Cõi giang hồ trong tác phẩm Kim Dung có thể được xem như một thế giới thu nhỏ, mà sự tồn tại, vận động và diễn biến của nó, ở một bình diện nào đó, đều được phóng chiếu từ những quy luật lịch sử. Tranh bá xưng hùng, mưu toan thống nhất giang hồ, khát vọng làm võ lâm chí tôn. Danh vọng và quyền lực cứ mãi cuốn các cao thủ võ lâm vào cơn lốc cuồng bạo của lịch sử. Thỉnh thoảng có một môn phái lạ nổi lên hoặc một nhân vật tuấn kiệt đột nhiên quật khởi, làm xáo động giang hồ và đem lại cho võ lâm những trận cuồng phong mới. Từ bối cảnh đó cũng nảy sinh ra ước mơ một giang hồ hết cảnh can qua. Hoặc bằng bạo lực và thủ đoạn. Hoặc bằng chân tâm và bản lĩnh.
Người Trung Quốc thường nhìn lịch sử như là những biến cố chuyển động hình sin, cứ tuần hoàn theo chu kỳ: định loạn, ly hợp, tụ tán, thịnh suy. Điều này thường được nhìn rất rõ trong các loại tiểu thuyết chương hồi. Tam Quốc Chí mở đầu bằng đoạn: “Thoại thuyết thiên hạ đại thế, phân cửu tắc hợp, hợp cửu tắc phân. Chu mạt thất quốc phân tranh, tịnh nhập vu Tần. Cập Tần diệt chi hậu, Sở Hán phân tranh hựu tịnh nhập vu Hán. Hán triều tự Cao Tổ trảm xà nhi khởi nghĩa, nhất thống thiên hạ; hậu lai Quang Vũ trùng hưng truyền chí Hiến Đế, toại phân vi tam quốc.” (Nói về đại thế trong thiên hạ phân chia lâu tắc hợp lại, hợp lại lâu tác phân chia. Cuối đời Chu, bảy nước tranh hùng, bị Tần thâu tóm. Sau khi Tần bị diệt, Hán Sở phân tranh, thiên hạ lại về với Hán. Từ khi Hán Cao Tổ chém rắn khởi nghĩa, nhất thống thiên hạ, đến đời Quang Vũ lại trùng hưng nhà Hán, truyền đến Hiến Đế lại chia thành ba nước)
Lịch sử cứ thế mà diễn tiến. Thống nhất và ly loạn. Chiến tranh và hòa bình. Hai mặt đối lập đó cứ đan xen nhau mãi để thúc đẩy dòng chảy của lịch sử. Thống nhất thiên hạ cũng là ước mơ của bao kẻ hùng tài đại lược có tài kinh bang tái thế, tự cổ chí kim. Tần Thủy Hoàng bình định sáu nước, mở đầu công cuộc thống nhất Trung Quốc kể từ khi nhà Chu suy vong. Nhưng máu đã đổ quá nhiều. Biết bao nhiêu âm mưu thủ đoạn đã diễn ra, biết bao nhiêu xác người đã ngã xuống, biết bao nhiêu chất xám đã tổn hao để dệt nên bức tranh thống nhất đẫm máu cuối thời Chiến Quốc. Lục vương tất, tứ hải nhất (Sáu vua chấm dứt, bốn biển thống nhất – A Phòng cung phú − Đỗ Mục). Thế là nguy cơ của các quốc gia đối địch không còn. Tất cả mọi binh khí được thu hết, đem nấu để đúc thành chuông, đỉnh. Thế là nguy cơ binh khí không còn. Những tưởng can qua sẽ vì thế mà chấm dứt vĩnh viễn, thiên hạ sẽ bình yên, và nhà Tần sẽ cai trị đến thiên thu. Đâu hay chỉ vài năm, sau khi Tần Thủy Hoàng băng hà, thiên hạ lại đại loạn và thuộc về nhà Hán. Những kẻ hùng tài muốn dùng ý chí để điều khiển sự vận động của lịch sử vẫn không hiểu được rằng có một trật tự kì lạ luôn được tái lập giữa sự hỗn loạn. Lịch sử vẫn luôn trôi chảy theo con đường đi của nó và cứ âm thầm tái lập những giá trị giữa những mưu toan hùng bá của con người. Giấc mơ thống nhất châu Âu của Napoléon đã tan theo bọt sóng ngoài đảo Saint Hélène. Viễn tượng đế chế ngàn năm của Tần Thủy Hoàng đã cháy thành tro trong ngọn lửa đốt cung A Phòng và trong cảnh tan hoang của cửa quan Hàm Cốc.
Người ta mới thấy rằng lịch sử vẫn luôn lớn hơn ý chí và tham vọng của con người. Để thiên hạ thực sự thái bình thì không thể chỉ đơn thuần dựa vào bạo lực để trấn áp tất cả các lực lượng đối nghịch, mà phải có người một mẫu người lý tưởng dùng đức để cảm hóa thì mới có thể cứ ung dung “thỏng tay mà trị yên thiên hạ”. Truyền thống Trung Quốc cho rằng chỉ có bậc “thánh nhân” như Nghiêu Thuấn mới làm được điều đó. Nghiêu thì đại từ, Thuấn thì đại hiếu, tầm lòng từ hiếu của họ đã cảm động được cả đất trời, nên dễ dàng cảm động được lòng người. Trang Tử gọi đó là bậc “nội thánh ngoại vương” (trong có thể làm thánh, mà ngoài có thể làm vua).
Sự yên tĩnh trong lịch sử thường chỉ như sự cân bằng tạm thời của một quả trứng được đặt dựng đứng trên một mặt phẳng nghiêng. Phải mất nhiều công sức mới làm được điều đó, nhưng sự cân bằng đó lại quá mong manh. Chỉ một cơn gió nhẹ là nó sẽ đổ nhào ngay, và tiếp tục lăn lông lốc. Trong suốt dòng chảy của lịch sử Trung Quốc thời phong kiến, người ta vẫn luôn mơ đến một Nghiêu Thuấn với viễn cảnh thiên hạ thống nhất. Đó phải là mẫu người nhân hậu khoan dung và tổng hợp được mọi cái hay, cái giỏi của mọi người khác. Tài phải đủ để thiên hạ bội phục, và đức phải thừa để thiên hạ nghiêng mình. Vua Thuấn mồ côi mẹ, cha là Cổ Tẩu lấy vợ khác. Mẹ ghẻ cùng em đời sau là Tượng rất hung ác, tìm mọi cách để giết vua Thuấn. Mẹ ghẻ bắt vua Thuấn đi cày ở Lịch Sơn, Trời bèn sai voi đến cày, chim đến nhặt cỏ. Mẹ ghẻ sai vua Thuấn đào giếng rồi lấp giếng, rồng lại đưa vua Thuấn thoát nạn. Tượng đốt nhà để giết anh, vua Thuấn vẫn thoát thân. Bị ngược đãi tàn ác, nhưng vua Thuấn vẫn luôn khoan dung độ lượng tha thứ cho họ. Cuối cùng tấm lòng đôn hậu đó đã cải hóa được cả hai mẹ con. Vua Nghiêu nghe tiếng bèn nhường ngôi cho vua Thuấn. Thiên hạ được hưởng cảnh thái bình. Nơi nơi đều vang tiếng âu ca.
Kim Dung chắc hẳn đã kế thừa truyền thống đó để xây dựng nhân vật Trương Vô Kỵ, trong giấc mơ thống nhất giang hồ bằng vương đạo. Cha là ngũ hiệp Trương Thúy Sơn phái Võ Đang, mẹ lại là “ma nữ” Ân Tố Tố của Thiên Ưng giáo. Đứa con mang hai dòng máu chánh tà đó ra đời trong một bối cảnh nghiệt ngã, và số phận đưa đẩy phải đảm nhận vai trò hóa giải hận thù xung đột truyền kiếp giữa Minh giáo với Lục đại môn phái. Sinh ra trên Băng hỏa đảo, Trương Vô Kỵ có được cái tâm đôn hậu của một “thánh nhân” kiểu vua Thuấn, có lẽ nhờ bẩm thụ được linh khí của trời đất. Về đến Trung Thổ, chứng kiến cảnh cha mẹ bị bức tử, và nhận di ngôn của mẹ là phải báo thù, trái tim trẻ thơ đó có lần thoáng bùng lên ngọn lửa hờn căm, nhưng rồi nó dễ dàng bị dập tắt trong biển lòng nhân hậu.
Trên Quang Minh đỉnh, Trương Vô Kỵ lần đầu tiên hiển lộ thân thủ, dùng tuyệt thế thần công áp đảo cả hai phe chính tà cứu nguy cho phe Minh giáo trước sự tấn công của Lục đại môn phái, khiến mọi người đều kinh hãi lẫn thán phục. Lúc đó dù đối diện với bao kẻ thù, và quá đủ điều kiện để rừa hờn, nhưng chàng thiếu niên Trương Vô Kỵ đã biết xóa bỏ mọi tư thù để xả thân hóa giải tất cả oán cừu giữa hai khối chính tà. Không có ai bắt buộc, cũng không vì động cơ riêng tư nào, mà chỉ đơn thuần vì tiếng gọi của lương tri muốn xóa bỏ mọi hận thù trong chốn giang hồ. Chàng thiếu niên trẻ tuổi đó tự nhiên đảm nhận sứ mệnh đem lại yên bình cho võ lâm. Phe chính giáo chấp nhận ra đi, với tâm trạng hân hoan và lá cờ sáng ngời chính nghĩa. Phe Minh giáo tránh được thảm họa diệt vong, xung đột nội bộ chấm dứt và tất cả giáo chúng đều đồng tâm tôn Trương Vô Kỵ lên ngôi vị giáo chủ đời thứ ba mươi bốn. Đó chính là hình ảnh ban đầu của “vua Thuấn võ lâm”.
Tại chùa Vạn An, Trương Vô Kỵ cũng không ngại xả thân cứu tất cả cao thủ của Lục đại môn phái thoát khỏi tháp lửa, trong đó không thiếu những kẻ đã đối xử hiểm độc và thô bỉ với mình. Dĩ đức báo oán. Trương Vô Kỵ đã thực sự chinh phục được cả hai chính lẫn tà. Có lẽ không thể có nhân vật võ lâm nào lý tưởng hơn để thiết kế công cuộc thống nhất võ lâm. Vừa khoan dung đôn hậu, vừa thông thạo y thuật, võ công lại vô địch khi tổng hợp được hai môn tuyệt học của hai phe chính tà : Cửu dương thần công của phái Thiếu Lâm và Càn khôn đại na di của Minh giáo ở mức cao nhất. Thân thế cũng quá đỗi đặc bỉệt : mang hai dòng máu chính tà, cháu ngoại Bạch mi ưng vương, đồ tôn của Trương Tam Phong, nghĩa tử của Kim mao sư vương. Và điều quan trong bậc nhất là Trương Vô Kỵ được cả hai phe chính tà mặc nhiên xem như là minh chủ võ lâm. Một sự tổng hợp quá đỗi lý tưởng, quá đỗi tham lam, và do đó quá đỗi cường điệu, chỉ xuất hiện một lần trong mọi tác phẩm võ hiệp. Cho nên Trương Vô Kỵ chỉ còn là cái bóng để Kim Dung thử triển khai những ý đồ của mình. Nói chung đó là hình ảnh của một vua Thuấn chốn võ lâm vừa sành y đạo của Kỳ Bá, vừa thấu triệt Cửu dương thần công lẫn Càn khôn đại na di!
Nhưng hình ảnh lý tưởng đó có đem lại thành công như mong đợi hay không? Mọi mưu toan thống nhất giang hồ bằng thủ đoạn bá đạo như Tã Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần hoặc Nhậm Ngã Hành đều đưa đến kết cục bi thảm cho kẻ thủ ác lẫn nạn nhân. Tả Lãnh Thiền bỏ thây giữa đám loạn kiếm trong thạch động. Nhậm Ngã Hành bỏ mạng vì Hấp Tinh Đại Pháp, môn võ công bá đạo mà ông ta dùng làm phương tiện để xưng bá giang hồ. Nhạc Bất Quần trở thành một quái tượng sinh lý như Đông Phương Bất Bại. Nhưng nếu từ bỏ con đường bá đạo để thống nhất giang hồ bằng con đường vương đạo như Trương Vô Kỵ cũng không thể thành công. Đó chỉ là giấc mơ ngàn đời của bao thế hệ phương Đông. Bởi lẽ chắc gì Nghiêu Thuấn đã là thật, và cái xã hội “thời thái bình cửa thường bỏ ngõ” (Nguyễn Công Trứ) cũng chỉ một “vùng đất hứa” muôn thuở cho con người. Mạnh Tử suốt đời rong ruỗi để thuyết phục các vị vua đương thời trị nước theo vương đạo, nên đành phải chấp nhận thất bại. Tần Thủy Hòang biết dùng tư tưởng pháp gia bá đạo của Hàn Phi Tử nên đã thành công. Đó là lịch sử.
Con người đôn hậu Trương Vô Kỵ đó hoàn toàn không có thủ đoạn và tham vọng chính trị nên dễ dàng sa bẫy Chu Nguyên Chương. Tên gian hùng này bàn việc giết Hàn Lâm Nhi với bọn Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân, nhưng lại âm thầm bố trí bối cảnh để Trương Vô Kỵ nghe lầm là hai vị đại ca kết nghĩa của mình đang mưu toan cùng Chu Nguyên Chương ám hại mình để mưu cầu công danh phú quý. Chỉ ngần đó cũng đủ để con người Trương Vô Kỵ trọng nghĩa quý tình ngán ngẫm cuộc “tranh bá đồ vương”, để âm thầm mang Triệu Mẫn ra đi, nhường sân khấu chính trị lại cho tên gian hùng Chu Nguyên Chương dựng nên triều Minh. Một phần dòng chảy của thế giới giang hồ đã hòa nhập vào dòng chảy của lịch sử và tan biến trong đó. Phần khác vẫn cứ âm thầm trôi theo chu kỳ muôn thuở. Trong dòng chảy đó, sẽ tiếp tục có những Trương Vô Kỵ ngày ngày kẻ lông mày cho hiền thê để giấc mơ “thống nhất giang hồ” của Kim Dung chìm trong ánh mắt hồ thu của giai nhân, sẽ tiếp tục có những Vi Tiểu Bảo lưu manh nhưng nghĩa hiệp, cũng như sẽ tiếp tục có những lãng tử Lệnh Hồ Xung đáng yêu bên cạnh những Nghi Lâm vướng lụy. Và sẽ còn mãi những mưu toan dùng thủ đoạn cùng bạo lực để thống trị võ lâm đan xen với những hoài bão thống nhất giang hồ bằng con đường vương đạo.
Cái nào sẽ thắng? Câu hỏi sẽ được bỏ lửng. Nhưng lịch sử giang hồ vẫn tiếp tục dòng chảy trong tác phẩm Kim Dung, dù Kim Dung đã ngừng bút từ lâu.
Thảo luận