Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

Kiếm Đạo

Ðể tưởng nhớ Thiền sư Thanh Nguyên Duy Tín

Hoàng là người đất Canh Tang, làng Vô Hà Hữu. Từ thuở nhỏ đã nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ, lại có tài xuất khẩu thành thi. Gia tộc Hoàng vốn nổi tiếng về kiếm thuật. Tương truyền tổ tiên Hoàng có duyên gặp một bậc dị nhân truyền cho pho kiếm phổ thời thượng cổ. Từ đó đời đời nối tiếp nhau luyện kiếm. Ông tổ của Hoàng đã từng có lần một mình đơn kiếm ra khơi, vào tận sào huyệt của hải tặc để trả thù cho một người bạn, uy danh chấn động cả thiên hạ. Kiếm thuật đến đời Hoàng là tập đại thành. Nhiều tay kiếm khắp nơi hâm mộ danh Hoàng, tìm đến so tài nhưng tất cả đều bại dưới tay Hoàng. Nhờ tính Hoàng khoáng đạt, so kiếm chỉ để tìm chỗ tận diệu của kiếm thuật nên những kẻ bại trận không đem lòng thù hận.

Gia cảnh Hoàng rất thanh bần. Hoàng sống với một lão bộc trung thành trên sườn đồi, suốt ngày chỉ đam mê luyện kiếm, đến nỗi thiên hạ tặng cho danh hiệu là Kiếm Cuồng. Hoàng giỏi kiếm lẫn thơ nên rất hâm mộ cao phong của Lý Bạch. Hoàng sáng tác bài Hoài Trích tiên ngâm để nói lên tấm lòng hoài mộ của mình. Bài đó được truyền tụng khắp nơi, các danh sĩ đều cho là thần bút. Bạn bè có người nói :

– Tài hoa như ông, văn cũng như võ, nếu đi thi thì nắm chắc cái chức Trạng nguyên. Sao ông không thử xuôi kinh ứng thí một lần ?

Hoàng cười đáp :

– Chúng ta sinh ra ở thời thiên hạ thái bình, lại có đấng minh quân trị đời. Thử hỏi có Hoàng thì thiên hạ thêm được gì, mà không có Hoàng thì thiên hạ mất điều gì ? Vả lại tính tôi không ưa ràng buộc, chỉ muốn nghiên cứu tìm hiểu chỗ tận diệu của kiếm đạo thì có chết cũng cảm thấy không uổng phí bình sinh.

Một hôm, trời đổ tuyết lạnh buốt, Hoàng đang luyện kiếm đến chỗ cao hứng, kiếm
quang vùng vẫy như con bạch long giữa trời, bỗng nhiên nghe có tiếng thở dài :

– Hỡi ơi ! Thật đáng tiếc ! Thật đáng tiếc !

Hoàng giật mình, dừng kiếm, nhìn ra cổng thấy một ông lão đội nón tơi, dáng dấp thanh kì đang đứng dưới trời tuyết nhìn mình. Hoàng vội vã mời vào nhà, hối lão bộc bày rượu. Sau khi phân ngôi chủ khách, Hoàng kính cẩn hỏi họ tên, ông lão chỉ mĩm cười không nói. Hoàng, hai tay nâng kiếm, thưa :

– Vãn sinh mê kiếm hơn cả sinh mạng, có điều tư chất ngu muội nên chỉ đáng làm trò cười cho bậc cao minh, hôm nay dun dủi có tiền bối ghé thăm, rất mong được chỉ giáo.

Ông lão cười rộ đáp :

– Họ Hoàng đất Canh Tang nổi tiếng thi kiếm vô địch, thiên hạ ai lại chẳng biết, hà tất phải nói những lời khách sáo ? Già này nào có biết gì về kiếm, chỉ vô tình buộc miệng nói càn mấy câu, bỗng nhiên lại mang hệ lụy vào thân. Hoàng cứ khẩn khỏan mãi. Ông lão uống cạn chung rượu, xong nói :

-Nể lời công tử, già này đành liều phô cái dở của mình ra

Ông lão bèn đở thanh kiếm, ngưng thần trong thời gian khỏang uống cạn nửa tuần trà rồi đột nhiên vung tay một cái. Chỉ thấy kiếm quang lấp loáng trên bàn rồi tắt. Trong thâm tâm Hoàng mong đợi một điều kì diệu xảy ra, nên thấy chỉ có thế thì hơi thất vọng nhưng không dám nói ra. Ông lão đặt thanh kiếm xuống bàn, rồi ngâm :

Mỏi gót lê chân khắp đất trời
Mắt xanh dõi hết mấy trùng khơi
Nơi nơi chỉ thấy người múa kiếm
Nào biết tìm đâu kiếm múa người ?

Ngâm ông xong chắp tay từ tạ, nài nĩ thế nào cũng không được. Tiễn khách xong, Hoàng vào nhà định uống rượu tiếp để luyện kiếm, tay vừa chạm vào chén rượu thì bỗng giật mình, toát cả mồ hôi. Đường kiếm tinh ảo của ông lão đã lưu lại rrên mặt bàn bốn chữ : “Hậu hội hữu kỳ”, nét như rồng bay phụng múa. Hoàng kinh hãi chạy theo thì chỉ thấy tuyết bay mù mịt, không thấy bóng dáng ông lão đâu. Ngẫm lại bài thơ, Hoàng mới biết đó là lời chỉ giáo, bao nhiêu tráng chí hùng tâm bỗng nhiên tan biến.

Từ đó, Hoàng đóng cửa tạ khách, ngày đêm nghiền ngẫm kiếm phổ. Ba năm sau kiếm thuật tăng tiến rất nhiều nhưng Hoàng tự biết chưa đạt đến chỗ tận diệu, nên quyết tâm đi tìm ông lão ngày xưa để mong được chỉ giáo

Trải qua năm năm trời lang bạt kì hồ, đi mòn không biết bao nhiêu đôi giày cỏ, khắp nơi từ kinh thành phố thị đến hoang mạc, non cao đều có dấu chân Hoàng nhưng ông lão vẫn biệt tích. Một hôm Hoàng đến một vùng sơn cước thì trời đã ngã bóng. Phong cảnh nơi đây vô cùng thanh tao, tiêu sái. Ði men theo con suối một lúc thì thấy thấp thoáng có một ngôi nhà trúc. Hoàng vội đến xin trú tạm qua đêm. Vừa đến nơi, chưa kịp gõ cửa sài, đã thấy một ông lão ra đón miệng cười hỏi :

-Chẳng phải họ Hoàng đất Canh Tang đấy ư ?

Nhìn lại thấy đúng là ông lão ngày trước, Hoàng mừng khấp khởi, toan quì lạy ra mắt, nhưng ông lão đã cản và mời vào nhà. Vật dụng bên trong nhà toàn bằng trúc, bày biện cực kì u nhã. Trên án thư thấy để vài cuốn sách. Trên bức vách trúc treo một cây hồ cầm. Hoàng thấy lòng lâng lâng như lạc vào cõi khác.

Ông lão chỉ lưu Hoàng ở lại chứ tuyệt nhiên không thấy nói gì về kiếm. Sáng hôm
sau, Hoàng bèn đem kiếm phổ trình lên nhờ ông lão giải đáp những điều chưa hiểu. Ông
lão cầm kiếm phổ, lướt nhìn qua rồi bỗng nhiên xé vụn và ném tung ra ngoài cửa trúc như
một đàn bướm. Hoàng nhìn theo các mảnh giấy bay, tâm thần hỏang hốt, la lên:

– Tiền bối không biết kiếm phổ đó là di vật cực quí thời thượng cổ ư ? Kiếm thuật nhà vãn bối cũng đều nhờ vào đó mà dương danh thiên hạ. Sao tiền bối lại hủy đi ?
Ông lão cuời rộ, bảo :

– Ngươi đọc sách nhiều mà sao lại chậm hiểu thế. Trước đây ta cho ngươi là kẻ thông tuệ, muốn tìm cầu chỗ ảo diệu của kiếm đạo, đâu hay cũng chỉ là phường bị thịt, trích cú tầm chương. Trên đời này có hàng ngàn kiếm phổ, chả lẽ nhà người cũng ráng tìm đọc cho hết ư ? Dẫu ngươi có thọ vạn tuổi cũng không làm được điều đó. Giả sử không có một kiếm phổ nào thì kiếm thuật trên đời này tự tiêu vong đi chăng ? Ta hỏi ngươi cái diệu lí của kiếm thuật há có liên quan gì đến ngữ ngôn văn tự?

Hoàng như người chiêm bao sực tỉnh, mình tóat mồ hôi đầm đìa, quì xuống, thưa :

– Ðệ tử ngu muội, kính nhờ tiền bối chỉ điểm.

Ông lão từ tốn bảo :

– Nhà ngươi vốn thông tuệ nhưng chỉ mới đăng đường chứ chưa nhập thất . Ngươi đọc Nam Hoa kinh, mà sao không nhớ đến chuyện Trang Tử hóa bướm ? Trang Tử nằm mơ thấy mình hóa thành bướm. Tỉnh dậy không biết bướm hóa ra mình hay mình hóa ra bướm ? Ngươi chỉ lo tập múa kiếm mà sao không một lần thử để cho kiếm “múa” nhà ngươi ?

Hoàng hốt nhiên tỉnh ngộ, xin ở lại hầu hạ. Suốt ngày ngồi tĩnh tọa, quán tưởng về kiếm. Một đêm trăng, Hoàng đang luyện kiếm, bất giác đi vào cảnh giới vô ngã, nghe lâng lâng như siêu thóat, kiếm chiêu cứ tùy tâm niệm mà thu phát, như nưóc chảy mây bay, không có chút gì ngăn ngại. Hoàng cao hứng hát :

Nhấp nhô con sóng
Lấp lánh hạt sương
Kiếm ta làm cơn gió
Bỗng hóa thành ánh trăng
Ta nương theo ánh sáng
Vút bay theo cánh bằng
Bao năm học kiếm mà đâu hiểu
Ta là kiếm hay kiếm là ta
Hôm nay chợt tỉnh giấc
Phiêu diêu cõi bao la

Ðược một năm, ông lão gọi Hoàng lại bảo :

– Ngươi luyện kiếm đến đâu rồi ?

Hoàng thưa :

– Khi đệ tử luyện kiếm quên hẳn thân mình, không còn biết kiếm múa đệ tử hay đệ tử múa kiếm nữa.

Ông lão bảo :

– Cái không biết ấy cũng còn là biết đấy. Kiếm thân hợp nhất mới chỉ là ngã rẽ tạm thời, chưa đạt đến chỗ tận diệu của kiếm đạo. Ngươi hãy trở lại trạng thái tâm khi ngươi mới đến đây mới là hay.

Hoàng cung kính lui ra, không luyện kiếm nữa mà chỉ lo các công việc vặt vãnh hằng ngày. Ngày ngày ra suối gánh nước, đốn củi, nấu cơm. Ðựơc một năm , ông lão bỗng bỏ đi đâu mất, để lại cho Hoàng một bài thơ từ biệt :

Khi mới luyện kiếm, thấy kiếm là kiếm, thấy ta là ta
Khi được bậc cao minh chỉ điểm cho đường vào, thấy kiếm chính là ta và ta chính là kiếm
Khi đạt được chỗ diệu lí của kiếm đạo, lại thấy kiếm chính là kiếm và ta chính là ta

Thời gian sau, người ta thấy Hoàng gánh củi vô chợ bán, được tiền thì uống rượu, say rồi lại ngâm thơ chứ không nghe bàn gì đến kiếm nữa.

Thảo luận