Ngày nay, không ai còn xa lạ với tên tuổi của nhà khoa học người Anh Charles Robert Darwin (1809-1882), người đã dội một gáo nước lạnh vào niềm kiêu hãnh về nguồn gốc thần linh của con người bằng thuyết tiến hóa và sự chọn lọc tự nhiên (natural selection), trong tác phẩm On the Origin of Species (Về nguồn gốc của các loài) đưa ra vào năm 1859. Hình ảnh linh thiêng về nguồn gốc con người đã biến mất và thay vào đó là hình ảnh loài vượn người! Lý thuyết đó sai hay đúng, và đúng đến mức độ nào vẫn còn là vấn đề mà khoa học tiếp tục tìm tòi và chứng minh, nhưng nó không chỉ gây ảnh hưởng sâu đậm trong ngành sinh học, mà còn cả trong xã hội học và nhiều bộ môn khoa học khác. Ðiều kỳ diệu là ý nghĩa tích cực của nó lại có nhiều điểm tương ứng với quan điểm Ðông phương cách đây mấy ngàn năm, trong cách nhìn nhận về Thiên Nhiên!
Thiên Nhiên vốn vô cùng bao dung, nhưng cũng vô cùng nghiệt ngã. Thiên Nhiên vừa là bà mẹ từ ái, lại vừa là ông cha nghiêm khắc. Những đứa con của Tạo Hóa, gồm đủ mọi loài từ thực vật đến động vật, đều phải tự đấu tranh để tồn tại, theo lẽ “tự cường bất tức” của quẻ Kiền. Ðấng Tạo Hoá tối cao vẫn luôn luôn là nhà giáo dục vĩ đại, vì bên cạnh những ân sủng mà Tạo Hoá ban cho muôn loài lại là những lằn roi quất trí mạng, để muôn loài không ngừng tiến lên, theo nhịp điệu hóa sinh. Cái vòng tròn xoắn ốc của sự tiến hoá có thể sẽ đưa muôn loài, trong đó có con người, tiến dần đến với sự toàn mỹ, toàn chân. Và trên con đường tiến hóa đó thì những yếu tố dư thừa hay yếu kém trong sinh vật sẽ bị loại bỏ, hoặc sinh vật buộc phải thích nghi để sinh tồn.
Thiên Nhiên vốn không ưa chuộng sự bình quân, vì sự bình quân luôn đồng nghĩa với sự lờ đờ thiếu sinh khí. Còn gì vô vị cho bằng một khu rừng chỉ có duy nhất một loại cây, hay một thành phố chỉ có duy nhất một kiểu nhà với mọi người chỉ có duy nhất một kiểu áo quần! Một bầu khí quyển đẳng nhiệt chỉ là một bầu khí quyển chết, ngột ngạt vì trong đó không có sự vận động luân lưu. Sự lưu chuyển của không khí chỉ xảy ra khi có sự chênh lệch nhiệt độ, nghiã là khi sự bình quân về nhiệt độ bị phá vỡ. Cây trong rừng vẫn phải đua nhau vươn lên để tìm ánh sáng mặt trời. Loài cá dưới biển và muôn thú trên non vẫn phải thường xuyên đấu tranh để sinh tồn. Cặp chân nai phải dài và nhanh nhẹn hơn để tránh thoát móng vút loài hổ báo. Con sâu phải giống màu lá hơn để dễ dàng ẩn náu trong cây lá. Nhờ thế mà Thiên Nhiên mới hiển lộ ra trong muôn màu muôn vẻ. Cỏ cây chen hòa cùng đại thụ. Tôm tép sống lẫn với kình ngư. Chúng ta có thể xem khi sau khi sáng tạo nên vũ trụ thì Thượng Đế, như người nhạc trưởng, vung cây đũa lên là toàn thể dàn hợp xướng khổng lồ của Thiên Nhiên bắt đầu tham dự vào nhịp điệu hóa sinh vô tận, với vô vàn giai điệu khác nhau, đa dạng đến lạ lùng. Bức tranh của Thiên Nhiên sở dĩ đa dạng đến kỳ diệu là nhờ Hóa Công đã khéo biết chối bỏ luật bình quân.
Dường như Thiên Nhiên chỉ chấp nhận sự bình quân trong đám lau lách, hoặc trong biển cát giữa sa mạc. Nơi đó mọi vật đều giống nhau. Bình quân và đồng đẳng. Không có cái này vượt trội hơn cái khác. Tất cả đều na ná như nhau. Tất cả đều nhỏ nhoi, đớn hèn và tẻ nhạt như nhau. Mà trong Thiên Nhiên, ở đâu có sự bình quân như thế thì ở đó chỉ là nơi ẩn tàng của sự hoang liêu và chết chóc, nơi ngự trị của sự vô vị và đơn điệu. Nơi nào không có sự bình quân thì sẽ có sự sống, vì nơi đó sẽ có sự vận động, nghĩa là sự đổi mới cách tân. Thay đổi để thích nghi hay là chết, ấy là quy luật trong Thiên Nhiên. Đó cũng chính là nền tảng của thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin.
Lịch sử cho thấy người Mỹ phương Bắc đã từng tìm mọi cách tận diệt loài chó sói để bảo vệ đàn nai. Khi con sói cuối cùng bị giết, người ta hớn hở chờ đợi một đàn nai sinh sôi gấp bội, thì oái ăm thay, sau một thời gian đàn nai phát triển, người ta mới phát hiện chúng kiệt quệ dần đi. Đến lúc đó, người ta chợt hiểu ra rằng chính trong quá trình săn đuổi để tiêu diệt đàn nai, các con sói đã thay mặt Thiên Nhiên loại ra khỏi đàn nai những con yếu đuối, vì những con yếu đuối đó không theo kịp đàn, nên thường làm mồi cho đàn sói. Khi không còn đàn sói, những con nai yếu đuối đó được bình yên để truyền giống, và hậu quả là bệnh tật lan lây trong quần thể. Cuối cùng, người dân nơi đó phải dựng một bức tượng sói để kỷ niệm con sói cuối cùng bị giết, như để nhắc nhở cho nhau, và cho cả con cháu mai sau, bài học của Thiên Nhiên. Lằn roi nghiệt ngã của Thiên Nhiên vẫn vĩnh viễn còn nguyên giá trị trong sự tiến hóa. Trong một quần thể, khi không có sự chọn lọc tự nhiên để tìm ra những phần tử ưu tú, thông qua năng lực, thì sớm muộn gì quần thể đó cũng đi đến diệt vong. Thiên Nhiên tuy khắc nghiệt nhưng cũng rất công minh, và buộc muôn loài phải luôn “tự cường bất tức”, đấu tranh sinh tồn không ngừng nghỉ. Thiên Nhiên không chấp nhận nhưng chú cá vàng yếu ớt, ẻo lả, cũng không chấp nhận những sinh vật theo kiểu “gà công nghiệp”, vốn là sản phẩm của nền văn minh nhân tạo.
Thiên Nhiên vẫn luôn lớn hơn lịch sử và con người. Đại khối vốn vô ngôn. Nhưng đó là sự yên lặng hàm ẩn ý nghĩa mênh mông. Do đó, để tồn tại và phát triển, con người tự ngàn xưa đã phải sống thuận theo quy luật của tự nhiên, vì họ hiểu rằng “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” (Kẻ nào thuận theo Thiên Nhiên thì sống, kẻ nào đi trái ngược lại thì chết). Mà ngẫm cho cùng thì, về mặt sinh vật học, cái lẽ “thuận thiên” ấy cũng không khác gì mấy với sự chọn lọc tự nhiên.
Tất cả những điều trình bày trên đây chỉ là sự quãng diễn câu nói tuyệt vời của Khổng Tử trong sách Trung Dung “Thiên sinh vạn vật, nhân kỳ tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi .故 天 之 生 物, 必 因 其 材 而 篤 焉. 故 裁 者 培 之, 傾 者 覆 之。” Trời sinh ra muôn vật, nhân cái tài năng của nó mà đôn đốc thêm cho sự hóa sinh. Bởi vậy, hễ sinh vật mà khỏe mạnh biết thích nghi thì bồi bổ thêm để càng tiến hóa mạnh hơn nữa. Tài giả bồi chi. Nhưng nếu sinh vật yếu ớt đã nghiêng rồi thì lật cho đổ nhào luôn! Khuynh giả phúc chi.
Bài học tiến hóa từ Thiên Nhiên quả sâu xa biết mấy!
Thảo luận