, Hứa gặp được Tắc, Khế chắc không có những lời này.” Cả hai đều lộ vẻ ngượng ngùng.

Chú giải

(1) Hứa Tuân 許詢, tự Huyền Độ, giỏi thanh đàm, thích ở ẩn, từ chối không ra làm quan. Lưu Chân Trương cũng là một thanh đàm gia.

(2) Sào, Hứa x.2-9. Tắc là Hậu Tắc, thủy tổ nhà Chu; Khiết là thủy tổ nhà Thương.

Lời bàn thêm

Câu nói của cậu nhỏ Vương Dật đã phô bày thực trạng của những kẻ si ham chuộng thanh đàm thời đó. Nói thì toàn những thứ cao đàm khoát luận, hành thì tỏ ra cao đạo, khinh thế ngạo vật, nhưng tâm thì cử lẩn quẩn trong đống vật chất phù hoa.

70

王 右 軍 與 謝 太 傅 共 登 冶 城 。 謝 悠 然 遠 想 , 有 高 世 之 志 。 王 謂 謝 曰 : 「夏 禹 勤 王 , 手 足 胼 胝 ; 文 王 旰 食 , 日 不 暇 給 。 今 四 郊 多 壘 , 宜 人 人 自 效 。 而 虛 談 廢 務 , 浮 文 妨 要 , 恐 非 當 今 所 宜 。 」 謝 答 曰 : 「秦 任 商 鞅 , 二 世 而 亡 , 豈 清 言 致 患 邪 ? 」

Vương hữu quân dữ Tạ thái phó cộng đăng Dã thành. Tạ du nhiên viễn tưởng, hữu cao thế chi chí. Vương vị tạ viết : “Hạ Vũ cần vương, thủ túc biền chi; (2) Văn Vương cán thực, nhật bất hạ cấp. Kim tứ giao đa lũy, nghi nhân nhân tự hiệu. Nhi hư đàm phế vụ, phù văn phương yếu, khủng phi đương kim sở nghi.” Tạ đáp viết : “Tần nhiệm Thương Ưởng, nhị thế nhi vong, khởi thanh ngôn trí hoạn da? ”

Dịch nghĩa

Vương Hy Chi cùng thái phó Tạ An lên lầu thành Dã. Tạ lộ vẻ nhàn nhã, mơ tưởng xa xôi, có cái chí siêu thoát thế gian. Vương bảo Tạ : “Đại Vũ nhà Hạ giúp vua, tay chân đều sứt sẹo; Văn Vương đến chiều tối mới ăn, ban ngày không được rỗi. Nay bốn bề đầy thành lũy, lẽ ra người người cần giúp ích cho đất nước. Nếu cứ bàn luận viễn vông, không màng thực tế, dùng văn chương phù phiếm gậy hại cho điều thiết yếu, e rằng không phải là chuyện nên làm.” Tạ đáp : “Tần tín nhiệm Thương Ưởng, đến đời Nhị Thế thì mất, há do thanh đàm gây họa sao? ”

Chú giải

(1) Vương hữu quân x.2-62.

(2) Vua Nghiêu sai Đại Vũ chủ trì công việc trị thủy để tránh nạn lụt lội. Ông ở ngoài suốt chín năm, lao động nhọc nhằn đến nỗi chân tay đều sứt sẹo.

(3) Thương Ưởng là một nhà chính trị kiệt xuất của pháp gia ở giữa thời Chiến Quốc, phò tá Tần Hiếu Công (361TCN – 338TCN) thực hiện biến pháp, nhờ đó Tần trở thành cường quốc và truyền lại đến thế hệ thứ 6 cho Tần Thủy Hoàng. Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, nhưng chỉ truyền đến đời thứ hai là Tần Nhị Thế được ba năm thì Tần diệt vong.

71

謝 太 傅 寒 雪 日 內 集 , 與 兒 女 講 論 文 義 。 俄 而 雪 驟 , 公 欣 然 曰 : 「白 雪 紛 紛 何 所 似 ? 」 兄 子 胡 兒 曰 : 「撒 鹽 空 中 差 可 擬 。 」 兄 女 曰 : 「未 若 柳 絮 因 風 起 。 」 公 大 笑 樂 。 即 公 大 兄 無 奕 女 , 左 將 軍 王 凝 之 妻 也 。

Tạ thái phó hàn tuyết nhật nội tập, dữ nhi nữ giảng luận văn nghĩa. Nga nhi tuyết sậu, công hân nhiên viết : “Bạch tuyết phân phân hà sở tự? ” Huynh tử Hồ nhi viết : “Tát diêm không trung sai khả nghĩ.” Huynh nữ viết : “Vị nhược liễu nhứ nhân phong khởi.” Công đại tiếu lạc. Tức công đại huynh Vô Dịch nữ, tả tướng quân Vương Ngưng chi thê dã.

Dịch nghĩa

Tạ An nhân ngày tuyết lạnh, cho tập trung người nhà, cùng con gái nghị luận văn nghĩa. Đột nhiên tuyết rơi dữ dội, Tạ công vui vẻ nói : “Tuyết trắng mịt mù giống cái gì? ” Con trai của người anh là Hồ Nhi nói : “Hơi giống với muối trắng ném giữa không trung.” Con gái của người anh nói : “Giống như bông liễu bay trong gió.” Tạ công vui vẻ cười lớn. Cháu gái đó là con gái của người anh Tạ Vô Dịch, vợ của tả tướng quân Vương Ngưng.

72

王 中 郎 令 伏 玄 度 、 習 鑿 齒 論 青 、 楚 人 物 。 臨 成 , 以 示 韓 康 伯 。 康 伯 都 無 言 , 王 曰 : 「何 故 不 言 ? 」 韓 曰 : 「無 可 無 不 可 。 」

Vương trung lang lệnh Phục Huyền Độ, Tập Tạc Xỉ(1) luận Thanh, Sở nhân vật.(2) Lâm thành, dĩ thị Hàn Khang Bá.(3) Khang Bá đô vô ngôn, Vương viết : “Hà cố bất ngôn? ” Hàn viết : “Vô khả vô bất khả.”(4)

Dịch nghĩa

Vương trung lang bảo Phục Huyền Độ, Tập Tạc Xỉ bàn luận về các nhân vật ở Thanh Châu và Kinh Châu. Bàn luận xong, kể lại cho Hàn Khang Bá. Khang Bá im lặng, không nói lời nào. Vương hỏi : “Sao lại không nói? ” Hàn đáp : “Vô khả vô bát khả.”

Chú giải

(1) Vương trung lang tên Vương Đán Chi 王坦之, tự Văn Độ 文度, từng làm các chức trung thư lệnh, kiêm thứ sử Từ Châu và Duyện Châu. Phục Thao 伏滔, tự Huyền Độ, làm tham quân dưới trướng đại tư mã Hoàn Ôn. Tập Tạc Xỉ tự Ngạn Uy 彥威, từng làm thái thú Vinh Dương.

(2) Thanh, Sở là Thanh Châu và Kinh Châu. Kinh Châu trước kia thuộc nước Sở, nên được gọi là Sở. Người Trung Quốc cổ chia Trung Quốc thành chín châu. Thanh Châu bao khu vực bắc và đông bắc, Kinh Châu bao quát khu vực trung nam và tây nam.

(3) Hàn Bá, tự Khang Bá, làm lại bộ thượng thư.

(4) Chương Vi Tử, sách Luận Ngữ, ghi lại chuyện Khổng Tử đánh giá những nhân vật lịch sử nổi tiếng ngày trước như Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Châu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, người thì có ưu điểm này nhưng lại vướng khuyết điểm kia trong cách tiến thoái, ứng xử, rồi ông kết luận bản thân mình sẽ giữ được thái độ trung dung “Vô khả, vô bất khả” (không có gì là được, mà cũng chẳng có gì là không được.)

73

劉 尹 云 : 「清 風 朗 月 , 輒 思 玄 度 。 」

Lưu Doãn vân : “Thanh phong lãng nguyệt, triếp tư Huyền Độ.”

Dịch nghĩa

Lưu Doãn nói : “Thấy gió mát trăng thanh là nhớ đến Huyền Độ.”

Chú giải : X.2-69

74

荀 中 郎 在 京 口 , 登 北 固 望 海 云 : 「雖 未 睹 三 山 , 便 自 使 人 有 凌 雲 意 。 若 秦 、 漢 之 君 , 必 當 褰 裳 濡 足 。 」

Tuân trung lang tại Kinh Khẩu, đăng Bắc Cố, (1) vọng hải, vân : “Tuy vị đỗ Tam Sơn, tiện tự sử nhân hữu lăng vân ý. Nhược Tần, Hán chi quân, tất đương khiên thường nhu túc.”

Dịch nghĩa

Quan trung lang họ Tuân ở Kinh Khẩu, lên đình Bắc Cố, nhìn ra biển, nói : “Tuy chưa thấy được Tam Sơn, nhưng cũng khiến tâm hồn người ta bay bổng trên mây. Nếu là vua Tần, vua Hán ắt sẽ vén quần mà lội xuống biển.”

Chú giải

(1) Tuân trung lang la Tuân Tiển荀羨, tự Lệnh Tắc 令則, làm thứ sử Từ Châu. Núi Bắc Cố ở tại Kinh Khẩu (nay thuộc Giang Tô), trên đỉnh núi có đình Bắc Cố nhìn ra biển.

(2) Tam Sơn là ba ngọn núi Bồng Lai, Phương Trượng, và Doanh Châu theo truyền thuyết là nơi thần tiên ở, nằm chơi vơi giữa biển.

(3) Tần Thủy hoàng và Hán Võ đế đều mê muội với thuyết thần tiên, muốn luyện linh đan để được sống trường sinh bất lão

75

謝 公 云 : 「賢 聖 去 人 , 其 間 亦 邇 。 」 子 姪 未 之 許 。 公 歎 曰 : 「若 郗 超 聞 此 語 , 必 不 至 河 漢 。 」

Tạ công vân : Hiền thánh khứ nhân, kỳ gian diệc nhĩ.” Tử Điệt vị chi hứa. Công thán viết : “Nhược Hy Siêu văn thử ngữ, tất bất chí Hà Hán.”

Dịch nghĩa

Tạ An nói : “Giữa thánh hiền với người thường cách nhau cũng không xa.” Cháu ông không tán đồng. Tạ than : “Nếu Hy Siêu nghe được lời này, tất không đến mức xem là lời nói viễn vông.”

Chú giải

Hà Hán ở đây lấy điển tích từ chương Tiêu Dao Du, sách Trang Tử, dẫn lời của Kinh Ngô nói với Liên Thúc : “Ngô văn ngôn ư Tiếp Dư, đại nhi vô đương, vãng nhi bất phản. Ngô kinh bố kỳ ngôn, do Hà Hán nhi vô cực dã, đại hữu kính đình, bất cận nhân tình yên. 吾 聞 言 於 接 輿 , 大 而 無 當 , 往 而 不 反 。 吾 驚 怖 其 言 , 猶 河 漢 而 無 極 也 , 大 有 逕 庭 , 不 近 人 情 焉 。” (Ta nghe lời của Tiếp Dư, to lớn mà không xác đáng, có đi mà chẳng có về. Ta kinh sợ lời nói đó, giống như sông Hà, sông Hán mênh mông không bờ bến, không gần gũi với nhân tình.”)

Hy Siêu vốn thích bàn về huyền học, tinh thông nghĩa lý, được xem là một nhân vật kiệt xuất đương thời. Tạ An cho rằng Hy Siêu nếu nghe được câu nói của mình hẳn sẽ tán đồng.

76

支 公 好 鶴 , 住 剡 東 印 山 。 有 人 遺 其 雙 鶴 , 少 時 翅 長 欲 飛 。 支 意 惜 之 , 乃 鎩 其 翮 。 鶴 軒 翥 不 復 能 飛 , 乃 反 顧 翅 , 垂 頭 視 之 , 如 有 懊 喪 意 。 林 曰 : 「既 有 凌 霄 之 姿 , 何 肯 為 人 作 耳 目 近 玩 ? 」 養 令 翮 成 置 , 使 飛 去 。

Chi công hiếu hạc, trú Diệm đông Ấn sơn.(1) Hữu nhân di kỳ song hạc, thiểu thời sí trường dục phi. Chi ý tích chi, nãi sái kỳ cách. Hạc hiên chử bất phục năng phi, nãi phản cố sí, thùy đầu thị chi, như hữu áo táng ý. Lâm viết : “Ký hữu lăng tiêu chi tư, hà khẳng vi nhân tác nhĩ mục cận ngoạn? ” Dưỡng linh cách thành trí, sử phi khứ.

Dịch nghĩa

Chi công thích hạc, ở tại Ân sơn, phía đông huyện Diệm. Có người tặng cho một đôi hạc, chẳng bao lâu cánh dài, muốn bay. Chi có ý tiếc, bèn cắt ngắn cánh đi. Hạc giương cánh nhưng không thể bay, ngoảnh lại ngó đôi cánh, cúi đầu mà nhìn, như có ý sầu não. Lâm bảo : “Đã mang tư chất bay vút trời mây, lại có thể chịu làm trò chơi cho tai mắt của con người sao? ” Bèn nuôi cho đến khi cánh dài ra, rồi thả cho bay đi.

Chú giải

Chi công tức Đạo Lâm x.2-45. Núi Ấn sơn ở huyện Diệm, thuộc Cối Kê.

77

謝 中 郎 經 曲 阿 後 湖 , 問 左 右 : 「 此 是 何 水 ? 」 答 曰 : 「 曲 阿 湖 。 」 謝 曰 : 「 故 當 淵 注 渟 著 , 納 而 不 流 。 」

Tạ trung lang kinh Khúc A hậu hồ, vấn tả hữu : “Thử thị hà thủy? ” Đáp viết : “Khúc A hồ.” Tạ viết : “Cố đương uyên chú đình trứ, nạp nhi bất lưu.”

Dịch nghĩa

Quan lang trung Tạ An đi qua hồ Khúc A phía sau, hỏi kẻ ta hữu : “Đây là hồ gì? ” Đáp : “Hồ Khúc A.” Tạ nói : “Thảo nào nó hội tụ dồn chứa, nạp mà không chảy.”

Chú giải

(1) Tạ lang trung là Tạ Vạn 謝萬, tự Vạn Thạch 萬石, em của thái phó Tạ An, từng làm tây lang trung tướng.

(2) Uyên chú đình trứ : hội tụ, dồn chứa.Tương truyền Tần Thủy Hoàng thấy hộ Khúc A có vương khí nên cho đào một thủy đọa vào trong hồ để phá hủy vương khí kia đi.

78

晉 武 帝 每 餉 山 濤 , 恆 少 。 謝 太 傅 以 問 子 弟 , 車 騎 答 曰 : “ 當 由 欲 者 不 多 , 而 使 與 者 忘 少 。

Tấn Võ đế mỗi hướng Sơn Đào hằng thiểu.(1) Tạ thái phó dĩ vấn tử đệ, xa kỵ đáp viết : “Đương do dục giả bất đa, nhi sử dữ giả vong thiểu.”

Dịch nghĩa

Tấn Võ đế mỗi lần thường ban thưởng cho Sơn Đào đều thấy ít. Thái phó Tạ An hỏi các con em, xa kỵ tướng quân đáp : “Cần phải người cầu xin không ham nhiều mới khiến người cho quên cái thiếu.”

Chú giải

(1) Sơn Đào (205 – 283), tự Cự Nguyên 巨源, là một nhân vật trong Trúc Lâm thất hiền, từng làm các chức vụ thượng thư bộc xạ (chức phó của thượng thư tỉnh), rồi thượng thư bộ lại, tư đồ. Nhà nghèo, tính tình cô độc, say mê cái học Lão Trang, bạn thân của Kê Khang, Nguyễn Tịch.

(2) Xa kỵ ở đây chỉ xa kỵ tướng quân Tạ Huyền 謝玄, cháu của Tạ An. Tạ Huyền tự Ấu Độ 幼度, làm thứ sử Duyện Châu, sau khi mất được truy tặng chức xa kỵ tướng quân.

79

謝 胡 兒 語 庾 道 季 : 「 諸 人 莫 當 就 卿 談 , 可 堅 城 壘 。 」 庾 曰 : 「 若 文 度 來 , 我 以 偏 師 待 之 ; 康 伯 來 , 濟 河 焚 舟 。 」

Tạ Hồ Nhi ngữ Dữu Đạo Quý : “Chư nhân mạc đương tựu khanh đàm, khả kiên thành lũy.” Dữu viết : “Nhược Văn Độ lai, ngã dĩ thiên sư đãi chi; Khang Bá lai, tế hà phần chu.”

Dịch nghĩa

Tạ Hồ Nhi nói với Dữu Đạo Quý : “Mọi người không nên đàm luận với ngài, vì người kiên trì như thành lũy.”Dữu đáp : “Nếu Văn Độ đến, ta sẽ dùng lực lượng dự bị mà chờ; nếu Khang Bá đến sẽ qua sông đốt thuyền.”

Chú giải

(1) Văn Độ x.2-72Thiên sư : lực lượng quân đội dự bị hỗ trợ cho lực lượng chủ lực.

(2) Khang Bá x.1-38. Tế hà phần chu (qua sông đốt thuyền) : đem lực lượng tấn công địch, khi qua sông xong đốt thuyền cắt đứt đường lui để biểu hiện quyết tâm chiến đấu đến cùng.

80

李 弘 度 常 歎 不 被 遇 。 殷 揚 州 知 其 家 貧 , 問 : 「 君 能 屈 志 百 里 不 ? 」 李 答 曰 : 「 北 門 之 歎 , 久 已 上 聞 。 窮 猿 奔 林 , 豈 暇 擇 木 ! 」 遂 授 剡 縣 。

Lý Hoằng Độ thường thán bất bị ngộ.(1) Ân Dương Châu(2) tri kỳ gia bần, vấn : “Quân năng khuất chí bách lý phủ? ”(3) Lý đáp viết : “Bắc môn chi thán, cửu dĩ thượng văn. Cùng viên bôn lâm, khởi hạ trạch mộc! ” Toại thụ Diệm huyện.

Dịch nghĩa

Lý Hoằng Độ thương than là không được tri ngộ. Thứ sử Dương Châu Ân Hào biết nhà ông nghèo, nói : “Ngài có thể chịu khuất chí để làm huyện lệnh không? ” Lý đáp : “Lời than ở cửa bắc, vốn đã nghe nhiều. Con vượn cùng đường chạy vào trong rừng há rãnh rỗi mà chọn cây sao? ” Bèn giao cho huyện Diệm.

Chú giải

(1) Lý Hoằng Độ tên Lý Sung 李充, làm chức tham quân. Do nhà nghèo nên cố sức tìm cách tiến thân. Ngộ (gặp gỡ) : được vua biết đến tài năng mà sử dụng.

(2) Ân Dương Châu tên Ân Hạo 殷浩, tự Uyên Nguyên 淵源, làm thứ sử Dương Châu.

(3) Bách lý : phạm vi một trăm dặm, tức một huyện.

(4) Bắc môn là tên một bài thơ trong Kinh Thi, than thở cảnh nghèo khó.

81

王 司 州 至 吳 興 印 渚 中 看 。 歎 曰 : 「 非 唯 使 人 情 開 滌 , 亦 覺 日 月 清 朗 。 」

Vương Tư Châu chí Ngô Hưng Ấn Chử trung khan. Thán viết : “Phi duy sử nhân tình khai địch, (2) diệc giác nhật nguyệt thanh lãng.”

Dịch nghĩa

Vương Tư Châu đến thăm Ấn Chử ở huyện Ngô Hưng, thở dài, nói : “Không chỉ khiến tình cảm con người được mở mang sảng khoái mà còn giúp họ biết được vẻ trong sáng của nhật nguyệt.”

Chú giải

Vương Tư Châu là Vương Hồ Chi 王胡之, tự Tu Linh 脩齡, làm thứ sử Tư Châu, nên gọi là Vương Tư Châu. Ấn Chử là địa danh tại huyện Ngô Hưng, tương truyền ở đây có Bạch Thạch sơn, là nơi thủy tụ, nổi tiếng là danh thắng.

82

謝 萬 作 豫 州 都 督 , 新 拜 , 當 西 之 都 邑 , 相 送 累 日 , 謝 疲 頓 。 於 是 高 侍 中 往 , 徑 就 謝 坐 , 因 問 : 「 卿 今 仗 節 方 州 , 當 疆 理 西 蕃 , 何 以 為 政 ? 」 謝 粗 道 其 意 。 高 便 為 謝 道 形 勢 , 作 數 百 語 。 謝 遂 起 坐 。 高 去 後 , 謝 追 曰 : 「 阿 酃 故 麤 有 才 具 。 」 謝 因 此 得 終 坐 。

Tạ Vạn tác Dự Châu đô đốc, tân bái, đương tây chi đô ấp, tương tống lũy nhật, tạ bì đốn. Ư thị Cao thị trung vãng, (2) kính tựu Tạ tọa, nhân vấn : “Khanh kim trượng tiết phương châu, đương cương lý tây phiền, hà dĩ vi chính? ” Tạ thô đạo kỳ ý. Cao tiện vi Tạ đạo hình thế, tác sổ bách ngữ. Tạ toại khởi tọa. Cao khứ hậu, Tạ truy viết : “A Linh cố thô hữu tài cụ.” Tạ nhân thử đắc chung tọa.

Dịch nghĩa

Tạ Vạn làm đô đốc Dự Châu. Vừa nhận được lệnh bổ nhiệm, nên muốn đi về phía tây để đến nhiệm sở, dự lễ tiễn biệt nhiều ngày, Tạ quá mệt mỏi. Lúc này, quan thị trung họ Cao đến, ngồi bên cạnh Tạ, nhân đó hỏi: “Ngài nay đảm nhận một châu, cai quản khu vực phía tây, giải quyết các vấn đề chính trị ra sao? ” Tạ nói sơ qua ý của mình. Cao bèn nói cho Tạ biết về tình hình địa lý, đến mấy trăm lời. Tạ liền đứng lên. Sau khi Cao đi khỏi, Tạ ngẫm lại, nói: “A Linh thực có một chút tài năng.” Tạ nhân thế mà được yên ổn làm quan đến cuối đời.

Chú giải

Cao Tung 高崧 tự Mậu Diễm 茂琰, lúc nhỏ có tên là A Linh 阿酃, từng giữ chức quan thị trung, nên gọi là Cao thị trung.

83

袁 彥 伯 為 謝 安 南 司 馬 , 都 下 諸 人 送 至 瀨 鄉 。 將 別 , 既 自 悽 惘 , 歎 曰 : 「 江 山 遼 落 , 居 然 有 萬 里 之 勢 。 」

Viên Ngạn Bá vi Tạ An Nam tư mã, đô hạ chư nhân tống chí Lại hương. Tương biệt, ký tự thê võng, thán viết : “Giang sơn liêu lạc, cư nhiên hữu vạn lý chi thế.”

Dịch nghĩa

Viên Ngạn Bá làm quan tư mã của Tạ An Nam, mọi người ở kinh đô đưa tiễn đến làng Lại. Khi sắp chia tay, tự nhiên thấy lòng chua xót, than : “Non sông bao la, quả nhiên là có hình thế vạn dặm, ””

Chú giải

Tạ An Nam tên Tạ Phụng 謝奉, tự Hoằng Đạo 弘道, từng làm thứ sử Quảng Châu, thượng thư bộ lại. Đô hạ là kinh đô.

84

孫 綽 賦 遂 初 , 築 室 畎 川 , 自 言 見 止 足 之 分 。 齋 前 種 一 株 松 , 恆 自 手 壅 治 之 。 高 世 遠 時 亦 鄰 居 , 語 孫 曰 : 「 松 樹 子 非 不 楚 楚 可 憐 , 但 永 無 棟 梁 用 耳 ! 」 孫 曰 : 「 楓 柳 雖 合 抱 , 亦 何 所 施 ? 」

Tôn Xước phú “Toại sơ”, (1) trúc thất Quyến Xuyên, tự ngôn kiến chỉ túc chi phận. Trai tiền chủng nhất chu tùng, hằng tự thủ ủng trị chi. Cao Thế Viễn thời diệc lân cư, ngữ Tôn viết : “Tùng thụ tử phi bất sở sở khả lân, đãn vĩnh vô đống lương dụng nhĩ! ” Tôn viết : “Phong liễu tuy hợp bão, diệc hà sở thi? ”

Dịch nghĩa

Tôn Xước làm bài phú “Toại sơ”, xây nhà ở Quyến Xuyên, tự nói đã thấy được chỗ dừng chân để an phận. Trước phòng trồng một cây tùng, thường tự tay vun đất, tưới nước. Lúc bấy giờ, Cao Thế Viễn sống bên cạnh, nói với Tôn : “Cây tùng không chỉ tươi tốt đáng yêu, mà còn vĩnh viễn không bị dùng làm rường nhà.” Tôn nói : “Cây phong, cây liễu tuy lớn cả ôm, nhưng dùng được vào việc gì? ”

Chú giải

(1) Trong lời tựa của bài phú “Toại sơ”, Tôn Xước nói rằng mình hâm mộ cái học Lão Trang, muốn ẩn cư nơi rừng núi.

(2) Quyến Xuyên là địa danh.

85

桓 征 西 治 江 陵 城 甚 麗 , 會 賓 僚 出 江 津 望 之 , 云 : 「 若 能 目 此 城 者 有 賞 。 」 顧 長 康 時 為 客 , 在 坐 , 目 曰 : 「 遙 望 層 城 , 丹 樓 如 霞 。 」 桓 即 賞 以 二 婢 。

Hoàn chinh tây trị Giang Lăng thành thậm lệ, hội tân liêu xuất giang tân vọng chi, vân : “Nhược năng mục(2) thử thành giả hữu thưởng.” Cố Trường Khang thời vi khách, tại tọa, mục viết : “Dao vọng tằng thành, đan lâu như hà.” Hoàn tức thưởng dĩ nhị tỳ.

Dịch nghĩa

Chinh tây tướng quân Hoàn Ôn tu sửa thành Giang Lăng cực kỳ tráng lệ, tụ họp các đồng liêu ra bến sông để nhìn, nói : “Nếu ai có thể bình phẩm về tòa thành này sẽ có thưởng.” Cố Khang Trường lúc đó ngồi làm khách, đưa ra lời bình phẩm : “Nhìn xa thành lớp lớp, lầu đỏ như ráng chiều.” Hoàn lập tức thưởng cho hai nữ tỳ.

Chú giải

(1) Hoàn chinh tây tức Hoàn Ôn (x.2-55). (2) Mục ở đây có nghĩa là “phẩm bình.”

86

王 子 敬 語 王 孝 伯 曰 : 「 羊 叔 子 自 復 佳 耳 , 然 亦 何 與 人 事 ? 故 不 如 銅 雀 臺 上 妓 。 」

Vương Tử Kính ngữ Vương Hiếu Bá viết : “Dương Thúc Tử tự phục giai nhĩ, nhiên diệc hà dữ nhân sự? Cố bất như Đồng Tước đài thượng kỹ.”(2)

Dịch nghĩa

Dương Thúc Tử tự làm đẹp cho mình, nhưng lại có gì tham dự vào chuyện người đời đâu? Cho nên chẳng được như những ca kỹ trên đài Đồng Tước.”

Chú giải

(1) Dương Thúc Tử (211-278) tên là Hựu 枯, tự Thúc Tử, danh thần đời Tây Tấn. Cuối đời Tam Quốc, Tư Mã Viêm diệt được nhà Ngụy, thường cùng Dương Thúc Tử bàn kế hoạch diệt Ngô. Dương ra trấn nhậm thành Tương Dương, làm đô đốc Kinh Châu, khai khẩn đồn điền, tích trữ lương thảo, chuẩn bị kế hoạch diệt Ngô. Nhưng ngày thường ông vẫn mang đai chùng, mặc áo cừu mỏng, không mặc áo giáp, cùng tướng Ngô là Lục Kháng cho sứ cầm cờ tiết đi lại, nhằm để thu phục nhân tâm người nước Ngô vùng Giang Hán.

(2) Tào Tháo cây đài Đồng Tước, di ngôn rằng sau khi mình chết, phải có ca công múa hát định kỳ nơi đài này để mua vui.

Lời bàn thêm

Dương Thúc Tử phầm hạnh thanh cao, thi ân bố đức cho đời, khi cai trị Nam Hạ, ông cho xây trường học, thực thi chính sách nhân đạo, được người đương thời xưng tụng là Nhan Hồi. Nhưng cái tốt đẹp của ông chỉ là cái tốt đẹp cho riêng mình, không được như những kỷ nữ múa hát trên đài Đồng Tước đem lại niềm vui cho tai mắt bao người. Câu nói đó của Vương Tử Kính liệu có đáng để nghe?

87

林 公 見 東 陽 長 山 曰 : 「 何 其 坦 迤 ! 」

Lâm công kiến Đông Dương trường sơn, viết : “Hà kỳ thản di! ”

Dịch nghĩa

Lâm công thấy dãy núi Đông Dương liền nói : “Sao mà bằng phẳng quanh co! ”

Lời bàn thêm

Bên cạnh những lời nói hay, đáng nhớ thì vẫn còn những câu vô cùng xoàng xỉnh.

88

顧 長 康 從 會 稽 還 , 人 問 山 川 之 美 , 顧 云 : 「 千 巖 競 秀 , 萬 壑 爭 流 , 草 木 蒙 籠 其 上 , 若 雲 興 霞 蔚 。 」

Cố Trường Khang tòng Cối Kê hoàn, nhân vấn sơn xuyên chi mỹ, cố vân : “Thiên nham cạnh tú, vạn hác tranh lưu, thảo mộc mông lung kỳ thượng, nhược vân hưng hà uất.”

Dịch nghĩa

Cố Trường Khanh từ Cối Kê về, nhân có người hỏi về vẻ đẹp núi sông nơi đó, ông nói : “Ngàn đỉnh núi tranh nhau vẻ đẹp, vạn hang hốc đua nhau chảy xiết, cây cỏ mịt mờ trên cao, giống như mây trời lớp lớp, ráng đỏ rực rỡ.”

Lời bàn thêm

Cố Trường Khang tức Cố Khải Chi (348 – 405), là danh họa và nhà thư pháp lỗi lạc đời Lục triều. Do đa dạng về tài năng mà ông được người đương thời xưng tụng là “tam tuyệt”, đó là “Tài tuyệt, họa tuyệt, si tuyệt”. Những bức tranh của ông được xem như bảo vật của nền hội họa Trung Quốc. Là danh họa nên cảnh vật dưới mắt ông luôn hiện ra như một bức tranh. Tiết 85 ở chương 2 cũng có ghi lại một lời bình phẩm của ông về thành Giang Lăng.

89

簡 文 崩 , 孝 武 年 十 餘 歲 立 , 至 暝 不 臨 。 左 右 啟 「 依 常 應 臨 」 。 帝 曰 : 「 哀 至 則 哭 , 何 常 之 有 ! 」

Giản Văn băng, Hiếu Võ niên thập dư tuế lập, chí mính bất lâm.(1) Tả hữu khải “y thường ưng lâm”. Đế viết : “Ai chí tắc khốc, hà thường chi hữu! ”

Dịch nghĩa

Giản Văn đế băng hà, Hiếu Võ mới hơn mười tuổi lên kế vị, đến tối cũng không khóc. Kẻ tả hữu tâu “nên khóc theo lẽ thường.” Đế nói : “Nỗi bi ai đến thì khóc, làm gì có chuyện lẽ thường.”

Lời bàn thêm

Theo phong tục Trung Quốc thời cổ, khi người thân mất, cứ đến đúng giờ quy định thì khóc, gọi là lâm 臨. Lời nói của Hiếu Võ đế thoạt nghe như là người vô tình, bất hiếu, nhưng ngẫm lại không phải là không có đạo lý.

90

孝 武 將 講 孝 經 , 謝 公 兄 弟 與 諸 人 私 庭 講 習 。 車 武 子 難 苦 問 謝 , 謂 袁 羊 曰 : 「 不 問 則 德 音 有 遺 , 多 問 則 重 勞 二 謝 。 」 袁 曰 : 「 必 無 此 嫌 。 」 車 曰 : 「 何 以 知 爾 ? 」 袁 曰 : 「 何 嘗 見 明 鏡 疲 於 屢 照 , 清 流 憚 於 惠 風 ? 」

Hiếu Võ tương giảng Hiếu kinh, Tạ công huynh đệ dữ chư nhân tư đình giảng tập.(1) Xa Võ Tử nan khổ vấn Tạ, vị Viên Dương viết : “Bất vấn tắc đức âm hữu di, (2) đa vấn tắc trùng lao nhị Tạ.” Viên viết : “Tất vô thử hiềm.” Xa viết : “Hà dĩ tri nhĩ? ” Viên viết : “Hà thường kiến minh kính bì ư lũ chiếu, thanh lưu đạn ư huệ phong? ”

Dịch nghĩa

Hiếu Võ đế giảng “Hiếu kinh”, anh em họ Tạ cùng mọi người tập trung tại phủ đệ riêng của ông để thảo luận, học tập. Xa Võ Tử có chỗ không hiểu nên hỏi Tạ, nói với Viên Dương : “Không hỏi thì bỏ sót đức âm, hỏi nhiều thì làm nhọc thêm hai anh em họ Tạ.” Viên nói : “Không nên có lời nói bất mãn này.” Xa hỏi : “Lấy gì để biết? ” Viên đáp : “Ông có bao giờ thấy một tấm gương sáng bị mờ vì soi nhiều, thấy giòng nước trong sợ làn gió dịu êm chưa? ”

Chú giải

(1) Sách Tục Tấn dương thu 續晉陽秋 kể rằng vào ngày 9 tháng 9 năm Ninh Khang thứ 3 (năm 375), Hiếu Võ đế tổ chức thảo luận về Hiếu kinh, quan bộc xạ Tạ An ngồi hầu một bên, thượng thư bộ lại Lục Nạp, kiêm thị trung Biện Đam đọc sách, hoàng môn thị lang Tạ Thạch chấp kinh, trung thư lang Xa Dận, Đan Dương doãn Vương Hỗn trích dẫn kinh văn.

(2) Đức âm nghĩa là những lời cói ý nghĩa ảo diệu, sâu xa.

 91

王 子 敬 云 : 「 從 山 陰 道 上 行 , 山 川 自 相 映 發 , 使 人 應 接 不 暇 。 若 秋 冬 之 際 , 尤 難 為 懷 。 」

Vương Tử Kính vân : “Tòng Sơn Âm đạo thượng hành, sơn xuyên tự tương ánh phát, sử nhân ứng tiếp bất hạ. Nhược thu đông chi tế, vưu nan vi hoài.”

Dịch nghĩa

Vương Tử Kính nói : “Từ con đường ở huyện Âm Sơn đi lên cao, núi sông cùng chiếu sáng lẫn nhau, khiến người ta ngắm nhìn không chán. Nếu vào lúc thu đông giao mùa thì lại càng khó quên.”

92 UDONE

謝 太 傅 問 諸 子 姪 : 「 子 弟 亦 何 預 人 事 , 而 正 欲 使 其 佳 ? 」 諸 人 莫 有 言 者 , 車 騎 答 曰 : 「 譬 如 芝 蘭 玉 樹 , 欲 使 其 生 於 階 庭 耳 。 」

Tạ thái phó vấn chư tử điệt : “Tử đệ diệc hà dự nhân sự, nhi chính dục sử kỳ giai? ” Hư nhân mạc hữu ngôn giả, xa kỵ đáp viết : “Thí như chi lan ngọc thụ, dục sử kỳ sinh ư giai đình nhĩ.”

Dịch nghĩa

Tạ thái phó nói với con cháu : “Đám con em làm cách nào để tham dự vào việc người mà khiến cho mọi sự đều được tốt đẹp? ” Mọi người không ai lên tiếng, quan xa kỵ liền đáp : “Ví như lan chi ngọc thụ muốn được sinh ra trong gia đình quyền quý.”

Lời bàn thêm

Nhân sự (việc người) ở đây là các vấn đề chính trị. Chi lan là cỏ chi và cỏ lan, tên hai loại cỏ thơm; ngọc thụ (cây ngọc) là loại cây mọc ở xử sở thần tiên theo truyền thuyết. Chi lan, ngọc thụ đều được dùng để sánh với vẻ đẹp của những người tài đức, phẩm hạnh thanh tao.

Câu nói của quan xa kỵ Tạ Huyền đánh giá năng lực con người theo xuất thân. Chính quan niệm hẹp hòi này của những kẻ nắm quyền bính như Tạ Huyền đã kiềm hãm sự phát triển của nhiều đất nước có nhiều nhân tài. Đặc biệt là khi những kẻ cầm quyền càng bất tài sẽ càng dùng mọi thủ đoạn để đám con em bất tài kém đức của họ được tiếp tục duy trì và hưởng thụ những gì họ đang nắm giữ.

93

道 壹 道 人 好 整 飾 音 辭 , 從 都 下 還 東 山 , 經 吳 中 。 已 而 會 雪 下 , 未 甚 寒 。 諸 道 人 問 在 道 所 經 。 壹 公 曰 : 「 風 霜 固 所 不 論 , 乃 先 集 其 慘 澹 。 郊 邑 正 自 飄 瞥 , 林 岫 便 已 皓 然 。 」

Đạo Nhất đạo nhân hiếu chỉnh sức âm từ, tòng đô hạ hoàn Đông Sơn, kinh Ngô Trung. Dĩ nhi hội tuyết hạ, vị thậm hàn. Chư đạo nhân vấn tại đạo sở kinh. Nhất công viết : “Phong sương cố sở bất luận, nãi tiên tập kỳ thảm đạm. Giao ấp chính tự phiêu miết, lâm tụ tiện dĩ hạo nhiên.”

Dịch nghĩa

Đạo Nhất đạo nhân thích trau chuốt âm điệu ngôn từ, từ kinh đô quay về Đông Sơn, đi qua Ngô Trung. Chẳng mấy chốc, gặp lúc tuyết rơi, trời chưa quá lạnh. Các vị đạo nhân hỏi chuyện trên đường, Đạo Nhất nói : “Gió sương dĩ nhiên không cần bàn tới, đầu tiên kết tụ cảnh tượng ảm đạm. Thành ấp, làng mạc như bay lướt qua; rừng núi, hang sâu một màu trắng xóa.”

94

張 天 錫 為 涼 州 刺 史 , 稱 制 西 隅 。 既 為 苻 堅 所 禽 , 用 為 侍 中 。 後 於 壽 陽 俱 敗 , 至 都 , 為 孝 武 所 器 。 每 入 言 論 , 無 不 竟 日 。 頗 有 嫉 己 者 , 於 坐 問 張 : 「 北 方 何 物 可 貴 ? 」 張 曰 : 「 桑 椹 甘 香 , 鴟 鴞 革 響 。 淳 酪 養 性 , 人 無 嫉 心 。 」

Trương Thiên Tích vi Lương Châu thứ sử, xưng chế tây ngung.(1) Ký vi Phù Kiên sở cầm, dụng vi thị trung. Hậu ư Thọ Dương câu bại, (2) chí đô, vi Hiếu Võ sở khí. Mỗi nhập ngôn luận, vô bất cánh nhật. Phả hữu tật kỷ giả, ư tọa vấn trương : “Bắc phương hà vật khả quý? ” Trương viết : “Tang châm cam hương, si hiêu cách hưởng. Thuần lạc dưỡng tính, nhân vô tật tâm.”

Dịch nghĩa

Trương Thiên Tích làm thứ sử Kinh Châu, tự xưng đế ở khu vực phía tây. Sau khi bị Phù Kiên bắt, được làm chức thị trung. Về sau, chiến bại ở Thọ Dương, đến kinh đô, được Hiếu Võ đế sử dụng. Mỗi khi nhập triều bàn luận, chẳng lần nào là không trọn ngày. Có kẻ đố kỵ, khi bàn luận, hỏi Trương : “Ở phương bắc có gì đáng quý? ” Trương đáp : “Dâu và cam hương. Chim si chim hiêu vỗ cánh tạo thành tiếng. Váng sữa nuôi dưỡng tình tính, người không có lòng đố kỵ.”

Chú giải

(1) Năm 363, Trương Thiên Tích giết Trương Huyền Lương, tự xưng là Kinh Châu mục, cát cứ ở địa phương, tiếp tục chính quyền cũ. Năm 376, Phù Kiên đánh Kinh Châu, Trương Thiên Tích đầu hàng. Về sau, trong trận đánh tại Phì Thủy, Phù Kiên bại trận, Trương Thiên Tích bỏ trốn, quy thuận Tấn triều, được làm chức tán kỵ thường thị.

(2) Năm Thăng Bình nguyên niên thời Đông Tấn (363), Phù Kiên tự xưng là Đại Tần Thiên Vương; năm 383, Phù Kiên cử binh đánh Đông Tấn, hạ được huyện Thọ Dương. Tấn triều phái Tạ Thạch, Tạ Huyền đem quân đánh bại Phù Kiên tại Hợp Phì.

95

顧 長 康 拜 桓 宣 武 墓 , 作 詩 云 : 「 山 崩 溟 海 竭 , 魚 鳥 將 何 依 。 」 人 問 之 曰 : 「 卿 憑 重 桓 乃 爾 , 哭 之 狀 其 可 見 乎 ? 」 顧 曰 : 「 鼻 如 廣 莫 長 風 , 眼 如 懸 河 決 溜 。 」 或 曰 : 「 聲 如 震 雷 破 山 , 淚 如 傾 河 注 海 。 」

Cố Trường Khang bái Hoàn Tuyên Võ mộ, tác thi vân : “Sơn băng minh hải kiệt, ngư điểu tương hà y.” Nhân vấn chi viết : “Khanh bằng trọng Hoàn nãi nhĩ, khốc chi trạng kỳ khả kiến hồ? ” Cố viết : “Tỵ như quảng mạc trường phong, nhãn như huyền hà quyết lưu.” Hoặc viết : “Thanh như chấn lôi phá sơn, lệ như khuynh hà chú hải.”

Dịch nghĩa

Cố Trường Khanh làm lễ nơi mộ Hoàn Tuyên Võ, làm thơ, nói : “Núi lở, biển xanh cạn; Cá chim tựa vào đâu? ” Có người hỏi : “Ngài đã tin tưởng Hoàn như thế, liệu có thể biểu hiện cách khóc ông ta được chăng? ” Cố đáp : “Mũi như gió lớn nơi hoang mạc, mắt như sông treo cuồn cuộn chảy.” Có người nói : “Thanh như sấm nổ phá non, Lệ như dốc sông ra biển.”

96

毛 伯 成 既 負 其 才 氣 , 常 稱 : 「 寧 為 蘭 摧 玉 折 , 不 作 蕭 敷 艾 榮 。 」

Mao Bá Thành ký phụ kỳ tài khí, thường xưng : “Ninh vi lan tồi ngọc chiết, bất tác tiêu phu ngải vinh.”

Dịch nghĩa

Mao Bá Thành thường tự phụ về tài năng, thường nói : “Thà là làm lan gãy ngọc vỡ, hơn là làm hoa cỏ tốt tươi.”

97

范 甯 作 豫 章 , 八 日 請 佛 有 板 。 眾 僧 疑 , 或 欲 作 答 。 有 小 沙 彌 在 坐 末 曰 : 「 世 尊 默 然 , 則 為 許 可 。 」 眾 從 其 義 。

Phạm Ninh tác Dự Chương, bát nhật thỉnh Phật hữu bản. Chúng tăng nghi, hoặc dục tác đáp. Hữu tiểu sa di tại tọa mạt viết : “Thế Tôn mặc nhiên, tắc vi hứa khả.” Chúng tòng kỳ nghĩa.

Dịch nghĩa

Khi Phạm Ninh làm thái thú dự Chương, đến ngày Phật Đản, thỉnh tượng Phật, viết lời thỉnh cầu trên bản. Chúng tăng còn đang ngờ vực, có người muốn lời phúc đáp. Có một chú tiểu ngồi ở cuối dãy, nói : “Thế Tôn im lặng tức là đồng ý.” Mọi người đều theo nghĩa đó.

Chú giải

Người Trung Quốc chọn ngày 8 tháng 4 âm lịch là ngày lễ Phật Đản, chứ không phải ngày rằm như ở Việt Nam. Đến ngày này, Phật tử rước tượng Phật về để cúng dường, rồi viết những lời thỉnh nguyện lên một tấm gỗ gọi là bản, thủ tục đó gọi là tố bản. Phong tục đời Tấn tin rằng những lời thỉnh nguyện đó cần có câu phúc đáp.

98

司 馬 太 傅 齋 中 夜 坐 , 于 時 天 月 明 淨 , 都 無 纖 翳 。 太 傅 歎 以 為 佳 。 謝 景 重 在 坐 , 答 曰 : 「 意 謂 乃 不 如 微 雲 點 綴 。 」 太 傅 因 戲 謝 曰 : 「 卿 居 心 不 淨 , 乃 復 強 欲 滓 穢 太 清 邪 ? 」

Tư mã thái phó trai trung dạ tọa, vu thời thiên nguyệt minh tịnh, đô vô tiêm ế. Thái phó thán dĩ vi giai. Tạ Cảnh Trọng tại tọa, đáp viết : “Ý vị nãi bất như vi vân điểm xuyết.” Thái phó nhân hý Tạ viết : “Khanh cư tâm bất tịnh, nãi phục cưỡng dục trử uế thái thanh da? ‘

Dịch nghĩa

Tư mã thái phó ban đêm ngồi trong phòng, lúc bấy giờ trăng trên trời sáng vằng vặc, hoàn toàn không một gợn mây. Thái phó xuýt xoa khen là đêm đẹp. Tạ Cảnh Trọng ngồi ở đó, đáp : “Nếu có một chút mây điểm xuyết sẽ ý vị hơn.” Thái phó nhân đó mới đùa với Tạ : “Ngài giữ lòng bất tịnh, nêm mới gượng muốn làm uế bẩn cõi thái thanh chăng? ”

99

王 中 郎 甚 愛 張 天 錫 , 問 之 曰 : 「 卿 觀 過 江 諸 人 經 緯 , 江 左 軌 轍 , 有 何 偉 異 ? 後 來 之 彥 , 復 何 如 中 原 ? 」 張 曰 : 「 研 求 幽 邃 , 自 王 、 何 以 還 ; 因 時 脩 制 , 荀 、 樂 之 風 。 」 王 曰 : 「 卿 知 見 有 餘 , 何 故 為 苻 堅 所 制 ? 」 答 曰 : 「 陽 消 陰 息 , 故 天 步 屯 蹇 ; 否 剝 成 象 , 豈 足 多 譏 ? 」

Vương trung lang thậm ái Trương Thiên Tích,(1) vấn chi viết : “Khanh quan quá giang chư nhân kinh vĩ, Giang tả quỹ triệt, hữu hà vĩ dị? Hậu lai chi ngạn, phục hà như Trung Nguyên?” Trương viết : “Nghiên  cầu u thúy, tự Vương, Hà dĩ hoàn;(2) nhân thời tu chế, Tuân, Nhạc chi phong.”(3) Vương viết : “Khanh tri kiến hữu dư, hà cố vi Phù Kiên sở chế?” Đáp viết : “Dương tiêu âm tức, cố thiên bộ truân kiển; bĩ bác thành tượng, khởi túc đa cơ?”(4)

Dịch nghĩa

Trung lang Vương Đán Chi vô cùng yêu quý Trương Thiên Tích, hỏi : “Ngài xem giữa cách cai trị của những người vượt sông Trường Giang với khuôn phép vùng Giang tả có sự khác biệt lớn lao nào chăng? Kẻ tài giỏi đến sau so với nhân sĩ Trung Nguyên thì sao?” Trương đáp : “Luận về nghiên cứu huyền học sâu xa thì rất giỏi kể từ thời Vương, Hà; luận về theo thời mà tu chỉnh chế độ thì có tác phong của Tuân, Nhạc.” Vương nói : “Ngài tri kiến có dư, sao cứ bị  Phù Kiên khống chế?” Trương đáp : “Dương suy, âm thịnh, cho nên vận nước lâm vào cảnh gian nan; thời thế rối ren đã  thành hình tượng há đủ để cười nhạo cho lắm sao? ”

Chú giải

(1) Vương Đán Chi (x.2-72), Trương Thiên Tích (x.2-94).

(2) Vương, Hà là Vương Bật 王弼 và Hà Yến 何晏, hai nhà huyền học lỗi lạc đời Tấn. Tuân là Tuân Húc (163-212), tự Văn Nhược 文若, là một mưu sĩ tài giỏi thời Đông Hán, có công giúp Tào Tháo gây dựng nên đại nghiệp thời Tam Quốc. Nhạc là Nhạc Hoàng 樂 廣(? – 304), tự Ngạn Phụ 彥輔, làm thượng thư lệnh thời Tây Tấn, được người đương thời vô cùng kính trọng.

(3) Thiên bộ 天步 là vận nước. Truân, Khiên là tên hai quẻ trong kinh Dịch tượng trưng cho sự gian nan, trở ngại.

(4) Bĩ, Bác cũng là tên hai quẻ trong kinh Dịch tượng trưng cảnh trời đất không giao hòa.

100

謝 景 重 女 適 王 孝 伯 兒 , 二 門 公 甚 相 愛 美 。 謝 為 太 傅 長 史 , 被 彈 ; 王 即 取 作 長 史 , 帶 晉 陵 郡 。 太 傅 已 構 嫌 孝 伯 , 不 欲 使 其 得 謝 , 還 取 作 咨 議 。 外 示 縶 維 , 而 實 以 乖 間 之 。 及 孝 伯 敗 後 , 太 傅 繞 東 府 城 行 散 , 僚 屬 悉 在 南 門 要 望 候 拜 , 時 謂 謝 曰 : 「 王 甯 異 謀 , 云 是 卿 為 其 計 。 」 謝 曾 無 懼 色 , 斂 笏 對 曰 : 「 樂 彥 輔 有 言 : 『 豈 以 五 男 易 一 女 ? 』 」 太 傅 善 其 對 , 因 舉 酒 勸 之 曰 : 「 故 自 佳 ! 故 自 佳 ! 」

Tạ Cảnh Trọng nữ thích Vương Hiếu Bá nhi, nhị môn công thậm tương ái mỹ. Tạ vi thái phó trưởng sử, bị đàn; Vương tức thủ tác trưởng sử, đái Tấn Lăng quận. Thái phó(2) dĩ cấu hiềm Hiếu Bá, bất dục sử  kỳ đắc Tạ, hoàn thủ tác tư nghị. Ngoại thị trập duy, nhi thực dĩ quai gián chi. Cập Hiếu Bá bại hậu, thái phó nhiễu Đông phủ thành hành tản,(3) liêu thuộc tất tại Nam Môn yêu vọng hậu bái, thời vị Tạ viết : “Vương Ninh dị mưu, vân thị khanh vi kỳ kế.” Tạ tằng vô cụ sắc, liễm hốt đối viết : “Nhạc Ngạn Phụ hữu ngôn : ‘Khởi dĩ ngũ nam dịch nhất nữ ?’”(4) Thái phó thiện kỳ đối, nhân cử tửu khuyến chi viết : “Cố tự giai! Cố tự giai!”

Dịch nghĩa

Con gái của Tạ Trọng Cảnh kết hôn với con trai của Vương Hiếu Bá, hai người đứng đầu hai nhà rất ngưỡng mộ và tôn trọng nhau. Tạ làm chức thái phó trưởng sử, bị đàn hặc; Vương lập tức được thay làm trưởng sử, trấn nhậm huyện Tấn Lăng. Thái phó có hiềm khích với Hiếu Bá, không muốn ông ta lôi kéo Tạ, bèn giữ Tạ lại làm quan tư nghị. Bên ngoài thì ra vẻ chiêu mộ hiền tài, nhưng thực ra là muốn ly gián họ. Sau khi Hiếu Bá thất bại, thái phó đi hành tản quanh Đông phủ, quan lại dưới quyền đều tập trung ở Nam môn để xin bái phỏng, lúc đó thái phó nói với Tạ : “Vương Ninh làm phản, bảo đó là kế của ông.” Tạ không lộ vẻ sợ hãi, ung dung đáp lại : “Nhạc Ngạn Phủ từng nói ‘Há có thể đem năm trai đổi lấy một gái chăng?’” Thái phó khen ngợi lời đối đáp, nhân đó nâng rượu mời và nói : “Dĩ nhiên là rất hay! Dĩ nhiên là rất hay!”

Chú giải

(1) Vương Hiếu Bá tên Cung, lúc nhỏ tên A Ninh, nên đoạn văn dưới gọi là Vương Ninh.

(2) Thái phó là Tư Mã Đạo Tử 司馬道子 (364 – 403), tự Đạo Tử (道子), con trai của Tấn Giản Văn Đế. Dưới thời anh trai Tấn Hiếu Vũ Đế, Tư Mã Đạo Tử lần lượt đảm nhận các chức vụ quan trọng, trong đó có chức thái tử thái phó. Trong giai đoạn Tư Mã Đạo Tử phụ chính, Hiếu Bá đảm nhận các chức vụ Đan Dương doãn, trung thư lệnh, sau làm thứ sử cả hai châu Duyện và Thanh, từng dâng thư can gián hoàng đế, nên Tư Mã Đạo Tử vừa hận vừa sợ. Năm Long An thứ hai đời Tấn An đế (398), Vương Hiếu Bá cùng Ân Trọng Kham, Hoàn Huyền đem quân làm phản, chỉ tám tháng sau thì bị thất bại. Tư nghị là chức quan tham mưu trong việc quân

(3) Đông phủ là phủ đệ của Tư Mã Đạo Tử. Hành tản x.1-41. (4) X.2-35.

101

桓 玄 義 興 還 後 , 見 司 馬 太 傅 , 太 傅 已 醉 , 坐 上 多 客 , 問 人 云 : 「 桓 溫 來 欲 作 賊 , 如 何 ? 」 桓 玄 伏 不 得 起 。 謝 景 重 時 為 長 史 , 舉 板 答 曰 : 「 故 宣 武 公 黜 昏 暗 , 登 聖 明 , 功 超 伊 、 霍 。 紛 紜 之 議 , 裁 之 聖 鑒 。 」 太 傅 曰 : 「 我 知 ! 我 知 ! 」 即 舉 酒 云 : 「 桓 義 興 , 勸 卿 酒 。 」 桓 出 謝 過 。

Hoàn Huyền Nghĩa Hưng hoàn hậu,(1) kiến Tư Mã thái phó, thái phó dĩ túy, tọa thượng đa khách, vấn nhân vân : “Hoàn Ôn lai dục tác tặc, như hà ?”(2) Hoàn Huyền phục bất đắc khởi. Tạ Cảnh Trọng thời vi trưởng sử, cử bản đáp viết : “Cố Tuyên Võ công truất hôn ám, đăng thánh minh, công siêu Y, Hoắc.(3) Phân vân chi nghị, tài chi thánh giám.”(4) Thái phó viết : “Ngã tri ! Ngã tri !” Tức cử tửu vân : “Hoàn nghĩa hưng, khuyến khanh tửu.” Hoàn xuất tạ quá .

Dịch nghĩa

Sau khi Hoàn Huyền từ quận Nghĩa Hưng đến kinh đô, đến bái phỏng thái phỏng  Tư Mã Đạo Tử, thái phó đã say, tọa khách ngồi đông, bèn hỏi : “Hoàn Ôn đến cuối đời lại muốn làm phản, việc đó thế nào?” Hoàn Huyền quỳ lạy, không dám đứng lên. Tạ Cảnh Trọng lúc đó làm trưởng sử, giơ tấm bản lên, nói : “Tuyên Võ công quá cố phế truất kẻ hôn ám, đưa bậc thánh minh đăng cơ, công lao ấy còn hơn cả Y Doan, Hoắc Quang. Nghị luận rối rắm, chỉ chờ thánh giám.”  Thái phó nói : “Ta biết! Ta biết.” Rồi nâng rượu, nói : “Hoàn Nghĩa Hưng, mời khanh ly rượu này.” Hoàn đứng dậy tạ ơn.

Chú giải

(1) Hoàn Huyền là con của Hoàn Ôn, làm thái thú quận Nghĩa Hưng, không được bao lâu thìi xin từ quan, về quê.

(2) Hoàn Ôn là đại tư mã, đại tướng quân. Năm 371, Ôn phế Tấn đế làm huyện lệnh Hải Tây, lập phụ thân của Tư Mã Đạo Tử lên kế vị, tức  Giản Văn đế. Bởi vậy, đoạn dưới mới nói là : “phế truất kẻ hôn ám, đưa bậc thánh minh đăng cơ.” Ôn từng muốn soán ngôi, nhưng  việc chưa thành thì mất, tên thụy là Tuyên Võ.  Chữ lai  來 có nhà nghiên cứu cho là chữ mạt  未 viết nhầm, có nghĩa là “cuối đời, về già”, nghe hợp lý hơn.

(3) Y Doãn là tể tướng, khai quốc công thần nhà Thương; Hoắc Quang là quan đại thần đời Hán,  phụ chính cho Hán Chiêu đế theo di chiếu của Hán Võ đế.

(4) Thánh giám là sự phán xét, đánh giá của nhà vua; ở đây dùng để tôn xưng thái phó.

102

宣 武 移 鎮 南 州 , 制 街 衢 平 直 。 人 謂 王 東 亭 曰 : 「 丞 相 初 營 建 康 , 無 所 因 承 , 而 制 置 紆 曲 , 方 此 為 劣 。 」 東 亭 曰 : 「 此 丞 相 乃 所 以 為 巧 。 江 左 地 促 , 不 如 中 國 ; 若 使 阡 陌 條 暢 , 則 一 覽 而 盡 。 故 紆 餘 委 曲 , 若 不 可 測 。 」

Tuyên Võ di trấn Nam Châu, chế nhai cù bình trực. Nhân vị Vương Đông Đình viết : “Thừa tướng sơ doanh Kiến Khang, vô sở nhân thừa, nhi chế trí vu khúc, phương thử vi liệt.” Đông Đình viết : “Thử thừa tướng nãi sở dĩ vi xảo. Giang tả địa xúc, bất như Trung Quốc ; nhược sử  thiên mạch điều sướng, tắc nhất lãm nhi tận. Cố vu dư ủy khúc, nhược bất khả trắc.”

Dịch nghĩa

Tuyên Võ chuyển đi trấn nhậm Nam Châu, cho sửa  sang đường sá bằng phẳng thẳng tắp. Có  người  nói với Vương Đông Đình(1) : “Thừa tướng lúc mới xây dựng kinh đô Kiến Khang, không có chỗ thừa kế, nên thiết kế đường sá uốn khúc quanh co, so với các con đường này thật kém xa.” Đông Đình nói : “Đó là chỗ khéo của thừa tướng đấy. Vùng Giang tả đất đai nhỏ hẹp, không như Trung Quốc, nếu cứ để các  đường thiên đường mạch(2) phát triển tự do, ắt nhìn qua là thấy trọn. Cho nên mới để uốn khúc quanh co, tạo cảm giác giống như là không sao lường nỗi.”

Chú giải

(1) Năm Hưng Ninh thứ hai đời Tấn Ai đế (364), đại tư mã Hoàn Ôn kiêm luôn chức Dương Châu mục. Đầu tiên, ông đến trấn nhậm tại núi Giả Kỳ 赭圻, huyện Xuân Cốc. cho xây dựng thành trì, năm sau lại dời đến Cô Thục (x.2-37). Vương Đông Đình tên là Vương Tuân, tự Nguyên Lâm, cháu nội của thừa tướng Vương Đạo.

(2) Những lối đi hẹp giữa đồng ruộng, chạy theo hướng bắc nam gọi là thiên, chạy theo hướng đông tây gọi là mạch. Lời nói của Đông Đình có ý muôn tâng bốc ông mình 

103

桓 玄 詣 殷 荊 州 , 殷 在 妾 房 晝 眠 , 左 右 辭 不 之 通 。 桓 後 言 及 此 事 , 殷 云 : 「 初 不 眠 , 縱 有 此 , 豈 不 以 『 賢 賢 易 色 』 也 。 」

Hoàn Huyền nghệ Ân Kinh Châu, Ân tại thiếp phòng trú miên, tả hữu từ bất chi thông. Hoàn hậu ngôn cập thử sự, Ân vân : “Sơ bất miên, túng hữu thử, khởi bất dĩ ‘hiền hiền dịch sắc’ dã.”

Dịch nghĩa

Hoàn Huyền đến bái phóng thứ sử Kinh Châu Ân Trọng Kham, Ân đang ngủ trưa tại phòng của người thiếp nên kẻ tả hữu từ chối không thông báo. Hôm sau, Hoàn nhắc lại chuyện này, Ân nói : “Xưa nay ta không ngủ trưa, nếu quả như có chuyện này thì há đó không phải là ‘hiền hiền dịch sắc’ sao?”  

Chú giải

Bốn chữ “Hiền hiền dịch sắc” có xuất xứ từ chương Học Nhi, sách Luận Ngữ. Chữ hiền thứ nhất là động từ, có nghĩa là “kính trọng”, chữ hiền thứ hai là danh từ có nghĩa là “người hiền tài; hiền nhân”; dịch là “thay thế, thay đổi”, sắc  là nữ sắc. Cả câu có nghĩa là dùng tấm lòng  kính trọng người hiền tài để thay thế cho lòng ham mê nữ sắc. Khổng An Quốc chú giải bốn chữ  này là “dĩ háo sắc chi tâm háo hiền nhân tắc thiện. 言 以 好 色 之 心 好 賢 人 則 善.” (dùng tấm lòng  ham mê nữ  sắc để yêu quý người hiền tài thì tốt đẹp.) Đại khái bốn  chữ “hiền hiền dịch sắc” là xem trọng nhân tài chứ không xem xem trọng nữ sắc.

Ân Trọng Kham vận dụng  câu này để tự bào chữa cho chuyện “ôm vợ ngủ ngày” của một ông quan thái thú quả thật quá đỗi  tài tình.

104

桓 玄 問 羊 孚 : 「 何 以 共 重 吳 聲 ? 」 羊 曰 : 「 當 以 其 妖 而 浮 。 」

Hoàn Huyền vấn Dương Phu : “Hà dĩ cộng trọng Ngô thanh ?” Dương viết : “Đương dĩ kỳ yêu nhi phù.”

Dịch nghĩa

Hoàn Huyền hỏi Dương Phù : “Vì sao lại say mê những bài hát xứ Ngô?” Dương đáp : “Bởi chúng xinh đẹp, thắm tươi lại thướt tha, mềm mại.”

Chú giải

Yêu là “xinh đẹp, thắm tươi”, như thơ Kinh Thi “Đào chi yêu yêu. 桃之 夭 夭。” (đào mơn mởn, non tơ );  phù là “thướt tha, mềm mại.”

105

謝 混 問 羊 孚 : 「 何 以 器 舉 瑚 璉 ? 」 羊 曰 : 「 故 當 以 為 接 神 之 器 。 」

Tạ Hỗn vấn Dương Phu : “Hà dĩ khí cử hô liễn?” Dương viết : “Cố đương dĩ vi tiếp thần chi khí.”

Dịch nghĩa

Tạ Hỗn hỏi Dương Phu : “Vì sao nói đến đồ vật là phải nêu hô liễn?” Dương đáp  “Vì nó là vật đón tiếp được thần thánh.”

Chú giải

Chương Công Dã Trường, sách Luận Ngữ , ghi : “Tử Cống vấn viết : ‘Tứ dã hà như?’ Tử viết : ‘Nhữ khí dã.’ Viết : ‘Hà khí dã?’ Viết : ‘Hô liễn dã.’子 貢 問 曰 :「賜 也 何 如?」子 曰 :「女 器 也 。」 曰 :「何 器 也 ? 」 曰 :「 瑚 璉 也 。」” (Tử Cống hỏi Khổng Tử : “Tứ này thế nào?” Khổng Tử đáp : “Ngươi giống như đồ vật.” Tử Cống lại hỏi : “Đồ vật gì?”. Khổng Tử đáp : “Cái hô liễn.”)  Chữ “nữ 女” ở đây dùng như chữ “nhữ  汝” (ngươi, ngôi thứ hai). Thời cổ, hô liễn là cái bát đựng lúa gạo dùng để cúng tế nơi tôn miếu, đời nhà Hạ gọi là hô, đời nhà Ân gọi là liễn, hàm nghĩa tôn quý, ý muốn nói Tử Cống là một nhân vật tầm cỡ.

106

桓 玄 既 篡 位 , 後 御 床 微 陷 , 群 臣 失 色 。 侍 中 殷 仲 文 進 曰 : 「 當 由 聖 德 淵 重 , 厚 地 所 以 不 能 載 。 」 時 人 善 之 。

Hoàn Huyền ký soán vị, hậu ngự sàng vi hãm, quần thần thất sắc. Thị trung Ân Trọng Văn tiến viết : “Đương do thánh đức uyên trọng, hậu địa sở dĩ bất năng tải.” Thời nhân thiện chi.

Dịch nghĩa

Sau khi Hoàn Huyền soán vị, ngự sàng đang ngồi bỗng bị sụt xuống một chút, quần thần thất sắc. Quan thị trung Ân Trọng Văn bước ra tâu : “Đó là do thánh đức sâu nặng, đất dày kia cũng không tải nỗi.” Người đương thời cho là khéo nói.

Chú giải

Năm 402, Hoàn Huyền làm phản, đem binh tấn công kinh đô Kiến Khang của nhà Tấn, thâu tóm triều chính, giết Cối Kê vương là Tư Mã Đạo Tử.  Năm sau, Hoàn Huyền xưng đế. Đến năm 404, Lưu Dục khởi binh, tiêu diệt được  Huyền.

Ân Trọng Văn là anh rể Hoàn Huyền. Sau khi Huyền chiếm kinh đô, Âm bỏ chức thái thú Tân An để theo Huyền, làm chức thị trung để quản lý tất cả chiếu mệnh.

107

桓 玄 既 篡 位 , 將 改 置 直 館 , 問 左 右 : 「 虎 賁 中 郎 省 , 應 在 何 處 ? 」 有 人 答 曰 : 「 無 省 。 」 當 時 殊 忤 旨 。 問 : 「 何 以 知 無 ? 」 答 曰 : 「 潘 岳 秋 興 賦 敘 曰 : 『 余 兼 虎 賁 中 郎 將 , 寓 直 散 騎 之 省 。 』 玄 咨 嗟 稱 善 。

Hoàn Huyền ký soán vị, tương  cải trí trực quán,(1) vấn tả hữu : “Hổ bôn trung lang tỉnh,(2) ưng tại hà xứ?” Hữu nhân đáp viết : “Vô tỉnh.” Đương thời thù ngỗ chỉ. Vấn : “Hà dĩ tri vô?” Đáp viết : “Phan Nhạc Thu hứng  phú tự viết : ‘Dư kiêm hổ bôn trung lang tướng, ngụ trực tán kỵ chi tỉnh.’”(3) Huyền tư ta xưng  thiện.

Dịch nghĩa

Sau khi Hoàn Huyền soán vị, toan đổi địa điểm của  trực quán, hỏi : “Quan thự của  hổ bôn trung lang ở chỗ nào?” Có người đáp : “Không  có quan thự nào cả.” Điều này đi ngược với thánh chỉ thời đó. Hỏi : “Sao biết là không có?” Đáp : “Lời tựa của bài phú  Thu hứng của Phan Nhạc có nói : ‘Ta kiêm chức hổ bôn lang trung tướng, luôn sống ở trong quan thự của tán kỵ.’” Huyền xuýt xoa khen hay.

Chú giải

(1) Trực quán là nơi làm việc của đội trực ban.

(2) Tỉnh là quan thự, tức nơi làm việc của quan lại. Hổ bôn trung lang là chức quan thống  lĩnh cận vệ quân. Hoàn Huyên muốn khôi phục lại chế độ hổ bôn trung lang tướng nên tìm địa điểm để xây dựng quan thự.

(3) Xa kỵ tức  chức quan tán kỵ thường thị, luôn hầu cận bên vua, như người  cố vấn.

108

謝 靈 運 好 戴 曲 柄 笠 , 孔 隱 士 謂 曰 : 「 卿 欲 希 心 高 遠 , 何 不 能 遺 曲 蓋 之 貌 ? 」 謝 答 曰 : 「 將 不 畏 影 者 , 未 能 忘 懷 。 」

Tạ Linh Vận hiếu đái khúc bính lạp,(1) Khổng ẩn sĩvị viết : “Khanh dục hy tâm cao viễn, hà bất năng di khúc cái chi mạo?”(2) Tạ đáp viết : “Tương bất úy ảnh giả, vị năng vong hoài.”(3)

Dịch nghĩa

Tạ Linh Vận thích đội nón tre, ẩn sĩ họ Khổng nói : “Ngài thích ngưỡng mộ những điều cao xa, sao lại chẳng quan tâm đến hình dạng của khúc cái?” Tạ đáp : “Chỉ e là những người sợ bóng mình mới chưa thể quên được cái bóng ấp ủ trong lòng.”

Chú giải

(1) Tạ Linh Vận (385 – 433) là nhà thơ lớn cuối đời Đông Tấn, đầu đời Tống, từng đảm nhận nhiều chức vụ trong triều đình, thường làm thơ về cảnh núi sông.

(2) Khổng Thuần Chi (372 – 430) tính tình cao khiết, cuối đời Tấn ẩn cư tại Ngu sơn, triều đinh nhiều lần mời ra làm quan nhưng ông đều từ chối. Khúc cái là loại dù cán gấp khúc, được dùng làm nghi trượng cho vua hoặc quan đại thần khi ra ngoài. Khổng Thuần Chi cho rằng mũ tre cũng chẳng khác gì dù cán cong, nên châm biếm Tạ Linh Vận là vẫn chưa quên được mùi phú quý.

(3) Sách Trang Tử có một câu chuyện ngụ ngôn: Có một người sợ cái bóng của mình và muốn thoát khỏi nó, nên bỏ chạy, càng chạy thì bóng càng theo sau, cho đến khi anh ta tuyệt khí mà chết. Ý Tạ Linh Vận muốn nói rằng chỉ những kẻ sợ bóng mình thì trong tâm mới có cái bóng nên tìm cách né tránh nó, nếu không sợ bóng mình thì chẳng việc gì phải né tránh nó cả. Cũng vậy, nếu trong lòng không mơ tưởng đến chuyện phú quý thì chẳng sợ gì cái bóng phú quý cả, cho nên có khi chính Khổng Thuần Chi mới là người chưa quên được phú quý.   

Thảo luận