Tàng hình có lẽ là một trong những ước mơ muôn thuở của loài người. Từ xa xưa, ước mơ đó đã được thể hiện qua những câu chuyện thần thoại. Thông thường, tàng hình được hiểu là ẩn giấu mình đi, không còn ai thấy nữa, nghĩa là trở thành vô hình, “vô sắc tướng”. Song với một ít kiến thức về vật lý, ta cũng dễ hiểu được rằng muốn tàng hình theo cách đó thì toàn bộ cơ thể ta, kể cả đôi mắt, phải trong suốt và có chiết suất tương đương với chiết suất không khí. Lúc đó thì mắt ta cũng không nhìn thấy gì cả, nghĩa là ta giống như một người mù. Nếu không thế, thì ta phải khoác một tấm áo choàng bằng loại vật liệu hoàn toàn không hấp thụ ánh sáng, nghĩa là những tia sáng khi chạm vào nó sẽ bị “trượt” đi; hoặc ta phải di chuyển với vận tốc của ánh sáng v.v…Đó là những điều khó có thể, đúng hơn là không thể, xảy ra trong thế giới vật lý. Ta cũng thường nghe nói đến máy bay tàng hình trong kỹ thuật quân sự dùng để chỉ những loại máy bay không bị hệ thống radar phát hiện. “Tàng hình” theo nghĩa này được hiểu là chiếc máy bay vẫn tồn tại đầy song lại không bị radar “nhìn thấy”. Tương tự như vậy, nếu ta có thể tồn tại và sinh hoạt mà không bị ai “trông thấy”, không bị ai “cảm nhận được” thì điều đó cũng có nghĩa là ta cũng đang “tàng hình” giữa cõi đời. “Tàng hình” như thế là có lẽ là cực đỉnh của giáo lý vô ngã trong truyền thống tu học phương Đông.
Tàng hình không có nghĩa là trở nên vô hình, “vô sắc tướng”, mà chỉ có nghĩa là khi ta tiếp cận bất kỳ ai thì người đó vẫn không để ý đến sự hiện diện của ta. Ta có thể đi qua trước mặt, thậm chí đứng trước mặt một người khác mà không hề khiến họ phải suy nghĩ hay gợi cho họ một ấn tượng nào trong trí nhớ, cho nên ta không hề bị phát hiện. Về phương diện vật lý, bất kỳ hành động nào từ thân, khẩu của ta cũng đều tạo nên những làn sóng làm khơi dậy sự cảm thọ nơi người khác, và sự cảm thọ đó giúp họ biết được sự hiện hữu của ta. Hành động của thân khẩu càng ầm ĩ, càng tạo ấn tượng ồn ào thì sự cảm thọ gây nên nơi người khác càng mạnh mẽ.
Nếu ta bước đi lặng lẽ trước mặt một đám đông thật nhẹ nhàng, với điệu bộ vô cùng khiêm cung thì ta khơi dậy nơi họ rất ít cảm xúc, và sẽ có rất ít người chú ý đến ta. Giả sử không có một ai chú ý đến ta cả thì có thể xem như ta đã trở thành “vô hình” đối với họ. Trong thực tế, đôi khi ta vẫn trải nghiệm được điều này. Có những lúc ta nhìn vào một đám đông người hay một đống đồ vật thật lâu, nhưng ngay sau đó, khi hồi tưởng lại thì ta chỉ nhớ được một vài người hoặc một vài đồ vật, thậm chí chẳng có chút gì lưu lại trong ký ức. Có thể xem như tất cả đều đã trở thành “vô hình” đối với ta. Nhưng dù ta có bước đi lặng lẽ nhẹ nhàng đến mấy thì những hoạt động của tinh thần vẫn luôn luôn làm phát sinh một dạng năng lượng bao quanh ta, và ai tiếp xúc với dạng năng lượng này đều cảm nhận được nó. Dẫu ta có ngồi lặng yên không nói, dứt bặt mọi hoạt động của thân khẩu thì hoạt động của ý thức, của tư tưởng vẫn gây nên ở người khác một sự cảm thọ cực kỳ vi tế. Nếu như ta có thể loại bỏ được tất cả hoạt động tinh thần, thì ta sẽ không làm khơi dậy bất kỳ cảm xúc nào bao quanh ta, do đó sẽ không ai cảm nhận được sự hiện hữu của ta cả, nghĩa là ta thực sự trở nên “vô hình”.
Hiểu theo nghĩa đó thì ta có thể xem mấu chốt quan trọng nhất của khả năng tàng hình là sự chấm dứt mọi hoạt động tinh thần phát khởi từ ý thức về tự ngã. Nếu ta còn ý niệm về “cái ta” thì ý niệm đó gợi nên sự cảm thọ về “chúng sinh tướng” nơi người khác. Muốn được vô hình thì ý niệm về “cái ta” trong mọi hoạt động của thân khẩu ý đều phải tiêu dung toàn triệt. Đây là điểm mà Lão Tử gọi là “thiện hành vô triệt tích (-Đạo đức kinh, chương 27). Câu này thường được dịch là “khéo đi không để vết”? Nhưng thế nào là “khéo đi không để vết”? Vì sao lại cần phải “không để vết”? Nếu chỉ hiểu câu này theo nghĩa đen thì dễ khiến ta liên tưởng đến môn khinh công thượng thặng “thủy thượng phiêu” trong tiểu thuyết võ hiệp giúp các đại hành gia võ học chạy băng băng trên mặt nước, hoặc pháp môn phiêu nhiên công (lung gom) giúp các đạo sư Tây Tạng có thể chạy như lướt bay trên không với tốc độ kinh hồn. Dĩ nhiên đó không phải là ý chính trong câu nói của Lão Tử. Ta sẽ thấy “thiện hành vô triệt tích” mang một nội dung khác, nếu đọc câu đó nối tiếp theo sau một câu khác : “Sở dĩ ta mắc những tai họa lớn vì ta có thân, nếu ta không có thân thì làm gì còn tai họa?” (Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? – Đạo đức kinh, chương 13). Điều này có nghĩa là do tâm ta khởi lên ý niệm về thân, cho rằng thực có một xác thân, cho nên vọng tưởng về tự ngã đã tạo thành “ngã tướng” và kéo theo nhiều khổ lụy trong đời sống. Phải sống “không ta” thì mới có thể an nhiên bình lặng giữa đời, cho nên “thiện hành” ở đây phải hiểu là hành động, hoạt động với cái tâm hồn nhiên vô chấp, còn “không để vết” có nghĩa là không còn lưu lại mọi ý niệm về ngã tướng, nhân tướng hay chúng sinh tướng. Tất cả đều rỗng rang không đâu có cái ta, quách nhiên vô ngã!
Sau này Trang Tử lại tiếp tục triển khai ý tưởng đó trong Đạo đức kinh bằng câu nói nổi tiếng :“Bậc chí nhân không có mình, bậc thần nhân không có công, bậc thánh nhân không có danh” (Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh – Nam hoa kinh, thiên Tiêu dao du). Vô kỷ, vô công, vô danh tuy ba mà một, vì một khi đã không thấy có mình, không còn khởi lên ý niệm về tự ngã thì dẫu công lao trùm đời vẫn là vô công, danh tiếng chấn động thiên hạ vẫn là vô danh. Rỗng rang không có cái ta, quách nhiên vô ngã! Ngẫm ra thì mấy ngàn lời của Đạo đức kinh hay Nam hoa kinh rốt cục cũng chỉ nhắm đến mục đích này. Đó là bước đầu để thị hiện diệu dụng trong cảnh giới tự tại phiêu bồng của Phật giáo.
Đó mới chính là “thiện hành vô triệt tích”, nghĩa là sống với cái tâm hồn nhiên trống rỗng, hoàn toàn vô kỷ, vô công, vô danh, và cũng gần gũi với cái mà thánh Gandhi gọi là “Je me réduis à zéro” (Tôi tự giảm trừ bản thân đến mức thành con số không). “Cái ta” của ta đã hoàn toàn tan biến trong muôn ngàn “cái ta” khác, nó đã trở nên hoàn toàn “trong suốt” nên không còn ai “thấy” được ta nữa, không còn ai cảm thọ được sự hiện hữu của ta nữa. Không có người cho, không có người nhận, đến vật cho cũng không có nốt, tất cả đều “trong suốt” trong tư tưởng và hành động. Đây là cảnh giới vô ngã toàn triệt, chỉ có hành động chứ không có tác giả, theo tinh thần của Phật giáo. “Ai hay hát và ai hay nghe hát?” (Nguyễn Công Trứ). Đến cảnh giới đó thì, theo cách nói của các thiền sư, ta có thể: “nhập lâm bất động thảo, nhập thủy bất lập ba” (vào rừng cỏ không động, xuống nước sóng chẳng xao). Mọi hoạt động của thân khẩu ý đều vô vi tĩnh lặng, không làm xao động đến một chiếc lá hay một hạt sương. Đó chính là “sống tàng hình”.
Nhà văn Kim Dung đã thể hiện phần nào tư tưởng này qua nhân vật Vô danh tăng trong kiệt tác Thiên Long Bát Bộ. Một vị tăng vô danh suốt ngày chỉ lo quét rác trong trong Tàng kinh các, lặng lẽ và vô danh đến mức tất cả chư tăng trong chùa không ai để ý ngay đến cả sự tồn tại của ông. Nhưng khi cục diện võ lâm rơi vào tình cảnh bế tắc bất khả vãn hồi thì những lời thuyết pháp mộc mạc, và võ công kỳ diệu của ông đã làm chấn động cả đương trường. Vị tăng vô danh kia đột nhiên hiện thân như một Bồ Tát thần thông quãng đại, đem Phật pháp vô biên để hoá giải tham vọng hận cừu. Đó chính là diệu dụng của cảnh giới quách nhiên vô ngã! Thật kỳ diệu biết mấy, khi người duy nhất đứng ra giảng hoà được mọi tham vọng hận thù, hiện thân như một Bồ Tát giữa đời để cứu vãn được bao điều oan nghiệt trên chốn giang hồ lại là một vị tăng quét rác tầm thường, tầm thường đến nỗi không có được một cái tên. Đó là quách nhiên vô ngã!
Tại đây ta bắt gặp lời thơ du hý phiêu bồng của nhà thơ Bùi Giáng :
Phật ngồi dưới gốc Bồ Đề,
Tiên-nương dừng bước tóc thề chấm vai,
Thưa rằng Phật thật là tài,
Thấy mà như chẳng, tự ngoài vào trong.
“Thấy mà như chẳng, tự ngoài vào trong” có nghĩa là tất cả đều rỗng rang trong suốt, theo tinh thần của kinh Bát nhã :
“Ðại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật, trong nội không chẳng thấy ngoại không, trong ngoại không chẳng thấy nội không, trong ngoại không chẳng thấy nội ngoại không, trong nội ngoại không chẳng thấy ngoại không, trong nội ngoại không chẳng thấy không không, ….trong vô sở đắc không chẳng thấy vô pháp không, trong vô pháp không chẳng thấy vô sở đắc không, trong vô pháp không chẳng thấy hữu pháp không, trong hữu pháp không chẳng thấy vô pháp không, trong hữu pháp không chẳng thấy vô pháp hữu pháp không, trong vô pháp hữu pháp không chẳng thấy hữu pháp không.”
(Kinh Bát nhã Ba La Mật, quyển 3, phẩm Khuyến học, bản dịch của HT Thích Trí Tịnh).
Đó là quách nhiên vô nhân và quách nhiên vô ngã!
Có một giai thoại rất lý thú về một thiền sư và cô lái đò. Có một vị thiền sư theo đò sang sông. Cô lái đò đưa khách qua sông. Khi đò cập bến, cô lái thu tiền từng người. Sau hết, đến nhà sư, cô đòi tiền gấp đôi.
Nhà sư ngạc nhiên hỏi vì sao, cô lái mỉm cười:
– Vì thầy nhìn em.
Nhà sư im lặng trả tiền, rồi bước lên bờ.
Một hôm, nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền gấp ba.
Nhà sư hỏi vì sao, cô lái cười bảo:
– Lần nầy thầy không nhìn em nhưng nhìn bóng em dưới nước.
Nhà sư lại im lặng trả tiền, và bước lên bờ.
Lần khác, nhà sư lại qua sông. Vừa bước lên đò, nhà sư liền nhắm nghiền mắt lại và yên lặng tọa thiền ở một góc thuyền. Khi đò cập bến, cô lái đò thu tiền gấp năm lần.
Nhà sư hỏi vì sao, cô lái đáp:
– Thầy không nhìn em, nhưng tâm thầy còn nghĩ đến em.
Nhà sư lại im lặng trả tiền và lên bờ.
Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò.
Đò cập bến, nhà sư mỉm cười, hỏi lần nầy phải trả bao nhiêu tiền, cô lái đáp:
– Lần này, em chỉ xin đưa thầy qua sông chứ không lấy tiền.
Vị thiền sư hỏi:
– Vì sao vậy?
Cô lái cười đáp:
– Tuy thầy nhìn em mà không còn nghĩ tới em nữa.
Lần này, tâm vị thiền sư đã đạt đến cảnh giới quách nhiên vô nhân nên tâm cũng rỗng rang trong suốt. Tâm đã rỗng rang trong suốt thì trần cảnh cũng rỗng rang trong suốt, bởi vậy cô lái đò cũng rỗng rang trong suốt và trở thành vô sắc tướng đối với vị thiền sư. Vì một khi tâm đã rỗng rang trong suốt thì trần cảnh dựa vào đâu mà sinh khởi?
Mô phỏng tinh thần Trung luận, ta có thể nói : “Chư tướng bất tự sinh, diệc bất tòng tha sinh; bất cộng bất vô nhân, thị cố tri vô sinh”. Đó chính là cảnh giới “thấy mà như chẳng, tự ngoài vào trong”, và là điểm tinh yếu của “quách nhiên vô ngã”!
Thảo luận