Việt Nữ Kiếm chỉ là một truyện ngắn, không được Kim Dung liệt vào 14 bộ sách chính của ông. Câu chuyện được xây dựng trên bối cảnh cuộc đấu tranh giữa hai nước Ngô−Việt thời Chiến quốc.
Nhân vật chính trong truyện là một cô bé chăn dê tên A Thanh. A Thanh là một cô gái chăn dê ở nước Việt. Hằng ngày, có một con vượn trắng dùng cây đánh nhau với cô trên đồng cỏ để đùa bỡn, vô tình qua những phản xạ khi giao đấu, cô lại học được một loại kiếm pháp thượng thừa. Quan tể tướng nước Việt là Phạm Lãi mời cô về luyện kiếm cho các kiếm sĩ nước Việt. Cô không biết dạy, mà chỉ biểu diễn kiếm pháp một vài lần cho các tay kiếm xem, sau đó lại biệt tích. Nhưng những gì cô để lại đủ giúp cho kiếm sĩ nước Việt trở nên những tay kiếm cừ khôi, và giúp nước Việt tiêu diệt nước Ngô.
Việt vương Câu Tiễn theo kế của Phạm Lãi dâng người đẹp Tây Thi cho vua Ngô là Phù Sai để dùng “mỹ nhân kế” làm lụn bại nước Ngô. Nhân vật Tây Thi đã là nguồn cảm hứng cho thi nhân của biết bao thế hệ. Và tính nhẫn nại kinh người cùng bản chất nham hiểm của của Việt vương Câu Tiễn vẫn là bài học ngàn đời.
Phạm Lãi yêu người đẹp Tây Thi, nên ông muốn phá được nước Ngô để sớm gặp lại người đẹp thôn Trữ La. Cô bé chăn dê ngây thơ A Thanh lại đem lòng yêu Phạm Lãi, nên cô rất tò mò muốn biết Tây Thi là ai. A Thanh cũng âm thầm theo chân đoàn quân nước Việt tiến vào kinh đô nước Ngô. Lúc kinh đô nước Ngô bị phá, Phạm Lãi hội ngộ Tây Thi cũng là lúc cô xông vào trướng phủ để giết Tây Thi. Khi thanh âm của cây kiếm trong tay người giáp sĩ cuối cùng rơi xuống, cũng là lúc cây gậy trúc trong tay A Thanh điểm đến tâm khẩu của Tây Thi. Nhưng cô liền dừng tay vì sững sờ trước dung nhan tuyệt tục của Tây Thi và cô không còn nghĩ đến chuyện ghen tương nữa. Cô không dám đẩy mạnh cây gậy trúc đã đặt nơi tâm khẩu Tây Thi, có lẽ vì sợ mang tội phá hủy một tuyệt tác của hóa công. Cô bèn hú lên một tiếng thật dài rồi nhảy qua cửa sổ mà đi mất, mang theo tâm trạng thê lương vì mối tình đầu tuyệt vọng của một cô gái chăn dê nước Việt.
Đại khái đó là nội dung của tác phẩm “Việt Nữ Kiếm”. Có lẽ câu chuyện đơn giản với nội dung chỉ có 58 trang trong nguyên tác không thể sánh với những tác phẩm đồ sộ khác của Kim Dung, nhưng điều hấp dẫn của tác phẩm là cô gái A Thanh trong câu chuyện ấy không phải là nhân vật hoàn toàn hư cấu mà dựa theo truyền thuyết lịch sử, thậm chí cả con vượn trắng trong “Việt Nữ Kiếm” cũng được nhắc được chép trong các cổ lục Trung Hoa như “Ngô Việt xuân thu”, “Đông Chu liệt quốc chí diễn nghĩa”, “Văn nghệ loại tụ”. Có vậy ta mới thấy hết được sự cẩn trọng của Kim Dung, khi dùng lịch sử làm cái mốc để xây dựng cốt chuyện.
Ngô Việt xuân thu kể lại chuyện này như sau:
“Việt vương Câu Tiễn hỏi Phạm Lãi:
− Cô[1] mưu tính phục thù, dưới nước thì dùng thuyền, trên bộ thì đi xe. Xe thuyền đã đầy đủ, binh khí đã được sửa sang chỉnh đốn. Nay ông vì ta bày mưu tính kế, có còn sơ sót gì nữa không?
Phạm Lãi tâu:
− Thần nghe nói rằng bậc thánh nhân ngày xưa, chẳng ai là không dùng binh và luyện tập chiến đấu. Thế nhưng việc bày binh bố trận, rốt cuộc tốt hay xấu là thì sự quyết định là do ở chỗ tài khéo. Nay nghe nói ở nước Triệu có một xử nữ[2], sống ở Nam Lâm, người trong nước ai cũng khen là tài giỏi. Nay xin đại vương cho mời vào yết kiến ngay đi.
Câu Tiễn bèn nghe theo, cho mời vào để hỏi về thuật đánh kiếm, thương.
Cô gái nước Triệu trên đường đi đến nước Việt để gặp Câu Tiễn, thì gặp một ông lão tự xưng là “Viên công”[3]. Ông lão hỏi cô gái:
− Ta nghe nói cô nương giỏi kiếm, xin được xem qua.
Cô giá nói:
− Thiếp không dám dấu giếm gì, xin mời lão trượng cứ thử.
Ông lão lập tức vung cây gậy trúc lâm vu[4] ra. Cành trúc tung vút lên, người con gái liền đưa tay nắm lấy ngọn trúc. Ông già bỗng nhảy lên cây và hoá thành con vượn trắng mà bỏ đi mất.
Cô gái vào yết kiến Việt vương. Câu Tiễn hỏi:
− Cái đạo của kiếm như thế nào?
Cô gái nói:
−Thiếp sống trong chốn rừng sâu, lớn lên ở vùng hoang dã, thường rèn luyện kiếm không lúc nào nghĩ. Kiếm đạo này không ai truyền thụ mà thiếp tự ngộ ra.
Câu Tiễn hỏi:
− Đạo đó ra sao?
Cô gái nói:
−Đạo lý này rất vi diệu mà lại vô cùng giản dị, nhưng ý nghĩa thì u uẩn sâu xa. Đạo có môn hộ, lại có âm dương. Phàm khi chiến đấu thì bên trong tinh thần phải sung mãn mà bên ngoài thì phải bình thản. Nhìn thì dịu dàng như con gái, mà khi tấn công thì như mãnh hổ, vòi vọi như mặt trời mà như tung mình vồ thỏ, đuối hình theo bóng, như ánh sáng chập chờn, điều hòa hơi thở, tung hoành xuôi ngược, co duỗi kín đáo. Dùng đạo lý này thì một người có thể địch lại trăm người, trăm người có thể địch lại vạn người. Nếu đại vương muốn thử, sẽ thấy hiệu nghiệm ngay.
Hỏi đến tên, cô gái chỉ bảo là “Việt nữ” (cô gái nước Việt).
Việt vương bèn sai tổ chức luyện tập cho quân sĩ. Thời bấy giờ không có ai địch nỗi kiếm pháp của cô gái nước Việt” (Đương thời mạc thắng Việt nữ chi kiếm).
Qua “Văn nghệ loại tụ” và “Đông Chu liệt quốc chí liệt truyện ” thì nội dung trên có biến đổi chút ít. Theo hồi thứ 81 trong “Đông Chu liệt quốc” thì:
“Ông lão nhổ cây tre như nhổ đám có khô để đâm cô gái. Ngọn trúc gãy rơi xuống đất. Cô gái liền nhặt lấy ngọn trúc đâm lại. Ông lão bèn nhảy lên cây hóa thành con vượn, hú một tiếng dài rồi bỏ đi. Sứ giả lấy làm kinh dị.”
Kim Dung đã dựa vào nhân vật nữ này để xây dựng nhân vật A Thanh. Ông chỉ hư cấu thêm tình yêu của cô gái với Phạm Lãi.
Ta có thể hiểu nguyên văn “Việt nữ chi kiếm” trong trong “Ngô Việt xuân thu” là kiếm pháp do cô gái nước Việt truyền thụ hoặc kiếm pháp trong chính tay cô gái đó. Lời nói của cô gái trong tài liệu đó đúng là chỗ tâm yếu tối thượng thừa trong võ học, không ngoài các nguyên tắc võ học đông phương mà Kim Dung thường triển khai trong tác phẩm mình: “nội động ngoại tĩnh, hậu phát tiên chí, toàn thần dụng quán, phản ứng tốc tiệp, ứng hóa đa đoan, xuất địch bất ý”. (trong động mà ngoài tĩnh, ra chiêu sau mà đến trước, tập trung toàn bộ tinh thần, phản ứng mau lẹ, biến hóa trăm bề, tấn công đột ngột).
Nguyên lý về kiếm thuật cũng thấy được nhắc đến một cách tương đối hệ thống trong chương “Thuyết kiếm” trong Nam Hoa kinh của Trang Tử (Cf.Tạp thiên, Nam Hoa kinh). Có điều chương này mang văn phong của các nhà du thuyết thời Chiến Quốc, khác hẳn với văn phong mênh mông kỳ ảo của Trang Tử nên chắc là ngụy tác của đời sau. Nhưng qua đó chúng ta cũng nhận thấy lý luận vê kiếm thuật, dù chưa hình thành một trường phái trong bách gia chư tử, cũng đã ẩn tàng trong các cổ thư Trung Quốc. Chính những giòng cổ lục ít ỏi và ngắn ngủi đó đã là cơ sở để các nhà kiếm hiệp đời sau kế thừa và phát triển. Trong tác phẩm Tuyết Sơn Phi Hồ, Kim Dung cũng để nhân vật Hồ Phỉ đọc bài Thuyết kiếm này trong phòng của Mã Xuân Hoa, tại phủ Phúc Khang An.
Thơ Đỗ Mục có câu:
Thụ đồ Hoàng Thạch lão
Học kiếm Bạch Viên công
(Bạch viên dạy kiếm pháp
Hoàng Thạch trao binh thư)
“Hoàng thạch” ở đây có lẽ lấy điển tích Trương Luơng gặp ông lão trao cho bộ Thái Công binh pháp dưới chân cầu Hạ Bì để giúp Lưu Bang lập nên cơ nghiệp năm trăm năm nhà Hán. Sau khi thành công, Trượng Lương tìm về chỗ hẹn năm xưa chỉ thấy một tảng đá vàng, biết rằng đó là hóa thân của ông lão, người sau kêu là Hoàng thạch công.
Trong các bài thơ Nam viên (vườn nam), Lý Hạ cũng có một bài nói về vị “Viên công” này, bài thứ bảy có câu:
Kiến mãi Nhược lang khê thủy kiếm
Minh triêu qui khứ sự Viên Công
(Mua được Nhược Lang thanh kiếm báu
Sớm mai tìm đến giúp Viên Công)
Câu chuyện viên đá vàng và con vượn trắng nói trên có thể là sự thật lịch sử hoặc cũng có thể chỉ là truyền thuyết dân gian, nhưng bao hàm biết bao nét nên thơ để mở rộng tâm thức nhân gian. Bi kịch lớn nhất của con người hiện đại là cứ luôn muốn định lượng và tìm tòi thế giới bằng thứ ánh sáng lạnh lùng của lý trí. Thiên nhiên đã phơi bày tất cả, nhưng càng phơi bày thì con người lại càng mơ hồ cảm nhận được cái huyền ẩn vô cùng vi tế.
Mọi sự sáng tạo nhiều khi bị dìm chết trong cái gọi là “ánh sáng của lý trí”, mà có một thời gian rất dài nhân loại vẫn cho đó là “cỗi nguồn của sáng tạo”. Đó là lý do vì sao đến thế kỷ 20, chủ nghĩa hiện thực phải được thay bằng “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”. Tôi cho rằng chữ đó là thừa, vì bản thân hiện thực đã là huyền ảo rồi. Người xưa đã sống trong cái thế giới hiện thực huyền ảo đó với hòn đá vàng cùng con vượn trắng, cũng như những con chồn đáng yêu trong “Liêu trai chí dị”.
Vượn biết học kiếm là điều thấy có chép trong văn học Trung Quốc cổ. Trong “Bạch viên truyện” (Truyện con vượn trắng) mô tả thì có:
“Một con vượn trắng to lớn, lông dài mấy tấc, thường đọc sách trên thẻ tre, chữ viết tựa như chữ triện. Nhiều lúc múa song kiếm bao bọc lấy toàn thân nhanh như điện chớp, ánh sáng lấp loáng như ánh trăng”.
Còn theo cuốn tiểu thuyểt Trung Quốc cổ “Lục dã tiên tung” (Dấu vết tiên ngoài đồng nội) thì đại đệ tử của tiên nhân là một con vượn trắng. Và theo “Độc tiên kiếm hiệp truyện” (Truyện kể về vị tiên cô độc) thì đại đệ tử của nhân vật nữ chính Lý Anh Quỳnh cũng là một con vượn trắng.
Thế giới văn học cổ Trung Quốc quả luôn luôn hấp dẫn người đọc bằng những lớp sương mù huyền thoại. Cùng với “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh, chúng ta đi vào cái thế giới huyền ảo của những con chồn tinh độc ác mà cũng đáng yêu, thì cùng với các cổ thư Trung Quốc và câu chuyện “Việt Nữ Kiếm” ngắn ngủi, ta lại đi vào thế giới ảo huyền của loài vượn trắng.
(Phụ lục cho cuốn Lai Rai Chén Rượu Giang Hồ)
[1] Các vị vua thời xưa, thường tự xưng là “cô” hay “quả nhân” ý nói minh là ít tài kém đức.
[2] Cô gái chưa chồng.
[3] Viên có nghĩa là con vượn
[4] Tên một loại trúc
Thảo luận