Ông là một kẻ tài hoa thuộc nòi “Nhất phiến thiên cổ lụy” nên cuốn tự truyện Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký gần như là cuốn sổ đoạn trường làm tan nát lòng người. Tác phẩm này của đại sư Tô Mạn Thù đã từng xuất hiện ở Việt Nam qua bản dịch với nhan đề Nhà Sư Vướng Lụy của nhà thơ Bùi Giáng. Ngòi bút thông tuệ của Bùi Giáng, trong bản dịch đó, đã bông đùa quá mức, nên ông đã đẩy ngôn ngữ bản dịch đi quá đà, khiến bạn đọc sơ cơ không khỏi hoang mang. Tôi đã dịch lại theo sát với nguyên văn, với đôi phần gợi mở để đọc giả dễ cảm thụ thêm nguyên tác.
Tô Mạn Thù là một tăng sĩ nên rất ít am hiểu chuyện đời. Đi tu thì không trọn nghiệp, mà dấn thân vào cuộc tình của thế gian thì lại không dám hết mình. Tâm hồn tài hoa của ông biến thành bãi chiến trường cho cuộc tương tranh giữa hai tiếng gọi Đời và Đạo. Khi thì ông sống như một vị chân tu khổ hạnh, khoác áo cà sa, làu thông kinh kệ; khi thì lại lãng mạn như một lãng tử đa tình, si mê gái đẹp đến điên đảo thần hồn. Mang một khối tài hoa vào cửa thiền như Tô Mạn Thù là mang theo khổ não. Đã tài hoa ắt phải đa tình, mà đa tình thì khó lòng không vướng lụy. Một bên là cõi thanh tĩnh pháp lưu đưa ta đến Niết Bàn giải thoát, một bên là cõi đời đầy hương sắc với bao mỵ lực hấp dẫn của khách hồng nhan. Biết chọn nơi nào? Đi vào cõi đạo nhiệm mầu, xem thế gian là hư ảo, nhan sắc là phu dù để hướng đến vô biên và tuyệt đích, hay nhắm mắt theo tiếng gọi của trái tim để chấp nhận nỗi chìm cùng giai nhân giữa cõi người ta đầy khổ lụy, và để sắc hương đời che lấp bóng Như Lai?
Xin trích dịch nơi đây một số bài thơ của ông để bạn đọc thưởng lãm.
Xuân nhật
Hảo hoa linh lạc vũ miên miên,
Cô phụ thiều quang nhị nguyệt thiên.
Tri phủ ngọc lâu xuân mộng tỉnh,
Hữu nhân sầu sát liễu như yên.
春 日
好 花 零 落 雨 綿 綿,
辜 負 韶 光 二 月 天 。
知 否 玉 樓 春 夢 醒 ,
有 人 愁 煞 柳 如 煙 。
Ngày xuân
Hoa xinh rơi giữa mưa dầm,
Tháng hai cô phụ tấm lòng thiều quang,
Người nơi lầu ngọc mơ màng,
Sầu theo khói liễu, khi tàn giấc xuân.
Ngẫu thành
Nhân gian hoa thảo thái thông thông,
Xuân vị tàn thời hoa dĩ không.
Tự thị thần tiên luân tiểu trích,
Bất tu trù trướng ức phương dung.
偶 成
人 間 花 草 太 匆 匆 ,
春 未 殘 時 花 已 空 。
自 是 神 仙 淪 小 謫 ,
不 須 惆 悵 憶 芳 容 。
Ngẫu thành
Trần gian hoa cỏ quá mong manh,
Chưa hết mùa xuân đã trụi cành.
Làm khách thần tiên nơi đất trích,
Đâu cần thương xót nhớ giai nhân.
Giai nhân
Giai nhân danh Tiểu Phẩm,
Tuyệt thế dĩ vô trù.
Hoành ba phiên tả lệ,
Lục đại tự sinh sầu.
Vũ tụ khuynh Đông Hải,
Tiêm yêu hoặc cửu châu.
Truyền ca như hữu tố,
Dư chuyển tạp không hầu.
佳 人
佳 人 名 小 品 ,
絕 世 已 無 儔 。
橫 波 翻 瀉 淚 ,
綠 黛 自 生 愁 。
舞 袖 傾 東 海 ,
纖 腰 惑 九 洲 。
傳 歌 如 有 訴 ,
余 轉 雜 箜 篌 。
Người đẹp tên là Tiểu Phẩm,
Dung nhan xinh đẹp tuyệt trần,
Mắt đưa, long lanh làn sóng
Mày xanh như đượm nét sầu.
Tay áo múa, nghiêng Đông Hải,
Eo thon mê hoặc chín châu,
Lời ca nghe sao nức nở,
Ta rung một tiếng không hầu.
Đề Bái Luân tập
Thu phong hải thượng dĩ hoàng hôn,
Độc hướng di thiên điếu Bái Luân.
Từ khách phiêu bồng quân dữ ngã,
Khả năng dị vực vị chiêu hồn.
題 拜 倫 集
秋 風 海 上 已 黃 昏,
獨 向 遺 篇 吊 拜 倫 。
詞 客 漂 蓬 君 與 我,
可 能 異 域 為 招 魂 。
Đề tập thơ Byron
Gió thu trên biển, đã hoàng hôn.
Ngồi đọc di thi nhớ Byron,
Từ khách phiêu bồng, ta với bạn,
Đông Tây đôi ngã vẫn chiêu hồn.
Đề Sư Lê tập
Thùy tặng sư Lê nhất khúc ca ?
Khả lân tâm sự chính sa đà.
Lang can dục báo tòng hà báo ?
Mộng lý y hy nhận nhãn ba.
題 師 梨 集
誰 贈 師 梨 一 曲 歌 ?
可 憐 心 事 正 蹉 跎 。
琅 玕 欲 報 從 何 報 ?
夢 裡 依 稀 認 眼 波 。
Đề tập thơ Sư Lê
Ai tặng sư khúc ca này?
Buồn cho tâm sự theo ngày tháng trôi.
Lời hoa họa vận, đâu người?
Long lanh một ánh mắt cười, trong mơ.
1909
Ghi chú : Lang can là một loại ngọc đá rất đẹp, thường dùng để chỉ thơ văn hoa lệ.
Đề họa
Hải thiên không khoát cửu cao thâm,
Phi hạ tùng âm thính cổ cầm.
Minh nhật phiêu nhiên hựu hà xứ ?
Bạch vân dữ nhĩ cộng vô tâm.
提畫
海 天 空 闊 九 皋 深 ,
飛 下 松 陰 聽 鼓 琴 。
明 日 飄 然 又 何 處 ?
白 雲 與 爾 共 無 心 。
Đề tranh
Từ nơi đầm nước xa xăm,
Bay về nghe tiếng cổ cầm, dưới thông,
Hôm sau nhẹ cánh phiêu bồng,
Rong chơi theo đám mây hồng, vô tâm.
1907
Ghi chú : Cao 皋 là đầm nước. Cửu cao chỉ những đầm nước ở xa xôi. Thiên Hạc minh trong Kinh Thi có câu : “Hạc minh ư cửu cao, thanh văn ư dã. 鶴 鳴 於 九 皐 , 聲 聞 於 野 。” (hạc kêu nơi đầm nước xa xôi, tiếng kêu vang vọng nơi đồng nội.) Cho nên cửu cao dùng để chỉ chim hạc hoặc ẩn sĩ thanh cao thoát tục. Bài thơ trên đây vịnh con chim hạc trong tranh.
Bản sự thi
本事詩
Bài 1
Vô lượng xuân sầu vô lượng hận,
Nhất thời đô hướng chỉ gian minh.
Ngã diệc gian nan đa bệnh nhật,
Na kham trùng thính bát vân tranh.
無 量 春 愁 無 量 恨 ,
一 時 都 向 指 間 鳴 。
我 亦 艱 難 多 病 日 ,
哪 堪 重 聽 八 雲 箏 。
Sầu xuân, bi hận vô biên,
Hướng về trong một sát na mơ màng
Thân bệnh, thêm nỗi gian nan
Làm sao nghe lại tiếng đàn bát vân?
1909
Ghi chú :
Bản sự thi là thơ tự tình. Tô Mạn Thù có 10 bài bản
Bát vân tranh là loại đàn tranh hai dây của người Nhật.
Bài 3
Đan Đốn Bùi Luân thị ngã sư,
Tài như giang hải mệnh như ty.
Chu huyền hưu vị giai nhân tuyệt,
Cô phẫn toan tình dục ngữ thùy.
丹 頓 裴 倫 是 我 師,
才 如 江 海 命 如 絲 。
朱 弦 休 為 佳 人 絕 ,
孤 憤 酸 情 慾 語 誰 。
Gordon Byron đáng bậc thầy,
Tài như biển lớn, mệnh tơ bay.
Đàn đứt, tiễn người thiên cổ luỵ,
Nỗi lòng đau xót ngỏ cùng ai?
1909
Bài 5
Đào tai đàn khẩu tọa xuy sanh,
Xuân Thủy nan lương cựu hận doanh,
Hoa Nghiêm bộc bố cao thiên xích,
Bất cập khanh khanh ái ngã tình.
桃 腮 檀 口 坐 吹 笙 ,
春 水 難 量 舊 恨 盈 。
華 嚴 瀑 布 高 千 尺 ,
不 及 卿 卿 愛 我 情 。
Tiếng sênh môi thắm nhẹ đưa,
Nước xuân khó biết nỗi xưa hận tràn.
Hoa Nghiêm thác nước ngút ngàn,
Đâu bằng tình ái của nàng tặng ta.
1909
Ghi chú :
Hoa Nghiêm là địa danh ở Nhật Bản, có thác nước nổi tiếng.
Hai câu cuối lấy ý từ hai câu thơ Lý Bạch : “Đào Hoa đàm thủy thâm thiên xích, bất cập Uông Luân tống ngã tình. 桃 花 潭 水 深 千 尺 , 不 及 汪 倫 送 我 情 。” (Nước ở đầm Đào Hoa dẫu sâu đến ngàn trượng, vẫn không so bằng tình cảm của Uông Luân tiễn đưa ta.) Lý Bạch nói đến tình, Tô Mạn Thù nói đến tình yêu.
Bài 9
Xuân Vũ lâu đầu xích bát tiêu,
Hà thời quy khán Triết Giang triều?
Mang hài phá bát vô nhân thức,
Đạp quá anh hoa đệ kỷ kiều.
春 雨 樓 頭 尺 八 簫 ,
何 時 歸 看 浙 江 潮 ?
芒 鞋 破 缽 無 人 識 ,
踏 過 櫻 花 第 幾 橋 。
Xuân Vũ tiêu đưa vẳng điệu sầu,
Triết Giang về lại, biết khi nào?
Bao cầu in dấu chân cô lữ,
Bát vỡ, giày rơm, giữa xứ đào.
1909
Ghi chú : Xích bát tiêu là một loại tiêu của người Nhật, hơi giống với động tiêu của Trung Quốc, khi thổi bài Xuân vũ (mưa xuân), âm điệu nghe rất thê lương. Các du tăng Nhật Bản thường thổi xích bát tiêu khi đi hành khất.
Thảo luận