Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

Nhàn đàm chuyện đọc sách

Ðọc sách, từ xa xưa, vẫn được coi là một trong những thú vui tao nhã nhất trên đời. Có người đọc sách để di dưỡng tinh thần, cũng như trồng cây cảnh để dưỡng trí, nuôi chim cá để dưỡng nhân. Có người đọc sách để trao dồi kiến thức, có người đọc sách để tìm chút thư thái bình an, có người đọc sách để tìm một chốn an tâm lập mệnh, có người đọc sách để quên đi cảnh muộn phiền, có người đọc sách chỉ vì bắt buộc phải đọc, ví dụ như sinh viên trước các kỳ thi….. Nói chung thì có vô vàn cách đọc sách. Hoặc đọc theo lối đăm chiêu tư niệm. Hoặc đọc theo lối lai rai khoái họat. Hoặc đọc theo lối lãng đãng phiêu bồng. Thư trung hữu nữ nhan như ngọc ” (Trong sách, có người con gái dung nhan xinh như ngọc). Người xưa thường dùng dẫn câu đó để khuyến khích con em đọc sách. Nhưng mục đích của việc đọc sách này là “sôi kinh nấu sử” để chuẩn bị đăng khoa.

Ðọc sách chỉ nhằm mục để tiến thân, hoặc để “trang sức tinh thần” không phải là nội dung của bài viết này. Ở đây, tôi cũng không dám bàn đến phương pháp đọc sách, hay cách chọn sách, mà chỉ xin bàn đến niềm vui và sở đắc trong chuyện đọc sách, của những người mê thích đọc sách về một chủ đề, hay một tác giả nào đấy.

Người xưa chia ra làm ba loại hiểu biết: Sinh nhi tri, khốn nhi tri, học nhi tri. Có người sinh ra là đã biết : sinh nhi tri. Cái biết ấy chỉ dùng cho các bậc thánh nhân “vô sư tự ngộ” (không cần đến thầy mà vẫn hiểu biết ), như Khổng Tử, LãoTử, Thích Ca… Có người do lâm vào cảnh khốn cùng mà biết: khốn nhi tri. Như Văn Vương, khi bị vua Trụ giam ở ngục Dũ Lý, đã nghiền ngẫm kinh Dịch mà diễn lại các quẻ, để làm ra Hậu thiên bát quái, chuyển đổi Tiên thiên bát quái của Phục Hy. Còn hầu hết chúng ta có lẽ đều do học mà biết : học nhi tri. Mà “học nhi tri ” thì không có gì bằng đọc sách. Nhiều người đã cực lực xiển dương, và quan trọng hóa cái học chính quy bài bản của nhà trường, xem như đó là điều kiện cơ bản của một người được coi là có học vấn. Về lĩnh vực khoa học tự nhiên thì tôi hoàn toàn đồng ý, song trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn, thì nhận định chủ quan đó nhiều khi không chuẩn xác. Nhất là ở lĩnh vực triết học phương Ðông, kiến thức kinh điển từ nhà trường thường là chướng ngại, ngăn cản con đường đi vào tâm đạo. Cứ thử theo gót M.Heiddeger nhìn lại triết học phương Tây, ta sẽ càng thấm thía thêm điều đó. Kiến thức chính quy mà nhà trường đào tạo cho chúng ta, theo tôi, chỉ có thể nên xem như là cái móng, để trên đó chúng ta, bằng khả năng tự học, tiếp tục xây dựng cái nhà riêng. Còn “căn nhà riêng” đó có đẹp đẽ, kiên cố và có giá trị hay không, điều đó tùy thuộc vào khả năng tự học vàtài hoa của từng người.

Có không ít người thành đạt trong lĩnh vực khoa học xã hội là những người tự học, hay ít ra cũng không phải là những người được đào tạo chính quy về ngành học đó. Có vị khoa bảng nào, có ông Cống ông Nghè nào viết nỗi bộ “Nho giáo” như học giả Trần Trọng Kim chưa? Ở miền Nam, không ai xa lạ với Bùi Giáng, người có kiến thức khổng lồ về triết học Ðông Tây, cũng chỉ nhờ đọc sách và tự học. Và có nhiều người từ lĩnh vực tự nhiên, khi nghiên cứu khoa học xã hội đã để lại những công trình đáng kính nể. Mà nào họ có được đào tạo chính quy về khoa học xã hội đâu? Như giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Tất cả đều là kết quả của quá trình đọc sách và tự học. Tự học có thể bắt nguồn từ môi trường nghề nghiệp, từ môi trường sách vở, từ các bậc thiện tri thức. Mà nói đến việc tự học thì không thể không nhấn mạnh đến vấn đề đọc sách. Vì chúng là nguồn cung cấp tri thức chủ yếu. Nhiều người lo rằng với sự phát triển công nghệ, tương lai sách điện tử sẽ thay thế cho sách giấy hiện nay. Những ai tin vào điều đó, theo tôi, là những người chưa hề hưởng được thú vui đọc sách. Ðọc sách mà cứ phải ngồi mãi trước máy tính, theo dõi màn hình qua các đĩa CD, thì đúng là cực hình. Có ai lại quên được những giây phút nằm co ro trong chăn, giữa mùa đông lạnh buốt, để đọc loại sách mà mình ưa thích? Tôi thích những người đọc sách, chỉ vì đam mê, chứ không bắt nguồn từ ý đồ là cố trang bị cho mình một kiến thức, để làm dáng với đời. Bản thân việc học và đọc sách, theo đúng nghĩa, đã đem lại cho chúng ta nguồn vui rồi.

Hoàn toàn không thể có một cuốn sách nào đó được xem là hay hoặc dở đối với tất cả mọi người. Truyện Kiều đã từng bị các nhà nho đạo mạo lên án là dâm thư. Triết gia Hy Lạp cổ đại là Héraclite đã từng đòi nọc thi hào Homère ra mà đánh đòn trước công chúng[1]. Kinh Thánh cũng như kinh Phật từng nhiều phen bị phỉ báng. Ðó cũng là điều rất đỗi thường tình. Chúng ta nên tránh thói quen đả kích, hoặc ngợi khen một tác phẩm nào đó theo dư luận, nhất là khi dư luận đó đã được khẳng định bởi những cây đa, cây đề trong lĩnh vực phê bình. Một tác phẩm được tất cả mọi người đều khen hay, mà ta thấy dở cũng không sao. Ðiều đó không có nghĩa là cái đầu của ta kém thông minh hơn thiên hạ, hay tâm hồn ta không được nhạy cảm bằng mọi người, mà điều đó chỉ có nghĩa là: tác phẩm đó không phải viết cho ta đọc. Vậy thôi! Nói theo phương Ðông, có nghĩa là ta chưa có duyên với cuốn sách đó. Các thiền sư, cho dầu vĩ đại, không phải lúc nào cũng có thể khai ngộ cho đệ tử của mình được, nếu thấy cơ duyên chưa ứng hợp, mà đôi khi phải nhờ đến các thiền sư khác. Việc đọc sách cũng chẳng khác gì việc khai ngộ, phải chờ đến cơ duyên. Tôi biết có nhiều người đã từng say sưa đọc Bùi Giáng, Dostoievski, Whitman, Shakespeare suốt ngày này tháng nọ, nhưng cứ thử cầm đến các tác phẩm của văn hào G.Márquez lên là thấy buồn ngủ! Mặc dù đã rất cố gắng để đọc, nhưng không lần nào họ đọc nỗi quá 50 trang. Ðành bỏ dỡ. Không thể đọc được. Chắc cũng không vì thế mà họ đến nỗi  “nói năng vô vị, mặt mày đáng ghét” như nhà thơ Hoàng Ðình Kiên nhà Tống khẳng định! (Sĩ nhân tam nhật bất độc thư, tắc diện mục khả tăng, ngữ ngôn vô vị. 士 人 三 日 不 讀 書 , 則 面 目 可 憎 , 語 言 無 味 。  Kẻ sĩ mà ba ngày không đọc sách thì mặt mày nhìn thấy thì khó ưa,  nói năng thì nhạt nhẽo.)

Nếu chỉ ưa thích vài tác giả nào đó, và bị “dị ứng” với các tác giả khác, thì đó là điều vô cùng bình thường, và cần phải có. Một người mà vừa thích Dostoievski, Nietzsche, lại vừa khoái Alexandre Dumas, hoặc vừa ham mê Trang Tử, lại vừa sùng bái Chu Hy, thì theo tôi, chỉ là hạng người đọc sách loại “ba phải”. Hạng người đó chỉ “đọc” theo lời bình nào đó, hoặc “đọc” theo dư luận, chứ không phải đọc chính tác phẩm. Ðọc sách cũng như ăn uống, ta chỉ có thể hợp “gu” với một số món ăn nhất định nào đó mà thôi. Không nên có quan niệm xem món này là ”sang” hơn món kia, và phải có gắng ăn cho bằng được, để chứng tỏ mình là “dân thượng lưu”, mà vấn đề nằm ở chỗ, ta thích hợp với món ăn nào! Bộ não cũng như bao tử, chỉ có thể tiêu hóa được những món ăn phù hợp. Ðừng nên bắt con sư tử phải ăn cỏ, và buộc con voi phải ăn thịt, vì chúng không chết thì cũng bịnh.

Là người phương Ðông, tôi tin rằng đọc sách theo đúng nghĩa, không chỉ có ham mê hay thông tuệ là đủ, mà còn cần phải có cơ duyên nữa. Không phải cuốn sách nào, cho dẫu là những kiệt tác giá trị, ta cũng phải đọc và đều có thể đọc được. Và lại càng không nên hễ nghe quảng cáo cuốn sách X. là tuyệt phẩm, thì phải tìm mọi cách để đọc, chỉ nhằm mục đích, khi ai hỏi, thì trả lời “Ðã đọc rồi!”. Lắm khi, một cuốn sách tầm thường lại có thể thay đổi cả quan niệm của một con người. Và chuyển số phận họ theo một hướng khác. Có nhiều người rất thông minh, đọc sách suốt đời nhưng vẫn cứ “mang nhiên vô sở đắc“, chỉ vì chưa ứng hợp cơ duyên. Khi tranh luận, họ luôn luôn trích dẫn điều X này ở trong cuốn sách T, điều Y nọ ở trong chương Z…….Rất bài bản, rất uyên bác, rất thông thái! Nhưng họ không bao giờ hiểu rằng đó chỉ là kiến thức vay mượn của thiên hạ, chứ không phải là kiến thức của mình. Giống như một nhân viên ngân hàng, hằng ngày có thể đếm đến tiền tỷ, nhưng đâu có nhờ thế mà có thể giàu lên được, vì đó là tiền của người khác, chứ có phải là tiền của họ đâu? Những người đọc sách như vậy rất dễ dàng bị “bội thực” về mặt kiến thức. Ta ăn thức ăn vào, nhằm mục đích biến chúng thành dưỡng chất để nuôi cơ thể, chứ không phải để nhả chúng ra lại, như trước khi ăn. Ðừng bao giờ đem kiến thức vay mượn để làm vật trang sức, vì điều đó rất phù phiếm. Mà phải biết biến kiến thức đọc từ sách vở thành cái của riêng mình, dù sâu dù nông. Ðó mới chính là mục đích của việc đọc sách.

Một cuốn sách hay thường là cuốn sách gợi mở cho người đọc những gì họ ấp ủ trong tư niệm, mà không đủ khả năng diễn đạt thành lời. Ðiều kỳ diệu của việc đọc sách, là có khi người đọc lại tìm thấy trong đó những chiều sâu tư tưởng, và những vấn đề, mà chính tác giả cũng không lường tới. Ðọc sách, theo nghĩa chân chính, chỉ là quá trình đi tìm lại chính mình. Nếu tâm hồn ta chưa chuẩn bị đầy đủ, để đáp ứng lại những gợi mở của một cuốn sách nào đó, thì có đọc cũng bằng vô ích. Cuốn sách nào đáp ứng được yêu cầu đó, sẽ khai mở con đường đi vào nội tâm, hoặc phát lộ những tư tưởng mà tác giả lẫn người đọc đều có một điểm chung để chia xẻ. Nietzsche đọc Stendhal và Dostoievski để cảm nhận được “những nỗi tình cờ hạnh phúc nhất“. Tô Ðông Pha đọc Nam Hoa Kinh, cứ ngỡ mình là hậu thân của Trang Tử, vì trong đó ông bắt gặp tiếng nói của chính mình. Bùi Giáng đọc Lửa thiêng của Huy Cận, và bị “chấn động dị thường”, nên bỏ học về quê, vô núi chăn dê đọc sách. Heidegger đọc sách Suzuki, sung sướng phát biểu : “Nếu tôi hiểu đúng được tác giả này thì đó là những gì tôi đang cố gắng trình bày trong tất cả các tác phẩm của mình từ trước đến giờ.”[2]. Ðó cóthể chỉ là nỗi phấn khích quá trớn kiểu excès d’enthousiasme của các tác gia lớn khi tìm thấy, ở tác phẩm của các tác gia lớn khác, những tư tưởng giống mình. Mà đọc sách như thế là tái lập được mối tương quan giữa người viết và người đọc, ở mức độ thượng thừa của “thanh khí ứng cầu”.

Một cuốn sách có thể bây giờ ta đọc không thấy hay, nhưng vài năm sau, thậm chí vài mươi năm sau, ta mới cảm thấy hết được cái thâm thúy của nó. Ngược lại, cũng có những cuốn sách mới đọc thì thấy tuyệt vời, nhưng vài năm, hoặc vài tháng sau, đọc lại đã thấy nhạt nhẽo. Một tác phẩm tồn tại được theo thời gian là những tác phẩm đề cập đến những vấn đề muôn thuở, gợi lên được những gì thâm sâu nhất trong tâm hồn con người. Và chỉ có những tác giả “nhãn phù lục cực, tâm quán thiên thu” (đôi mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời ) mới đủ tâm lực và bút lực thực hiện điều này. Nhiều cuốn sách chỉ phản ánh hiện thực theo lối tả chân thô thiển, dù có nổi tiếng một giai đọan, thì đó cũng chỉ vấn đề thời thượng. Nếu nghệ thuật chỉ đơn thuần là mô tả hiện thực, thì ta làm sao lý giải được sự kiện nhiều tác phẩm lớn vẫn tồn tại theo thời gian, khi mà cái hiện thực mà nó mô tả đã bị vượt qua từ lâu?

Có nhiều cuốn sách quí về tư tưởng như kinh điển Ðông phương, tất nhiên cần phải đọc, nhưng phải đến một tuổi nào đó, thì ta đọc mới thấy thích hợp. Ðến Khổng tử mà còn bảo “Năm mươi tuổi mới nên đọc kinh Dịch“. Ðiều đó có nghĩa là đến 49 tuổi, có thể ta cũng chưa nên đọc vội. Vị vạn thế sư biểu đó rất sâu sắc khi nêu lên lời cảnh báo trên, vì ông ngại khi cái sở học chưa đủ hàm súc, kinh nghiệm và công phu hàm dưỡng chưa đủ sâu dày, mà đọc Dịch thì cái sở tri đó nhiều khi bị lệch. Rõ ràng, không trừ những ngoại lệ là có những người trẻ tuổi mà dĩnh ngộ thông minh, như Hà Án, Vương Bật nghiên cứu kinh Dịch, hay Tăng Triệu, Lưu Hiệp nghiên cứu kinh Phật….. Ngàìy nay, tôi thấy nhiều người, trong đó có cả các bạn trẻ, phê phán hoặc ca ngợi kinh Dịch bằng đủ thứ ngôn ngữ đại cà sa khiến tôi hơi hãi, vì cái kiến văn kém cõi của mình về Dịch. Nhưng tôi cứ băn khoăn không hiểu họ đã hiểu kinh Dịch như thế nào? Liệu đó có phải là cách để hiểu Dịch một cách chính xác hay không?

Ðã hơn mấy ngàn năm qua, tư tưởng vẫn thường xuyên đứng trước bi kịch của hiểm họa lập ngôn. Bất cứ luận điểm triết học nào, khi được trình bày bằng ngôn ngữ, cũng đều giống như con dao hai lưỡi. Một khi bị đối phương cướp lấy, thì nó trở thành vũ khí nguy hiểm và gây hại trở lại cho kẻ lập ngôn. Cõi đời này đâu thiếu những kẻ sơ cơ, không đọc nỗi những kháng thư thâm áo, lại lên giọng cao đạo, dựa vào tông chỉ “bất lập văn tự“ của Thiền tông để bài xích việc đọc kinh sách. Ðạo Chích trong Nam hoa kinh đã từng dùng luận điệu của Khổng Tử để đả phá Khổng Tử. Các khái niệm Nhân Nghĩa, trong tay của Khổng Tử là Thiên kiếm, nhưng khi rơi vào tay của Ðạo Chích, thì chúng lập tức biến thành Tuyệt đao. Ðọc sách, ta cần phải tỉnh táo để nhận ra điều ấy, giữa vô vàn quan điểm xô bồ công kích lẫn nhau.

Khi cầm một cuốn sách nổi tiếng trên tay, mà bạn thấy không thể đọc nỗi, thì cứ tạm gác nó qua một bên, đợi thời gian phù hợp hãy đọc. Và nếu không bao giờ đọc được, thì cũng không hề gì! Ðọc sách là một công việc suốt đời. Khi cơ duyên ứng hợp thì nó sẽ là phương tiện đưa ta vào một thế giới kỳ diệu, ở đó ta tìm thấy lại, hoặc khám phá ra những điều lý thú nơi chính bản thân mình, trong những mối đồng cảm, trong những phút linh cầu, mà lắm phen cuộc sống xô bồ che lấp mất đi. Lúc đó, ta sẽ cảm nhận sâu hơn câu nói của MạnhTử “Vạn vật giai bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên. 万 物 皆 備 于 我 矣 。 反 身 而 誠 , 樂 莫 大 焉 。”   (muôn vật đều có đầy đủ ở nơi ta, quay về với mình với cả lòng thành thực, thì còn niềm vui nào lớn bằng.) (MạnhTử, Tận tâm thượng).


[1] Homère meriterait d’être bastonnés et chassé des jeuxs public

[2]    Một người Đức −  bạn của triết gia người Mỹ là William Barrett −  kể lại rằng một hôm ông ta đến thăm Heidegger và thấy triết gia này đang đọc tác phẩm của Suzuki, ông ta hỏi thì Heidegger trả lời : “Nếu tôi hiểu đúng được tác giả này thì đó là những gì tôi đang cố gắng trình bày trong tất cả các tác phẩm của mình từ trước đến giờ.” (If I understand this man correctly, this is what I have been trying to say in all my writings.) (Zen Buddhism: Selected Writings of D.T. Suzuki,  ed. William Barrett. New York, Anchor, 1956. p.xii).

Thảo luận