Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

Thể điệu trông Trời

Trời rất cao, đất rất sâu. Trời che và đất chở con người. Đất gần gũi con người vô kể, đất nuôi sống con người và mở rộng vòng tay để đón nhận con người ở cuối chu kỳ sinh tử trong “một cõi đi về”. Nhưng tâm lý con người thường thích cái mình nghe hơn cái mình thấy, do đó con người thường coi trọng cái ở xa hơn cái ở gần. Cho nên sống trong đời, hễ ai có điều gì oan ức, khổ đau, bế tắc đều ngước nhìn trời cao để tra hỏi hoặc để thở than. Như đứa con lạc lõng muốn tìm đến với vòng tay của mẹ cha để tìm một nơi nương tựa. Nhưng trời cao, hay đúng hơn là bầu trời, thì thay đổi luôn luôn, khi thì mênh mông mây trắng, khi thì cuồn cuộn mây đen, lúc thì trong xanh bát ngát. Cho nên nhìn trời cũng có nhiều thể cách. Đối với người xưa, hoặc với những người nay chưa mất đi cái tâm hồn trẻ thơ của “xích tử chi tâm”, thì cái thế giới ẩn khuất sau ngàn mây mênh mông đó vẫn luôn là cái thế giới ảo huyền rất mực. Đó là nơi của thần tiên tụ hội, của vĩnh phúc rưới chan, là chốn của sấm sét ra oai, của mưa cuồng gió dữ.

Người xưa nhìn trời để nghiệm ra lẽ biến hóa của vũ trụ. Sáu mươi tư quẻ của kinh Dịch ra đời từ đó. Trời là nguyên lý Dương, rât cương mãnh, biến hóa theo con rồng huyền ảo của phương Đông. Đó cũng là nguyên lý của Giáng Long Thập Bát Chưởng.

 “Trông trời, trông đất trông mây, trông mưa trông gió trông ngày trong đêm, trông cho chân cứng đá mềm, trời êm biển lặng mới yên tấm lòng”. Đó là cách trông trời với tâm trạng băn khoăn lo lắng của người nông dân khi sản xuất.  Đất nuôi dưỡng con người thật đấy, nhưng còn tùy trời, tùy những cơn hỷ nộ không thể lường trước của trời. Nên phải nhìn trời để …. tùy trời !

Đức Phật Thích Ca ngồi thiền định dưới gốc bồ đề, ngước nhìn trời, thấy sao mai mà hoát nhiên đại ngộ, thành tựu thần thông du hý, vượt qua cõi sinh tử luân hồi, mở đầu cho 49 năm thuyết pháp hóa độ chúng sinh. Đó là cách nhìn trời của bậc Toàn Giác.

Đức Chúa Jésus Christ, khi bị đóng đinh lên cây thập giá, đã ngước lên trời mà kêu “Chúa ơi, sao Ngài lại bỏ con? ” (Mon Dieu, mon Dieu, pourquoi tu m’abandonné?). Chính cái ngước nhìn và lời kêu ấy là sợi dây thần thánh nối kết Thiên Đường với trần thế, để con người tin vào ngày Phán Xét Cuối Cùng. Đó là nhìn trời của một đấng Cứu Thế muốn cứu chuộc trần gian.

Đức Khổng Tử nhìn trời để thấu đạt lẽ biến hóa của vũ trụ, rồi lại ỡm ờ với đệ tử “Thiên hà ngôn tai! Thiên hà ngôn tai!” (Trời có nói gì đâu ! Trời có nói gì đâu !). Thực ra ý ngài muốn nói : ”Trời có nói nhiều đấy, nhưng đâu là đôi tai để nghe ra ?”. Từ đó, ngài bắt đầu cuộc chu du khắp đất Trung Hoa. Đó là cuộc chu du kỳ bí nhất trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, phát xuất từ cách nhìn trời của bậc thượng trí vô sư tự ngộ.

Khuất Nguyên nhìn trời để hỏi cho ra những điều bí ẩn của tự nhiên, bằng bài thơ Thiên vấn (Hỏi trời). Đó là cách nhìn trời của một tâm hồn đăm chiêu tư niệm.

Nhà thơ Nguyễn Du lúc tuổi chưa tới ba mươi mà đầu đã bạc trắng, nhiều phen ngửa mặt nhìn trời than thở : ”Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên”. (Tráng sĩ bạc đầu buồn bã nhìn trời, hùng tâm và cuộc sống cả hai đều mờ mịt). Và “Cổ kim hận sự thiên nan vấn, phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Những nỗi hận xưa nay khó lòng hỏi trời, những mối oan khiên kỳ lạ do nết  phong nhã gây  ra, ta tự mang cả vào mình – Độc Tiểu thanh ký). Đó là cách nhìn trời của một Nghệ Sĩ Bồ Tát đem khối Bi Tâm lịch hành hết cõi dâu bể tang thương, để ngậm ngùi với “Hồi thiên uổng bảo phục Lê tâm” (Hoài công ôm tấc lòng trung muốn khôi phục triều Lê), đúng như lời vịnh của ông Trương Cam Vũ.

Nhượng Tống, khi dịch Nam Hoa kinh của Trang Tử, bảo : “Tôi sinh ra là con nhà nghèo, mắt vẫn thường nhìn xuống đất…Nhưng nhìn xuống như thế mãi, nhiều  lúc  chợt thấy mỏi cổ … cho nên bất chợt cũng đòi phen ngửa mặt trông trời….Trông trời thì trời rộng vô cùng mà xa cũng vô cùng.. và cảm thấy tấm thân mình vô cùng nhỏ bé, vô cùng tạm bợ … Chừng ấy, tôi phải mượn sách vở để làm khuây[1]. Nhìn trời để thấy hết được cái bao của vũ trụ, rồi nương vào Nam Hoa kinh để đi vào tận ngọn nguồn của tâm linh và khám phá cho ra cái bí ẩn của vô cùng. Đó là cách nhìn trời của một tâm hồn thông tuệ.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử nhìn trời để kêu gào : ”Trời hỡi bao giờ tôi chết đi, bao giờ  tôi hết được yêu vì? Bao giờ mặt nhật tan thành máu, và khối lòng tôi cứng tợ si? ”. Đó là cách  trông trời của người đã sống tận cùng trong nỗi khổ đau  và cô độc

Thi sĩ trung niên Bùi Giáng thì cà rỡn khi đặt “bà trời trắng” ngồi bên cạnh “ông trời xanh”. Sau những cuộc đối thoại thất vọng lẫn ngậm ngùi trong cõi thi ca và tư tưởng, ông đã mở ra cuộc rong chơi thù thắng bất tận trong ngôn ngữ với tác phẩm  “Ngày Tháng Ngao Du” và không chịu ngó trời, nhưng đến Ngày Thứ Hai Mươi Lăm trong tác phẩm thì lại muốn “Tôi sẽ ra đi bỏ lại đời. Mỹ Tho Mỹ Thọ Sóc Trăng ơi, Mỹ Thỏ muôn đời là Sóc Trắng, Gái mặc quần ra   đứng ngó trời[2]! Để “gái mặc quần ra đứng ngó trời”, đó là cách nhìn trời cắc cớ của một tâm hồn tài hoa thượng đạt, muốn xỏa lộng ngữ ngôn.

Trong tác phẩm của Kim Dung, Tạ  Tốn là người nhìn trời nhiều nhất, khi cùng vợ chồng Thúy Sơn – Tố Tố lênh đênh trên biển cả; nhưng không phải để trầm tư mà để nguyền rủa, chửi bới vì không chịu chìu theo ý mình. Cái “lão tặc thiên” đó đã bao phen bị Tạ Tốn vùi xuống tận đất đen, giá như ông ta ở gần trong cõi người ta thì ắt hẵn đã bị Kim Mao Sư Vương dùng cây đao Đồ Long phân thây thành muôn đoạn. Đó là cách nhìn trời để trút hết cơn thịnh nộ giữa cảnh ba đào, của con hùng sư chọc trời khuấy nước. Trời Đất đã cùng nhau dậy cơn thịnh nộ thì ta cũng nổi trận cuồng điên để hòa theo tiết điệu Tam Tài : Thiên Địa Nhân !

Quách Tỉnh nhìn chòm sao Bắc Đẩu mà lĩnh hội thêm yếu quyết về võ học. Có nhân vật của Kim Dung không thể không nhìn trời, nhưng lại là cách nhìn cắc cớ, đó là Âu Dương Phong phải lộn ngược đầu để đi, kết quả của việc luyện công sai lầm dẫn tới tẩu hỏa nhập ma.

Khi nhóm Nhậm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh và Hướng Vấn Thiên bị vây trên chùa Thiếu Lâm, thì trận đấu thứ ba giữa Lệnh Hồ Xung và Xung Hư là trận quyết định để cả bốn người được tự do xuống núi. Vị đạo trưởng chưởng môn phái Võ Đang phải đăm chiêu nhìn trời rất lâu để tìm cách phá giải kiếm thuật của Lệnh Hồ Xung, và cuối cùng lắc đầu chịu thua. Ông trời cũng đành bất lực trước tuyệt chiêu của Độc Cô cửu kiếm ! Chính điều đó đã khiến Nhậm Ngã Hành tăng thêm nửa phần bội phục đối với vị chưởng môn  kiếm thuật trùm đời, và đưa ông vào cùng danh sách với Phương Chứng đại sư,  Phong Thanh Dương và Đông Phương Bất Bại.

Có vô vàn thể cách nhìn trời, nhưng có người lại ương bướng không chịu nhìn trời, ngay lúc sinh tử cận kề, dù cái tên có nghĩa là ngước hỏi trời : đó là Hướng Vấn Thiên,  vị Tả sứ của Nhật Nguyệt Thần Giáo. Cũng đúng thôi, biệt hiệu của ông ta đã là Thiên Vương Lão Tử,  cũng giống như Tề Thiên, cùng trời ngang cấp thì hà cớ gì phải nhìn trời ? Hình ảnh của vị Tả sứ mặc áo bào trắng với đôi tay bị trói vẫn trầm tĩnh uống rượu tại lương đình giữa vòng vây của hai phe Hắc Bạch đã dự báo được tính tình cao ngạo cổ quái và tâm cơ siêu tuyệt của ông ta. Khác với Quang Minh tả sứ Dương Tiêu quý phái và hơi màu mè, khi nhận ra con gái là Dương Bất Hối, đã ngữa mặt lên trời hú vang động cả rừng thu, khiến lá vàng ào ào rơi rụng, vị Hướng hữu sứ hành sử đúng theo thể điệu thô hào của giới giang hồ : buồn buồn có thể xơi tái một kẻ địch để giải quyết cái bụng đói, ngang nhiên uống rượu cùng Lệnh Hồ Xung trước khi mở trận đấu sinh tử ! Ấy là cái ngang bướng của kẻ không chịu “hướng vấn thiên” !

Mỗi người nhìn trời một kiểu theo từng thân phận và từng tâm trạng. Còn chúng ta, có bao giờ chúng ta “hướng vấn thiên” ? Và chúng ta có tìm được gì nơi bầu trời xanh lơ thăm thẳm ?


[1] Lời tựa bản dịch Nam Hoa kinh, NXB Tân Việt, 1962

[2] Ngày Tháng Ngao Du, NXB An Tiêm, 1968, t.32

Thảo luận