Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

Một chút hồn quê trong thơ Bùi Giáng

Bùi Giáng xuất hiện trong nền văn hóa Việt Nam như một hiện tượng kì lạ và độc đáo gần như vô tiền khoáng hậu. Từ thuở sinh tiền cho đến khi ông nằm xuống, người ta đã nói, đã viết về ông quá nhiều. Và ắt hẳn người ta vẫn còn viết và còn nói mãi về ông một khi mà cái “chân diện mục” của ông vẫn còn bị che khuất đằng sau biết bao giai thoại, sau biết bao sáng tác chứa đầy những lộng ngôn hí ngữ, thậm chí sau rất nhiều bài nghiên cứu nghiêm túc về ông. Nếu các nhà khảo cứu đã từng lạnh lùng đem một chữ “ngông” để gói trọn tấm bi kịch của Tản Ðà thì nhiều người cũng thường đem một chữ “điên” để “kết thúc hồ sơ” về Bùi Giáng !

Hầu hết những người tìm hiểu về Bùi Giáng và viết về Bùi Giáng, dầu nhiều thiện chí đến mấy, cũng thường bị mê hoặc và choáng ngợp bởi các sáng tác, bởi các dịch phẩm, bởi những bài thơ ông viết ở giai đoạn phiêu bồng bỡn cợt, đem ngôn ngữ vào cuộc hí lộng, rỡn đùa, khi mà cuộc đối thoại mà ông tha thiết muốn mở ra lại bị dập tắt trước khi khởi đầu !

“ Một vài tờ báo nào trong hoảng mười mấy năm đã loan tin bừa bãi ? còn viết bài quàng xiên rồi kí tên Bùi Giáng ở dưới bài ? Các ngài tự ý đùa chơi hay có kẻ nào xúi giục ? Các ngài đùa chơi đến mức độ quỉ khốc thần sầu đến như thế thì làm sao mở được cuộc hội đàm Ba Lê với Ðười Ươi Thi Sỹ ? Bao phen tôi muốn làm một vài câu thơ vịnh chuyện eo óc của các ngài, nhưng không cách nào thơ nói được. Ðến thơ mà cũng từ khước không nói được công cuộc đó của các ngài, thì biển dâu làm sao có thể dung lưu đàm thoại ? “ (Lễ hội tháng ba , tr. 91)

Chính trong nỗi cô đơn khôn cùng đó, ông đã cuồng điên đem hết thiên tài mình tung hê ngôn ngữ, làm trò phù thuỷ với thơ ca và triết học. Phải gầm rú như sư tử, như hùm beo trong khi tâm hồn chỉ muốn hô hấp nhẹ nhàng như cây lá. Ông nói về F.Nietzsche mà cũng chính là nói về mình

Cái kẻ dịu dàng như huơu non đành chịu bóp chết lòng mình để rống to như thú dữ. Nhưng lập tức lời nguyền rủa bốn phía vang lên. Và Niezsche đã điên. Trước Niezsche mấy chục năm, Hoelderlin cũng đã điên. Cùng với bao kẻ khác đã điên. Ðể ngày nay … Ðể ngày nay chúng ta tụ hội về đây, xôn xao nêu câu hỏi: cớ sao mà điên ? Nêu một cách rất ngây thơ tròn trĩnh “ (Martin Heidegger và Tư tưởng hiện đại – Lời tựa)

Một điều oái ăm là rất nhiều người nghiên cứu về Bùi Giáng đều đem các tác phẩm đó ra để làm cơ sở cho các bài biên khảo của mình, xem như đó là những tác phẩm chính thống đại diện cho tiếng nói của Bùi Giáng ! Có lẽ chúng ta đã bị choáng ngợp và loá mắt bởi kiến thức khổng lồ của ông về thi ca và triết học Ðông Tây và bởi cái lối hí lộng ngôn từ không mấy ai hiểu rõ. Tôi viết ra điều này với tấm lòng ân hận. Tôi cũng đã từng viết đôi ba bài về ông theo con đường đó ! Chúng ta đã làm những hoàng đế cưỡi truồng và

vô tình đã để những Con đường ngã ba, Lời cố quận, Ðường đi trong rừng, Sa mạc phát tiết, Sa mạc trường ca …. với những loại ngôn ngữ đại cà sa lấn áp những lời thơ đạm nhiên bình dị mà mênh mông của Mưa nguồn, của Cõi người ta, cuả Hoàng tử bé …. Cũng như khi đọc F. Dostoievski, chúng ta cứ để những Ivan Karamazov hùng biện, uyên bác lấn át và che khuất mất Alexei Karamazov hiền lành nói năng cà riềng cà tỏi. Mà thực ra tiếng nói của Ivan Karamazov nào phải là tiếng nói thực của F. Dostoievski ? Tiếng nói sâu thẳm của F. Dostoievski lại chính là tiếng nói của Alexei Karamazov. Cũng như tiếng nói chân chính của Khổng nào phải là cái hùng biện của Tử Cống, cái hiếu dũng của Tử Do mà là cái nhân trong lạc đạo an bần của Nhan Hồi, cái tình trong cung đàn của Tăng Ðiểm! Tiếng nói thiết tha sâu thẳm của Bùi Giáng chính là trong Mưa nguồn.

Mưa nguồn ra đời đã hơn một phần tư thế kỉ. Thời gian trôi qua, bão giông đời lắng dịu, chúng ta giờ đây có điều kiện thử thong thả thử đem một chút tâm tình người nông dân quê hương xứ Quảng của ông để lắng nghe tiếng nói thiết tha của lời thơ đạm nhiên trong Mưa nguồn. Và tôi dám nói rằng đó chính là nơi mà tinh hoa ông phát tiết ở độ sung mãn diệu kì. Toàn bộ tác phẩm Mưa nguồn là một khối toàn bích, rất khó lòng trích ra dăm ba câu để phẩm bình theo thể lệ biên khảo. Ðó là tiếng nói thiết tha với cỏ hoa hồn du mục của người sống trong cảnh giới mù sương nội cỏ :

Én đầu xuân, tuyết đầu đông Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa

Quê hương ông thuộc miền trung du xứ Quảng – một trong những xứ nghèo của miền Trung – nơi mà những cơn lũ trên non hằng năm vẫn chảy về xuôi, cuốn trôi phăng đồng. Những dòng nước đục cuộn qua, vườn tược tiêu điều và lòng người thê thiết lắm

Một bờ dương xếp bến sau Nước vần vũ đục nghe đau lá vườn

hay

( Thiếu phụ trở về )

Em về ở lại đây thôi

Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng Một trăm cây lá bên rừng

Gửi trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây Mười con xóm nhỏ bên này

Nhắc nhau nhớ lại cái ngày bên kia

( Tiếng vọng )

Nhớ lại cái ngày bên kia ? Cái ngày lênh đênh, trôi dạt qua làng bên tránh lũ cùng cô thôn nữ xinh xinh ? Cô mang về rất nhiều hương vị mênh mông của rừng suối, huyền bí của khói mây ? Và để hồn thơ ai cứ mãi mơ màng

Người xuống theo dòng trôi nước lũ Màu sim màu móc núi sương mây Suối đá gập ghềnh hôm sớm tụ

Khói mù mịt thổi xuống đồi cây

( Người xuống )

Người dân quê Việt Nam, nhất là người dân quê xứ Quảng Nam nghèo nàn của miền Trung sỏi đá, vốn luôn chịu khó chịu thương hai sương một nắng, sống trọn cùng thiên nhiên và vui buồn cùng trời đất. Mồ hôi đổ xuống luống cày và kết tinh thành những lời ca dao tha thiết. Tâm hồn Bùi Giáng vẫn là tâm hồn của người nông dân chân chất, nên lời thơ ông vẫn mênh mang như ca dao trên bãi lúa nương dâu. Và thiên nhiên đó đã mang trọn tâm tình con người mà hoà tan vào viễn tượng mênh mông

Viết thơ lạc dấu sai dòng

Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong Nước xanh lên đọt đòng đòng

Ngày mai sẽ mất hạt lòng thơ ngây

( Ca dao )

Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt Hết mấy phen buồn trở lại bên đời

Ðồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi

(Người đi đâu)

Nhà thơ mở đôi mắt hoang mang nhìn đất trời với tất cả nỗi ngạc ngạc hồn hồn của con người Sơ Thuỷ. Và Tình yêu, từ đó, cũng hoà tan trong viễn tượng mênh mông kia để biến thành man mác tuyết sương.

Những nhịp bước bên đường còn dội mãi Vang về đâu không vọng lại hồi âm Của réo rắt riêng một lần mãi mãi

Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm

( Chiều )

Mù sa thấp rừng mai xưa lỡ hẹn Xuống thôn làng ngó lá rụng ven khe Mùa tháng chạp chim trời xa lỡ hẹn Với sông thu từ một buổi bay về

( Hang rừng )

Tâm hồn nhà thơ mở rộng ra đón nhận mọi viễn tượng kì diệu của thiên nhiên để nó trở thành lẽ sống và lẽ chết của chính mình. Cái cùng cực phức tạp cũng ở nơi thơ ông, cái cực kì đơn giản cũng ở nơi ông.

Mây đứng lại chân trời phủ khói Giòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ Chiều trời đẹp tâm tình em không nói Ðất với trời chung một nghĩa bơ vơ

( Không đủ gọi một lần )

Bờ mây trắng dựng cuối trời bóng dáng Của ban sơ hoài vọng giữa nhân gian Lòng vạn vật mơ màng chiều qua sáng Em về nhanh cho mây trắng buông màn

………………………………………..

Còn hay mất ? Ngày sau ta sẽ lại Em sẽ về giữa mùa nước trăng phơi

(Bờ mây)

Thiên nhiên ở miền trung du xứ Quảng trong Mưa nguồn là thiên nhiên nằm trong viễn tượng mênh mông của Phusis Hi Lạp Nguyên Sơ. Ông Heidegger đã dành những trang tuyệt vời để diễn giải về Phusis, bảo rằng :

“Người Hy lạp đã không khởi đầu bằng cách y cứ vào các hiện tượng tự nhiên để thể hội Phusis ( Thiên nhiên ) mà trái lại chính nhờ y cứ vào nền tảng của một thể nghiệm căn cơ trầm tư thơ mộng về Hằng Thể mà họ thấy khai mở trước mắt họ cái mà họ gọi là Phusis” ( Introduction à la Métaphysique p.22 )

Cái gọi là “một thể nghiệm căn cơ trầm tư thơ mộng về Hằng Thể” – une experience fondamentale poétique et pensante de l’être – chính là hồn thơ mênh mông nằm trong Mưa nguồn của Bùi Giáng. Ông cũng từng nói : “Nếu ta không thực hiện nỗi cỗi nguồn trường mộng ở nội tâm thì triết học không thể nào tiếp xúc được với căn cơ chân chính của nó, dù ta có líu lo trong học hiệu phù hoa với bao nhiêu gọng điệu “(M.Heidegger và Tư tưởng hiện đại, tập 1, tr.147)

Từng hòn đá bờ khe, từng chân mây mái rạ, từng con kiến con chuồn chuồn châu chấu, từng bóng nắng chiều, từng bờ sông bóng mạ …. tất cả những hình ảnh thân thương và thân quen của hồn quê xứ Việt đều mang trọn tâm tình con người mà hoá thân vào thơ ông rất mực phiêu nhiên

Nhìn, em nhé , bên bờ kia gió thổi Lá xanh vườn theo cỏ mượt ngân nga

Tơ vi vút một đời thương nhớ tuổi Của trăng rằm xuống dọ dẫm bên hoa

(Bờ nước cũ )

Ðó chẳng phải là Thiên Nhiên hiển lộ hay linh hồn Phusis mở phơi sao ?

Em về bủa rộng chiêm bao

Buồn sông bóng mạ chìm sâu bên dòng

( Sầu ca sĩ )

Trong lời tựa cho tác phẩm “ Martin Heidegger và Tư tưởng hiện đại “ – một tác phẩm biên khảo chính yếu của mình, ông có nói : “Phần tâm hội phải được chiêm niệm theo điệu tâm hội. Vài dòng lơ lững của Mưa nguồn đã bóng bẩy làm việc đó theo nhịp võ

-vàng -cổ – độ- Á- đông “.

Ðể rồi sau nay, khi rời bỏ quê hương vào Nam, hình ảnh quê hương cứ như một nỗi ám ảnh rảy rức trong ông :

Chiều hôm đếm lá cây rơi
Bên đèn phố thị thương đồi núi xa

( Chiều hôm phố thị )

Bây giờ tôi đã quên xưa

Sài gòn cám dỗ tôi chưa chịu về

( Ca dao )

Tôi nghe kể rằng, thuở sinh tiền, nhân dịp coi trực tiếp truyền hình World Cup, ông có ngẫu hứng làm một bài thơ :

Kể từ ngẫu nhĩ tồn sinh

Ngồi xem trực tiếp truyền hình đá banh Bắt thang lên hỏi Trời Xanh

Sao không trực tiếp phát thanh Mưa nguồn ?

Mưa nguồn dẫu không được “ Ông Trời Xanh “ phát thanh như ông hằng mong ước, nhưng những lời thơ ông rồi sẽ kết tập vô số dư vang mà ngày sau hậu duệ của ông sẽ âm thầm thể hội.

Huỳnh Ngọc Chiến

Thảo luận