Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

3. KARMA-YOGA

KARMA VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRÊN TÍNH CÁCH
AI CŨNG VĨ ĐẠI TRONG CHỨC VỊ CỦA CHÍNH MÌNH
BÍ QUYẾT LÀM VIỆC
BỔN PHẬN LÀ GÌ?
CHÚNG TA TỰ GIÚP MÌNH, KHÔNG PHẢI GIÚP THẾ GIAN
VÔ CHẤP LÀ VÔ NGÃ HOÀN TOÀN
TỰ DO
LÝ TƯỞNG CỦA KARMA-YOGA

KARMA VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRÊN TÍNH CÁCH

Karma là một từ có ngữ căn trong tiếng Phạn là kri, có nghĩa là “hành động, tạo tác, làm”. Mọi hành động đều là karma. Về thuật ngữ thì từ này cũng có nghĩa là ảnh hưởng của hành động. Trong mối tương quan với siêu hình học thì đôi khi nó có nghĩa là quả, mà những hành động của chúng ta trong quá khứ là nhân. Nhưng trong karma-yoga thì chúng ta chỉ quan tâm đến từ karma theo nghĩa hành động.

Mục tiêu của con người là tri thức. Đó là lý tưởng duy nhất mà nền triết học phương Đông đặt trước mặt chúng ta. Mục tiêu của con người không phải là lạc thú, mà là tri thức. Lạc thú và hạnh phúc đều đến lúc phải chấm dứt. Thật là lầm lẫn khi lấy lạc thú làm mục tiêu. Căn nguyên của mọi khổ đau mà chúng ta gánh chịu trên đời là do con người cứ ngu xuẫn cho rằng lạc thú là lý tưởng cần phải phấn đấu để đạt tới. Sau một thời gian, con người nhận ra rằng họ không phải đang tiến đến với hạnh phúc mà đến với tri thức, và cả lạc thú cùng khổ đau đều là những vị thầy vĩ đại, họ học hỏi được từ điều ác cũng nhiều như từ điều thiện. Khi cả lạc thú cùng khổ đau đều đi qua trước linh hồn họ thì họ vẽ lên đó những bức tranh khác nhau, và kết quả của những ấn tượng kết hợp đó là cái được gọi là “tính cách” của con người. Nếu thử xét tính cách của một người bất kỳ nào đó, các bạn sẽ thấy nó thực sự chỉ là sự kết tập của những xu hướng, là tổng số của những xu hướng trong tâm trí con người, các bạn sẽ nhận ra rằng khốn khổ và hạnh phúc là những nhân tố tương đương trong việc định hình nên tính cách đó. Thiện ác cũng đóng góp vai trò như nhau trong việc hun đúc nên tính cách, và trong một vài khía cạnh nào đó thì khốn khổ lại là vị thầy vĩ đại hơn hạnh phúc. Khi nghiên cứu những tính cách vĩ đại mà thế giới này đã tạo ra, tôi dám nói rằng trong đa số các trường hợp thì khốn khổ đã dạy cho họ nhiều hơn là hạnh phúc, sự nghèo khó dạy cho họ nhiều hơn là cảnh giàu sang, những cú đấm làm bùng lên ngọn lửa nội tâm dạy cho họ nhiều hơn là những lời khen ngợi.

Hơn nữa, tri thức là cái có sẵn nơi con người. Không một tri thức nào đến từ bên ngoài, mà tất cả đều nằm ở bên trong. Khi nói rằng một người “biết” thì, theo ngôn ngữ chặt chẽ của tâm lý học, nên hiểu là anh ta “khám phá”, hoặc “vén mở”. Cái mà con người “học hỏi được” thực ra chỉ là cái mà anh ta “khám phá”, bằng cách gỡ bỏ bức màn đang che phủ linh hồn mình, vốn là kho tàng tri thức vô tận. Chúng ta nói rằng Newton khám phá ra định luật hấp dẫn. Định luật đó ngồi ở một góc nào đó mà chờ ông ta chăng? Nó đã ở trong tâm trí ông ta rồi, đến thời điểm thích hợp thì ông ta phát hiện ra nó. Toàn bộ tri thức mà thế gian này từng đón nhận đều xuất phát từ tâm trí; thư viện vô tận của vũ trụ nằm trong tâm trí các bạn. Thế giới ngoại tại chỉ là sự gợi ý, là cơ hội để các bạn nghiên cứu tâm trí mình; nhưng đối tượng nghiên cứu của các bạn luôn là tâm trí của chính các bạn. Trái táo rơi gợi ý cho Newton, và ông ta nghiên cứu tâm trí của chính mình. Ông ta sắp xếp lại những mắc xích tư tưởng trước đó trong tâm trí và khám phá ra mắc xích mới trong chúng, mắc xích mới đó chúng ta gọi là định luật hấp dẫn. Định luật đó không nằm bên trong quả táo, cũng không nằm ở trong bất kỳ vật nào nơi trung tâm trái đất. Mọi tri thức, do đó, dù mang tính trần tục hay tâm linh, cũng đều nằm sẵn trong tâm trí nhân loại. Trong nhiều trường hợp, nó không được khám phá mà vẫn bị che phủ, và khi lớp màn che phủ được vén mở từ từ thì ta nói là chúng ta “đang học hỏi”, và tri thức phát triển theo sự phát triển của quá trình vén mở này. Người nào vén mở được bức màn này được gọi là người có tri thức, còn người loại bỏ hoàn toàn được bức màn này là bậc toàn trí. Đã từng có những bậc toàn trí. và tôi tin rằng sẽ còn có những vị khác nữa, sẽ còn có vô số các bậc toàn trí trong những chu kỳ sắp tới.

Tri thức hiện hữu trong tâm trí giống như lửa hiện hữu trong hòn đá đánh lửa, sự ma sát là sự gợi ý để ngọn lửa bùng cháy lên. Tất cả những cảm xúc và hành động của chúng ta cũng thế. Giọt lệ và nụ cười, niềm vui và đau đớn, tiếng khóc và tiếng cười, tai họa và ân phúc, ngợi ca và nguyền rủa – nếu tĩnh tâm tìm hiểu tâm tư mình, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi thứ trong những điều này đều xuất phát từ bên trong chúng ta, sau khi chịu nhiều cú đấm. Kết quả là cái mà chúng ta đang có giờ đây. Tất cả những cú đấm đó được gọi là karma – hành động, tạo tác. Mỗi cú đấm mà tinh thần và thể xác giáng vào linh hồn, có thể nói như vậy, kích thích cho ngọn lửa bừng cháy lên, và nhờ đó mà năng lực cùng tri thức được khám phá, mỗi cú đấm đó là karma, dùng theo nghĩa rộng nhất. Như thế, chúng ta luôn luôn tạo ra karma tại mọi lúc. Tôi đang nói các bạn : đó là karma. Các bạn đang lắng nghe tôi: đó là karma. Ta thở : đó là karma. Ta đi : đó là karma. Mọi tạo tác của ta trong tinh thần và thể xác đều là karma. và nó để lại dấu ấn trên ta.

Có những hoạt động cụ thể có thể xem là sự kết tập, là tổng số của nhiều hoạt động nhỏ hơn. Nếu ta đứng gần bờ biển và lắng nghe tiếng sóng đập vào ghềnh đá, ta ngỡ rằng đó là tiếng động rất lớn, dù ta biết rằng mỗi đợt sóng thực ra đều được cấu tạo bởi hàng triệu triệu những con sóng nhỏ. Mỗi con sóng nhỏ trong đợt sóng đó tạo nên một tiếng động mà ta không nghe được, chỉ khi chúng kết tập thành một khối lớn thì ta mới nghe ra. Tương tự như vậy, mỗi nhịp đập của trái tim đều là hoạt động. Có những loại hoạt động mà ta cảm nhận được và chúng trở nên hữu hình với chúng ta, đồng thời chúng lại là sự kết tập của nhiều hoạt động nhỏ. Nếu thực sự muốn phán xét một người thì các bạn hãy nhìn vào những thành tích to lớn của người đó. Mọi thằng ngốc đều có thể trở thành anh hùng lúc này hay lúc khác. Hãy nhìn một người thực hiện những hành động bình thường nhất của mình; đó mới thực sự là những điều nói cho các bạn biết tính cách chân thực của một vĩ nhân. Những thời cơ to lớn thậm chí có thể nâng những kẻ đê tiện nhất thành anh hùng vĩ đại, nhưng vĩ nhân thực sự là người mà tính cách luôn vĩ đại, luôn không đổi dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Karma – trong ảnh hưởng của nó trên tính cách – là sức mạnh khủng khiếp nhất mà con người phải đương đầu. Có thể nói rằng con người là tâm điểm hút mọi sức mạnh trong vũ trụ về phía nó; và tại tâm điểm đó, nó nung chảy tất cả rồi chuyển ngược lại thành một dòng chảy khổng lồ. Bậc chân nhân là tâm điểm như thế – đó là bậc toàn năng, toàn trí. Vị đó thu hút toàn bộ vũ trụ về phía mình; thiện lẫn ác, khốn khổ cùng hạnh phúc, tất cả đều chạy về phía ngài và bám chặt quanh ngài. Từ tất cả những thứ đó, ngài nhào nặn nên dòng xu hướng mãnh liệt gọi là tính cách, và ném nó ra ngoài. Ngài có quyền năng vẽ nên bất cứ vật gì như thế nào thì ngài cũng có quyền năng vất bỏ nó đi như thế ấy,

Mọi hoạt động mà chúng ta nhìn thấy trong thế giới, mọi trào lưu trong xã hội loài người, mọi công trình chúng ta có được quanh ta đều chỉ là sự phô bày của tư tưởng, là sự biểu hiện của ý chí con người. Máy móc hay khí cụ, thành phố, tàu thuyền, chiến hạm, tất cả những thứ đó đều chỉ là sự hiển lộ của ý chí con người, và ý chí đó được gây nên bởi tính cách, và tính cách thì được định hình bởi karma. Karma như thế nào thì ý chí biểu hiện như thế ấy. Những con người có ý chí kiên cường mà thế giới đã tạo ra đều là những người hoạt động vĩ đại, những linh hồn khổng lồ, có ý chí mãnh liệt đủ để khuấy đảo thế giới – ý chí mà họ có được nhờ hoạt động kiên trì từ kiếp này sang kiếp khác. Những ý chí siêu phàm như ý chí của đức Phật hay Chúa Jesus không thể đạt được trong một kiếp người, bởi vì chúng ta biết được cha của các Ngài là ai. Ta chưa từng thấy những người cha đó nói được một lời nào có ích cho nhân loại. Hàng triệu triệu người thợ mộc như ông Joseph đã qua đời, hàng triệu người thợ mộc khác vẫn còn đang sống. Hàng triệu triệu ông vua xoàng xĩnh như vua cha đức Phật đã từng sống trên thế gian này. Nếu đó chỉ là trường hợp di truyền thì các bạn nghĩ sao về một ông vua tầm thường – thậm chí đám hầu cận có thể không tuân lệnh – lại sinh ra được một người con mà cả nửa thế giới phải sùng bái? Các bạn giải thích ra sao về vực thẳm cách biệt giữa một người thợ mộc và người con trai mà hàng triệu triệu con người phải tôn thờ như Thượng Đế? Không thể giải quyết vấn đề theo thuyết di truyền. Ý chí siêu phàm hiển lộ nơi đức Phật và Chúa Jesus, ý chí đó phát xuất từ đâu? Năng lượng của ý chí đó được tích lũy từ đâu? Nó phải được tích lũy từ kiếp này sang kiếp khác, không ngừng lớn dần lên, cho đến khi nó bùng nổ trong xã hội thành đức Phật và Chúa Jesus, và nó còn tiếp tục được truyền bá đến tận ngày nay.

Tất cả đều được giải thích bằng thuyết karma. Không một ai có thể có được bất cứ thứ gì trừ phi anh ta thu hoạch được nó, đó là quy luật muôn đời. Có thể đôi lúc chúng ta nghĩ rằng không phải thế, nhưng sau một thời gian dài chúng ta sẽ tin chắc vào điều đó. Một người có thể tranh đấu trọn cuộc đời để làm giàu, anh ta có thể lừa đảo hàng ngàn người, nhưng đến cuối cùng anh ta sẽ phát hiện ra rằng mình không xứng đáng để giàu, và cuộc đời anh ta biến thành nỗi bực dọc và phiền hà. Chúng ta có thể tích lũy nhiều đồ vật để hưởng thụ về vật chất, nhưng chỉ có những gì ta thu hoạch được mới thực sự là của ta. Một kẻ ngốc có thể mua tất cả sách vở trên thế giới, và chúng sẽ nằm hết trong thư viện của anh ta, nhưng chỉ người có trình độ xứng đáng mới có thể đọc chúng; và sự xứng đáng này do karma tạo ra. Karma của chúng ta quyết định ta xứng đáng với cái gì và đồng hóa được cái gì. Chúng ta chịu trách nhiệm về những gì chúng ta đang là, và nếu chúng ta muốn mình là một cái gì đó bất kỳ thì chúng ta phải có năng lực biến nó thành chính bản thân mình. Nếu chúng ta của ngày hôm nay là kết quả của những gì chúng ta đã tạo ra trong quá khứ  thì chắc chắn những gì chúng ta muốn có được trong tương lai có thể được tạo ra bởi những gì chúng ta đang làm ngày hôm nay; do đó, chúng ta phải biết cách hoạt động. Các bạn sẽ bảo : “Biết cách làm việc thì có ích gì chứ? Ai nấy cũng đều làm theo cách này hay cách khác trong thế gian này mà.” Nhưng có một sự việc như thế làm tiêu hao năng lực của chúng ta. Theo lời kinh Bhagavad Gitā thì pháp môn karma-yoga là cách làm việc bằng trí thông minh và như một khoa học, Nếu biết cách làm việc, ta có thể thu hoạch được những thành quả to lớn nhất. Các bạn phải nhớ rằng mục tiêu của tất cả công việc chỉ là làm phát lộ năng lực của tâm trí – vốn đã có sẵn trong linh hồn – để đánh thức linh hồn. Năng lực đó tiềm ẩn trong mỗi người, tri thức cũng thế. Những công việc khác nhau giống như những cú đấm làm cho chúng lộ ra, khiến cho những người khổng lồ thức tỉnh.

Con người làm việc vì những động cơ khác nhau. Không thể có công việc không hề mang động cơ nào. Kẻ muốn danh tiếng thì làm việc để được danh tiếng, người hám tiền thì làm việc để kiếm tiền, kẻ ham quyền lực thì làm việc để giành quyền lực. Những người khác cần thiên đàng thì làm việc để lên thiên đàng. Còn có những người lại muốn làm việc để làm rạng rỡ cho mẹ cha, như ở Trung Quốc – nơi mà khi chết đi thì người ta mới được một tên thụy; ngẫm cho cùng thì đó là phương cách tốt đẹp hơn đối với chúng ta. Ở xứ sở đó, khi làm được một điều gì vô cùng cao quý thì người ta lại quy danh dự đó cho người cha đã khuất hoặc cho người ông. Một số người cũng làm việc theo cách đó. Một số tín đồ Hồi giáo làm việc suốt cả đời chỉ để xây được cho mình một ngôi mộ lớn khi qua đời. Tôi còn biết có một số giáo phái, khi một đứa bé vừa chào đời thì người ta đã chuẩn bị sẵn cho nó một ngôi mộ, đối với họ đó là công việc quan trọng nhất cần phải làm, ngôi mộ càng lớn thì người đó càng được xem là có phúc. Một số người khác lại làm việc để ăn năn chuộc lỗi; họ gây nên đủ chuyện xấu xa độc ác, rồi sau đó xây dựng đền thờ, chùa chiền, bỏ tiền ra mua chuộc thầy tu về tụng kinh để kiếm cho mình một tấm giấy thông hành lên cõi thiên đàng. Họ cứ ngỡ rằng những việc thiện như thế sẽ giúp họ gột sạch tội lỗi, và họ sẽ phơi phới ra đi mà không hề bị trừng phạt, dù đã gây nên bao điều tàn ác. Đó là một số động cơ làm việc khác nhau.

Bây giờ, chúng ta hãy xét đến vấn đề làm việc chỉ vì công việc. Có những người thực sự là muối của trần gian, họ làm việc chỉ vì chính bản thân công việc, chứ không màng đến tên tuổi, danh tiếng, thậm chí chẳng màng đến việc lên thiên đàng. Họ làm việc chỉ vì công việc đó đem lại điều tốt đẹp. Có những người làm từ thiện với người nghèo và giúp đỡ nhân loại vì những động cơ còn cao cả hơn nữa, bởi vì họ tin vào công việc từ thiện và yêu thích điều thiện. Làm việc để mong lấy tiếng thường hiếm khi đem lại kết quả ngay, đó là quy luật; chúng chỉ đến với chúng ta khi chúng ta về già hoặc sắp qua đời. Nếu một người làm việc không vì bất kỳ một động cơ vị kỷ nào thì anh ta không thu hoạch được chút gì chăng? Không, anh ta thu hoạch được lợi ích cao nhất. Lòng vị tha có nghĩa là trả giá nhiều hơn, chỉ có điều con người không đủ kiên nhẫn để thực hành nó. Xét từ quan điểm sức khỏe thì càng trả giá nhiều hơn nữa. Tình yêu, chân lý và lòng vị tha không chỉ là những biểu tượng đạo đức để nói suông, mà chúng hình thành nên lý tưởng tối cao của chúng ta, bởi vì năng lực hiển lộ như thế đã tiềm ẩn trong chúng. Trước hết, người nào có thể làm việc năm ngày, thậm chí trong năm phút mà không vì bất kỳ một động cơ vị kỷ nào, không hề nghĩ đến tương lai, thiên đàng, trừng phạt hay bất cứ điều gì đại loại như thế thì đó là người có khả năng trở thành một vĩ nhân đầy quyền năng về đạo đức. Khó lòng làm điều đó, nhưng trong thâm tâm, chúng ta biết được giá trị của nó và điều tốt đẹp mà nó mang lại.

Sự kiềm chế mãnh liệt này là sự hiển lộ năng lực vĩ đại nhất, tinh thần khắc kỷ là sự biểu hiện năng lực dũng mãnh hơn bất kỳ hành động vị kỷ nào. Cỗ xe tứ mã có thể tự do lao vun vút xuống đồi, hoặc người xà ích phải ghìm bốn con ngựa lại. Cách biểu hiện năng lực nào vĩ đại hơn, để bốn con ngựa chạy tự do hay ghìm chúng lại? Một viên đạn đại bác bay xuyên qua không khí trong một cự ly xa rồi rơi xuống. Viên đạn khác bị cắt ngang đường bay vì chạm vào một bức tường, và cú va chạm làm phát sinh một nhiệt lượng thật lớn. Mọi năng lượng tỏa ra do động cơ vị kỷ đều bị lãng phí, nó không tạo được năng lượng ngược lại cho các bạn; nhưng nếu lòng vị kỷ bị kiềm chế lại, nó sẽ khiến cho năng lượng phát triển. Hành động tự chủ này sẽ có xu hướng tạo ra một ý chí hùng mạnh, một tính cách đã tạo nên một đức Chúa Jesus hay một đức Phật Thích Ca. Những kẻ ngu dại sẽ không hiểu được điều huyền mật này; tuy nhiên họ lại muốn thống trị nhân loại. Ngay cả một kẻ ngu dại cũng có thể cai trị cả thế gian nếu anh ta làm việc và chờ đợi. Hãy để anh ta chờ đợi trong vài năm, và kiềm chế ý tưởng ngu ngốc muốn cai trị; và khi ý tưởng đó hoàn toàn tan biến thì anh ta sẽ là người có quyền lực trong thế giới. Phần lớn chúng ta đều không thể nhìn xa được một vài năm, chẳng khác nào những con vật không thể nhìn xa được vài bước chân. Chỉ lẩn quẩn trong cái vòng tròn nhỏ hẹp – đó là cái thế giới của chúng ta. Chúng ta không đủ kiên nhẫn để nhìn ra ra hơn, do đó, chúng ta trở nên vô luân và độc ác. Đó là sự bạc nhược, bất lực của chúng ta.

Thậm chí những hình thức công việc thấp kém nhất cũng không được xem khinh. Có những người tâm trí thấp kém, không thấy có điều gì tốt đẹp hơn ngoài lợi ích bản thân, cứ để cho họ làm việc vì động cơ vị kỷ, vì tên tuổi, danh tiếng; còn mọi người thì cứ nên nỗ lực hướng đến những động cơ cao xa hơn và thấu hiểu được chúng. “Chúng ta có quyền làm việc, nhưng lại không có quyền đối với thành quả của chúng”. Cứ để mặc thành quả. Vì sao lại phải quan tâm đến thành quả? Nếu các bạn muốn giúp đỡ một người nào thì đừng có quan tâm chi đến thái độ của anh ta đối với mình. Nếu các bạn muốn làm một công việc vĩ đại hoặc tốt đẹp thì đừng có bận tâm đến kết quả làm chi.

Một vấn đề khó khăn nảy sinh trong lý tưởng làm việc này. Hoạt động với cường độ cao là điều cần thiết, chúng ta cần phải luôn luôn làm việc. Chúng ta không thể sống một phút mà không làm việc. Vậy thì vấn đề nghỉ ngơi sẽ ra sao? Đây là một mặt của cuộc sống : đấu tranh và làm việc, mà chúng ta cứ bị cuốn quay cuồng quanh nó như cơn trốt. Còn đây là một mặt khác – sống tĩnh lặng, xa lánh và từ bỏ; mọi vật đều bình yên quanh đây, có rất ít tiếng ồn và sự phô bày, chỉ có thiên nhiên với muông thú cùng cỏ hoa, rừng núi. Chẳng có mặt nào là bức tranh toàn mỹ cả. Người đã quen với cảnh cô đơn, nếu cho tiếp xúc với cơn lốc náo nhiệt của cuộc sống thế gian, sẽ bị nó nghiền nát; giống như con cá sống dưới đáy biển sâu, ngay khi vừa được mang lên trên mặt nước, sẽ vỡ tan từng mảnh, do bị mất đi khối lượng nước trên người, vốn giúp nó giữ được nguyên cơ thể. Còn người đã quen với cuộc sống xô bồ náo nhiệt làm sao có thể thấy thoải mái nơi tĩnh lặng? Anh ta thấy đau khổ và có thể mất trí. Người lý tưởng là người giữa cảnh tượng hoang liêu u tịch nhất vẫn phát hiện ra sự hoạt động mãnh liệt nhất, và giữa cảnh tượng hoạt động mãnh liệt nhất vẫn tìm thấy sự hoang liêu u tịch nhất của sa mạc. Người đó học được bí quyết kiềm chế, anh ta đã làm chủ được bản thân mình. Dù có đi qua những phố xá huyên nào ngựa xe trong thành phố lớn, tâm trí anh ta vẫn tĩnh lặng như đang ở trong hang động, nơi không một âm thanh đến được với anh ta; và lúc nào anh ta cũng làm việc rất căng thẳng. Đó là lý tưởng của karma-yoga, và nếu các bạn đã đạt đến lý tưởng đó thì các bạn thực sự học được bí quyết làm việc.

Nhưng chúng ta phải bắt đầu từ điểm bắt đầu, phải đón nhận công việc khi chúng đến với chúng ta, và từng ngày cứ tự mình từ từ loại bỏ bớt lòng vị kỷ. Chúng ta phải làm việc và tìm ra động cơ thúc đẩy chúng ta; và trong những năm đầu, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng động cơ làm việc của chúng ta luôn luôn là lòng vị kỷ, hầu như không có ngoại lệ. Nhưng dần dần lòng vị kỷ sẽ tan biến theo cường độ làm việc kiên trì, cho đến cuối cùng, mới đến lúc chúng ta thực sự có thể làm việc vì lòng vị tha. Tất cả chúng ta có thể hy vọng rằng đến một ngày nào đó khi chúng ta đấu tranh băng qua suốt những nẻo đường đời, sẽ đến lúc chúng ta trở nên hoàn toàn vị tha; khi đạt đến thời điểm đó, mọi năng lực của chúng ta sẽ được hội tụ và tri thức của chúng ta sẽ hiển lộ.

AI CŨNG VĨ ĐẠI TRONG CHỨC VỊ CỦA CHÍNH MÌNH

Theo triết học Sankhya, thế giới được cấu tạo từ ba lực, trong tiếng Sanskrit gọi là sattva, raja và tama. Trong thế giới vật chất, chúng hiển lộ thành những cái mà chúng ta có thể gọi là các trạng thái cân bằng, động và tĩnh. Tama tiêu biểu cho bóng tối hay sự bất động; còn raja là trạng thái hoạt động, được biểu hiện như là lực hút hoặc lực đẩy; còn sattva là trạng thái cân bằng của cả hai.

Nơi người nào cũng có ba lực này. Lúc thì tama hay sự thụ động thắng thế, chúng ta đâm ra lười biếng, không thể hoạt động; chúng ta ù lỳ thụ động do bị trói buộc bởi một số ý tưởng nào đó hoặc bởi sự trì độn thuần túy. Lúc khác thì raja hay sự năng động thắng thế, còn lúc khác nữa thì cả hai ở trạng thái cân bằng. Hơn nữa, nơi những người khác, một trong ba lực này thường thống trị. Đặc điểm của người này thì thụ động, đờ đẫn và lười biếng; của người khác thì hoạt động, mạnh mẽ và hiển lộ năng lực; nơi những người khác nữa ta lại thấy sự dịu dàng, điềm đạm và nho nhã do giữ quân bình được các hai trạng thái hoạt động và thụ động. Bởi vậy nơi mọi sinh linh – loài vật, cỏ cây và con người – chúng ta thấy được ít nhiều sự biểu hiện tiêu biểu của cả ba lực này. Karma-yoga đặc biệt xử lý cả ba yếu tố này bằng cách dạy cho chúng ta biết chúng là gì và cách thức vận dụng chúng, điều đó giúp chúng ta làm công việc mình tốt hơn.

Xã hội loài người là một tổ chức phân cấp. Tất cả chúng ta đều biết đến đạo đức, tất cả chúng ta đều biết đến bổn phận, nhưng đồng thời chúng ta lại thấy rằng ý nghĩa đạo đức lại rất khác biệt nhau tại những xứ sở khác nhau. Điều được xem là đạo đức ở đất nước này có thể bị cho là hoàn toàn vô đạo đức tại một đất nước khác Chẳng hạn, tại đất nước này anh em cô cậu có thể lấy nhau, trong khi tại đất nước khác điều đó bị xem là quá vô luân; ở quốc gia này, đàn ông có thể cưới chị em dâu thì điều đó bị xem là vô luân tại quốc gia khác; tại xứ sở này, đàn ông chỉ được có một vợ, tại xứ sở khác thì họ lại được quyền có nhiều vợ v.v… Tương tự như thế, trong mọi quan niệm đạo đức, ta lại thấy chuẩn mực cũng vô cùng khác nhau, tuy nhiên chúng ta lại cảm thấy rằng chắc hẳn phải một chuẩn mực chung về đạo đức.

Đối với bổn phận cũng thế. Quan niệm về bổn phận khác nhau tùy theo từng quốc gia khác nhau. Tại quốc gia này, nếu một người không làm một số điều nào đó thì người ta sẽ bảo anh ta cư xử sai lầm; trong khi nếu anh làm những điều đó tại một quốc gia khác thì người ta cũng sẽ bảo là anh ta không cư xử đúng mực; tuy vậy, chúng ta lại cảm thấy rằng chắc hẳn phải một quan niệm chung về bổn phận. Cũng tương tự như vậy, tầng lớp xã hội này cho rằng những việc nào đó là bổn phận của họ; trong khi tầng lớp khác lại suy nghĩ hoàn toàn khác, và thấy ghê tởm nếu phải làm những việc đó. Có hai con đường rộng mở cho chúng ta :

1. Con đường của kẻ ngu, cho rằng chỉ một con đường duy nhất đi đến chân lý, còn tất cả những con đường khác đều sai lầm[1].

2. Con đường của người trí, chấp nhận rằng do căn cơ khác nhau, hoặc do hoàn cảnh sống khác nhau mà bổn phận và đạo đức cũng có thể khác nhau.

Điều quan trọng là phải biết rằng có nhiều cấp độ về bổn phận và đạo đức – rằng bổn phận trong điều kiện sống này, xét trong một số hoàn cảnh, sẽ không là và không thể là bổn phận trong điều kiện sống khác.

Chẳng hạn, tất cả các vị đại chân sư đều dạy : “Đừng chống lại điều ác” – bất kháng [non-resistance] là lý tưởng đạo đức tối cao. Tất cả chúng ta đều biết rằng nếu một số nào đó trong chúng ta cố gắng thực hành trọn vẹn châm ngôn đó thì toàn bộ cơ cấu xã hội đổ vỡ tan tành, kẻ ác có thể chiếm đoạt tài sản và mạng sống chúng ta, và chúng mặc tình làm mưa làm gió tùy thích. Chỉ cần một ngày thực hành tinh thần bất kháng thôi cũng có thể dẫn đến thảm họa. Tuy vậy, bằng trực giác, trong tận thâm tâm, chúng ta lại cảm nhận được chân lý trong lời dạy “Đừng chống lại điều ác”. Đối với chúng ta điều này có vẻ như là lý tưởng tối cao, vậy mà chỉ nội việc giảng dạy giáo lý đó thôi lại tương đương với việc kết án một bộ phận lớn loài người. Không chỉ có vậy thôi, nó còn có thể khiến con người cảm thấy rằng họ đang luôn làm điều xấu xa và khiến ý thức họ phân vân trong mọi hành động; điều đó làm con người yếu đuối, và việc thường xuyên chối bỏ bản thân còn đẻ ra nhiều tội lỗi hơn cả sự yếu đuối. Đối với người bắt đầu ghét bỏ bản thân thì cánh cổng suy đồi đã sẵn sàng mở rộng, điều đó cũng đúng với một đất nước. Bổn phận đầu tiên của chúng ta là không được ghét bỏ bản thân mình, bởi vì muốn đi tới, trước hết chúng ta phải có niềm tin nơi bản thân, sau đó mới là niềm tin nơi Thượng Đế. Kẻ nào không tin vào bản thân mình thì không bao giờ có thể có được niềm tin nơi Thượng Đế. Do đó, giải pháp duy nhất cho chúng ta là thừa nhận rằng bổn phận và đạo đức biến đổi tùy theo những hoàn cảnh khác nhau. Kẻ chống lại điều ác đâu phải nhất thiết là đang luôn luôn làm điều sai, mà trong những hoàn cảnh nào khác nhau, anh ta lại có bổn phận phải chống lại điều ác.

Khi đọc Bhagavad-Gitā, nhiều người trong các bạn ở những quốc gia phương Tây có thể thấy kinh ngạc với chương hai, trong đó Arjuna từ chối chiến đấu hay kháng cự, vì kẻ thù của anh ta toàn là thân bằng quyến thuộc,và biện hộ rằng bất kháng là lý tưởng tối cao của tình thương yêu. Śri Krishna gọi anh ta là kẻ đạo đức giả và là một thằng hèn. Đây là bài học lớn đầu tiên cho tất cả chúng ta học hỏi – trong mọi chuyện thì hai cực đoan lại giống hệt nhau. Thái độ năng động cùng cực và thụ động cùng cực luôn luôn tương đồng. Khi dao động của ánh sáng quá chậm thì ta không thấy được chúng, mà khi dao động của chúng quá nhanh thì ta cũng không thấy được chúng. Đối với âm thanh cũng vậy, khi tần số âm quá thấp thì ta không nghe được, mà khi tần số âm quá cao thì ta cũng không nghe được. Về bản chất thì sự khác biệt giữa kháng cự và bất kháng cũng như vậy. Một người không kháng cự vì nhu nhược, lười biếng và không thể kháng cự chứ không phải anh không muốn; người khác lại biết rằng nếu muốn thì anh ta có thể tung ra một cú đấm không ai đỡ nổi, nhưng anh ta không những không làm thế mà còn chúc lành cho kẻ thù. Kẻ kháng cự do nhu nhược không hề phạm tội, và do đó không thể đón nhận được lợi ích gì tự thái độ bất kháng, trong khi người khác có thể phạm tội nếu kháng cự. Đức Phật từ bỏ ngai vàng và khước từ địa vị, đó là sự từ bỏ chân thực; nhưng không thể có chuyện từ bỏ đối với một kẻ ăn mày không có gì để từ bỏ. Bởi vậy, chúng ta cần phải luôn luôn thận trọng về ý nghĩa thực sự mà ta muốn nói, khi đề cập đến sự bất kháng và tình yêu lý tưởng. Trước hết, chúng ta phải quan tâm tìm hiểu thử mình có năng lực kháng cự hay không đã. Sau đó, nếu có năng lực kháng cự mà chúng ta lại từ chối nó và thực hành tinh thần bất kháng thì chúng ta đang thực hiện một hành động thương yêu vĩ đại; còn nếu như chúng ta không có khả năng kháng cự, mà đồng thời lại cố tự lừa bản thân để tin rằng mình đang bị thúc đẩy bởi những động cơ thương yêu tối thượng  thì đó là chúng ta đang làm điều hoàn toàn trái ngược. Arjuna biến thành một anh chàng hèn nhát khi nhìn thấy đội quân hùng mạnh của đối phương. “Tình yêu” của anh ta đã khiến anh ta quên hết bổn phận đối với đất nước và nhà vua. Đó là lý do Śri Krishna gọi anh ta là một kẻ đạo đức giả : “Ngươi ăn nói như một nhà hiền triết, nhưng hành động của nhà người đã tố cáo ngươi là một kẻ hèn nhát; bởi vậy, hãy đứng lên và chiến đấu!”.

Đó là tư tưởng trọng tâm của karma-yoga. Hành giả karma-yogi là người hiểu rằng lý tưởng tối cao là tinh thần bất kháng, và cũng biết rằng bất kháng là biểu hiện tối cao của sức mạnh; nhưng anh ta cũng hiểu rằng cái gọi là sự kháng cự lại cái ác chỉ là một bước đi trên con đường dẫn đến sự biểu hiện của sức mạnh tối cao này, nghĩa là, tinh thần bất kháng. Trước khi đạt đến lý tưởng tối cao, bổn phận của con người là phải kháng cự lại cái ác; hãy để họ làm việc, chiến đấu, hãy để họ xông thẳng vào vấn đề. Chỉ khi nào họ đạt được năng lực kháng cự thì sự bất kháng sẽ trở thành đức hạnh.

Có lần tôi gặp ở đất nước tôi một người mà trước kia tôi đã biết là rất ngu ngốc, đần độn; anh ta chẳng biết một thứ gì cả, mà cũng chẳng ham muốn hiểu biết điều gì, và cứ sống ù lì như một con vật vậy. Anh ta hỏi tôi cần phải làm gì để biết được Thượng Đế, làm thế nào để giải thoát.

Tôi hỏi :

– Anh có biết nói dối không?

Anh ta đáp :

– Không.

Tôi bảo :

– Vậy thì anh ta hãy học cách nói dối đi. Chẳng thà nói dối còn tốt hơn là làm một con vật hay một súc gỗ. Anh sống thụ động; nên chắc chắn không thể đạt đến cảnh giới giải thoát, vốn vượt quá mọi trạng thái hoạt động, tĩnh lặng và thanh thản; anh cũng quá lù đù nên không thể làm được điều gì ác.

Dĩ nhiên đó chỉ là một trường hợp cực đoan,và tôi đã trêu chọc anh ta, nhưng ý tôi muốn nói rằng một người cần phải hoạt động để vượt qua trạng thái hoạt động đó mà đi vào cảnh giới tĩnh lặng toàn mãn. Cần phải tránh sự thụ động bằng mọi cách. Hoạt động luôn luôn có nghĩa là kháng cự. Hãy kháng cự mọi điều ác, trong tinh thần lẫn thể xác, và khi các bạn đã kháng cự thành công thì sự tĩnh lặng sẽ đến.

Nói suông “Đừng ghét ai hết; đừng kháng cự lại điều ác” thì rất dễ, nhưng chúng ta thừa biết lời khuyên đó có ý nghĩa gì trong thực tế. Khi những cặp mắt trong xã hội cứ đăm đăm xoi mói nhìn ta thì chúng ta có thể phô bày sự bất kháng, nhưng trong thâm tâm ta thì đó là luôn là căn bệnh ung thư. Chúng ta cảm nhận được nhu cầu tuyệt đối của sự bất kháng, nhưng chúng ta lại cảm nhận rằng kháng cự có lẽ sẽ tốt hơn. Hơn thế nữa, nếu các bạn ham muốn của cải, đồng thời lại biết rằng cả thế gian này xem bọn trọc phú chỉ biết có đồng tiền là những kẻ vô cùng độc ác, thì có lẽ các bạn sẽ không dám lao vào cuộc đấu tranh để làm giàu, thế nhưng tâm trí các bạn vẫn ngày đêm bị ám ảnh bởi đồng tiền. Điều đó là đạo đức giả và chẳng giúp ích được gì. Cứ lao vào cõi đời, rồi sau một thời gian, khi các bạn đã trải qua mọi khổ đau và khoái lạc trong đó, thì sự từ bỏ sẽ đến; tiếp đó sự tĩnh lặng sẽ đến. Do đó, hãy thực hiện khát vọng đối với quyền lực và mọi thứ khác, và sau khi đã hoàn thành được khát vọng đó, sẽ đến lúc các bạn thấy rằng những thứ đó đều rất vặt vãnh tầm thường; nhưng khi các bạn chưa hoàn thành được khát vọng đó, chưa trải qua hết cảnh hoạt động đó thì các bạn không thể nào đạt đến trạng thái tĩnh lặng, thanh thản và buông xả. Những tư tưởng về sự thanh thản và từ bỏ này đã được thuyết giảng suốt hàng ngàn năm qua, ai cũng đã từng nghe đến chúng từ hồi còn bé, thế nhưng chúng ta thấy có rất ít người đạt đến giai đoạn này. Tôi không biết liệu suốt đời mình đã gặp được hai mươi người thực sự có tinh thần tĩnh lặng và bất kháng chưa, và tôi đã du hành khắp một nửa thế giới rồi.

Ai cũng tiếp nhận lý tưởng riêng cho mình và cố gắng hoàn thành nó; cách đó đem đến sự tiến bộ an toàn hơn là tiếp nhận lý tưởng của người khác, mà mình không bao giờ hy vọng có thể hoàn thành. Ví dụ, chúng ta bắt một đứa bé đi bộ hai mươi dặm. Hoặc đứa bé sẽ chết, hoặc trong số một ngàn đứa chỉ có được một đứa bò hết quãng đường hai mươi dặm để đến đích, và ngất ngư gần chết. Điều đó đại khái cũng giống như những gì ta đang cố làm cho thế gian này. Không phải tất cả nam nữ, trong bất kỳ xã hội nào, đều có tâm trí, năng lực giống nhau, hoặc có khả năng làm việc như nhau; bởi vậy họ có những lý tưởng khác nhau, và chúng ta không có quyền chế nhạo bất kỳ lý tưởng nào. Hãy để cho mọi người làm hết sức mình để thực hiện lý tưởng đó. Dùng tiêu chuẩn của các bạn để phán xét tôi, hoặc ngược lại, đều là điều không đúng. Cây táo không thể được đánh giá theo tiêu chuẩn của cây sồi, mà cây sồi cũng không thể được đánh giá theo tiêu chuẩn của cây táo. Muốn đánh giá cây táo, các bạn phải dùng tiêu chuẩn riêng của cây táo; muốn đánh giá cây sồi, các bạn phải dùng tiêu chuẩn riêng của cây sồi.

Thống nhất trong đa thù là kế hoạch của sáng tạo. Tuy nhiên, từng cá nhân nam nữ có thể khác nhau, cho nên có sự thống nhất nơi nền tảng. Từng cá nhân khác nhau trong tính cách và tầng lớp nam nữ, đó là sự khác biệt tự nhiên trong sáng tạo. Từ đó, chúng ta không nên phán xét mọi người theo cùng một tiêu chuẩn, và không nên đặt trước họ một lý tưởng chung. Cách giải quyết như thế chỉ tạo ra cuộc đấu tranh trái quy luật tự nhiên, và kết quả là con người tự ghét bỏ bản thân và bị ngăn cản không trở thành người có đạo tâm và lương thiện. Nhiệm vụ của chúng ta là khuyến khích tất cả mọi người cùng đấu tranh để vươn tới lý tưởng tối cao, đồng thời phấn đấu để lý tưởng đó được gần gũi tối đa với chân lý.

Trong nền đạo đức Ấn Độ, chúng ta thấy rằng sự kiện này đã được công nhận từ thời kỳ thượng cổ, và trong các kinh điển bàn về đạo lý, người ta đã đặt ra những luật lệ khác nhau cho những hạng người khác nhau – chủ gia đình, vānaprasthin (người ở ẩn) và sannyāsin (tu sĩ xuất thế).

Cuộc sống của mỗi cá nhân, theo kinh điển Hindu, có những bổn phận đặc thù, khác với những bổn phận chung cho nhân loại. Người Hindu bắt đầu cuộc đời như một người đi học, sau đó họ cưới vợ và làm chủ gia đình; khi về già, họ lui về sống ẩn dật; và cuối cùng họ từ bỏ thế gian và trở thành một sannyāsin. Mỗi giai đoạn đó của cuộc đời đều gắn liền với những bổn phận cụ thể nào đó. Về thực chất thì không có giai đoạn nào cao quý hơn giai đoạn nào. Cuộc sống của một người lập gia đình cũng hoàn toàn vĩ đại như cuộc sống của một người độc thân hiến trọn đời cho hoạt động tôn giáo. Người phu quét rác trên đường phố cũng hoàn toàn vĩ đại và vinh quang như ông vua trên ngai vàng. Thử bắt ông vua từ bỏ ngai vàng để làm công việc của người phu quét rác, và xem thử ông ta làm việc ra sao. Thử bắt người phu quét rác ngồi lên ngai vàng rồi xem thử anh ta cai trị đất nước như thế nào. Thật là vô ích khi nói rằng những người xuất thế lại vĩ đại hơn những người nhập thế; sống trong thế gian và sùng bái Thượng Đế còn khó gấp vạn lần so với việc từ bỏ nó để ung dung sống một cuộc đời tiêu dao thế ngoại. Bốn giai đoạn trong đời sống ở Ấn Độ về sau này được giảm xuống còn hai – đó là giai đoạn làm chủ gia đình và giai đoạn làm tu sĩ. Người chủ gia đình cưới vợ và lo làm tròn bổn phận của một công dân, còn người tu sĩ thì tận hiến năng lực để phụng sự cho tôn giáo, cho việc thuyết pháp và sùng bái Thượng Đế. Tôi sẽ trình bày cùng các bạn một vài đoạn kinh văn từ Mahānirvāna Tantra, là kinh thư bàn về chủ đề này; và các bạn sẽ thấy rằng đối với người đàn ông thì làm chủ gia đình và thực hành trọn vẹn bổn phận là điều vô cùng khó khăn :

Người chủ gia đình phải phụng hiến cho Thượng Đế, mục tiêu của cuộc đời anh ta là tìm hiểu Thượng Đế. Tuy nhiên, anh ta phải làm việc thường xuyên, thực hành mọi bổn phận của mình, anh ta phải dâng hiến mọi thành quả hoạt động của mình cho Thượng Đế.

Điều khó khăn nhất trong thế gian này là làm việc mà không màng đến kết quả, là giúp đỡ người khác mà không bao giờ nghĩ đến việc họ phải nhớ ơn mình, là làm việc thiện mà đồng thời không bao giờ mong đợi đến tiếng tăm, danh vọng hoặc bất kỳ thứ gì. Ngay cả một kẻ cùng cực hèn nhát cũng trở nên can đảm khi được mọi người ca ngợi. Một gã ngốc nghếch có thể làm những hành động anh dũng khi xã hội khen ngợi anh ta, nhưng một người thường xuyên làm việc tốt mà không màng đến sự khen ngợi của đồng loại thì đó mới thực sự là sự hy sinh cao cả nhất mà con người có thể làm được.

Bổn phận cao cả của người chủ gia đình là kiếm sống, nhưng anh ta phải quan tâm đến việc làm điều đó mà không nói dối, không lường gạt hay cướp bóc của người khác; và người đó phải nhớ rằng cuộc đời của anh ta là phụng sự Thượng Đế và người nghèo.

Do biết rằng mẹ cha là những người đại diện cho Thượng Đế, người chủ gia đình luôn tìm đủ mọi cách để làm vui lòng mẹ cha. Nếu mẹ cha được hài lòng thì Thượng Đế hài lòng về người đó. Đứa con không bao giờ buông những lời cộc cằn với mẹ cha mới thực sự là đứa con ngoan. Trước mặt mẹ cha, người con không được nói những lời bỡn cợt, không được tỏ thái độ bồn chồn, giận dữ hay nóng nảy. Trước mặt mẹ hoặc cha, người con phải cúi thấp để chào, và đứng lên khi thấy cha mẹ đến, và không được ngồi cho đến chừng nào các vị cho ngồi.

 Nếu người chủ gia đình có đồ ăn thức uống hay quần áo mà không hiểu rằng cha mẹ, vợ con và người nghèo là những người cần được cung cấp trước tiên thì anh ta đang phạm tội. Mẹ cha sinh ra cho ta xác thân này, nên ta phải chịu trăm đắng nghìn cay để báo hiếu.

Bổn phận của người chủ gia đình đối với vợ cũng vậy. Anh ta không được la mắng vợ, mà phải luôn luôn xem vợ như là mẹ của mình. Thậm chí khi lâm vào cảnh sa cơ lỡ vận, cùng cực khó khăn anh ta cũng không được bỏ vợ, nếu nàng vẫn tỏ ra đức hạnh và thủy chung với chồng.

Người nào âu yếm người phụ nữ nào khác ngoài vợ mình, – chỉ cần tơ tưởng đến chuyện sờ mó vào người nàng ta thôi thì anh ta cũng bị đọa vào địa ngục.

 Trước mặt phụ nữ, người đàn ông không được ăn nói khiếm nhã, và phô trương quyền lực. Anh ta không được nói : “Tôi đã làm được cái này, và tôi đã làm được cái nọ”.

 Người chủ gia đình phải luôn luôn làm vui lòng vợ bằng tiền bạc, quần áo, tình yêu, sự thủy chung, và những lời nói ngọt ngào; anh ta không bao giờ được làm bất cứ điều gì khiến vợ phật lòng. Người chồng nào thành công trong việc nhận được tình yêu của một người vợ đức hạnh là đã thành công trong tôn giáo của mình và có được tất cả mọi nết tốt.

Sau đây là bổn phận đối với con cái :

Con trai phải được thương yêu nuôi dưỡng cho đến năm bốn tuổi; và nên được giáo dục cho đến năm mười sáu tuổi. Khi được hai mươi tuổi thì nó cần phải đi kiếm việc làm; lúc đó nó cần được người cha đối xử thương yêu như người ngang hàng. Tương tự như vậy, con gái cũng phải được nuôi dưỡng và giáo dục vô cùng cẩn thận. Khi con gái đi lấy chồng thì người cha nên cho vàng bạc, của cải.

Tiếp theo đó là bổn phận của người chủ gia đình đối với anh chị em, con cái của anh chị em nếu họ nghèo khó; bổn phận đối với bà con họ hàng, bạn bè và tôi tớ. Sau đó là bổn phận đối với hàng xóm láng giềng, với người nghèo và những người đến xin giúp đỡ. Nếu người chủ gia đình có đầy đủ phương tiện mà không chịu giúp đỡ bà con họ hàng cùng người nghèo thì anh ta chỉ là con vật, chứ không xứng đáng làm người.

Cần tránh sự đam mê quá đáng vào chuyện ăn uống, quần áo, chăm sóc thể xác, trau chuốt tóc tai. Người chủ gia đình phải giữ cho tâm hồn và thể xác được thuần tịnh. luôn luôn hoạt động và sẵn sàng cho công việc.

 Đối với kẻ thù thì người chủ gia đình phải là một anh hùng. Anh ta phải kháng cự lại chúng. Đó là bổn phận của người chủ gia đình. Anh ta không được ngồi trong một xó mà than khóc, và không được nói nhảm nhí về sự bất kháng. Nếu không chứng tỏ được mình là một anh hùng đối với kẻ thù thì anh ta đã không làm tròn trách nhiệm. Còn đối với thân bằng quyến thuộc thì anh ta phải dịu dàng như một con cừu.

Nhiệm vụ của người chủ gia đình là không được tỏ lòng tôn trọng đối với kẻ ác, nếu anh ta tôn trọng kẻ ác trên thế gian này thì anh ta tiếp tay cho điều ác, và anh ta càng phạm sai lầm lớn nếu to ra khinh thường những người lương thiện đáng kính. Anh ta không được quá vồ vập với bạn bè, không được kết giao bừa bãi khắp nơi, mà phải quan sát hành vi và cách cư xử của người mà mình muốn kết bạn, cân nhắc đắn đo rồi sau đó mới làm bạn.

Có ba điều người chủ gia đình không được nói tới. Anh ta không được nói về danh tiếng của mình nơi công cộng, không được truyền bá tên tuổi và thế lực của bản thân, cũng không được nói về tài sản của mình hay những gì mà người khác tâm sự riêng với anh ta.

Người chủ gia đình không được than vãn mình nghèo hay khoe khoang mình giàu. Cứ để người chủ gia đình giữ kín ý định của mình, đó là bổn phận của anh ta đối với tôn giáo. Đó không chỉ là sự khôn ngoan thế tục, nếu người chủ gia đình không làm được như thế thì anh ta bị xem là vô đạo đức.

 Người chủ gia đình là nền tảng, là trụ cột của toàn xã hội. Anh ta là người chủ của kinh tế gia đình. Những người nghèo khổ, yếu đuối, trẻ em và phụ nữ không có khả năng lao động đều sống dựa vào người chủ gia đình; do vậy, những bổn phận đó khiến anh ta thấy mình mạnh mẽ khi thực hiện chúng, và khiến anh ta không nghĩ rằng anh ta đang thực hiện những điều thấp hơn lý tưởng của mình. Bởi thế, nếu làm điều gì đó không xứng đáng hoặc phạm sai lầm thì người chủ gia đình không được nói cho mọi người biết; nếu tham gia vào công việc kinh doanh nào đó mà biết chắc là sẽ thất bại thì anh ta cũng không được nói về nó. Những chuyện bộc bạch, trải lòng ra như thế không những không cần thiết mà còn làm thần kinh người chủ gia đình suy nhược, khiến anh ta không còn xứng đáng để thực hiện những bổn phận hợp pháp trong đời. Đồng thời, anh ta cũng phải phấn đấu để đạt cho hai điều này : thứ nhất là tri thức, thứ hai là của cải. Đó là nhiệm vụ của một người chủ gia đình, nếu không thực hiện được thì anh ta chẳng còn ra thể thống con người nữa. Một người chủ gia đình mà không nỗ lực làm giàu là kẻ vô đạo đức. Nếu anh ta lười biếng và thỏa mãn sống một đời nhàn rỗi thì anh ta là kẻ vô đạo đức, vì còn hàng trăm người trông cậy vào anh ta. Nếu anh ta giàu có thì sẽ giúp đỡ được hàng trăm người khác.

Nếu trong thành phố này không có hàng trăm người nỗ lực làm giàu và tích lũy tài sản, thì tất cả nền văn minh, nhà tế bần và dinh thự ở đâu mà có? Trong trường hợp như thế, chạy theo sự giàu có không có chi là xấu, vì của cải đó là để phân phát ra. Người chủ gia đình là trung tâm của đời sống và xã hội. Đối với người đó, kiếm tiền và xài tiền một cách cao thượng là sùng bái Thượng Đế[2]; bởi vì người chủ gia đình nào phấn đấu làm giàu bằng những phương tiện tốt đẹp và nhắm đến mục tiêu tốt đẹp thì trên thực tế cũng đang làm điều tương tự để đạt đến giải thoát, như nhà ẩn tu khổ hạnh trong thảo am đang làm khi cầu nguyện; đối với hai hạng người này, chúng ta chỉ thấy được những khía cạnh khác nhau của cùng một đức hạnh là buông xả và hy sinh bản thân được gợi hứng từ lòng sùng tín với Thượng Đế và tất cả những gì thuộcvề Ngài.

Người chủ gia đình phải phấn đấu bằng mọi cách để đạt được tiếng thơm. Anh ta không được cờ bạc, không được làm việc trong công ty kẻ xấu, không được nói dối và không được gây phiền toái cho người khác.

Con người thường hay tham gia vào những công việc mà họ không cách nào hoàn thành nỗi, nên kết quả là họ phải lừa đảo kẻ khác để đạt được mục đích. Tiếp theo đó, trong mọi công việc thì thời gian cũng là yếu tố cần phải quan tâm đến; những thứ ở thời điểm này có thể là một thất bại, nhưng tại thời điểm khác thì có thể là một thành công vĩ đại.

Người chủ gia đình điềm đạm phải nói sự thật, và nói từ tốn, dùng những lời dịu dàng dễ nghe để đem lại điều tốt đẹp cho người khác; anh ta không nên ba hoa về mình hoặc chỉ trích người khác.

Bằng cách đào giếng, trồng cây ven đường, xây nhà nghỉ cho người và thú vật, xây dựng cầu đường, người chủ gia đình cũng đi đến cùng một mục tiêu như hành giả karma-yogi vĩ đại nhất.

Trên đây là một phần trong giáo lý karma-yoga – hoạt động, bàn về bổn phận của người chủ gia đình. Còn có một đoạn kinh văn khác sau đây, trong đó Mahānirvāna Tantra nói rằng : “nếu người chủ gia đình chết trên chiến trường, vì chiến đấu cho quê hương hay tôn giáo của mình thì người đó cùng đi đến cùng một mục tiêu mà hành giả yogi đạt đến bằng thiền định”, cho thấy bổn phận người này chẳng khác người kia. Đồng thời, kinh điển cũng chẳng nói bổn phận nào cao hay bổn phận nào thấp. Mỗi bổn phận đều có vị trí của riêng nó và chúng ta, tùy theo hoàn cảnh gặp phải, đều phải chu toàn bổn phận của mình.

Từ tất cả những điều này phát sinh một quan niệm duy nhất : lên án sự yếu đuối, nhu nhược. Đây là một quan niệm đặc thù trong tất cả giáo lý của chúng tôi mà tôi ưa thích, dù là trong triết học, tôn giáo hay công việc. Nếu các bạn đọc kinh Veda, các bạn sẽ thấy từ này luôn luôn được nhắc đi nhắc lại : vô úy – không sợ hãi bất cứ điều gì. Sợ hãi là dấu hiệu của sự nhu nhược. Một người phải lo chu toàn bổn phận của mình, không cần đếm xỉa gì đến những lời châm chọc hay nhạo báng của người đời.

Nếu một người xuất thế để sùng bái Thượng Đế thì anh ta không được nghĩ rằng những người nhập thế đang làm điều tốt cho thế gian lại không phải đang sùng bái Thượng Đế; còn những người đang sống trong thế gian vì vợ, vì con cũng không được cho rằng những người từ bỏ thế gian là đám người lông bông thấp kém. Mỗi người đều vĩ đại trong địa vị của riêng mình. Tôi xin dùng một câu chuyện để minh họa cho ý tưởng này.

 Có một vị vua nọ thường đặt câu hỏi cho tất cả những sannyāsin đến đất nước mình : “Ai vĩ đại hơn – người từ bỏ thế gian để thành một sannyāsin hay người tại thế chăm lo thực hiện bổn phận của một người chủ gia đình?”. Nhiều nhà thông thái tìm cách giải đáp câu hỏi đó. Một số người khẳng định rằng vị sannyāsin vĩ đại hơn, nhà vua bèn yêu cầu chứng minh lời khẳng định của họ. Khi họ không thể chứng minh được thì ông bắt họ hoàn tục để cưới vợ, và làm người chủ gia đình. Một số khác lại nói : “Người chủ gia đình làm trong bổn phận mình là người vĩ đại hơn”. Với những người này, nhà vua cũng yêu cầu đưa ra bằng chứng. Khi họ không thể trưng ra bằng chứng thì ông cũng bắt họ hoàn tục để làm người chủ gia đình.

 Cuối cùng có một vị sannyāsin trẻ tuổi đến, và nhà vua cũng hỏi giống y như vậy. Người này đáp : “Tâu bệ hạ, người nào cũng vĩ đại như nhau trong địa vị của mình”.

Nhà vua phán : “Hãy chứng minh cho ta thấy điều đó”.

Vị sannyāsin đáp : “Tôi sẽ chứng minh cho ngài thấy, nhưng ngài phải đi theo tôi và sống như tôi trong một vài ngày thì tôi mới có thể chứng minh cho ngài thấy những lời tôi nói”.

Nhà vua đồng ý và đi theo vị sannyāsin ra khỏi xứ sở mình, và đi qua nhiều xứ khác cho đến khi họ đến một vương quốc rộng lớn. Tại kinh đô vương quốc này đang diễn ra một cuộc đại lễ. Nhà vua và vị sannyāsin nghe tiếng trống và tiếng nhạc vang vọng, họ cũng nghe cả lời của những người truyền lệnh; dân chúng mặc lễ phục tụ tập trên đường phố, và một tuyên cáo được đưa ra. Nhà vua và vị sannyāsin đứng ở đó để xem những gì đang diễn ra. Người truyền lệnh đọc lớn tuyên cáo rằng nàng công chúa, con của vị vua xứ đó, đang chuẩn bị kén chồng trong số những người đang tụ tập trước mặt nàng.

Theo tục lệ cổ xưa ở Ấn Độ thì các cô công chúa kén chồng theo cách này. Mỗi nàng đều có quan niệm riêng về mẫu người đàn ông mà họ muốn chọn làm chồng. Cô thì muốn người chồng đẹp trai nhất, cô thì muốn người chồng uyên bác nhất, cô lại muốn người chồng giàu có nhất v.v…. Tất cả những hoàng tử lân bang đều trau chuốc trong những bộ y phục xinh đẹp nhất và trình diện trước mặt nàng. Đôi khi họ cũng có những người truyền lệnh riêng để liệt kê những ưu thế của họ, cùng lý do vì sao họ hy vọng công chúa sẽ chọn mình. Nàng công chúa ngồi trên ngai vàng và được đưa đi quanh các nơi, giữa một hàng quân vô cùng rực rỡ, nàng nhìn và nghe nói về các hoàng tử. Nếu không hài lòng với những gì đã nghe và thấy thì nàng bảo những kiệu phu : “Đi tiếp”, và chẳng còn quan tâm gì thêm đến những kẻ bị bỏ rơi. Tuy nhiên, nếu công chúa vừa lòng với người nào trong số họ thì nàng ném vòng hoa vào anh ta, và người đó trở thành phò mã.

Vị công chúa của đất nước, nơi mà nhà vua và vị sannyāsin mới đến, cũng đang kén chồng theo một trong các nghi lễ lý thú ấy. Nàng là vị công chúa đẹp nhất thế gian, và vị phò mã sẽ là người trị vì vương quốc sau khi vua cha băng hà. Nàng có ý chọn một phò mã điển trai nhất, nhưng chẳng một ai khiến nàng thấy hài lòng. Những lễ hội như thế này đã được tổ chức một đôi lần, nhưng công chúa vẫn chưa kén chọn được một ai. Lễ hội này là lễ hội tưng bừng nhất, số người đến dự đông hơn bao giờ hết. Công chúa leo lên kiệu vàng, và đám kiệu phu khiêng nàng đi từ chỗ này đến chỗ khác. Tựa hồ như nàng chẳng quan tâm đến một ai, và mọi người đều thất vọng, cho là lễ hội này cũng lại thất bại.

Bỗng nhiên có một chàng trai trẻ đi đến, một sannyāsin, đẹp rực rỡ như mặt trời hiện xuống thế gian, và đứng tại một góc của đám đông đang tụ họp, quan sát những gì đang diễn ra. Kiệu vàng của công chúa đến gần anh ta, và khi công chúa vừa thấy vị sannyāsin đó, nàng liền ngừng lại và ném vòng hoa vào anh ta.

Vị sannyāsin nắm vòng hoa vất đi, và la lên :

– Chuyện gì nhảm nhí thế này? Tôi là một sannyāsin. Hôn nhân có ý nghĩa gì với tôi cơ chứ.

Nhà vua xứ đó nghĩ rằng chắc người này nghèo khó nên không dám cưới công chúa, liền nói :

– Bây giờ lễ hồi môn của con gái ta là một nửa vương quốc này, và sau khi ta mất thì trọn cả vương quốc.

Nói xong, ông đặt vòng hoa lên người vị sannyāsin.

Chàng trai trẻ liền vất nó đi một lần nữa, và bảo :

– Nhảm nhí! Tôi có muốn lấy vợ đâu.

Rồi chàng ta bước thật lẹ ra khỏi đám đông.

Lúc này, cô công chúa đã mê mệt với chàng trai đó đến độ nàng nói “Ta phải cưới cho được người này, nếu không ta sẽ chết”, rồi nàng đuổi theo để đem chàng ta về. Lúc đó, vị sannyāsin của chúng ta – người đã đưa nhà vua đến đây – bảo nhà vua : “Tâu bệ hạ, chúng ta hãy đi theo cặp đó”. Thế là họ đi theo sau hai người kia, nhưng giữ một khoảng cách khá xa. Vị sannyāsin trẻ tuổi – người từ chối kết hôn với công chúa – đi vào một vùng quê được mấy dặm đường. Khi đến một khu rừng thì anh ta đi vào trong đó, cô công chúa cũng đi theo, hai người của chúng ta cũng đi theo họ. Do vị sannyāsin trẻ (người từ chối kết hôn với công chúa) đã quen sống với núi rừng, nên biết rõ mọi đường đi ngoằn ngoèo phức tạp trong đó. Chàng ta đột nhiên rẽ vào một trong những con đường đó và biến mất, khiến cô công chúa không sao tìm thấy được. Sau khi tìm kiếm một hồi lâu, nàng ngồi dưới một gốc cây và than khóc, vì không biết theo lối nào mà ra. Lúc đó, nhà vua và vị sannyāsin trẻ tuổi của chúng ta mới đến bên nàng và bảo :

– Đừng khóc lóc nữa. Chúng tôi sẽ chỉ đường cho cô ra khỏi khu rừng này; nhưng bây giờ trời đã quá tối rồi không thể tìm được lối ra. Nơi đây có một cây cổ thụ, chúng ta hãy nghỉ ngơi dưới gốc cây này, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường sớm và chỉ cho cô lối ra”.

Lúc bấy giờ, có một con chim nhỏ sống cùng vợ và ba con chim non sống trong một cái tổ trên cây đó. Con chim nhỏ đó nhìn xuống và thấy ba người ngồi dưới gốc cây, bèn nói với chim mái :

– Mình ơi, chúng ta phải làm gì bây giờ? Có mấy vị khách đến nhà mà bây giờ là mùa đông, mình lại không có lửa.

Bởi vậy, nó bèn bay đi, tha một ít củi chụm trong mỏ và thả uống trước mặt các vị khách để họ có thể châm thêm dầu vào và nhóm lửa. Nhưng con chim nhỏ vẫn chưa thấy hài lòng. Nó bảo với vợ :

– Này mình, chúng ta phải làm gì bây giờ? Chẳng có gì để cho những người đó ăn mà họ lại đang đói. Mình là chủ nhà, phải có bổn phận nuôi dưỡng cho bất kỳ ai đến nhà. Tôi phải làm việc mà tôi có thể làm được. Tôi phải hy sinh thân xác tôi cho họ.

Nói xong, nó lao vào giữa đống lửa và chết thiêu. Những vị khách nhìn thấy nó rơi xuống nhưng không sao cứu kịp, vì nó lao quá nhanh so với họ.

Vợ con chim nhỏ thấy việc chồng đã làm, bèn nói :

– Ở đây có đến ba người, mà chỉ có một con chim nhỏ cho họ ăn. Vậy thì không đủ, nhiệm vụ của ta là vợ thì không được để những cố gắng của chồng trở nên vô ích; hãy để họ có thêm cái thân xác này của ta.

Nói xong, nó cũng lao vào lửa và bị cháy thiêu.

Lúc này chỉ còn lại ba con chim con, chúng nhìn mọi việc diễn ra và thấy rằng vẫn không đủ thức ăn cho cả ba người khách, nên bảo nhau :

– Cha mẹ ta đã làm điều họ có thể làm được, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Bổn phận của chúng ta là phải nối tiếp công việc của cha mẹ, hãy để thân xác chúng ta đi theo luôn.

Rồi chúng cùng lao vào ngọn lửa.

Ngạc nhiên trước những chuyện xảy ra, dĩ nhiên cả ba người không sao ăn nỗi thịt chim. Suốt một đêm trôi qua, họ không ăn uống gì; đến sáng hôm sau, nhà vua và vị sannyāsin chỉ đường cho nàng công chúa ra khỏi rừng để nàng quay lại với vua cha.

Lúc đó, vị sannyāsin mới bảo với nhà vua :

– Tâu bệ hạ, bây giờ thì ngài đã thấy rằng người nào cũng vĩ đại trong chức vị riêng của mình. Nếu ngài muốn sống trong thế gian thì hãy sống như những con chim kia, sẵn sàng hy sinh cho người khác. Còn nếu muốn từ bỏ thế gian thì hãy làm như vị sannyāsin trẻ tuổi nọ, không màng chi đến tuyệt thế giai nhân và vương quốc. Nếu ngài muốn làm một người chủ gia đình, thì hãy sống hy sinh đời sống mình vì sự an lạc của kẻ khác; còn nếu ngài muốn chọn con đường xuất thế thì đừng màng nhìn chi đến sắc đẹp, tiền bạc và quyền lực. Người nào cũng vĩ đại trong chức vị riêng của mình, bổn phận của người này không phải là bổn phận của người kia”.

BÍ QUYẾT LÀM VIỆC

Giúp đỡ kẻ khác về vật chất bằng cách đáp ứng được nhu cầu vật chất của họ, đó thực sự là sự giúp đỡ lớn lao; hễ nhu cầu càng lớn và sự giúp đỡ càng có tầm ảnh hưởng sâu xa thì sự giúp đỡ sẽ càng lớn theo. Nếu sự thiếu thốn của một người có thể bị loại bỏ trong vòng một giờ thì đó là giúp đỡ anh ta thực sự; nếu sự thiếu thốn đó có thể bị loại bỏ trong vòng một năm thì càng giúp đỡ anh ta nhiều hơn nữa; nếu sự thiếu thốn đó có thể bị loại bỏ vĩnh viễn thì đó mới thực sự là sự giúp đỡ to lớn nhất dành cho anh ta.

Tri thức tâm linh là thứ duy nhất có thể hủy diệt vĩnh viễn sự khốn khổ của chúng ta; còn bất kỳ tri thức nào khác cũng chỉ có thể thỏa mãn được nhu cầu trong một thời gian mà thôi. Chỉ có tri thức về Tâm Linh mới có thể hủy diệt vĩnh viễn căn nguyên của thiếu thốn; do đó, giúp đỡ một người về tâm linh là sự giúp đỡ to lớn nhất có thể đem đến được cho anh ta. Ai ban cho con người tri thức tâm linh thì đó là ân nhân vĩ đại nhất của nhân loại; bởi vậy ta thấy những ai giúp đỡ con người về nhu cầu tâm linh đều là những người có quyền năng nhất trong loài người, bởi vì tâm linh tính là nguồn thần hứng chân thực cho mọi hoạt động của chúng ta. Một người mạnh mẽ và tráng kiện về tâm linh sẽ mạnh mẽ trong mọi phương diện khác, nếu anh ta muốn thế. Chừng nào mà con người chưa có được sức mạnh tâm linh thì ngay cả những nhu cầu vật chất cũng không thể được thỏa mãn đầy đủ.

Tiếp theo sự giúp đỡ tâm linh là sự giúp đỡ tinh thần. Tặng phẩm của tri thức cao cả hơn rất nhiều so với tặng phẩm bằng thực phẩm và y phục; nó còn cao cả hơn việc ban sự sống cho một người, bởi vì đời sống thực sự của một người cốt ở tri thức. Ngu muội là chết, tri thức là sống. Đời sống có một giá trị rất đỗi nhỏ nhoi, nếu đó là cuộc sống trong bóng tối, mò mẫm trong vô minh và khốn khổ. Kế đó dĩ nhiên là sự giúp đỡ vật chất. Do đó, khi cân nhắc giúp đỡ người nào, chúng ta không được nhầm lẫn cho rằng giúp đỡ vật chất là cách giúp đỡ duy nhất mà ta có thể đem đến cho họ. Đó không chỉ là cách giúp đỡ sau chót mà còn mà cách giúp đỡ ít ỏi nhất, bởi vì nó không mang lại sự thỏa mãn mãi mãi. Sự khốn khổ mà tôi cảm nhận khi đói bụng sẽ được thỏa mãn bằng cách ăn uống, nhưng rồi cơn đói sẽ còn tiếp tục quay lại, sự khốn khổ của tôi chỉ chấm dứt vĩnh viễn khi tôi được thỏa mãn không còn thiếu thốn gì nữa. Cơn đói sẽ không còn làm cho tôi khốn khổ; không một thảm cảnh nào, không một nỗi phiền muộn nào có thể làm cho tôi dao động được nữa. Do đó, sự giúp đỡ hướng ta đến sự mạnh mẽ tâm linh là sự giúp đỡ cao cả nhất, kế đó là sự giúp đỡ tinh thần, sau cùng là sự giúp đỡ vật chất.

Những nỗi khốn khổ trên thế gian này không thể chỉ dùng vật chất giúp đỡ mà chữa lành được. Chừng nào bản tính con người chưa thay đổi thì những nhu cầu vật chất sẽ luôn luôn nảy sinh, và con người cứ luôn luôn thọ nhận sự khốn khổ, và không một khối lượng giúp đỡ vật chất nào lại có thể chữa lành họ hoàn toàn. Giải pháp duy nhất cho vấn đề này là làm cho nhân loại trở nên thuần tịnh. Ngu muội là mẹ đẻ của mọi điều xấu ác cùng tất cả những cảnh khốn khổ mà chúng ta đang thấy. Hãy để cho con người có được ánh sáng, hãy để cho họ được thuần tịnh, có được tâm linh mạnh mẽ và có học vấn, chỉ đến lúc đó thôi, chứ không phải trước đó, cảnh khốn khổ trên thế gian này sẽ chấm dứt. Chúng ta có thể biến đổi mỗi căn nhà thành một dưỡng trí viện từ thiện, chúng ta có thể xây bệnh viện đầy khắp trên mặt đất này, thế nhưng cảnh khốn khổ của con người sẽ còn tiếp tục tồn tại chừng nào con người chưa thay đổi bản tính.

Chúng ta đọc đi đọc lại trong kinh Bhagavad Gitā rằng tất cả chúng ta phải làm việc không ngừng nghỉ. Mọi công việc tự bản chất đều gồm cả thiện lẫn ác. Chúng ta không thể làm bất cứ điều gì mà lại không đem đến điều tốt đẹp cho một nơi nào đó; chúng ta cũng không thể làm bất cứ điều gì mà lại không gây nên tổn hại tại một nơi nào đó. Mọi công việc tất nhiên đều pha trộn giữa thiện và ác, vậy mà chúng ta vẫn bị sai khiến phải làm việc không ngừng. Cả thiện và ác đều tạo nên kết quả của chúng, sẽ tạo nên karma của chúng. Việc thiện sẽ tạo ra hiệu quả tốt, việc ác sẽ gây nên hậu quả xấu. Đối với bản chất phát sinh ràng buộc của công việc thì giải pháp đã đạt đến trong kinh Bhagavad Gitā là như vầy : nếu ta không bị ràng buộc vào công việc mình làm thì nó sẽ không thể tạo ra bất kỳ hiệu quả ràng buộc nào trên linh hồn chúng ta. Đây là tư tưởng trọng tâm của Bhagavad Gitā : hãy làm việc không ngừng nhưng đừng bị ràng buộc. Chúng ta sẽ thử tìm hiểu ý nghĩa của tinh thần làm việc ” vô luyến cảm”  này.

Từ samskāra[3] có thể được dịch gần sát theo nghĩa là “xu hướng nội tại”. Dùng ẩn dụ bằng hồ nước để minh họa, hồ nước dụ cho tâm trí, mỗi gợn nước hay mỗi con sóng phát khởi trong tâm trí khi lắng xuống sẽ không mất đi hoàn toàn, mà để lại một dấu vết và một khả năng trong tương lai để cho con sóng đó xuất hiện trở lại. Dấu vết đó, với khả năng tái hiện của con sóng, là cái được gọi là samskāra.

 Mỗi công việc mà chúng ta làm, mỗi hành vi của thân, mỗi tư tưởng của ý đều để lại một ấn tượng trên chất liệu của tâm trí, và ngay cả khi những ấn tượng đó không hiện rõ lên bề mặt thì chúng cũng đủ mạnh để hoạt động ngầm trong tiềm thức. Hiện thể của chúng ta – cái mà chúng ta đang là trong mỗi phút giây – được quyết định bởi tổng số những ấn tượng đó trên tâm trí. Cái mà tôi đang là ngay tại bây giờ là tổng số của những ấn tượng trong cuộc sống quá khứ của tôi. Đó thực sự là ý nghĩa của cái gọi là tính cách, tính cách của mỗi người được quy định bởi tổng số những ấn tượng này. Nếu ấn tượng tốt chiếm ưu thế thì tính cách trở nên tốt đẹp, nếu ấn tượng xấu chiếm ưu thế thì tính cách trở nên xấu xa. Nếu một người cứ thường xuyên nghe những lời độc ác, nghĩ những điều xấu xa, làm những điều tồi tệ thì tâm trí anh ta sẽ chứa đầy những ấn tượng xấu xa, và chúng sẽ ảnh hưởng đến tư tưởng cùng công việc của anh ta mà anh ta không hề hay biết gì về điều đó. Trên thực tế thì những ấn tượng xấu xa này vẫn luôn luôn hoạt động, hiệu quả hợp thành của chúng phải là điều ác, và người đó phải là người ác, anh ta không sao cưỡng lại được. Tổng số những ấn tượng đó trong anh ta sẽ tạo nên một lực thúc đẩy mãnh liệt bắt phải làm điều ác. Anh ta sẽ chẳng khác nào một cỗ máy nằm trong tay của những ấn tượng của mình, và chúng sẽ buộc anh ta làm điều ác. Tương tự như vậy, nếu một người luôn nghĩ những điều tốt đẹp, làm những điều thiện thì tổng số những ấn tượng đó sẽ tốt đẹp; và chúng, cũng theo cách tương tự, sẽ bắt anh ta làm điều tốt dù anh ta có muốn hay không. Khi một người đã làm nhiều điều thiện, đã suy nghĩ nhiều ý tưởng tốt đẹp đến mức trong anh ta có xu hướng bắt phải làm điều thiện không sao cưỡng nỗi; cho dù anh ta có muốn làm điều ác thì tâm trí anh ta, tức là tổng số các xu hướng của anh ta, sẽ không cho phép anh ta làm thế; các xu hướng đó sẽ kéo anh ta lùi lại, anh ta hoàn toàn chịu ảnh hưởng của những xu hướng tốt đẹp. Trong trường hợp như thế ta nói rằng tính cách tốt đẹp của một người đã được xác lập.

Khi một con rùa rụt đầu và chân vào trong mai, dù các bạn có thể giết nó, đập vỡ tan nó ra thành từng mảnh thì nó vẫn không thò đầu ra; tính cách của một người đã chế ngự được những động cơ và giác quan cũng được xác lập một cách bất biến như vậy đó. Người đó chế ngự được những sức mạnh nội tâm, và không có gì có thể lôi kéo chúng ra ngoài khi anh ta không muốn. Nhờ vào hoạt động phản ánh liên tục của những ý niệm tốt, của những ấn tượng tốt đang di chuyển trên bề mặt của tâm trí, mà xu hướng làm việc thiện càng trở nên mạnh mẽ, kết quả là chúng ta cảm thấy có thể kiểm soát được indriyas, tức trung khu thần kinh. Chỉ có như thế thì tính cách mới được xác lập, rồi chỉ có như thế con người mới đạt đến chân lý. Một người như thế sẽ được vĩnh viễn bình yên, sẽ không còn mối nguy hiểm nào cho anh ta nữa.

Còn có một trạng thái cao hơn trạng thái có được xu hướng tốt đẹp này, đó là khát vọng giải thoát. Các bạn nên nhớ rằng giải thoát linh hồn là mục tiêu của mọi pháp môn yoga, và pháp môn nào cũng dẫn đến cùng một thành quả. Chỉ bằng cách làm việc không thôi, con người vẫn có thể đạt đến cảnh giới mà đức Phật đạt đến phần lớn bằng thiền định, và đấng Christ đạt đến bằng cầu nguyện. Đức Phật là một jnāni hoạt động, còn Chúa Jesus là một bhakta, song cả hai vị đều đạt đến cùng một mục tiêu. Điểm khó khăn nằm ở chỗ này. Giải thoát có nghĩa là tự do trọn vẹn – thoát ra khỏi vòng trói buộc của thiện lẫn ác. Một dây xích bằng vàng vẫn là một dây xích, chẳng khác gì một dây xích bằng sắt. Giả sử có một cây gai mắc trong ngón tay tôi, và tôi dùng cây gai khác để lấy nó ra; khi đã lấy được cây gai kia ra rồi thì tôi phải vất cả hai cây gai đi; tôi chẳng cần phải giữ lại cây gai thứ hai làm gì, vì dù sao chúng vẫn chỉ là những cây gai. Do đó, những xu hướng ác cần phải được hóa giải bởi những xu hướng thiện, những ấn tượng xấu trong tâm trí cần phải được loại bỏ bằng những làn sóng của ấn tượng tốt, cho đến khi tất cả những điều xấu ác hầu như mất hết, hoặc bị chế ngự và kìm hãm tại một xó trong tâm trí. Nhưng rốt cuộc thì những xu hướng tốt cũng cần phải bị khuất phục. Như thế thì ” ràng buộc” sẽ biến thành “không ràng buộc”. Hãy làm việc, nhưng đừng để hành động hay tư tưởng tạo ra một ấn tượng sâu sắc nào trong tâm trí. Hãy để cho những gợn sóng cứ đến rồi đi, hãy để những hành động to tát xuất phát từ cơ bắp và bộ não, nhưng đừng để chúng gây ra những ấn tượng sâu sắc nào trên linh hồn[4].

Làm thế nào để làm được điều này? Chúng ta thấy rằng bất kỳ hành động nào mà chúng ta quyến luyến cũng đều lưu lại ấn tượng. Tôi có thể gặp cả trăm người trong ngày, và trong số đó tôi cũng gặp một người mà tôi yêu thích; đến tối về khi đi nghỉ, tôi có thể cố mường tượng lại tất cả những gương mặt mà tôi đã thấy, nhưng gương mặt duy nhất hiện ra trước tâm trí tôi là gương mặt mà tôi có thể chỉ gặp thoáng qua trong một phút và là gương mặt tôi yêu thích. Tất cả những gương mặt khác đều biến mất. Lòng quyến luyến của tôi đối với nhân vật đặc biệt đó đã tạo ra trong tâm trí tôi một ấn tượng sâu sắc hơn những gương mặt khác. Xét về khía cạnh sinh lý học thì những ấn tượng đó đều giống nhau; mỗi gương mặt tôi nhìn thấy đều lưu hình ảnh trên võng mạc, và não bộ ghi nhận hình ảnh đó; tuy nhiên, hiệu quả mà chúng tác động trên tâm trí lại chẳng hề tương đồng. Có thể hầu hết những gương mặt đó đều hoàn toàn mới lạ, mà trước đó tôi chưa bao giờ nghĩ tới, thế nhưng chỉ có gương mặt duy nhất mà tôi mới nhìn thoáng qua đó lại tìm được những mối liên kết tiềm ẩn bên trong. Có thể tôi đã lưu hình ảnh của người đó trong tâm trí nhiều năm rồi, đã biết về hàng trăm điều về người đó, và cái nhìn duy nhất về người đó lần đầu tiên đã đánh thức hàng trăm kỷ niệm đang yên ngủ trong tâm trí tôi; và ấn tượng duy nhất này, do được lặp đi lặp lại có lẽ đến hàng trăm lần so với những gương mặt khác, đã tạo nên hiệu quả mãnh liệt trên tâm trí tôi.

Bởi vậy, hãy giữ tinh thần “vô luyến cảm”. Cứ để sự vật vận động, cứ để trí não tập trung vào công việc, cứ làm việc không ngừng, nhưng chớ để một gợn sóng nào chế ngự tâm trí. Hãy làm việc như thể các bạn là một kẻ xa lạ trên mảnh đất này, như một kẻ ngụ cư. Hãy làm việc không ngừng, nhưng đừng tự trói buộc lấy mình; trói buộc là điều khủng khiếp. Thế gian này không phải là nơi chúng ta cư trú, nó chỉ là một trong nhiều giai đoạn mà chúng ta phải trải qua. Hãy nhớ lại lời nói vĩ đại của trường phái triết học Sāmkhya : “Toàn thể thiên nhiên dành để phụng sự cho linh hồn, chứ không phải linh hồn dành để phụng sự cho thiên nhiên”. Lý do thực sự để thiên nhiên tồn tại là giáo dục linh hồn, ngoài ra nó chẳng có ý nghĩa nào khác. Thiên nhiên hiện hữu ra đó vì linh hồn cần phải có tri thức, và nhờ tri thức mới tự giải thoát được cho mình. Nếu hiểu được điều này thì chúng ta sẽ không bao giờ bị trói buộc vào thiên nhiên nữa; chúng ta sẽ hiểu rằng thiên nhiên là một cuốn sách mà ta phải đọc, và khi đã thu thập được tri thức cần thiết rồi thì cuốn sách đó không còn giá trị gì với chúng ta nữa. Tuy nhiên, thay vì điều đó, chúng ta lại tự đồng nhất mình với thiên nhiên, chúng ta nghĩ rằng linh hồn là dành để phụng sự cho thiên nhiên, tinh thần dành để phụng sự cho thể xác, và như một câu nói phổ biến, chúng ta nghĩ rằng con người “sống để mà ăn” chứ không phải “ăn để mà sống”. Chúng ta liên tục mắc phải sai lầm; chúng ta xem thiên nhiên như là bản thân chúng ta và tự trói buộc mình vào nó; và khi sự trói buộc này xảy đến thì tạo ra ấn tượng sâu sắc trên linh hồn, ấn tượng đó ghìm chúng ta xuống và khiến cho chúng ta không còn làm việc với tinh thần tự do, mà như những kẻ nô lệ.

Trọn phần tinh túy của lời giáo huấn này là như vầy : các bạn nên làm việc như một chủ nhân, chứ không phải như một nô lệ; hãy làm việc không ngừng, nhưng đừng làm công việc của kẻ nô lệ. Các bạn há không thấy mọi người làm việc như thế nào hay sao? Không một ai được nghỉ ngơi hoàn toàn; chín mươi chín phần trăm nhân loại như nô lệ, và hậu quả là sự khốn khổ; đó toàn là những công việc vị kỷ. Hãy làm việc bằng tinh thần tự do! Hãy làm việc bằng tình yêu! Từ “tình yêu” rất khó hiểu; tình yêu không bao giờ đến khi chưa có tự do. Không thể có tình yêu thực sự nơi một kẻ nô lệ. Nếu các bạn mua một kẻ nô lệ, dùng xiềng xích cùm anh ta lại và bắt anh ta làm việc cho các bạn thì anh ta sẽ làm việc như trâu ngựa, nhưng sẽ không bao giờ có được tình yêu nơi anh ta. Bởi vậy, khi chính chúng ta làm việc như những kẻ nô lệ vì những sự vật trong thế gian này thì trong ta không thể có tình yêu, và công việc của chúng ta không phải là công việc chân thực. Điều này đúng với những công việc làm vì người thân, vì bè bạn, và cũng đúng với những công việc làm cho chính bản thân chúng ta. Công việc vị kỷ là công việc của kẻ nô lệ. Và đây là cách thử nghiệm : Mọi hành vi thương yêu đều mang đến hạnh phúc; không một hành vi thương yêu nào lại không mang lại phản ứng là bình yên và lạc phúc. Tồn tại chân thực, tri thức chân thực, thương yêu chân thực vĩnh viễn kết hợp với nhau, cả ba trong một : Hễ nơi nào có một trong ba thì phải có hai cái kia; chúng cùng là ba khía cạnh bình đẳng của một Nhất Thể, không có cái nào thứ yếu, Tồn Tại-Tri Thức-Lạc Phúc. Khi Tồn Tại đó trở thành tương đối thì chúng ta thấy nó như là thế giới; Tri Thức đó, đến lượt nó, chuyển biến thành tri thức về sự vật trong thế giới; và Lạc Phúc đó tạo nền tảng cho tình thương yêu chân thực mà trái tim con người từng biết đến.

 Bởi vậy, tình yêu chân thực không bao giờ có thể phản ứng bằng cách gây ra đau khổ cho người đang yêu và kẻ được yêu. Giả sử người đàn ông kia yêu một phụ nữ; anh ta muốn chiếm hữu nàng trọn vẹn, và cảm thấy ghen lồng lộn với mọi hành động của nàng; anh ta muốn nàng ngồi kế bên mình, đứng sát bên mình, ăn uống và hành động theo mệnh lệnh của anh ta. Anh ta là nô lệ của màng và muốn chiếm hữu nàng như nô lệ của mình. Đó không phải là tình yêu, mà là loại tình cảm bệnh hoạn của kẻ nô lệ, tự khoác lên mình lớp vỏ như là tình yêu. Nó không thể là tình yêu, vì nó mang lại đau khổ; nếu nàng ta không làm theo những gì anh ta muốn thì điều đó sẽ khiến anh ta đau khổ. Với tình yêu thì không hề có phản ứng mang lại khổ đau, nó chỉ đem đến lạc phúc; nếu không phải là thế thì đó không phải là tình yêu, đó là sự nhầm lẫn một thứ gì khác mà ta ngỡ là tình yêu. Khi bạn đã thương yêu trọn vẹn chồng, vợ, con cái, toàn thể thế gian, thương yêu cả vũ trụ này đến mức không còn cảm thấy một phản ứng nào mang lại khổ đau hay lòng ghen tỵ, không còn một cảm xúc vị kỷ nào thì các bạn đang ở trong trạng thái tự do, không còn bị trói buộc.

Đấng Krisha nói : “Này Arjuna, hãy nhìn ta đây! Nếu ta ngừng làm việc chỉ trong một giây phút thôi thì toàn bộ vũ trụ này sẽ bị hủy diệt. Ta chẳng nhận được gì từ công việc mình làm; ta là đấng Chúa Tể duy nhất, nhưng vì sao ta phải làm việc? Bởi vì ta thương yêu thế gian này”. Thượng Đế không còn bị trói buộc, và cứ ung dung tự tại vì Ngài thương yêu. Tình thương yêu chân thật đó giúp chúng ta thoát vòng trói buộc. Bất cứ nơi nào có sự trói buộc, còn luyến cảm với sự vật trần gian thì các bạn phải biết rằng tất cả điều đó là lực hấp dẫn giữa các phân tử vật chất – đó là lực luôn kéo hai thể xác lại càng lúc càng gần với nhau hơn, và nếu hai thể xác đó không thể đến đủ gần nhau thì phát sinh đau khổ; còn nơi nào có thương yêu chân thực thì tình yêu đó hoàn toàn không dựa trên sự ràng buộc thể xác. Những cặp tình nhân như thế dù có cách xa nhau hàng ngàn dặm thì tình yêu của họ vẫn thủy chung không đổi, tình yêu đó không hề chết, và sẽ không bao giờ tạo ra bất kỳ phản ứng gây khổ đau nào.

Đạt đến tinh thần tự tại, vô luyến cảm này là công việc phải làm suốt cả đời người, nhưng ngay khi đạt đến cảnh giới đó thì chúng ta thành tựu mục tiêu của thương yêu và được giải thoát. Mọi ràng buộc của thiên nhiên biến mấtm và chúng ta thấy thiên nhiên hiển lộ toàn chân, nó không còn rèn đúc xiềng xích để trói buộc chúng ta nữa; chúng ta hoàn toàn tự do, và chẳng còn quan tâm đến kết quả của việc làm nữa, vậy thì ai còn quan tâm chi đến kết quả sẽ ra sao?

Các bạn có đòi hỏi con cái mình phải đền đáp lại những gì các bạn đã làm cho chúng không? Bổn phận của các bạn là chăm lo cho chúng, sự việc chỉ có bấy nhiêu đó mà thôi. Trong mọi công việc mà các bạn làm cho một nhân vật đặc biệt, cho một thành phố hay một quốc gia, hãy giữ cùng một thái độ giống như các bạn làm đối với con cái mình – không hề mong báo đáp. Nếu các bạn có thể luôn giữ được địa vị của một người ban phát – trong đó mọi thứ bạn ban phát đều là tặng phẩm miễn phí cho thế gian, không hề mong báo đáp – thì công việc đó sẽ không trói buộc các bạn. Sự trói buộc chỉ xảy đến khi ta cầu mong báo đáp.

Nếu làm việc như một nô lệ mang lại kết quả là lòng vị kỷ và sự ràng buộc thì làm việc như một ông chủ của chính tâm trí ta sẽ dẫn đến trạng thái lạc phúc của tinh thần vô luyến. Chúng ta thường nói về các danh từ “quyền lợi” và “công lý”, nhưng chúng ta thấy trong thế giới này thì hai từ đó chỉ là lời nói của trẻ con. Có hai thứ hướng dẫn được hành vi của con người : quyền lực và lòng nhân từ. Áp dụng quyền lực bao giờ cũng là áp dụng lòng vị kỷ. Mọi người, nam lẫn nữ, đều cố vận dụng tối đa quyền lực hay ưu thế mà họ có. Lòng nhân từ tự nó là thiên đàng rồi; muốn làm người lương thiện, tất cả chúng ta phải có lòng nhân từ. Ngay đến công lý và quyền lực cũng cần dựa trên lòng nhân từ. Mọi tư tưởng mong cầu báo đáp từ những việc mình làm đều gây cản trở cho sự tiến bộ tâm linh của chúng ta; hơn thế nữa, rốt cuộc chúng còn mang đến sự khốn khổ.

Có một cách khác có thể thực hiện được ý tưởng về lòng nhân từ và lòng từ thiện vị tha; đó là xem công việc ta làm như là “sự sùng bái”, trong trường hợp chúng ta tin vào Thượng Đế Nhân Thể. Tại đây, chúng ta phó thác mọi thành quả của công việc ta làm cho đấng Chúa Tể, và khi sùng bái Ngài theo cách đó, chúng ta không có quyền mong đợi bất cứ điều gì nơi nhân loại về những việc chúng ta làm. Chính đấng Chúa Tể cũng làm việc không ngừng và không bao giờ bị ràng buộc. Giống như nước không thể làm ướt được lá sen, công việc cũng không thể nào trói buộc được người có lòng vị tha bằng cách làm phát sinh luyến cảm vào kết quả. Người vô ngã và vô luyến cảm có thể sống ngay giữa lòng phố thị đông đúc đầy tội lỗi mà không hề nhiễm vào tội lỗi.

Ý tưởng về sự tận hiến được minh họa bằng câu chuyện sau đây :

Sạu trận chiến Kurukshetra, năm anh em nhà Pāndava thực hiện một đại lễ hiến tế và phát chẩn cho người nghèo. Tất cả mọi người đều sửng sốt trước sự vĩ đại và phong phú của buổi lễ, bảo rằng chưa từng thấy một đại lễ nào như thế trên đời. Nhưng khi nghi lễ kết thúc, một con chồn xuất hiện, một nửa mình nó thì vàng óng, nửa kia thì màu nâu;và nó lăn trên nền nhà của tòa lễ đường. Nó nói với mọi người chung quanh : “Tất cả các vị đều là những kẻ dối trá, đây không phải là buổi lễ hiến tế”. “Sao!”, mọi người cùng kêu lên : “ngươi bảo đây không phải là buổi lễ hiến tế; vậy ngươi không biết là biết bao nhiêu tiền bạc, châu báu đã đổ ra cho người nghèo để họ được giàu có và hạnh phúc đó hay sao? Đây là buổi lễ hiến tế kỳ diệu nhất mà con người từng có thể làm được”.

Con chồn bèn kể :

“Ngày xưa có một vị Brahmin nghèo khổ sống với vợ, con và con dâu trong một ngôi làng nhỏ. Họ rất nghèo và sống nhờ vào những tặng phẩm ít ỏi từ việc giảng đạo và dạy học. Rồi nơi đó xảy ra một nạn đói kéo dài đến ba năm, và gia cảnh vị Brahmin càng khốn khổ hơn bao giờ hết. Cuối cùng, khi cả nhà đều chịu đói trong nhiều ngày thì buổi sáng nọ người cha mang về một chén nhỏ bột lúa mạch, mà ông may mắn có được; ông chia ra làm bốn phần cho mỗi người trong gia đình. Họ nấu bột để chuẩn bị cho bữa ăn, và khi họ sắp ăn thì bỗng có tiếng gõ cửa. Người cha mở cửa ra và thấy một người khách lạ. Thời bấy giờ ở Ấn Độ, khách là nhân vật linh thiêng, họ được xem là một vị thần hóa thân và cần được đối xử như thế. Bởi vậy vị Brahmin nghèo khổ kia bảo :

– Xin mời vào, rất hân hạnh được chào đón ngài”.

Ông đặt phần bột của mình trước mặt người khách để mời.

Người khách ăn hết thật lẹ rồi nói :

– Ôi chao, ông giết tôi mất. Tôi nhịn đói đã mười ngày nay, và nhúm bột nhỏ xíu này càng làm tôi đói thêm nữa.

Người vợ bèn bảo chồng :

– Lấy phần bột của tôi đưa cho ông ta.

Nhưng người chồng gạt đi, bảo

– Không được.

Tuy vậy, người vợ vẫn cứ nài nỉ mãi :

– Ở đây có một người nghèo, bổn phận chúng ta là chủ nhà thì phải cung cấp thức ăn cho ông ta, bổn phận của tôi làm vợ là phải nhường cho ông ta phần của mình, vì ông có còn gì để nhường thêm cho ông ta nữa đâu.

Người vợ nói xong, liền nhường phần bột của mình cho vị khách. Ông ta cũng ăn nốt và than vẫn còn đói cồn cào.

Người con trai thấy bèn bảo :

– Hãy nhường luôn phần của con đi, bổn phận của người con giúp cha làm tròn trách nhiệm.

Người khách ăn nốt phần bột của người con trai, nhưng hãy còn đói, người con dâu thấy thếé bèn nhường nốt phần bột của mình cho khách. Ăn chừng đó đã thấy no bụng, người khách bèn từ giả và chúc lành cho họ. Đêm hôm đó, cả nhà đều chết đói. Một vài hạt bột rơi trên nền nhà, khi tôi lăn trên đó thì một nửa thân tôi biến thành vàng óng như các vị đã thấy. Bởi vậy, tôi đã chu du khắp thế gian để tìm cho ra một buổi lễ hiến tế như thế, nhưng không nơi nào có được, không một nơi nào có thể biến một nửa phần thân kia của tôi thành màu vàng óng. Đó là lý do tôi bảo đây không phải là lễ hiến tế”.

Quan niệm về lòng từ thiện đang biến dần khỏi đất nước Ấn Độ, những bậc vĩ nhân ngày càng hiếm hoi dần. Lần đầu tiên khi học tiếng Anh, tôi đọc cuốn truyện bằng tiếng Anh, trong đó có câu chuyện về một đứa bé có tinh thần trách nhiệm; nó rời nhà để đi kiếm việc làm và mang một ít tiền về cho người mẹ già, điều đó được khen ngợi trong ba hay bốn trang sách. Điều đó là gì? Không một đứa nhỏ Ấn Độ nào hiểu được ý nghĩa đạo đức trong câu chuyện đó. Đến bây giờ tôi mới hiểu được nó, khi nghe quan niệm của người phương Tây : “ai chịu trách nhiệm phần người nấy”. Có những người nhận hết mọi thứ về phần mình, và gạt bỏ cả cha mẹ, vợ con. Điều đó sẽ không bao giờ, và không một nơi đâu, là lý tưởng của một người chủ gia đình.

Đến bây giờ thì các bạn thấy karma-yoga có ý nghĩa gì rồi; ngay lúc hấp hối, vẫn cứ giúp đỡ người khác mà không hề thắc mắc. Có bị lừa phỉnh hàng triệu lần đi nữa thì cũng không bao giờ thắc mắc, và cũng đừng bao giờ nghĩ đến những gì các bạn đang làm. Đừng bao giờ khoe khoang về những món quà các bạn tặng cho người nghèo, hoặc mong họ nhớ ơn, mà trái lại các bạn còn phải mang ơn họ đã cho các bạn cơ hội để làm từ thiện. Bởi vậy, dễ dàng thấy làm một người chủ gia đình lý tưởng khó hơn rất nhiều so với làm một sannyāsin lý tưởng; cuộc sống tại thế chân chính thực ra cũng gian khó như, nếu không muốn nói là gian khó hơn, cuộc sống xuất thế chân chính.

BỔN PHẬN LÀ GÌ?

Khi nghiên cứu karma-yoga thì cần phải hiểu bổn phận là gì. Nếu là tôi làm một điều gì đó thì trước hết tôi phải hiểu đó là bổn phận của minh, sau đó tôi mới có thể làm. Quan niệm về bổn phận khác nhau theo từng quốc gia. Tín đồ Hồi giáo bảo rằng những điều viết trong kinh Koran là bổn phận của họ, tín đồ Ấn giáo bảo rằng những điều viết trong kinh Veda là bổn phận của họ, tín đồ Cơ Đốc giáo bảo rằng những điều viết trong Kinh Thánh là bổn phận của họ. Ta thấy rằng có nhiều quan niệm khác nhau về bổn phận, khác nhau theo điều kiện sống khác nhau, theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau và theo từng quốc gia khác nhau.

Thuật ngữ “bổn phận”, cũng như mọi thuật ngữ phổ quát trừu tượng, không thể nào định nghĩa cho rõ ràng, chúng ta chỉ có thể nắm được ý tưởng về bổn phận nhờ hiểu được cách hoạt động và kết quả thực tiễn của nó. Khi một sự việc cụ thể xảy ra trước mắt, tất cả chúng ta đều bị thôi thúc, hoặc do tự nhiên hoặc do được tập luyện, phải hành động theo cách nào đó; khi tâm trí bị thôi thúc thì nó bắt đầu nghĩ đến tình huống diễn ra sự việc. Khi thì nó cho rằng trong điều kiện như thế mà làm theo cách đó là tốt; lúc khác, cũng trong tình huống tương tự, thì nó lại cho rằng làm theo cách tương tự đó là sai. Ý tưởng thông thường về bổn phận ở khắp mọi nơi là : mọi người tốt cứ làm theo chỉ thị của lương tâm. Nhưng điều gì đã biến một hành động thành bổn phận? Nếu một tín đồ Cơ Đốc giáo thấy một miếng thịt bò ở trước mặt mà không ăn nó để cứu mạng mình, hoặc không muốn dùng nó để cứu mạng kẻ khác thì chắc chắn anh ta cảm thấy không làm tròn bổn phận. Nhưng nếu một tín đồ Ấn giáo cả gan ăn miếng thịt bò đó, hoặc đưa cho người khác ăn thì chắc chắn anh ta cũng cảm thấy không làm tròn bổn phận y như vậy; sự tập luyện và nền giáo dục khiến anh ta cảm nhận theo cách đó. Trong thế kỷ trước, có nhiều đảng cướp nổi tiếng ở Ấn Độ gọi là Thugs; chúng cho rằng bổn phận của chúng là giết người, cướp của; hễ giết người càng nhiều thì chúng càng cho rằng mình tài giỏi. Thông thường, nếu một người đi ra phố và bắn gục một người khác thì anh ta cảm thấy ân hận, nghĩ rằng mình đã làm điều sai quấy. Những cũng chính người đó, với tư cách là một quân nhân trong hàng ngũ của mình, không chỉ giết một người mà giết đến hai mươi người thì chắc chắn anh ta lại cảm thấy hoan hỷ, và nghĩ rằng mình đã làm tròn bổn phận một cách xuất sắc.

Do đó, chúng ta thấy rằng không phải điều ta làm có thể xác định được bổn phận. Bởi vậy, đưa ra một định nghĩa khách quan về bổn phận điều hoàn toàn không thể. Tuy thế, xét về phương diện chủ quan thì vẫn có bổn phận. Bất cứ việc làm nào giúp chúng ta hướng đến Thượng Đế đều là việc làm tốt, và đó là bổn phận của chúng ta; còn những việc làm nào khiến chúng ta suy đồi, sa đọa đều là việc làm xấu, và đó không phải là bổn phận của chúng ta. Xét theo quan điểm chủ quan, chúng ta có thể thấy rằng có một số hành vi có xu hướng giúp chúng ta hướng thượng và trở nên cao quý, trong khi những hành vi khác lại khiến chúng ta suy đồi và trở nên đê tiện. Nhưng không thể phân biệt rạch ròi loại hành vi nào, xu hướng nào cho tất cả mọi người, trong mọi địa vị và hoàn cảnh. Tuy nhiên, có một quan niệm về bổn phận được toàn thể nhân loại ở mọi lứa tuổi, mọi tôn giáo, mọi quốc gia cùng chấp nhận, và bổn phận đó được tóm tắt trong một câu ngạn ngữ tiếng Sanskrit như vầy: “Không làm hại bất kỳ ai là đức hạnh, còn làm hại bất kỳ ai là tội lỗi”[5].

Kinh Bhagavad Gitā thường ám chỉ đến bổn phận tùy thuộc theo xuất thân và địa vị trong đời sống. Xuất thân cùng địa vị trong đời sống và trong xã hội quyết định phần lớn thái độ tinh thần và đạo đức của mỗi cá nhân đối với những hoạt động khác nhau trong cuộc sống. Do đó, bổn phận chúng ta là phải làm những việc nào giúp chúng ta hướng thượng và trở nên cao quý, phù hợp với những lý tưởng và hoạt động của xã hội mà chúng ta đang sống. Nhưng chúng ta phải đặc biệt ghi nhớ rằng không phải trong xã hội nào, đất nước nào những lý tưởng và hoạt động đó cũng đều chiếm ưu thế; thiếu hiểu biết về điều này là nguyên nhân chính dẫn đến hận thù giữa các quốc gia. Một người Mỹ cho rằng bất cứ điều gì mà người Mỹ làm theo phong tục của đất nước anh ta đều là những việc làm tuyệt hảo, và kẻ nào không làm theo điều đó chắc chắn phải là kẻ xấu xa, độc ác. Một người Ấn lại cho rằng phong tục của đất nước anh ta là phong tục duy nhất đúng đắn và tuyệt hảo nhất trên thế gian, bất cứ người nào không tuân thủ những phong tục đó chắc chắn phải là kẻ xấu xa, độc ác nhất trên đời. Đó hoàn toàn là sự nhầm lẫn tự nhiên mà tất cả chúng ta thường mắc phải. Nhưng điều đó rất nguy hiểm, nó là nguyên nhân của một nửa những điều nghiệt ngã xảy ra trên thế giới này.

Khi tôi mới đến đất nước này[6], và đang đi trong Hội Chợ Chicago thì một người đàn ông đứng sau lưng giật lấy cái khăn quấn đầu của tôi. Tôi quay lại nhìn, và thấy anh ta là một người dáng vẻ trông rất lịch sự, ăn mặc chỉnh tề. Tôi nói chuyện với anh ta, và khi thấy tôi biết tiếng Anh thì anh ta rất đỗi luống cuống. Một dịp khác cũng trong Hội Chợ đó, một người đàn ông xô tôi một cái. Khi tôi hỏi nguyên do thì anh ta cũng đâm ra ngượng ngùng, lắp bắp xin lỗi và nói : “Sao ông lại ăn mặc như thế?”. Sự cảm thông giữa con người bị giới hạn trong phạm vi ngôn ngữ và y phục của từng xứ sở. Phần lớn sự áp bức của những nước mạnh đối với nước yếu là do định kiến này. Nó làm khô cạn tình thân ái giữa người với người. Người đàn ông đó – người đã hỏi tôi vì sao không ăn mặc giống anh ta và toan hành hung tôi – có thể là một người rất tốt, một người cha đạo đức, một công dân gương mẫu, nhưng lòng tốt của anh ta bị khô cạn ngay khi nhìn thấy một người trong bộ trang phục khác lạ.

Những người nước ngoài bị bóc lột ở khắp mọi quốc gia, vì họ không biết cách tự bảo vệ lấy mình, bởi vậy họ mang về quê hương mình các ấn tượng sai lầm về những dân tộc mà họ đã thấy. Có những thủy thủ, chiến binh, thương gia hành xử ở nước ngoài theo cách rất là quái dị, dù chắc hẳn họ không dám mơ đến việc làm những điều đó trên chính quê hương mình; có lẽ vì thế mà người Trung Quốc gọi người châu Âu và người Mỹ là “bọn quỷ nước ngoài”. Họ không thể gọi thế nếu như họ thấy được những khía cạnh tốt đẹp, nhân hậu trong đời sống phương Tây.

Do đó, điểm duy nhất cần ghi nhớ là chúng ta phải luôn luôn cố gắng nhìn bổn phận của người khác bằng chính đôi mắt của họ, và đừng bao giờ phán xét phong tục của những dân tộc khác theo tiêu chuẩn riêng của mình. Tôi không phải là tiêu chuẩn của vũ trụ. Tôi phải tự thích ứng với cuộc đời, chứ không phải cuộc đời thích ứng với tôi. Do đó, chúng ta thấy rằng hoàn cảnh làm biến đổi bản chất của bổn phận, và làm tròn bổn phận của riêng ta tại bất kỳ thời điểm đặc biệt nào là điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm được cho thế gian này. Chúng ta hãy làm tròn bổn phận của mình theo xuất thân, và khi đã làm xong điều đó, chúng ta hãy làm bổn phận của mình theo địa vị trong đời sống và xã hội. Tuy nhiên, có một điều vô cùng nguy hiểm trong bản tính con người – đó là con người không bao giờ chịu tự xét lấy mình. Anh ta luôn cho rằng mình xứng đáng ngồi lên ngôi báu như một ông vua. Thậm chí nếu có là thế đi chăng nữa thì trước tiên anh ta cũng phải chứng minh được anh ta đã làm tròn bổn phận trong địa vị của mình, rồi sau đó những bổn phận cao cả hơn sẽ đến với anh ta. Khi chúng ta bắt đầu hăng hái làm việc trong thế gian này thì thiên nhiên giáng cho ta những cú đấm bên phải và bên trái để giúp ta sớm tìm ra vị trí đích thực của mình. Không một ai có thể giữ được lâu dài một cách thỏa đáng địa vị không thích hợp với mình. Có càu nhàu oán trách sự điều tiết của thiên nhiên cũng chẳng ích gì. Người làm công việc thấp hèn không phải vì thế mà thành người thấp hèn. Không nên đánh giá người khác chỉ dựa vào bản chất của những bổn phận của họ, mà phải đánh giá theo cách thức và tinh thần của họ lúc thực hiện những bổn phận đó.

Sau đây, chúng ta sẽ thấy rằng ngay cả quan niệm bổn phận này cũng chịu sự biến đổi, và chỉ có công việc nào được thực hiện mà không vì một động cơ vị kỷ nào thúc đẩy mới là công việc vĩ đại nhất. Tuy nhiên, chính việc làm vì bổn phận mới dẫn chúng ta đến với việc làm không có ý tưởng nào về bổn phận. Do đó, công việc biến thành sự sùng bái – đúng hơn là một cái gì đó cao cả hơn, rồi công việc sẽ được thực hiện chỉ vì chính công việc. Chúng ta sẽ thấy rằng triết lý về bổn phận – dù dưới hình thức luân lý hay tình yêu – cũng đều giống nhau, như trong mọi pháp môn yoga khác, đó là giảm trừ bản ngã thấp kém để cho Đại Ngã cao siêu hơn được tỏa sáng rực rỡ, và giảm bớt sự tiêu hao năng lượng trên bình diện tồn tại thấp kém để linh hồn tự thân hiển lộ trên những bình diện tồn tại cao hơn. Điều này được thành tựu bằng cách liên tục buông xả những dục vọng thấp hèn, điều mà bổn phận yêu cầu một cách nghiêm túc. Dù có ý thức được hay không thì toàn bộ tổ chức xã hội vẫn phát triển như thế trong các lĩnh vực hoạt động và kinh nghiệm. Bằng cách tiết chế tính vị kỷ, ta mở ra phương trời cho chân tính của con người được phát triển đến vô biên.

Bổn phận ít khi được ngọt ngào, êm thắm. Chỉ khi tình yêu bôi mỡ cho các bánh xe thì cỗ máy bổn phận mới chạy trơn tru được, nếu không thì ma sát liên tục. Nếu không thế thì làm thế nào để cha mẹ có thể thể hiện được bổn phận với con cái, chồng thể hiện được bổn phận với vợ, và ngược lại? Há chúng ta chẳng gặp những trường hợp ma sát trong đời sống hàng ngày hay sao? Bổn phận chỉ trở nên ngọt ngào là nhờ tình yêu, và tình yêu chỉ tỏa sáng trong tự do. Nhưng làm nô lệ cho các giác quan, cho sự giận sự, ghen tỵ cùng hàng trăm thứ tủn mủn vụn vặt khác diễn ra trong đời sống hàng ngày, đó có phải là tự do không? Trong tất cả những điều thô lỗ, cộc cằn nhỏ nhoi mà chúng ta gặp phải trong đời thì biểu hiện cao nhất của tự do là lòng khoan dung. Phụ nữ – những người làm nô lệ cho thói đồng bóng dễ hờn ghen của mình – thường đổ lỗi cho các ông chồng và khẳng định “sự tự do” của họ theo cách họ nghĩ, mà không biết rằng làm như thế chỉ chứng minh rằng họ là nô lệ. Đối với các ông chồng suốt đời tìm lỗi của vợ cũng thế.

Trong sạch là đức hạnh đầu tiên của nam lẫn nữ, người đàn ông nào đã đi sai đường mà một người vợ đức hạnh dịu dàng lại không có cách nào đưa anh ta về lại với con đường chính thì điều đó rất hiếm có. Cõi đời này chưa đến nỗi tệ hại như vậy. Chúng ta nghe nói nhiều về những người chồng vũ phu trên khắp thế giới này, và thói trăng hoa của đàn ông, nhưng có thật là hoàn toàn không có nhiều phụ nữ thô bạo và có thói trăng hoa như đàn ông chăng? Nếu người nào tin rằng tất cả phụ nữ đều tốt đẹp và trong sạch, như lời họ thường xuyên khẳng định, thì tôi sẽ hoàn toàn hài lòng là sẽ không có một người đàn ông lăng nhăng nào trên thế gian này. Có sự thô bạo cộc cằn nào mà đức hạnh đoan trang không chinh chinh phục nỗi không? Người vợ đoan trang, đức hạnh nào nghĩ đến mọi người đàn ông – trừ chồng mình – như là con mình, và giữ thái độ của một người mẹ hiền đối với con cái, thì người đó sẽ phát triển năng lực thanh khiết đến mức không một người đàn ông nào, cho dù thô lỗ đến mấy, lại không hít thở được bầu không khi thiêng liêng trước mặt nàng. Tương tự như vậy, mọi ông chồng phải xem những người phụ nữ – trừ vợ mình – như là mẹ, chị gái,em gái hoặc con gái mình. Hơn nữa, người đàn ông nào muốn trở thành bậc đạo sư thì phải xem mọi phụ nữ như là mẹ mình, và phải luôn luôn cư xử với họ theo cách đó.

Địa vị của người mẹ là địa vị tối cao trong thế gian, bởi vì đó là nơi duy nhất để học hỏi và thực hành lòng vị tha vĩ đại nhất. Chỉ có tình thương của Thượng Đế là tình thương duy nhất cao hơn tình mẫu tử; còn mọi tình thương khác đều thấp hơn. Bổn phận của người mẹ là phải nghĩ đến con cái trước rồi sau đó mới nghĩ đến bản thân mình. Nhưng thay vì thế, nếu cha mẹ cứ luôn luôn nghĩ đến bản thân họ trước thì hậu quả là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái sẽ giống như mối quan hệ giữa chim mẹ và chim con; những con chim con, khi đã đủ lông canh để bay, sẽ không còn biết đến cha mẹ nữa. Thật hạnh phúc thay cho những đàn ông nào có thể xem phụ nữ là biểu tượng của Mẹ Thượng Đế. Thật hạnh phúc thay cho những phụ nữ nào có thể xem đàn ông là biểu tượng của Cha Thượng Đế. Thật hạnh phúc thay cho những người con nào xem cha mẹ là Thần Linh hiện thân trên thế gian này.

Phương thức duy nhất để hướng thượng là làm tròn bổn phận gần ta, rồi cứ thế mà tích lũy dần sức mạnh cho đến khi chúng ta đạt đến cảnh giới tối cao.

Có một sannyāsin trẻ tuổi nọ đi vào rừng; ở nơi đó, anh ta ngồi thiền, lễ bái và thực hành pháp môn yoga trong một thời gian khá lâu. Sau nhiều năm khổ công tu tập, ngày kia anh ta ngồi dưới một bóng cây thì có mấy chiếc lá khô rơi trên đầu. Vị sannyāsin ngước nhìn lên thì thấy một con quạ và một con cò đang đánh nhau trên ngọn cây, điều này khiến anh ta nổi giận. Anh ta nói “Sao! Chúng bay dám ném lá khô lên đầu ta à!”. Khi nói những lời đó, anh ta giận dữ nhìn chúng thì một tia lửa tóe ra khỏi mắt – đó là quyền năng của một hành giả yogi – và thiêu cháy hai con chim đó thành tro. Vị sannyāsin rất đỗi vui mừng, hầu như ngây ngất trước sự phát triển quyền năng của mình : có thể thiêu cháy con quạ và con cò chỉ bằng một ánh mắt nhìn.

Sau một thời gian, anh ta phải đi vào thành phố để khất thực. Anh ta đến trước cửa một ngôi nhà và nói : “Mẹ ơi! Hãy cho con đồ ăn”.

Một giọng nói từ trong nhà vọng ra : “Đợi một chút nghe, con trai”.

Vị sannyāsin trẻ tuổi nghĩ : “Con mụ đàn bà tồi tệ này, sao mụ lại dám bắt ta phải chờ chứ! Mụ chưa biết đến quyền năng của ta rồi”.

Trong khi anh ta đang suy nghĩ như thế thì giọng nói kia lại vang lên : “Này con trai, đừng suy nghĩ quá nhiều về bản thân mình. Ở đây chẳng có con quạ hay con cò nào đâu”.

Vị sannyāsin rất đỗi kinh ngạc. Anh ta vẫn phải tiếp tục chờ. Cuối cùng, một người phụ nữ bước ra, anh ta quỳ xuống dưới chân bà và nói :

– Thưa mẹ, sao mẹ lại biết chuyện đó?

 Bà ta bảo :

– Này con, ta chăngr biết gì về pháp môn yoga của con hay sự tu luyện của con. Ta chỉ mà một phụ nữ bình thường làm công việc hằng ngày. Ta bắt con đợi vì chồng ta đang bệnh, và ta đang chăm sóc cho ông. Suốt một đời, ta chỉ cố gắng làm tròn bổn phận của mình. Khi còn con gái, ta lo làm tròn bổn phận của người con đối với cha mẹ; giờ đây, khi đã lập gia đình, ta lo làm tròn bổn phận đối với chồng; đó là pháp môn yoga mà ta thực hành. Nhưng nhờ làm tròn bổn phận của mình mà ta được khai ngộ, nhờ vậy ta mới có thể đọc được tư tưởng của con và biết con đã làm gì trong rừng. Nếu con muốn biết đến điều gì cao siêu hơn nữa hơn thì hãy đi đến ngôi chợ của thành phố nọ, tại đó con sẽ gặp một người vyadha, người này sẽ cho con biết một đôi điều mà con sẽ rất vui mừng khi học được.

Vị sannyāsin đó nghĩ :

– Tại sao ta lại phải đến thành phố đó để gặp người vyadha kia chứ?

Nhưng sau những gì đã chứng kiến, tâm trí anh ta được mở mang đôi chút, bởi vậy anh ta lên đường. Khi đến thành phố nọ, anh ta thấy một ngôi chợ, và tại nơi đó, ở từ xa anh ta nhìn thấy một người vyadha to béo đang cầm con dao lớn chặt thịt, miệng thì trò chuyện và mặc cả với nhiều người khác nhau.

Chàng trai trẻ nhủ thầm : “Xin Thượng Đế hãy giúp con! Đây là người mà con sắp phải học hỏi hay sao? Nếu như y là một cái gì đó thì cái gì đó chỉ là hóa thân của quỷ sứ.”

Trong lúc đó, người kia ngước lên nhìn và nói : “Ồ! này đại sư, có phải vị phu nhân đó gởi ngài đến đây chăng? Hãy ngồi tạm ở đây, chờ tôi làm xong công việc đã.”

Vị sannyāsin kia thầm nghĩ : “Chuyện gì xảy đến cho mình đây?”.

Anh ta ngồi chờ và người kia vẫn tiếp tục công việc của mình. Sau khi đã tính toán tiền nong xong xuôi, ông bảo vị sannyāsin : “Xin mời ngài về nhà tôi”.

Khi về đến nhà, vị vyadha kia đưa một cái ghế và bảo nào “Xin ngồi ở đây”, rồi đi vào nhà trong. Ông ta tắm rửa cho cha mẹ già yếu, cho họ ăn uống, và làm đủ mọi thứ để hai vị vui lòng, sau đó mới quay ra bảo vị sannyāsin : “Thưa ngài, ngài đã đến đây thăm tôi, tôi có thể giúp được gì cho ngài?”. Vị sannyāsin hỏi ông một số câu hỏi về linh hồn và Thượng Đế, và người vyadha kia thuyết giảng cho anh ta nghe, và bài thuyết giảng đó tạo thành một bộ phận trong bộ sử thi Mahābhārata, với tên là Vyādha Gitā. Đó là một trong các bài giảng chứa những tư tưởng bay bổng, cao siêu nhất của triết học Vedānta.

Khi vị vyadha giảng xong, vị sannyāsin kia sửng sốt mà bảo :

– Sao ngài lại ở trong thể xác này. Với trí tuệ đó, vì sao ngài ở trong thể xác của một vyadha để làm những công việc nhơ bẩn, gớm guốc như vậy?

Vị vyadha kia bảo :

– Này con, không có bổn phận nào là nhơ bẩn, gớm guốc cả, không một bổn phận nào là ô uế, bất tịnh cả. Xuất thân của ta đã đặt ta vào tình huống này, hoàn cảnh này. Từ bé ta đã học buôn bán. Ta ung dung tự tại, không hề bị ràng buộc, và ta cố làm tròn bổn phận của mình. Ta làm tròn bổn phận của một người chủ gia đình, và cố gắng hết sức mình để làm cha mẹ ta được hạnh phúc. Ta không hề biết đến pháp môn yoga nào, cũng chẳng muốn làm một sannyāsin; ta không lìa bỏ thế gian để vào sống trong rừng; tất cả những gì con đã nghe, đã thấy đều đến với tâm ta từ sự thực hành những bổn phận thuộc về mình với tinh thần vô luyến.

Ở Ấn Độ có một vị hiền triết, một hành giả yogi vĩ đại, một trong những người tuyệt diệu nhất mà tôi từng gặp trong đời[7]. Đó là một người đặc biệt, ông không hề giảng dạy cho bất kỳ ai; nếu các bạn đặt câu hỏi, ông sẽ không trả lời. Đảm nhận vai trò một đạo sư là một điều quá sức đối với ông, ông không làm điều đó. Nếu các bạn đặt câu hỏi thì hãy chờ đợi vài ngày, rồi trong lúc đang trò chuyện, ông sẽ nêu lại vấn đề và soi chiếu lên nó một làn ánh sáng diệu kỳ. Có lần, ông bảo với tôi về bí quyết làm việc : “Hãy để cứu cánh và phương tiện hợp nhất thành một”. Khi các bạn làm bất cứ việc gì thì đừng nghĩ đến chuyện gì ngoài nó. Hãy làm việc như đang sùng bái, như đang thực hành một nghi lễ sùng bái tối cao, và tận hiến toàn bộ đời mình cho nó ngay trong lúc ấy. Bởi vậy, trong câu chuyện trên đây, vị vyadha và người đàn bà toàn tâm toàn ý làm bổn phận mình với sự hoan hỷ, và kết quả là họ chứng ngộ; điều đó chứng minh rõ ràng rằng thực hành đúng đắn bổn phận của mình tại bất kỳ hoàn cảnh nào trong cuộc sống sẽ dẫn chúng ta đến cảnh giới thực chứng tối cao về sự toàn mỹ của linh hồn.

[Ghi chú của người dịch:

Trên mạng có một câu chuyện được kể lại của tác giả Huệ Khải. Ngắn nhưng vô cùng thâm thúy, ý nghĩa tương tư như đoạn văn trên đây của đạo sư Vivekananda, cho thấy đâu cũng có thể là cảnh giới thị hiện của Bồ Tát, để tùy duyên hóa độ chúng sinh. Do phần này khá dài, không đưa được vào phần ghi chú, nên người dịch xin ghi lại đây để bạn đọc tham khảo thêm.

 Nội dung câu chuyện như sau :

 Có thầy tu nọ rất mực thánh thiện. Sau nhiều năm dài tu hành tinh tấn, chuyên chú kinh kệ không một phút giây xao lãng, thầy thấy mình đã bước vào được cảnh giới tâm linh viên mãn.

Một đêm khuya nọ, sau khi xả thiền, thầy đi ngủ và nằm mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Tất cả mọi người đều sắp theo thứ tự ngôi thứ trên bàn tiệc. Thầy được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.

Điều này khiến thầy băn khoăn không hiểu công phu đạo hạnh của người chủ tiệm đó cao đến mức nào. Sáng hôm sau, thầy liền tìm tới tiệm tạp hóa, tìm một chỗ khuất và kín đáo quan sát rất lâu. Thầy thấy tiệm không lớn lắm, nhưng không lúc nào ngớt khách. Chủ tiệm cũng chẳng có gì đặc biệt, luôn tay bán hàng, thu tiền, thối tiền, mà vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã.

Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói:

-Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá, cũng đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Xong rồi, tôi sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.”

Thầy chăm chú chiết dầu vừa xong thì đúng lúc cửa hàng ngớt khách. Chủ tiệm lúc này cũng nghỉ tay bán hàng, liền bước tới hỏi thầy:

-Nãy giờ lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?

Thầy bẽn lẽn:

-Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật, Trời!”

Chủ tiệm cười hiền lành, bảo:

-Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời, nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non, đong thiếu. Khi phục vụ khách hàng, tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy!”

 Chấm dứt phần ghi chú của người dịch]

Chỉ những người làm việc mà bị trói buộc vào công việc mới càu nhàu, than vãn về bản chất của bổn phận mà số phận họ phải gánh lấy; còn đối với những người làm việc mà cứ ung dung tự tại, không bị trói buộc vào công việc thì bổn phận nào cũng đều tốt đẹp như nhau, cùng tạo thành những khí cụ hữu hiệu để giết chết thói vị kỷ cùng tham dục, và đạt đến cảnh giới giải thoát cho linh hồn. Chúng ta thường đánh giá bản thân mình quá cao. Bổn phận của chúng ta được xác định bởi công trạng của chúng ta, theo một mức độ lớn hơn rất nhiều những gì ta muốn công nhận. Tranh đua chỉ làm phát sinh sự ganh tỵ, và giết chết lòng nhân ái của tâm hồn. Đối với kẻ ưa càu nhàu, than vãn thì bổn phận nào cũng khó chịu, không có gì làm thỏa mãn được anh ta, và số phận của trọn cuộc đời anh ta là minh chứng cho sự thất bại. Chúng ta hãy tiếp tục làm việc, thực hành trọn vẹn tất cả những gì được xem là bổn phận của mình. và luôn sẵn sàng vác trách nhiệm lên vai. Rồi chắc chắn chúng ta sẽ thấy được Ánh Sáng!

CHÚNG TA TỰ GIÚP MÌNH, KHÔNG PHẢI GIÚP THẾ GIAN

Trước khi xét kỹ hơn vấn đề say sưa với bổn phận sẽ giúp chúng ta tiến bộ như thế nào về tâm linh, hãy để tôi trình bày cho các bạn một khía cạnh khác của cái mà đất nước Ấn Độ chúng tôi gọi là karma. Tôn giáo nào cũng có ba phần : triết học, thần thoại, và nghi thức. Triết học dĩ nhiên là phần cốt tủy của mọi tôn giáo, thần thoại giải thích và minh họa triết học đó bằng cuộc đời ít nhiều mang tính truyền kỳ của những vĩ nhân, bằng những câu chuyện hay chuyện ngụ ngôn về những kỳ tích v.v…, và nghi thức đem lại cho triết học một hình thức cụ thể hơn, để mọi người ai cũng có thể hiểu được – trên thực tế, nghi thức là triết học được cụ thể hóa. Nghi thức đó là karma, nó cần thiết cho mọi tôn giáo, bởi vì phần lớn chúng ta không thể hiểu được những điều tâm linh trừu tượng, cho đến khi nào chúng ta phát triển nhiều về mặt tâm linh.

Thật dễ dàng để mọi người nghĩ rằng họ có thể hiểu được bất cứ điều gì, nhưng khi đụng đến kinh nghiệm thực tế, họ mới thấy rằng những ý tưởng trừu tượng kia thật là khó lãnh hội. Bởi vậy biểu tượng giúp ích rất nhiều, và ta không thể bỏ qua phương pháp dùng biểu tượng để trình bày những vấn đề ra trước mắt chúng ta. Từ thời vô cùng xa xưa, bất cứ tôn giáo loại nào cũng đều sử dụng biểu tượng. Theo nghĩa này thì chúng ta không thể tư duy trừ phi dùng biểu tượng, bản thân ngôn từ chỉ là biểu tượng của tư tưởng. Theo nghĩa khác thì mọi sự vật trong vũ trụ đều có thể được xem như là biểu tượng. Toàn thể vũ trụ là một biểu tượng, và Thượng Đế là yếu tính nằm ở đằng sau. Cách diễn đạt bằng biểu tượng này không phải là sự sáng tạo của con người. Không có chuyện một nhóm tu sĩ ngồi lại với nhau để nghĩ ra những biểu tượng nào đó, rồi khai sinh ra chúng ra từ tâm trí của họ. Những biểu tượng tôn giáo có sự phát triển tự nhiên. Nếu không thế thì tại sao một số biểu tượng nào đó lại liên kết được với những ý tưởng nào đó trong tâm trí của hầu hết mọi người? Một số biểu tượng nào đó thường rất phổ biến. Nhiều người trong các bạn cho rằng thập tự giá lần đầu xuất hiện như là biểu tượng gắn liền với Cơ Đốc giáo, nhưng thực ra thì nó đã tồn tại rất lâu rồi, trước khi Moses ra đời, trước khi kinh Veda được khải thị, thậm chí còn trước cả bất kỳ tài liệu chép tay nào về sinh hoạt của con người. Có bằng chứng cho thấy người Aztec và Phoenician đã sử dụng thập tự giá, hầu như chủng tộc nào cũng có thập tự giá này. Hơn thế nữa, biểu tượng về một đấng Cứu Thế bị đóng đinh, về một người bị đóng đinh trên thập tự giá, thì hầu như quốc gia nào cũng đều biết. Đến nay, vòng tròn vẫn là một biểu tượng vĩ đại trên khắp thế giới. Do đó mới có biểu tượng phổ quát nhất trong mọi biểu tượng : biểu tượng swastika hay chữ vạn. Có một thời, người ta cứ ngỡ rằng chính tín đồ Phật giáo đã mang nó đi truyền bá khắp thế giới, nhưng người ta khám phá ra là trước Phật giáo nhiều thế kỷ, biểu tượng này đã được nhiều dân tộc dùng đến rồi. Nó cũng đã được sử dụng tại Babylon và Ai Cập. Điều này chứng minh được gì? Nó cho ta thấy rằng tất cả những biểu tượng này không thể chỉ thuần là quy ước. Hẳn phải có những lý do nào trong việc sử dụng chúng, và phải có mối quan hệ tự nhiên nào đó giữa chúng và tâm trí con người.

Ngôn ngữ không phải là kết quả của quy ước, nó không phải là chuyện mọi người đồng ý dùng một số ngôn từ nào đó để diễn đạt một ý tưởng nào đó. Chưa hề có một ý tưởng nào lại không có ngôn từ tương ứng, và cũng không bao giờ có một ngôn từ nào lại không có một ý tưởng tương ứng, ý tưởng và ngôn từ không thể tách rời trong bản chất. Những biểu tượng diễn đạt ý tưởng có thể là biểu tượng âm thanh hay màu sắc. Người câm điếc phải dùng đến những biểu tượng khác với biểu tượng âm thanh. Mọi tư tưởng trong tâm trí đều có hình thức như là phần đối chiếu của nó. Trong triết học Sankrit gọi là nama-rupa – hay danh sắc, tức tên gọi và hình thức. Không thể nào dựa theo quy ước để tạo ra được một hệ thống biểu tượng như để tạo ra ngôn ngữ.

Trong những biểu tượng mang tính nghi lễ trên thế giới, ta có được một cách biểu đạt tư tưởng tôn giáo của nhân loại. Thật là dễ dàng khi nói rằng áp dụng các nghi lễ hay sử dụng đền thờ cùng những vật dụng cá nhân linh tinh như thế cũng chẳng có ích gì; trong buổi hiện đại, đứa bé nào cũng nói được câu đó. Những tất cả mọi người cũng dễ dàng nhận ra rằng những tín đồ sùng bái trong một đền thờ, về nhiều phương diện, khác hẳn với những người không muốn sùng bái tại đó. Bởi vậy, mối quan hệ gắn kết đền thờ, nghi lễ và những hình thức cụ thể khác với những tôn giáo đặc thù, mối quan hệ đó có xu hướng đưa vào tâm trí của các tín đồ những tư tưởng mà những sự vật cụ thể đó đại diện như là biểu tượng; và thật là thiếu sáng suốt khi bỏ qua mọi nghi lễ và cách diễn đạt bằng biểu tượng. Nghiên cứu và thực hành những điều này dĩ nhiên là một phần của karma-yoga.

Còn nhiều khía cạnh khác nhau khác nữa về bộ môn khoa học của công việc này. Một trong các khía cạnh đó là biết được mối quan hệ giữa tư tưởng và thế giới, cùng những gì có thể diễn đạt được bằng năng lực của ngôn từ. Trong mọi tôn giáo, năng lực của ngôn từ đều được công nhận, nhiều đến mức có một số tôn giáo cho rằng vũ trụ đã được sáng tạo từ ngôn từ. Khía cạnh ngoại tại của tư tưởng về Thượng Đế là Ngôn Từ; bởi vì Thượng Đế suy ngẫm và quyết định trước khi Ngài sáng tạo vũ trụ; sự sáng tạo xuất phát từ Ngôn Từ.

Trong cuộc sống vật chất căng thẳng và vội vã, thần kinh chúng ta mất đi sự nhạy cảm và trở nên trơ lỳ. Càng có tuổi, càng bị cuộc đời quật ngã thì tâm hồn chúng ta càng trở nên chai sạn và thường quên mất những sự việc thường xuyên diễn ra một cách rõ ràng quanh mình. Tuy nhiên, bản chất con người đôi khi tự khẳng định được nó, và chúng ta bị dẫn đến chỗ phải tìm hiểu sâu hơn hoặc kinh ngạc trước một số những sự kiện tầm thường này. Kinh ngạc, do đó, là bước đầu để thu nhận được ánh sáng. Tách xa những giá trị tôn giáo và triết học cao siêu về Ngôn Từ, chúng ta có thể thấy rằng những biểu tượng âm thanh đóng vai chủ đạo trong tấn tuồng nhân sinh. Tôi đang nói với các bạn đây. Dao động không khí từ lời tôi nói đi đến đôi tai các bạn, chúng chạm vào thần kinh và tạo ra hiệu ứng trong tâm trí các bạn. Các bạn không thể kháng cự lại điều này. Có gì có thể kỳ diệu hơn thế? Một người gọi kẻ khác là thằng ngốc, người kia nghe thế bèn thu tay lại rồi giáng một nắm đấm mũi anh ta. Hãy xem năng lực của ngôn từ! Một phụ nữ khốn khổ đang than khóc, một phụ nữ khác đến nói mấy lời dịu dàng, cái lưng đang cúi gập của người phụ nữ đang than khóc kia bỗng nhiên đứng thẳng lên, nỗi buồn biến mất và nàng đã mĩm cười trở lại. Hãy nghĩ đến năng lực của ngôn từ! Chúng có sức mạnh to lớn trong cuộc sống bình dị đời thường cũng như trong nền triết học cao siêu. Chúng ta ngày đêm cứ vận dụng sức mạnh này mà không hề để tâm tìm hiểu. Biết được bản chất của sức mạnh này và vận dụng nó cũng là một phần của karma-yoga.

Bổn phận của chúng ta đối với người khác có nghĩa là giúp đỡ họ, là làm điều tốt cho thế gian. Vì sao chúng ta lại phải làm điều tốt cho thế gian? Bề ngoài có vẻ như là để giúp đỡ thế gian, nhưng thực ra là để giúp đỡ chính chúng ta. Chúng ta nên luôn luôn tìm cách giúp đỡ thế gian. Điều đó nên là động cơ tối cao trong ta. Nhưng nếu xét cho thấu đáo, chúng ta thấy rằng thế gian này chẳng hề yêu cầu ta giúp đỡ chút nào. Thế giới này được tạo ra không phải là để các bạn hoặc tôi đến giúp đỡ. Có lần tôi đọc được câu này trong một bài giảng : “Trọn thế giới xinh đẹp này thật là tốt đẹp, vì nó cho chúng ta thời gian và cơ hội để giúp đỡ người khác”. Hiển nhiên đó là một tình cảm vô cùng tốt đẹp, nhưng nói rằng thế giới cần đến sự giúp đỡ của chúng ta chẳng phải là bất kính hay sao? Chúng ta không thể phủ nhận rằng trong thế gian này còn nhiều điều khốn khổ, bởi vậy, đi gặp và giúp đỡ kẻ khác là điều tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể làm, mặc dầu rốt cuộc chúng ta sẽ thấy rằng giúp kẻ khác chỉ là giúp chính mình.

Hồi còn bé, tôi có vài con chuột bạch. Chúng được nhốt trong một cái lồng nhỏ, trong đó có những bánh xe nhỏ, khi các con chuột cố trèo qua các bánh xe thì các bánh xe cứ xoay hoài, và chúng không thể đi đến chỗ nào được cả. Thế giới này và sự giúp đỡ mà chúng ta dành cho nó cũng như thế đấy. Cái được duy nhất là chúng ta có dịp rèn luyện đạo đức.

Thế giới này không tốt mà cũng chẳng xấu, mỗi người tạo ra một thế giới cho riêng mình. Nếu một người mù bắt đầu hình dung thế giới thì nó hoặc mềm hoặc cứng, hoặc lạnh hoặc nóng. Chúng ta là một khối của hạnh phúc và khốn khổ, chúng ta đã thấy được điều đó hàng trăm lần trong đời rồi. Theo quy luật, người trẻ thì lạc quan còn người già thì bi quan. Người trẻ còn có cả cuộc đời trước mắt, còn người già thì thở than đời mình đã đi qua, hàng trăm tham vọng mà họ không thể tựu thành đang đấu tranh trong tâm hồn họ. Tuy nhiên, cả hai đều điên rồ như nhau cả. Cuộc đời tốt hay xấu là tùy thuộc vào trạng thái tâm trí khi chúng ta ngắm nhìn nó chứ không phải do bản thân nó. Lửa tự nó không tốt mà cũng chẳng xấu. Khi lửa sưởi ấm chúng ta, chúng ta bảo : “Lửa đẹp biết mấy!”. Nhưng khi nó đốt cháy ngón tay chúng ta thì ta lại trách mắng nó. Hơn nữa, tự bản chất, lửa không tốt mà cũng chẳng xấu. Tùy theo cách chúng ta sử dụng mà nó tạo trong ta cảm giác tốt hay xấu, thế giới này cũng như vậy đó. Nó luôn hoàn hảo. Hoàn hảo ở đây có nghĩa là nó hoàn toàn thích ứng để đạt đến những cứu cánh của mình. Chúng ta có thể hoàn toàn tin chắc rằng nó sẽ tiếp tục vận hành một cách tốt đẹp mà không cần đến chúng ta, và chúng ta cũng chẳng cần bận tâm tìm cách giúp đỡ nó làm chi cho thêm nhức đầu.

Tuy vậy, các bạn phải làm điều tốt, khát vọng làm điều tốt là nguyên động lực cao thượng nhất mà chúng ta có được, nếu như các bạn hiểu rằng giúp đỡ kẻ khác là một đặc ân. Đừng có đứng trên một bục cao, rồi cầm tờ năm xu mà nói : “Cho anh đây này, anh bạn nghèo”, mà hãy tạ ơn vì có người nghèo khổ đó ở nơi đây để cho các bạn có thể tự giúp bản thân mình, khi trao cho anh ta một món quà. Không phải người nhận mà người cho mới được hưởng phước lành. Hãy tạ ơn là các bạn có được cơ hội thể hiện năng lực của lòng nhân ái và từ bi cho thế gian này, và nhờ đó mà trở nên thuần tịnh và hoàn hảo. Mọi hành vi tốt đẹp đều có xu hướng giúp chúng ta trở nên thuần tịnh và hoàn hảo. Giởi lắm thì ta có thể làm được gì? Xây một bệnh vện, làm đường sá, hoặc xây một khu nhà từ thiện. Chúng ta có thể tổ chức một buổi lạc quyên từ thiện và góp được hai hoặc ba triệu đô-la, chúng ta dùng một triệu để xây bệnh viện, triệu thứ hai dùng để mở tiệc khiêu vũ và uống rượu sâm-banh, còn triệu thứ ba thì để đám nhân viên ăn cắp hết một nửa, và cuối cùng chỉ còn một nửa đến tay người nghèo – thế nhưng tất cả những thứ đó có ý nghĩa gì? Một trận bão khốc liệt kéo qua trong vòng năm phút có thể khiến cho tất cả các công trình đó sụp đổ tan tành. Rồi chúng ta sẽ làm gì? Một ngọn núi lửa bùng nổ có thể quét sạch hết tất cả đường sá, bệnh viện, thành phố và mọi công trình xây dựng của chúng ta.

Chúng ta hãy thôi nói những lời vớ vẫn về việc làm điều thiện cho thế giới. Thế giới này không chờ đến sự giúp đỡ của các bạn hay của tôi, tuy nhiên các bạn phải làm việc và thường xuyên làm điều tốt đẹp, bởi vì điều đó mang lại cho chúng ta lạc phúc. Đó là cách duy nhất để chúng ta có thể trở nên hoàn hảo. Những người ăn mày mà chúng ta giúp đỡ không ai nợ nợ chúng ta lấy một xu; trái lại, chúng ta nợ họ mọi thứ, bởi vì họ đã cho chúng ta cơ hội để thể hiện từ tâm. Thật hoàn toàn sai lầm khi cho rằng chúng ta đã làm, hoặc có thể làm được, những điều tốt đẹp cho thế giới. Đó là một tư tưởng điên rồ, và mọi tư tưởng điên rồ đều mang đến khốn khổ. Chúng ta nghĩ rằng mình đã giúp đỡ một vài người nào đó, và mong được họ cám ơn, và khi họ không làm thế thì chúng ta cảm thấy bất hạnh. Vì sao chúng ta lại phải mong chờ sự báo đáp cho những điều mình đã làm? Hãy mang ơn người mà các bạn giúp đỡ, hãy nghĩ đến họ như là Thượng Đế. Được phép sùng bái Thượng Đế bằng cách giúp đỡ người khác, há đó chẳng phải là đặc ân sao? Nếu thực sự vô nhiễm, không bị ràng buộc thì chúng ta sẽ xả ly được mọi nỗi đau khổ vì đợi chờ tuyệt vọng, và có thể hân hoan làm điều tốt đẹp cho thế gian. Sẽ không bao giờ có nỗi bất hạnh hay khốn khổ nào đến trong công việc được thực hiện bằng tinh thần xả ly vô luyến. Thế giới này cứ tiếp tục vận hành trong hạnh phúc và khốn khổ cho đến thiên thu.

Có một người nghèo nọ cần một ít tiền, và không biết bằng cách nào mà anh ta lại nghe đồn nếu bắt được một con quỷ thì anh ta có thể sai nó mang đến cho anh ta tiền bạc hay bất cứ thứ gì anh ta muốn, vì vậy anh ta rất khát khao bắt được một con quỷ. Anh ta đi tìm người nào có thể cho anh ta một con quỷ, và cuối cùng thì anh ta gặp một nhà hiền triết có nhiều quyền năng to lớn, và cầu xin vị này giúp đỡ. Vị hiền triết hỏi anh ta sẽ làm gì với một con quỷ.

Anh ta đáp :

– Tôi muốn có một con quỷ để nó làm việc cho tôi, xin ngài hãy dạy cho tôi cách bắt được một con quỷ, thưa ngài, tôi khát khao điều đó.

Vị hiền triết bảo :

– Ngươi hãy về nhà đi, đừng tự quấy nhiễu mình nữa.

Hôm sau anh ta lại quay lại gặp vị hiền triết và than khóc, van xin :

– Hãy cho tôi một con quỷ, tôi phải có cho bằng được một con quỷ, xin ngài hãy giúp tôi.

Cuối cùng thì vị hiền triết thấy chán ghét, nên bảo :

– Ngươi hãy cầm lấy lá bùa này, niệm thần chú thì một con quỷ sẽ hiện đến và làm tất cả những gì ngươi muốn. Nhưng hãy coi chừng, lũ quỷ này rất ghê gớm và phải bắt chúng làm việc liên tục. Nếu không có việc gì cho nó làm thì nó sẽ giết ngươi đó.

Anh ta trả lời:

– Điều đó quá dễ, tôi sẽ giao công việc cho nó làm suốt đời.

Thế rồi anh ta đi vào rừng, sau khi niệm thần chú một hồi lâu thì một con quỷ khổng lồ xuất hiện và bảo :

– Ta là một con quỷ. Ta đã bị phép thuật của ngươi khuất phục, nhưng ngươi phải bắt ta làm việc luôn luôn. Lúc ngươi không còn việc gì để ta làm thì ta sẽ giết ngươi.

Anh kia ra lệnh :

– Hãy xây cho ta một tòa lâu đài.

Con quỷ đáp :

– Xong rồi, toàn lâu đài đã xây xong.

Anh ta nói tiếp :

– Hãy mang tiền đến đây.

Con quỷ đáp :

– Xong rồi, tiền đây.

– Hãy đốn ngã khu rừng này và xây dựng một thành phố trên đó.

– Xong rồi, còn gì làm nữa không?”

Đến lúc anh ta mới bắt đầu thấy sợ, và nghĩ rằng không có gì để nó làm nữa, vì cái gì nó cũng chỉ làm loáng một cái là xong.

Con quỷ nói :

– Hãy giao việc gì đó cho ta làm, nếu không ta sẽ ăn thịt ngươi.

Kẻ khốn khổ kia thấy chẳng còn việc gì để nó làm nữa nên đâm ra kinh hoảng. Bởi vậy, anh ta liền cắm đầu cắm cổ chạy, cuối cùng thì đến được chỗ nhà hiền triết, và nói :

– Thưa ngài che chở cho tôi”.

Vị hiền triết bèn hỏi anh ta đầu đuôi câu chuyện, và người đàn ông kia đáp :

– Tôi không còn gì để giao cho nó làm nữa. Tôi sai làm cái gì, nó cũng chỉ làm trong nháy mắt, bây giờ nó dọa ăn thịt tôi, nếu tôi không giao việc cho nó làm.

Vừa lúc đó, con quỷ chạy tới, nói : “Ta sẽ ăn thịt nhà ngươi”, và nó toan nuốt chửng anh ta. Gã run lẩy lẩy, và van xin vị hiền triết cứu mạng.

Vị hiền triết bảo :

– Ta sẽ chỉ ngươi một lối thoát. Hãy nhìn con chó có cái đuôi cong kia kìa. Hãy mau rút gươm ra và cắt đuôi con chó, rồi đưa cho con quỷ, bảo nó kéo cho thẳng ra.

Anh ta bèn cắt ngay đuôi chó, đưa cho con quỷ, và bảo :

– Hãy kéo thẳng cái đuôi này ra cho ta.

Con quỷ cầm lấy cái đuôi, từ từ vuốt thẳng nó ra một cách cẩn thận, nhưng khi con quỷ vừa buông tay thì cái đuôi cứ cong lại như cũ. Một lần nữa, con quỷ lại cần mẫn vuốt thẳng cái đuôi ra, nhưng khi nó vừa buông tay thì cái đuôi lâp tức cong lại như cũ. Một lần nữa, con quỷ lại kiên nhẫn vuốt thẳng cái đuôi ra, nhưng khi nó vừa buông tay thì cái đuôi vẫn cứ cong lại như cũ. Con quỷ làm hết ngày này qua ngày khác, đến khi nó mệt lã và bảo :

– Từ trước đến nay, suốt đời ta chưa bao giờ gặp phải khó khăn như thế này. Ta là một con quỷ kỳ cựu, nhưng suốt đời ta chưa bao giờ gặp phải khó khăn như thế này. Ta sẽ lập một thỏa ước với nhà ngươi, ngươi tha cho ta đi, còn ta sẽ cho giữ tất cả những gì ta đã tặng và hứa sẽ làm hại ngươi.

Người kia quá đỗi vui mừng, và hân hoan chấp nhận lời đề nghị đó.

Thế giới này cũng giống như cái đuôi con chó vậy, và mọi người cố gắng kéo cho nó thẳng ra hàng trăm năm nay rồi, nhưng khi họ buông tay thì nó lại cong như cũ. Làm sao có thể khác được? Khi hiểu ra rằng thế gian này giống như đuôi con chó, và sẽ không bao giờ thẳng được thì chúng ta sẽ không bao giờ biến thành những kẻ cuồng tín. Một người trước tiên phải biết cách làm việc không bị trói buộc, rồi người đó sẽ không biến thành một kẻ cuồng tín. Nếu thế giới này không có thói cuồng tín thì chắc hẳn nó đã tiến bộ hơn hiện nay rất nhiều rồi. Thật là sai lầm khi cho rằng thói cuồng tín có thể giúp nhân loại tiến bộ. Trái lại, nó còn là yếu tố gây trì trệ vì tạo ra hận thù và giận dữ, gây nên sự xung đột giữa con người với nhau và khiến họ trở nên trơ lỳ vô cảm. Chúng ta cho rằng những gì mình làm hay sở hữu đều là thứ tốt đẹp nhất trên đời, còn những thứ mà người khác làm hay sở hữu đều vô giá trị. Bởi vậy, bất cứ khi nào trong bạn có xu hướng muốn biến thành một kẻ cuồng tín thì hãy luôn luôn ghi nhớ đến câu chuyện cái đuôi cong của con chó. Các bạn không cần phải âu lo hay trằn trọc mất ngủ vì thế giới, nó vẫn cứ tiếp vận động dù không có các bạn. Chỉ khi nào đã tránh được thói cuồng tín thì các bạn mới làm việc tốt. Những người trầm tĩnh, điềm đạm, có óc phán đoán và thần kinh ôn hòa, có sự cảm thông và tình yêu sâu sắc mới là những người làm việc tốt, và do đó đem lại điều tốt đẹp cho bản thân. Người cuồng tín là kẻ ngu xuẩn và vô cảm, anh ta không bao giờ có thể kéo thẳng thế giới ra, mà bản thân anh ta cũng chẳng bao giờ trở nên thuần tịnh hay hoàn hảo được.

Bài giảng hôm nay xin tóm tắt thành các ý chính sau đây :

Thứ nhất, chúng ta phải khắc ghi trong trí rằng tất cả chúng ta là những kẻ mắc nợ thế giới, chứ thế giới này chẳng hề nợ gì ta. Có cơ hội để làm được bất cứ điều gì cho thế giới, đối với tất cả chúng ta đó là một đặc ân to lớn. Khi giúp đỡ thế giới thì thực ra chúng ta cũng đang tự giúp bản thân mình.

 Thứ hai, là có một Thượng Đế trong vũ trụ này. Cho rằng vũ trụ này đang trôi dạt và đứng lại để các bạn và tôi giúp đỡ, đó là một quan điểm sai lầm. Thượng Đế luôn luôn hiện hữu trong đó. Ngài bất tử, luôn luôn hoạt động, luôn luôn thức tỉnh. Khi cả vũ trụ này yên ngủ, Ngài vẫn không ngủ, Ngài làm việc không ngừng, mọi hiện tượng biến dịch và biểu hiện của thế giới này đều là sự biến dịch và biểu hiện của Ngài.

Thứ ba, chúng ta không nên ghét bỏ bất kỳ một ai. Thế giới này vẫn mãi mãi là sự hòa lẫn giữa thiện và ác. Bổn phận của chúng ta là cảm thông với kẻ yếu, và thương yêu ngay cả kẻ làm điều ác. Thế giới này một phòng luyện tập đạo đức khổng lồ, trong đó tất cả chúng ta đều phải thực hành các bài tập mạnh dần về mặt tâm linh.

Thứ tư, chúng ta không được cuồng tín theo bất cứ kiểu nào, bởi vì cuồng tín đối nghịch với thương yêu. Các bạn nghe đám người cuồng tín nói liến thoắng : “Tôi không ghét người phạm tội, tôi chỉ ghét tội lỗi”, còn tôi thì sẵn sàng đi đến cùng trời cuối đất để xem thử gương mặt của người có khả năng phân biệt được sự khác nhau giữa tội lỗi và người phạm tội. Nếu chúng ta có thể phân biệt rạch ròi được phẩm tính và bản chất thì chúng ta có thể trở thành những người hoàn hảo. Thực hiện điều này không phải dễ. Hơn nữa, càng trầm tĩnh thì thần kinh chúng ta càng ít bị quấy nhiễu, chúng ta sẽ càng thương yêu nhiều hơn và sẽ làm việc tốt hơn.

VÔ CHẤP LÀ VÔ NGÃ HOÀN TOÀN

Mọi hành vi xuất phát từ chúng ta đều tác dụng ngược lại chúng ta như thế nào, thì mọi hành vi mà chúng ta tác động trên người khác, hoặc của người khác tác động trên ta, cũng đều có tác động ngược như thế ấy. Có lẽ tất cả các bạn đều quan sát thấy một điều hiển nhiên này : khi một người làm những việc hung ác thì càng ngày họ càng trở nên hung ác, còn khi họ bắt đầu làm những việc thiện thì càng ngày họ càng trở nên lành mạnh hơn và lúc nào cũng học cách làm điều thiện. Sự gia tăng ảnh hưởng của hành vi là điều không thể được giải thích trên nền tảng nào khác hơn điều này : chúng ta có thể hành động và chịu phản ứng lẫn nhau. Khi tôi đang làm một điều gì đó thì có thể nói là tâm trí tôi đang ở trong trạng thái dao dộng nào đó, và tất cả những tâm trí nào đang ở trong trạng thái tương tự cũng đều có xu hướng chịu ảnh hưởng theo tâm trí tôi. Thử minh họa bằng hiện tượng vật lý : giả sử trong phòng này có nhiều loại nhạc khí khác nhau đang cần chỉnh âm cho đều nhau, có thể các bạn đã nhận thấy rằng khi một nhạc cụ được tấu lên thì những nhạc cụ khác có xu hướng dao động theo, sao cho tạo được sự đồng âm. Do đó, tất cả những tâm trí nào có cùng trương độ, có thể nói như vậy, sẽ đều cùng chịu ảnh hưởng như nhau của cùng một tư tưởng. Mức độ ảnh hưởng dĩ nhiên sẽ khác nhau tùy theo cự ly và nhiều nguyên nhân khác nữa, nhưng tâm trí sẽ luôn mở rộng để đón nhận sự cảm nhiễm. Giả sử tôi đang làm một điều ác thì tâm trí tôi ở trong một trạng thái dao động nào đó, và tất cả những tâm trí trong vũ trụ đang ở trong trạng thái tương tự cũng đều có xu hướng chịu ảnh hưởng theo tâm trí tôi. Bởi vậy, khi tôi đang làm một điều thiện thì tâm trí tôi đang ở trong trạng thái dao dộng khác, và tất cả những tâm trí nào đang ở trong trương độ tương tự cũng đều có xu hướng chịu ảnh hưởng theo tâm trí tôi, và năng lực tác động của tâm trí này lên tâm trí kia mạnh hay yếu là tùy thuộc vào cường độ của trương lực.

Đưa ví dụ này đi hơn nữa, sóng ánh sáng có thể đã phải di chuyển hàng triệu năm trước khi chạm vào một vật thể  thì cũng vậy, sóng tư tưởng cũng có thể phải di chuyển hàng trăm năm trước khi chạm vào một đối tượng mà chúng có thể tạo ra được sự hòa thanh cộng hưởng, điều này hoàn toàn có thể xảy ra. Bởi vậy, rất có thể là bầu khí quyển của chúng ta chứa đầy những dao dộng tư tưởng như thế, cả thiện lẫn ác. Mỗi tư tưởng được phóng chiếu từ mọi bộ não, có thể nói như vậy, sẽ cứ tiếp tục dao động cho đến khi nó gặp được một đối tượng thích hợp tiếp nhận được nó. Bất kỳ tâm trí nào mở rộng để tiếp nhận những dao động đó đều sẽ dung nạp được chúng ngay lập tức. Bởi vậy, khi một người làm điều ác là anh ta đã đặt tâm trí mình vào một trạng thái trương lực nào đó, và tất cả những dao động sóng tương ứng với trạng thái đó – có thể nói là chúng đã hiện hữu sẵn trong bầu khí quyển – đều tranh nhau xâm nhập vào tâm trí anh ta. Đó là lý do khi một người làm điều ác thì thường càng trở nên hung ác. Hành vi hung ác của anh ta đã được tăng thêm sức mạnh. Đối với trường hợp người làm điều thiện cũng thế, tâm trí anh ta mở rộng để đón nhận tất cả những dao động tốt đẹp trong bầu khí quyển, cho nên hành vi tốt đẹp của anh ta cũng sẽ được tăng thêm sức mạnh. Bởi thế, khi làm điều ác thì chúng ta mắc phải một nguy hiểm gấp đôi : thứ nhất, chúng ta mở rộng tâm trí cho tất cả những ảnh hưởng xấu quanh ta, thứ hai, chúng ta tạo thêm điều hung ác gây ảnh hưởng đến kẻ khác, có thể kéo dài cả trăm năm kể từ bây giờ. Khi làm điều hung ác thì chúng ta gây tổn hại cho bản thân mình và cho người khác nữa. Khi làm điều thiện thì chúng ta đem lại điều tốt đẹp cho bản thân mình và cho người khác nữa, và cũng như những lực khác nơi con người, các lực thiện và ác này cũng dung nạp sức mạnh từ bên ngoài.

Theo pháp môn karma-yoga thì một hành vi đã làm không thể bị phá huỷ, cho đến khi nào nó tạo ra kết quả, không một thế lực nào trong tự nhiên có thể bắt nó ngừng việc sản sinh ra kết quả. Nếu tôi làm một điều hung ác, tôi phải chịu khổ đau về nó, không một sức mạnh nào trong vũ trụ này có thể ngăn chặn hay đình chỉ nó được cả. Tương tư như vậy, nếu tôi làm một điều tốt thì cũng không một sức mạnh nào trong vũ trụ này có thể ngăn chặn nó sinh ra thiện quả. Hễ có nhân thì có quả, một một thứ gì có thể ngăn cản hoặc kiềm chế được điều này.

Bây giờ, chúng ta bàn đến một vấn đề rất tế nhị và nghiêm túc của karma-yoga – đó là những hành động của chúng ta, cả tốt lẫn xấu, đều kiên kết với nhau vô cùng mật thiết. Chúng ta không thể đặt ra một ranh giới rồi bảo rằng hành động này hoàn toàn tốt, còn hành động kia hoàn toàn xấu. Không có một hành động nào lại mang lại đồng thời kết quả thuần thiện hay thuần ác. Hãy lấy ví dụ gần gũi nhất này : tôi đang nói chuyện với các bạn, và có lẽ một số người trong các bạn cho rằng tôi đang làm một điều thiện, nhưng đồng thời có thể là tôi đang giết hàng ngàn con vi trùng trong không khí. Vậy thì tôi cũng đang làm một điều ác đối với một cái gì khác. Khi một hành động tạo ra ảnh hưởng với những người ta biết, hoặc những người thân thiết của ta, theo cách tốt đẹp thì ta bảo đó là một hành động tốt. Chẳng hạn, các bạn có thể bảo việc tôi đang diễn thuyết đây là điều vô cùng tốt đẹp với các bạn, nhưng những con vi trùng thì không muốn thế, những con vi trùng đó các bạn không hề thấy, nhưng các bạn có thể thấy được bản thân mình. Cách thức mà bài diễn thuyết của tôi ảnh hưởng đến các bạn hiện rõ ra với các bạn, nhưng nó ảnh hưởng đến những con vi trùng như thế nào thì điều đó lại không hiển nhiên. Và do đó, nếu đem phân tích những hành vi xấu của mình, chúng ta cũng có thể thấy trong đó có một vài kết quả tốt nào đó. Người nào thấy được trong việc thiện có một phần nào đó ác, và trong việc ác lại thấy được một phần thiện ở số điểm nào đó thì người đó đã biết được bí quyết làm việc.

Nhưng từ đó ta rút ra được điều gì? Đó là : dầu ta có cố gắng đên cách nào đi nữa thì vẫn không thể có bất kỳ một hành động nào là hoàn toàn trong sạch, cũng chẳng có một hành động nào là hoàn toàn nhơ bẩn, các từ “trong sạch ” và “nhơ bẩn” hiểu theo nghĩa “làm tổn thương” và “không làm tổn thương”. Chúng ta không thể nào hít thở hoặc sống mà không gây tổn thương cho người khác, và mọi miếng ăn mà ta ăn đều giành lấy từ miệng kẻ khác. Ngay cả sinh mạng của chúng ta cũng đang xô đẩy những sinh mạng khác ra ngoài. Đó có thể là con người, là thú vật hay loài vi trùng, nhưng chúng ta phải xô đẩy một số trong những sinh mạng đó ra ngoài. Sự thể đã là vậy thì hậu quả tất nhiên là ta không thể nào đạt đến sự hoàn hảo bằng công việc. Chúng ta có thể làm việc đến tận thiên thu vạn kiếp, nhưng sẽ không có con đường nào đưa ta thoát ra khỏi mê cung này. Các bạn có thể làm việc, làm việc nữa, làm việc mãi, nhưng sẽ không có điểm kết thúc cho sự kết hợp tất yếu giữa thiện và ác trong kết quả của việc làm.

Điểm thứ hai cần xét đến là : Cứu cánh của làm việc là gì? Chúng ta thấy đại bộ phận dân chúng tại mọi quốc gia đều tin rằng đến một lúc nào đó thì thế giới này sẽ trở nên hoàn hảo, khi đó sẽ không còn bệnh tật, cái chết, bất hạnh và sự hung ác nữa. Đó là một ý tưởng vô cùng tốt đẹp, một nguyên động lực vô cùng tốt đẹp để tạo cảm hứng và đề cao kẻ ngu muội, nhưng nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy rõ ràng là không thể như vậy được. Làm thế nào có thể có được điều đó, khi mà thiện và ác là mặt trái và mặt phải của cùng một đồng xu? Làm thế nào các bạn có thể có một điều thiện mà đồng thời lại không có điều ác? Hoàn hảo có nghĩa là gì? Một cuộc sống hoàn hảo là điều mâu thuẫn về thuật ngữ. Cuộc sống tự nó là một trạng thái đấu tranh liên tục giữa chúng ta với mọi sự vật bên ngoài. Mỗi giây phút, chúng ta đều đang chiến đấu thực sự với thế giới tự nhiên bên ngoài, và nếu thất bại thì chúng ta xong đời. Chẳng hạn, có cuộc đấu tranh không ngừng vì thực phẩm và không khí. Nếu thiếu thực phẩm và không khí thì chúng ta chết. Cuộc đời đâu phải là thứ đơn giản và trôi chảy êm đềm, mà nó là một hiệu ứng phức hợp. Cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái gì đó ở bên trong với thế giới ngoại tại là cái mà chúng ta gọi là cuộc sống. Như thế, hiển nhiên là khi cuộc đấu tranh này đình chỉ thì cuộc sống cũng sẽ chấm dứt theo. Một hạnh phúc lý tưởng có nghĩa là đình chỉ đấu tranh. Nhưng lúc đó thì cuộc sống cũng đình chỉ theo, bởi vì cuộc đấu tranh đó chỉ có thể đình chỉ khi bản thân cuộc sống đã đình chỉ hẳn.

Chúng ta đã thấy rằng giúp đỡ thế giới chính là tự giúp mình. Hiệu quả chính của việc làm vì người khác là nó khiến chúng ta trở nên thuần tịnh. Bằng cách thường xuyên cố gắng làm việc thiện cho người khác, chúng ta đang cố tự quên mình; quên đi bản thân là bài học vĩ đại duy nhất mà chúng ta phải học trong đời. Con người suy nghĩ một cách điên rồ rằng họ có thể tự làm cho mình được hạnh phúc bằng những hành động ích kỷ, nhưng sau nhiều năm đấu tranh, cuối cùng họ mới tìm ra hạnh phúc chân thực nằm ở chỗ xóa bỏ đi thói ích kỷ, và không một ai có thể làm cho mình được hạnh phúc ngoài chính bản thân họ. Mọi hành vi từ thiện, mọi tư tưởng cảm thông, mọi hoạt động trợ giúp, mọi nghĩa cử tốt đẹp đều lấy đi rất nhiều cái thói tự cho mình là quan trọng ra khỏi bản ngã nhỏ mọn của chúng ta, và khiến chúng ta suy nghĩ về mình là thứ thấp kém nhất, ít ỏi nhất, nhờ thế mà tất cả đều trở nên tốt đẹp. Ở đây, ta thấy các pháp môn jnāna, bhakti và karma đều đồng quy về một điểm. Lý tưởng tối cao là xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn bản ngã của ta, không còn “Tôi” nữa mà tất cả đều là “Bạn”, và dù con người có ý thức được điều đó hay không thì karma-yoga vẫn đưa họ đến cứu cánh. Nhà truyền giáo có thể kinh hãi trước quan niệm về một Thượng Đế Phi Nhân Thể, họ có thể khư khư khẳng định một Thượng Đế Nhân Thể, muốn duy trì tính đồng nhất và bản sắc cá nhân của Ngài theo ý nghĩa bất kỳ. Nhưng quan niệm của họ về đức lý – nếu những quan niệm đó thực sự tốt đẹp – không thể không dựa trên nền tảng giải trừ bản ngã. Đó là nền tảng của mọi nền đạo đức. Các bạn có thể mở rộng nó ra đến phạm vi con người, thú vật hay các thiên thần, nó là quan niệm cơ bản duy nhất, nguyên lý nền tảng duy nhất chạy xuyên suốt qua mọi hệ thống đạo đức.

Các bạn sẽ thấy có nhiều hạng người khác nhau trong thế giới này.

Trước hết, có những con người thần thánh đã từ bỏ hoàn toàn bản ngã, chỉ làm những điều tốt đẹp cho nhân loại, thậm chí đến mức hy sinh cả tính mệnh. Đó là hạng người cao cả nhất. Bất kỳ đất nước nào, nếu có được một trăm người như thế thì đất nước đó không bao giờ tuyệt vọng. nhưng bất hạnh hay, những người như thế lại quá ít. Kế đó là những người làm điều tốt cho người khác, trong mức độ những chuyện đó không gây tổn hại cho họ. Thứ ba là hạng người hại người để làm lợi cho mình. Một nhà thơ viết bằng tiếng Sanskrit kể rằng có một hạng người thứ tư không thể gọi tên, chuyên làm hại cho người khác chỉ vì muốn gây hại. Cũng như ở cực này của cuộc sống gồm những người lương thiện, làm điều tốt chỉ vì điều tốt thì cũng vậy, ở cực kia, gồm những người chuyên làm hại cho người khác chỉ vì muốn gây hại. Làm hại người thì họ chẳng được cái gì cả, nhưng vì bản chất của họ là muốn gây tội ác.

Đây là hai từ trong tiếng Sanskrit. Một là pravritti nghĩa là hướng ngoại, và từ kia là nivritti nghĩa là nội quán. “Hướng ngoại” là cái mà ta gọi thế giới này, “cái Tôi” và “cái của Tôi”. Nó bao hàm tất cả những sự vật làm cho “cái Tôi” được thêm dồi dào phong phú như tài sản và địa vị quyền lực và danh tiếng, và là cái mang bản chất thâu tóm, luôn có xu hướng tích lũy mọi thứ vào một trung tâm duy nhất là “cái Tôi”. Đó là pravritti, một xu hướng tự nhiên của tất cả mọi người – đem mọi thứ ở mọi nơi về chồng chất chung quanh một trung tâm, trung tâm đó là cái bản ngã dịu dàng của mỗi người. Khi xu hướng này bắt đầu gãy đổ và được thay thế bằng nivritti, hay xu hướng nội quán, là lúc đạo đức và tôn giáo khởi đầu. Cả pravritti và nivritti đều là bản chất của công việc, cái trước là việc xấu, cái sau là việc tốt.

Nivritti này là nền tảng chính của mọi nền đạo đức và tất cả các tôn giáo, và trạng thái tận thiện của nó là hoàn toàn vong ngã, sẵn sàng hy sinh thân, tâm cùng tất cả mọi thứ vì người khác. Khi đạt đến trạng thái này thì ta thấu đạt trọn vẹn pháp môn karma-yoga. Đó là kết quả cao nhất của những việc làm tốt đẹp. Một người dù không hề nghiên cứu một hệ thống triết học nào, dù không tin Thượng Đế, dù suốt đời chưa hề cầu nguyện một lần nào, nhưng nếu năng lực giản dị của những hành vi tốt đẹp đưa anh ta đến trạng thái sẵn sàng hy sinh tính mạng cùng mọi thứ vì người khác thì người đó đã đạt đến cùng một cảnh giới, mà người có đạo tâm đạt đến bằng cầu nguyện, và triết gia đạt đến bằng trí tuệ. Bởi vậy, các bạn thấy rằng triết gia, người hoạt động, người có đạo tâm đều gặp nhau tại một điểm chung, đó là giải trừ bản ngã.

Dù cho những hệ thống triết học và tôn giáo của con người có khác biệt nhiều đến đâu chăng nữa thì tất cả loài người cũng đều kính trọng và kính sợ trước một người sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Ở đây hoàn toàn chẳng có chút liên quan nào đến tín ngưỡng hay giáo lý. Ngay cả những người phản đối kịch liệt mọi quan niệm về tôn giáo, khi thấy một trong những hành động hy sinh hoàn toàn bản thân đó, cũng cảm nhận một điều là họ phải tỏ lòng tôn kính. Các bạn há không thấy ngay cả một tín đồ Cơ Đốc giáo cố chấp nhất, khi đọc cuốn “Ánh sáng Á châu” (Light of Asia) của Edwin Arnold, cũng phải tỏ lòng tôn kính đức Phật, dù Ngài không thuyết pháp về Thượng Đế, không thuyết về điều gì ngoài việc hy sinh bản thân đó sao? Chỉ có một điều là vị tín đồ cố chấp đó không biết rằng cứu cánh và mục tiêu trong cuộc đời anh ta cũng hoàn toàn giống như cứu cánh và mục tiêu trong cuộc đời của những người mà anh ta cho là khác với mình.

Những người sùng bái, bằng cách thường xuyên tâm niệm về Thượng Đế và hoàn cảnh tốt đẹp chung quanh, đều đi đến một điểm chung và nói : “Xin vâng ý Cha”, và không còn giữ thứ gì cho mình nữa. Đó là giải trừ bản ngã. Vị triết gia, bằng trí tuệ, thấy được được rằng cái tựa hồ là bản ngã đó chỉ là một vọng tưởng, và từ bỏ nó dễ dàng. Đó là giải trừ bản ngã. Do đó, cả karma, bhakti, và jnāna đều cũng đồng quy tại đây,và đây là điều mà tất cả những đại chân sư thời cổ muốn nói, khi các ngài dạy rằng Thượng Đế không phải là thế gian. Thế gian là một chuyện, còn Thượng Đế lại là một chuyện khác, và sự phân biệt này rất đúng. Nói đến thế gian là các vị muốn đến lòng vị kỷ, còn nói về Thượng Đế là muốn nói đến đức tính vị tha. Một người có thể sống trên ngôi vua, nơi cung vàng điện ngọc, nhưng nếu hoàn toàn vị tha thì người đó đang sống trong lòng Thượng Đế. Còn người khác dù có sống trong lều tranh vách nát, ăn mặc rách rưới, chẳng có được một thứ gì trên đời, nhưng nếu là người ích kỷ thì anh ta vẫn là người cực kỳ trần tục.

Quay về với một trong các điểm chính của chúng ta, chúng ta đã nói rằng không thể làm điều thiện mà đồng thời lại không gây ra một chút điều ác, hoặc không thể làm điều ác mà đồng thời lại không làm được một chút điều thiện. Biết thế rồi thì chúng ta có thể làm việc theo cách nào? Trên thế giới này có những giáo phái thuyết giảng một cùng cực lố bịch rằng tự tử chậm là cách duy nhất để giải thoát khỏi thế gian này, bởi vì nếu sống thì ta phải giết các con vật nhỏ bé đáng thương và làm chết cỏ cây, không thì cũng làm tổn hại vật gì đó hay người nào đó. Bởi vậy, theo họ, cách duy nhất để giải thoát khỏi thế gian là chết. Tín đồ đạo Jain đã rao giảng giáo lý này như là lý tưởng tối cao của họ, và tưởng chừng như nó rất hợp lý. Nhưng giải pháp thực sự được tìm thấy trong Bhagavad Gitā. Đó là giáo lý vô luyến cảm, không bị trói buộc vào bất cứ chuyện gì, khi làm việc trong đời. Hãy biết rằng các bạn hoàn toàn tách biệt với thế gian, dù các bạn đang sống trong cõi thế, và dù có làm bất cứ điều gì đi nữa thì các bạn cũng đừng làm vì lợi ích cho bản thân mình. Bất cứ hành động nào các bạn làm vì bản thân mình cũng đều mang đến hậu quả mà các bạn phải gánh chịu. Nếu đó là hành động tốt thì các bạn sẽ nhận được thiện quả, nếu xấu thì các bạn sẽ nhận được ác quả, còn bất cứ hành động nào mà các bạn không làm vì bản thân mình thì, dù là tốt hay xấu, cũng đều không mang lại hiệu ứng nào cho các bạn. Trong kinh điển của chúng tôi, có một câu kinh văn vô cùng ấn tượng cụ thể hóa ý tưởng này : “Cho dù y có giết toàn thể vũ trụ này (hay là y bị giết) thì y cũng không phải là kẻ giết hay người bị giết, bởi vì y hiểu rằng y hành động hoàn toàn không vì bản thân mình”.

Bởi vậy, karma-yoga dạy : “Đừng từ bỏ thế gian, hãy sống trong thế gian, hãy hấp thụ những ảnh hưởng của nó bằng hết sức mình”. Nhưng có phải tất cả những điều đó là để các bạn hưởng thụ lạc thú cho bản thân? Chắc chắn là không. Hưởng lạc không phải là mục tiêu. Trước hết hãy giải trừ bản ngã, rồi đón nhận toàn thể thế giới này như là chính các bạn. Giống như các tín đồ Cơ Đốc giáo lớn tuổi thường nói : “Người già phải chết”. Người già ở đây dùng để chỉ quan niệm vị kỷ, cho rằng toàn thể thế giới này được tạo ra để chúng ta hưởng lạc. Nhiều bậc phụ huynh ngớ ngẩn dạy con cái cầu nguyện : “Lạy Chúa, Ngài đã tạo ra mặt trời và mặt trăng cho chúng con”, làm như Thượng Đế chẳng có chuyện chi để làm, ngoài việc tạo ra mọi thứ cho con cái họ. Đừng có dạy cho con cái các bạn những điều nhảm nhí đó. Lại có những người ngớ ngẩn theo cách khác : họ dạy cho chúng ta rằng tất cả loài vật được tạo ra là để chúng ta giết lấy thịt, và vũ trụ này dành cho con người hưởng thụ. Đó là điều hoàn toàn ngớ ngẩn. Con cọp có thể nói : “Con người được tạo ra để ăn thịt”, và cầu nguyện : “Lạy Chúa, những kẻ nào không đến đây nạp mạng cho con thật là quá đỗi độc ác, bọn chúng đang phá bỏ hết luật lệ của Ngài rồi”. Nếu thế giới này được tạo ra cho chúng ta thì chúng ta cũng được tạo cho thế giới. Cho rằng thế giới được tạo ra để cho chúng ta hưởng lạc thì đó là một ý tưởng độc ác nhất khiến chúng ta phải suy đồi. Thế giới này đâu phải được tạo ra là vì chúng ta. Hằng triệu người lìa bỏ nó mỗi năm, thế giới đâu có cảm nhận gì về điều đó, hàng triệu người khác được bổ sung để thế vào chỗ họ. Thế giới đối với chúng ta như thế nào thì chúng ta đối với thế giới cũng y như thế ấy.

Do đó, để làm việc một cách đúng đắn thì trước hết các bạn phải từ bỏ ngay tâm luyến cảm. Thứ hai, đừng có cãi cọ, hãy giữ mình như một nhân chứng và tiếp tục làm việc. Sư phụ tôi thường nói : “Hãy chăm sóc con cái các bạn như người vú nuôi”. Người vú nuôi sẽ chăm sóc con cái các bạn, âu yếm và vui đùa với nó như là con ruột của mình, nhưng khi các bạn thông báo nghỉ việc là họ sẵn sàng mang khăn gói ra khỏi nhà ngay – mọi luyến cảm đều bị lãng quên. Người vú nuôi không thấy đau đớn gì khi phải chia tay đứa con của bạn để đi chăm sóc một đứa bé khác. Các bạn giống như người vú nuôi, và nếu các bạn tin vào Thượng Đế thì hãy tin rằng tất cả những gì bạn ngỡ là của mình thực ra đều thuộc về Ngài.

Sự yếu đuối lớn nhất thường khoác lớp vỏ như là điều tốt đẹp nhất và mạnh mẽ nhất. Cho rằng có ai đó phải dựa dẫm vào tôi, và tôi có thể làm điều tốt cho người khác, đó là sự yếu đuối. Niềm tin này là mẹ đẻ ra tất cả luyến cảm, và từ luyến cảm này mà chúng ta phải gánh chịu tất cả sự khổ đau. Ta phải nhắc nhở cho tâm trí mình biết rằng không một ai trong vũ trụ này lệ thuộc vào ta cả, không một kẻ ăn mày nào sống dựa vào lòng từ thiện của ta cả, không một linh hồn nào sống dựa vào lòng tử tế của ta cả, không một sinh linh nào sống dựa vào sự giúp đỡ của ta hết. Tất cả đều đang được thiên nhiên giúp đỡ, và sẽ thiên nhiên tiếp tục giúp đỡ ngay cả khi hàng triệu người chúng ta không còn có mặt nơi đây. Tiến trình vận động của tự nhiên sẽ không dừng lại vì những người như các bạn và tôi, mà đây chỉ là, như tôi đã trình bày, một đặc ân đầy lạc phúc để các bạn và tôi được phép tự giáo dục lấy mình, thông qua việc giúp đỡ người khác. Đây là một bài học vĩ đại cần phải học trong đời này, và khi đã học trọn vẹn rồi thì chúng ta sẽ không bao giờ còn bất hạnh, chúng ta có thể lăn lộn trong đời bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu mà không lo bị tổn thương. Các bạn có thể có vợ, có có chồng, có đông đảo kẻ hầu người hạ, có cả vương quốc để cai trị, nhưng nếu như các bạn thực hành nguyên lý này : thế giới này không phải dành cho các bạn, và tất nhiên là nó chẳng cần gì đến các bạn, thì chúng chẳng thể gây tổn thương các bạn được. Ngay trong năm này, một số bạn bè của các bạn có thể đã mất. Thế giới này có ngừng vận động chăng? Nó có chờ đợi những người bạn đó quay về lại chăng? Vạn vật có dừng lại chăng? Không, thế giới vẫn cứ tiếp tục vận hành. Bởi vậy, hãy vất bỏ khỏi tâm trí bạn ý tưởng cho rằng các bạn phải làm điều gì đó cho thế gian này, nó chẳng cần gì đến sự giúp đỡ của bạn hết. Thật là quá đỗi nhảm nhí cho bất cứ ai nghĩ rằng họ sinh ra là để giúp đỡ thế giới này. Đó chỉ là sự huênh hoang, khoác lác, là thói tự phụ, kiêu căng tự khoác lớp vỏ đức hạnh.

Khi các bạn đã rèn luyện cho tâm trí và thần kinh mình thấu hiểu được tư tưởng rằng thế giới này không lệ thuộc vào ta hoặc vào bất kỳ một ai khác thì sẽ không còn phản ứng gây nên khổ đau từ việc làm nữa. Khi tặng cho ai một thứ gì đó và không mong báo đáp – thậm chí cũng chẳng cần người đó biết ơn – thì sự vô ơn của họ chẳng gây phiền não nào nơi các bạn, vì các bạn không bao giờ mong chờ báo đáp, không bao giờ nghĩ rằng mình có quyền gì để nhận lại sự báo đáp cả. Các bạn đã cho họ cái mà họ xứng đáng nhận lấy, karma của họ đã đón nhận tặng phẩm cho họ, còn karma của các bạn biến các bạn thành người mang quà tặng. Vậy thì có gì để bạn tự hào khi tặng một món quà nào đó? Các bạn chỉ là người mang tiền hoặc một loại tặng phẩm gì đó, và thế gian này xứng đáng để nhận do karma của chính nó. Vậy thì có gì để các bạn tự hào? Chẳng có gì là rất vĩ đại trong những thứ bạn tặng cho thế gian này. Khi các bạn đã cảm nhận được sự vô luyến thì sẽ chẳng còn gì là thiện hay ác đối với các bạn cả. Chỉ có lòng vị kỷ mới phân biệt ra thiện ác.

Đây là một điều rất khó hiểu, nhưng sẽ đến một lúc nào đó các bạn học được rằng không một thế lực nào trong vũ trụ có thể tác động lên các bạn, cho đến khi nào các bạn cho phép nó tác động. Không một thứ gì có thể chi phối được Chân Ngã con người, chừng nào Chân Ngã đó chưa biến thành một kẻ ngu ngốc và đánh mất đi sự tự tại. Bởi vậy, bằng tâm vô luyến, các bạn vượt qua được và phủ nhận thế lực của bất kỳ vật gì tác động lên chúng ta. Thật là dễ dàng khi nói rằng không có gì có thể tác động lên các bạn, cho đến khi nào các bạn cho phép nó làm thế, nhưng cái gì là dấu hiệu chân thực của một người thực sự không cho phép bất cứ điều gì chi phối mình, một người không còn hạnh phúc hay bất hạnh, trước mọi tác động của thế giới ngoại tại? Dấu hiệu đó là : vận may hay tai họa đều không khiến người ấy động tâm, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, người ấy vẫn luôn tự như bất động.

Ở Ấn Độ có một nhà đại hiền triết tên là Vyasa. Ông được xem là tác giả của những câu cách ngôn trong triết học Vedānta, và là một bậc thánh. Cha của ông cố gắng trở thành một người hoàn hảo những thất bại. Ông nội của ông cũng đã từng cố gắng nhưng thất bại. Ông cố nội của ông cũng đã từng cố gắng nhưng thất bại. Bản thân ông cũng không thành công hoàn toàn, nhưng con trai ông, Śuka, khi sinh ra đã là người hoàn hảo. Vyasa dạy cho con trai mình sự mình triết. Sau khi đích thân dạy cho con tri thức về chân lý, ông bèn đưa nó đến yết kiến vua Janaka. Vị vua này là một thánh quân và được gọi là Janaka Videha. Videha có nghĩa là “vô thể”, tức không có thể xác. Dù là một vị vua, nhưng ông lại hoàn toàn quên mất rằng mình có một thể xác, lúc nào ông cũng nghĩ rằng mình chỉ là tinh thần. Cậu bé Śuka được đưa đến để học hỏi với ông. Nhà vua biết con trai của Vyasa đến mình để học hỏi về minh triết, vì thế ông có vài sự sắp đặt trước. Khi cậu bé tự đến trình diện ở cửa hoàng cung thì những người lính thị vệ chẳng thèm đếm xỉa gì đến nó. Họ chỉ đưa cho Śuka một cái ghế, và nó ngồi yên ở đó ba ngày ba đêm, chẳng có ai nói với nó một lời nào, cũng không ai hỏi nó là ai và từ đâu đến. Śuka là con trai của nhà đại hiền triết, phụ thân nó được cả nước trọng vọng, và bản thân nó cũng là một người rất đáng kính, vậy mà đám lính thị vệ thấp hèn ở chốn hoàng cung lại chẳng thèm ngó ngàng gì đến. Thình lình sau đó, các quan thượng thư và các đại thần đều tề tựu đến đón rước Śuka hết sức long trọng. Họ đón cậu bé vào hoàng cung, và đưa vào những gian phong lộng lẫy, cho tắm nước hoa thơm nhất và mặc những y phục lộng lẫy nhất, và trong suốt tám ngày, họ để cho Śuka hưởng thụ đủ mọi thứ xa hoa. Gương mặt nghiêm trang trầm tĩnh của Śuka không hề biến đổi một chút nào bởi sự thay đổi trong cung cách đối xử với mình, sống giữa cảnh xa hoa, nó vẫn giữ thái độ như lúc ngồi chờ ngoài cửa.

Kế đó, Śuka được đưa đến yết kiến nhà vua. Nhà vua ngồi trên ngai vàng, nhạc tấu vang lừng, cảnh khiêu vũ cùng những thú vui khác cứ đang tiếp tục diễn ra. Nhà vua đưa cho Śuka một chén sữa rót tràn đến miệng, và bảo nó đi bảy vòng quanh tòa đại sảnh mà không được để rơi một giọt nào. Đứa bé cầm lấy chén sữa, bước đi giữa tiếng nhạc và những khuôn mặt xinh đẹp đầy quyến rũ. Làm đúng theo ước nguyện của nhà vua, Śuka đi bảy vòng mà sữa không hề sánh ra ngoài một giọt. Tâm trí đứa bé không hề bị lôi cuốn bởi bất cứ điều gì trong thế gian này, trừ phi nó cho phép điều đó ảnh hưởng đến mình. Và khi Śuka mang chén sữa đến cho nhà vua, nhà vua bảo : “Những gì phụ thân người dạy cho ngươi, và những gì ngươi tự học, ta chỉ có thể lặp lại mà thôi. Ngươi đã biết được Chân Lý rồi. Về nhà đi thôi”.

Như thế, người nào chế ngự được bản thân thì không thể bị bất kỳ vật gì bên ngoài làm ảnh hưởng; đối với người đó thì tình trạng nô lệ không còn nữa, tâm trí anh ta trở nên tự do. Chỉ có người như thế mới thích hợp để sống trong thế gian này. Chúng ta thường thấy con người duy trì hai thế giới quan. Một số người thì bi quan và nói : “Thế giới này thật là gớm giếc, thiệt là hung ác!”. Còn một số người khác thì lạc quan và bảo : “Thế giới này thật tươi đẹp biết mấy, thật tuyệt diệu làm sao!” Đối với những người không chế ngự được tâm trí mình thì thế gian này đầy dẫy điều hung ác, hoặc giỏi lắm thì cũng là thiện ác lẫn lộn. Chính thế gian này sẽ trở thành một thế gian hạnh phúc đối với chúng ta khi chúng ta làm chủ được tâm trí mình. Lúc đó sẽ không có gì ảnh hưởng được đến tâm trí ta như là thiện hay ác nữa, mà chúng ta sẽ thấy mọi vật đều được yên vị đúng chỗ, đều hài hòa. Những người ban đầu bảo rằng thế giới là một địa ngục thì rốt cuộc lại thường bảo nó là một thiên đàng, khi họ thành công trong việc tự chế ngự mình. Nếu chúng ta muốn trở thành những hành giả karma-yogi, và muốn tự rèn luyện để đạt đến cảnh giới đó thì dù có bắt đầu bằng cách nào đi nữa, rốt cuộc chúng ta chắc chắn phải kết thúc bằng cách giải trừ hoàn toàn bản ngã, và ngay khi cái mà chúng ta tưởng là bản ngã này tan biến thì toàn thể thế giới này – mà thoạt đầu đối với ta tựa hồ dầy dẫy điều hung ác – sẽ hiện ra như một thiên đàng ngập tràn lạc phúc. Ngay cả không khí nơi đây cũng chứa chan lạc phúc, mỗi gương mặt người ở nơi đây đều sẽ tốt đẹp. Đó là cứu cánh và mục tiêu của karma-yoga, và đó là sự viên mãn của nó trong đời sống thực tế.

Các pháp môn yoga khác nhau của chúng ta không hề xung đột lẫn nhau, mỗi pháp môn đều đưa chúng ta đến cũng một mục tiêu và giúp ta hoàn hảo, chỉ có điều là pháp môn nào cũng đều cần phải tinh tấn tu tập. Trọn bí quyết nằm trong việc thực hành. Đầu tiên các bạn phải nghe giảng, rồi tư duy, và tiếp đó là thực hành. Điều đó đúng với mọi pháp môn yoga. Trước tiên, các bạn phải nghe nói về nó và hiểu được nó là gì, và nhiều điều các bạn không hiểu sẽ được sáng tỏ khi các bạn thường xuyên nghe và tư duy. Khó mà hiểu được mọi thứ ngay lập tức. Cuối cùng thì lời giải thích cho mọi sự đều nằm trong chính các bạn. Không một ai thực sự có thể được dạy dỗ bởi người khác, mỗi người chúng ta đều phải tự học Người thầy bên ngoài chỉ gợi ý cho người thầy bên trong hoạt động để hiểu được sự vật. Rồi sự vật sẽ trở nên rõ ràng với chúng ta nhờ vào năng lực của nhận thức và tư tưởng của chúng ta, và chúng ta sẽ thực chứng chúng trong linh hồn mình, và sự thực chứng đó sẽ phát triển thành năng lực mãnh liệt của ý chí. Trước tiên là cảm nhận, rồi mới trở thành ý chí, rồi từ ý chí đó xuất phát một sức mạnh mãnh liệt cho công việc, sức mạnh đó sẽ chảy qua từ mạch máu, từng dây thần kinh và từng cơ bắp, cho đến khi toàn thể khối lượng của thể xác chuyển thành công cụ cho pháp môn yoga hành động mang tính vị tha, và đạt đến thành quả mong muốn về việc giải trừ bản ngã trọn vẹn và hoàn toàn vô ngã. Thành quả này không lệ thuộc vào bất kỳ giáo điều, giáo lý hay tín ngưỡng nào. Dù các bạn có là tín đồ Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo hay là người ngoại đạo cũng không quan trọng. Các bạn có lòng vị tha không? Đó mới là vấn đề. Nếu có, thì các bạn sẽ là người hoàn thiện mà không cần đọc một cuốn sách tôn giáo nào, không cần phải đi lễ tại một nhà thờ hay đền thờ nào hết. Mỗi pháp môn yoga của chúng tôi đều phù hợp để giúp con người trở nên hoàn thiện mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác, bởi vì tất cả các pháp môn đó đều có chung một mục tiêu trong quan điểm. Tất cả các pháp môn yoga hành động, yoga trí tuệ, hay yoga sùng đạo đều có thể là phương tiện trực tiếp và độc lập để đưa đến giải thoát. “Chỉ có kẻ ngu mới nói rằng hoạt động và triết học là hai thứ khác nhau, người trí không nói thế”. Bậc thức giả biết rằng, dù bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng cuối cùng thì chúng cùng dẫn đến mục tiêu giống nhau là sự toàn thiện của con người.

TỰ DO

Chúng tôi đã tuyên bố rằng ngoài ý nghĩa là hoạt động thì từ karma, về phương diện tâm lý, còn bao hàm quan hệ nhân quả. Bất kỳ việc làm nào, bất kỳ hành động nào, bất kỳ tư tưởng nào cũng đều tạo ra hiệu ứng gọi là karma. Do đó, luật karma có nghĩa là luật nhân quả, chỉ mối tương quan không thể tránh được giữa nhân và quả. Bất cứ nơi nào có nhân thì phải sinh ra quả, không thể cưỡng lại tính tất yếu này, và luật nhân quả này, theo nền triết học của chúng tôi, là chân thực xuyên suốt cả vũ trụ này. Bất cứ những gì ta thấy, hay cảm thụ, hay làm, bất cứ hành động nào diễn ra ở bất cứ nơi đâu trong vũ trụ – trong khi một mặt thì nó là quả của hành động trong quá khứ – còn mặt khác thì đến lượt nó, nó sẽ trở thành nhân, và tạo nên quả của chính mình.

Cùng với điều này, cần phải xét đến từ “định luật” có ý nghĩa gì. Từ “định luật” ở đây có nghĩa là xu hướng của một loạt những sự kiện tự nó lặp đi lặp lại. Khi ta thấy một sự kiện được nối tiếp bởi một sự kiện khác, hoặc xảy ra đồng thời với một sự kiện khác, thì ta mong đợi xảy ra kết quả hay hiện tượng cộng tồn. Những nhà luận lý học và triết gia cổ đại thuộc học phái Nyāya của chúng tôi gọi định luật này bằng cái tên vyāpti. Theo họ, mọi quan niệm của chúng tôi về định luật đều do sự kiên kết. Một loạt các hiện tượng được nối kết với những sự vật trong tâm trí chúng ta theo một trật tự bất biến, do đó, bất cứ sự vật nào mà chúng ta nhận thức tại bất kỳ thời điểm nào cũng lập tức được quy chiếu với những dữ kiện khác trong tâm trí. Theo môn tâm lý học của của chúng tôi thì bất cứ ý tưởng nào, bất cứ một làn sóng nào được tạo ra trong tâm – hay chitta – cũng phải luôn luôn kích hoạt nhiều làn sóng tương tự khác nổi dậy. Đó là quan điểm tâm lý về sự liên kết, và luật nhân quả chỉ được xem như là một khía cạnh của nguyên lý liên kết vĩ đại phổ biến này. Trong tiếng Sanskrit thì sự liên hết phổ biến này được gọi là vyāti. Trong thế giới ngoại tại, quan niệm về định luật cũng tương tự như trong thế giới nội tâm – mong chờ một hiện tượng đặc biệt nào đó sẽ được tiếp nối bởi một hiện tượng khác, và một chuỗi các hiện tượng đó tự nó cứ lặp đi lặp lại. Bởi vậy, nói một cách nghiêm túc thì định luật này không tồn tại trong tự nhiên. Thật là sai lầm khi nói rằng luật hấp dẫn tồn tại trong trái đất, hoặc có một định luật nào đó tồn tại một cách khách quan tại một nơi nào đó trong tự nhiên. Định luật là phương pháp, là cách thức mà tâm trí chúng ta nắm bắt một loạt các hiện tượng, tất cả đều ở trong tâm trí. Một số hiện tượng nào đó xảy ra lần lượt hoặc đồng thời, và chắc chắn diễn ra một cách đều đặn, như thế là giúp tâm trí chúng ta nắm bắt được phương thức hoạt động của toàn bộ chuỗi các hiện tượng, điều đó được giải thích bằng cái mà chúng ta gọi là định luật.

Vấn đề cần xét tiếp theo là cái mà chúng ta cho là tính phổ quát của định luật. Vũ trụ của chúng ta là một phần của Tồn Tại, được quy định bởi cái mà các triết gia Sanskrit gọi là deśa-kāla-nimitta, hoặc được phương Tây biết đến như là không gian, thời gian, và quan hệ nhân quả. Điều tất yếu kéo theo là định luật này chỉ có thể vận dụng trong một vũ trụ được quy định, vượt ra ngoài vũ trụ đó thì không thể còn định luật nào nữa. Khi nói về vũ trụ thì chúng ta chỉ nói đến một phần của Tồn Tại được giới hạn bởi tâm trí ta – một vũ trụ khả giác, mà chúng ta có thể thấy, cảm nhận, sờ mó, nghe, nghĩ tới, và hình dung được. Chỉ có thế giới đó mới nằm trong ảnh hưởng của định luật, nhưng vượt ra ngoài thế giới đó thì Tồn Tại không thể bị chi phối bởi định luật này, bởi vì luật nhân quả không thể vươn rộng ra khỏi thế giới tâm trí chúng ta. Bất cứ thứ gì nằm ngoài phạm vi tâm trí và giác quan của chúng ta đều không còn bị ràng buộc bởi luật nhân quả, bởi vì không có mối liên kết giữa sự vật trong cảnh giới vượt ngoài giác quan, và không thể có luật nhân quả nếu không có sự liên kết giữa các ý tưởng. Chỉ khi nào Hằng Hữu hoặc Tồn Tại bị đóng khung trong phạm vi danh sắc thì nó mới tuân theo luật nhân quả,và ta nói rằng nó chịu sự chi phối của luật này – bởi vì phần tinh túy của mọi định luật đều nằm trong quan hệ nhân quả.

 Bởi vì ta thấy ngay rằng không thể có một cái bất kỳ nào đó như là ý chí tự do, ngay cả từ ngữ đã là sự mâu thuẫn rồi, bởi vì ý chí là cái chúng ta biết được, và tất cả những gì chúng ta biết được đều nằm trong vũ trụ của ta, và tất cả những gì nằm trong vũ trụ của ta đều bị đóng khung theo những quy định của không gian, thời gian và quan hệ nhân quả. Tất cả những sự vật mà chúng ta biết, hoặc có thể biết, đều chịu sự chi phối của luật nhân quả, và những gì tuân theo luật nhân quả thì không thể tự do. Nó bị tác động bởi những tác nhân khác, rồi đến lượt mình, nó lại trở thanh nhân. Nhưng cái được chuyển biến thành ý chí – cái mà trước đó không phải là ý chí, chỉ do bị rơi vào cái khung không gian, thời gian và luật nhân quả mà biến thành ý chí con người – thì cái đó được tự do, và khi ý chí thoát ra khỏi cái khung không gian, thời gian và luật nhân quả thì nó sẽ tự do trở lại. Từ tự do nó đến, rồi bị đóng khung trong vòng trói buộc, nó thoát ra và quay về lại với tự do.

Câu hỏi được nêu ra là : vũ trụ này từ đâu tới, nó nghỉ ngơi trong cái gì, rồi đi về đâu? Câu trả lời là : từ tự do nó đến, nó nghỉ ngơi trong tự do và quay về lại với tự do. Bởi vậy, khi ta nói về con người như thể không nói về ai khác hơn ngoài đấng Vô Biên đang tự thân hiển lộ trong người đó, thì ý chúng ta muốn nói rằng chỉ một phần rất nhỏ trong anh ta là con người, phần thể xác và tâm trí, mà chúng ta thấy được, chỉ là một phần của cái toàn thể, chỉ là một dấu chấm trong Hằng Hữu Vô Biên. Toàn thể vũ trụ này chỉ là một đốm nhỏ của Hằng Hữu Vô Biên, và tất cả những định luật của chúng ta, tất cả những vui buồn, tất cả những niềm hạnh phúc và hy vọng của chúng ta cũng chỉ nằm trong phạm vi của cái vũ trụ nhỏ bé này mà thôi. Chúng ta cùng tất cả sự tiến bộ và thoái bộ của chúng ta đều nằm trong phạm vi nhỏ bé của nó. Bởi vậy các bạn thấy rằng chờ đợi sự liên tục của vũ trụ này – tức sự sáng tạo của tâm trí chúng ta – và hy vọng lên thiên đàng, điều đó thật là trẻ con biết mấy, vì rốt cuộc thì tất cả những điều đó cũng chỉ là sự lặp lại của cái thế giới mà chúng ta đã biết. Các bạn thấy ngay rằng bắt toàn bộ cõi Tồn Tại Vô Biên phải thích nghi với sự tồn tại hạn hẹp và bị chi phối mà chúng ta được biết, đó là điều bất khả và ấu trĩ. Khi một người bảo rằng anh ta sẽ có đi có lại mãi mãi cùng một sự vật mà hiện anh ta đang có hoặc, như có đôi lần tôi đề xướng, anh ta đòi hỏi một tôn giáo dễ chịu thì các bạn có thể hiểu là anh ta đã sa đọa đến mức không còn khả năng nghĩ đến điều gì cao cả hơn con người thực của anh ta lúc này, không thể nghĩ được điều gì vượt quá cái môi trường sống tẻ nhạt và vô nghĩa hiện tại. Anh ta đã quên đi cái bản thể vô biên của mình, và toàn bộ suy nghĩ của anh ta bị đóng khung trong những thú vui, những nỗi buồn vụn vặt cùng những thói ghen tỵ trong phút chốc. Anh ta cho rằng sự vật hữu hạn là cái Vô Biên, không những thế, anh ta còn không muốn để sự ngu xuẩn biến đi. Anh ta bám chặt một cách tuyệt vọng vào trishnā hay khát vọng sống, mà Phật giáo gọi là tanhā và tissā. Có lẽ còn có đến hàng triệu loại hạnh phúc, hàng triệu định luật, tiến bộ và luật nhân quả khác, tất cả đều đang tác động bên ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà chúng ta biết, và sau cùng thì tất cả những thứ đó cũng chỉ gồm một phần trong bản thể vô biên của chúng ta.

Để đạt đến tự do, chúng ta phải vượt quá giới hạn của vũ trụ này, tự do không thể tìm thấy được ở nơi đây. Sự quân bình hoàn hảo, hay cái mà các tín đồ Cơ Đốc giáo gọi là sự bình an thông qua mọi sự hiểu biết, không thể có được trong vũ trụ này, cũng không có ở thiên đàng hay bất kỳ nơi nào mà tâm trí và tư tưởng chúng ta có thể đến được, giác quan có thể cảm thụ được hoặc trí tưởng tượng có thể hình dung được. Không một nơi nào như thế có thể đem đến cho chúng ta sự tự do, bởi vì tất cả những nơi như thế đều nằm trong phạm vi của vũ trụ chúng ta, và chúng đều bị giới hạn bởi không gian, thời gian và luật nhân quả. Có những chốn còn siêu nhiên thoát tục hơn cõi trần gian của chúng ta với những niềm vui có thể còn tinh tế hơn, nhưng ngay cả những chốn đó cũng phải nằm trong vũ trụ này, và do đó, phải chịu ràng buộc theo định luật. Bởi thế, chúng ta phải vượt ra đến chốn bên kia, và tôn giáo chân chính bắt đầu nơi mà cái vũ trụ nhỏ bé này chấm dứt. Những vui buồn vụn vặt cùng tri thức về sự vật kết thúc ở đó, và thực tại khởi đầu. Chừng nào chúng ta còn chưa từ bỏ được khát vọng sống, chưa từ bỏ được luyến cảm mãnh liệt vào cuộc sống phù du đầy trói buộc này thì chúng ta cũng không có hy vọng gì thấy được sự tự do vô biên ở cõi bên kia, thậm chí chỉ là để thấy thoáng qua. Vậy thì hiển nhiên là chỉ có một con đường duy nhất để đạt đến tự do đó, vốn là mục tiêu cho tất cả những khát vọng cao cả nhất của nhân loại, và con đường đó là từ bỏ cuộc sống nhỏ nhen này, từ bỏ cái vũ trụ nhỏ bé này, từ bỏ trần gian này, từ bỏ thiên đàng, từ bỏ thân xác, từ bỏ tâm trí, từ bỏ tất cả những gì bị giới hạn và quy định. Nếu chúng ta từ bỏ được luyến cảm với cái vũ trụ nhỏ bé của giác quan hoặc của tâm trí này thì chúng ta sẽ tự do ngay lập tức. Con đường duy nhất để thoát ra khỏi sự trói buộc là phải vượt qua bên kia những giới hạn của định luật, vượt qua bên kia luật nhân quả.

Nhưng từ bỏ luyến cảm với vũ trụ này là điều cùng cực khó khăn, ít người đạt được. Có hai cách được nhắc đến trong những kinh sách của chúng tôi. Một cách được gọi là “Neti, neti” (không phải cái này, không phải cái này), cách kia gọi là “iti” (cái này), cách trước thì tiêu cực, còn cách sau thì tích cực. Cách tiêu cực là cách khó nhất. Chỉ có những người có tâm trí cao siêu, ý chí phi thường mới có thể đứng lên một cách bình dị và nói : “Không, tôi không muốn có thứ này”, thế là tâm trí và thể xác đều tuân phục theo ý chí họ, và họ thoát ra ngoài một cách thành công. Nhưng những người như thế rất là hiếm. Phần lớn nhân loại đều chọn cách tích cực, tức con đường đi qua cõi thế, lợi dụng tất cả những ràng buộc để bẻ gãy chính những ràng buộc đó. Đây cũng là một loại từ bỏ, chỉ có điều là nó được thực hiện chậm chạp và dần dần, bằng cách biết được sự vật, hưởng thụ sự vật, nhờ đó thu thập được kinh nghiệm, và thấu hiểu bản chất sự vật cho đến khi tâm trí buông xả tất cả và trở nên vô luyến. Con đường trước đạt đến tâm vô luyến bằng lý luận, còn con đường sau thì thông qua công việc và kinh nghiệm. Cách thứ nhất là con đường của jnāna-yoga và đặc điểm của nó là khước từ làm bất cứ việc gì; còn cách thứ hai là con đường của karma-yoga, theo đó thì ta làm việc không ngừng. Mọi người đều phải làm việc trong vũ trụ này. Chỉ có những người hoàn toàn mãn nguyện với Chân Ngã, không còn khao khát vượt qua khỏi Chân Ngã, những người mà tâm trí không bao giờ lìa khỏi Chân Ngã, xem Chân Ngã là điều tối trọng yếu – thì chỉ những người đó mới không làm việc. Những người còn lại đều phải làm việc.

Dòng nước, theo bản tính tự nhiên của nó là chảy xuống, đổ vào một cái vũng sâu và tạo thành xoáy nước, sau một hồi chạy trong xoáy nước đó, nó lại trồi lên dưới hình thức dòng nước tự do, và trôi đi mà không hề bị ngăn trở nữa. Cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng giống như dòng nước đó. Nó đi vào cơn lốc xoáy, bị lôi cuốn và cái thế giới của không gian, thời gian và luật nhân quả, quay cuồng một hồi, gào thét “cha tôi, mẹ tôi, tên tôi, danh tiếng tôi” v.v…, và cuối cùng thì trồi lên khỏi cơn xoáy đó và phục hồi được tự do nguyên thủy. Toàn thể vũ trụ này đang hoạt động theo cách đó. Dù có biết được hay không, dù có ý thức được hay không thì tất cả chúng ta cũng đều đang làm việc để thoát ra khỏi giấc mộng trần gian. Kinh nghiệm của con người trong thế gian này là để giúp họ thoát khỏi cơn xoáy đó.

Karma-yoga là gì? Là tri thức về bí quyết làm việc. Chúng ta thấy rằng toàn thể vũ trụ này đang hoạt động. Để làm gì? Để đạt được giải thoát, đạt được tự do. Từ hạt nguyên tử cho đến sinh thể cao siêu nhất, tất cả đều hoạt động vì một cứu cánh duy nhất, đó là đạt đến cảnh giới tự do cho thể xác và tinh thần. Tất cả sự vật đều luôn luôn cố gắng để đạt được tự do, thoát khói vòng trói buộc. Mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, tất cả đều đang cố gắng bay ra khỏi vòng trói buộc. Những lực ly tâm và hướng tâm hoạt động trong khắp vũ trụ này. Thay vì để bị trôi dạt khắp nơi trong vũ trụ, và sau những đợt trì hoãn lâu dài và bị đánh tả tơi mới hiểu được sự vật là gì thì chúng ta hãy học hỏi từ karma-yoga bí quyết làm việc, phương pháp làm việc và năng lực tổ chức công việc. Một số lượng năng lượng khổng lồ sẽ bị tiêu hao vô ích nếu chúng ta không biết cách lợi dụng nó. Karma-yoga tạo nên khoa học về công việc, nhờ nó, các bạn sẽ biết cách tận dụng tối đa mọi công việc trên thế gian này. Làm việc là chuyện không thể tránh khỏi, đương nhiên là phải thế, nhưng chúng ta nên làm việc vì mục tiêu cao cả nhất. Karma-yoga khiến chúng ta chấp nhận rằng thế giới này là một cõi tạm bợ phù du, là một cái gì đó mà chúng ta phải đi qua, và giải thoát không ở nơi đây mà ở phải được tìm thấy ở bên kia. Để tìm lối thoát ra khỏi sự trói buộc của thế gian thì chúng ta phải đi qua nó chầm chậm và chắc chắn. Có thể có những người ngoại lệ mà tôi đã nói đến, những người có thể làm kẻ bàng quang và từ bỏ thế gian, như con rắn lột xác, rồi tránh qua một bên để nhìn miếng da lột đó. Chắc chắn là có những con người phi thường ngoại lệ, nhưng phần còn lại của nhân loại đều phải đi chầm chậm qua cái thế giới của công việc này. Karma-yoga chỉ ra tiến trình, bí quyết và phương pháp làm việc đó một cách thuận lợi nhất.

Nó dạy những gì? “Hãy làm việc không ngừng, nhưng hãy từ bỏ mọi luyến cảm với công việc”. Đừng đồng hóa bản thân các bạn với bất cứ thứ gì. Hãy luôn để tâm trí được tự do. Tất cả những gì các bạn thấy – đớn đau và khốn khổ – chỉ là những điều kiện cần thiết của thế gian này, giàu nghèo, hạnh phúc chỉ là tạm thời, chúng không thuộc về bản tính thực của chúng ta. Chân tính của chúng ta vượt xa khỏi khốn khổ và hạnh phúc, vượt ngoài mọi đối tượng của giác quan, vượt quá óc tưởng tượng, và các bạn phải luôn luôn làm việc không ngừng nghỉ. Khốn khổ đến là do luyến cảm chứ không phải do công việc. Ngay khi chúng ta đồng hóa mình với công việc thì chúng ta cảm thấy khốn khổ, nhưng nếu chúng ta không đồng hóa mình với nó thì chúng ta không cảm nhận được khốn khổ này. Nếu một bức tranh đẹp của người khác bị cháy thì ta thường chẳng thấy đau khổ, nhưng nếu đó là bức tranh của ta thì ta thấy đau khổ biết là ngần nào! Vì sao? Cả hai đều là những bức tranh đẹp, có thể đều được sao chép từ một nguyên bản nào đó, nhưng trong trường hợp này thì lại gây nhiều khốn khổ hơn trường hợp kia. Bởi vì trong trường hợp này thì ta tự đồng hóa mình với bức tranh, còn trong trường hợp kia thì không.

Cảm giác “tôi và và của tôi” này gây nên toàn bộ sự khốn cùng. Đi cùng với cảm giác chiếm hữu là lòng vị kỷ, và lòng vị kỷ mang tới khốn khổ. Mỗi hành động hay tư tưởng mang tính vị kỷ đều khiến chúng ta cứ quyến luyến với sự vật, và ngay lập tức biến mình thành nô lệ. Mỗi làn sóng dao động trong tâm trí – chitta – mà lên tiếng : “Tôi và của Tôi” thì lập tức tạo ngay ra một xích xiềng trói buộc, và biến chúng ta thành nô lệ. Hễ chúng ta càng nói : “Tôi và của Tôi” thì trạng thái nô lệ càng lớn mạnh, và sự khốn khổ càng gia tăng. Bởi vậy, pháp môn karma-yoga dạy cho chúng ta cách thưởng thức vẻ đẹp của tất cả những bức tranh trên thế gian này, mà không đồng hóa bản thân mình với bất kỳ một bức nào. Đừng bao giờ nói “của tôi”. Bất cứ khi nào chúng ta nói vật đó là “của tôi” thì sự khốn khổ lập tức sẽ đến. Đừng nói “con của tôi” dù chỉ trong tâm trí. Nếu bạn nói thế thì sự khốn khổ sẽ đến. Đừng nói “cái nhà của tôi” hay “thể xác của tôi”. Toàn bộ sự khó khăn là ở đó. Thể xác này không phải của các bạn, không phải của tôi, mà chẳng phải của bất kỳ ai. Những thể xác này đến rồi đi theo những định luật tự nhiên, còn Linh Hồn thì cứ ung dung tự tại, đứng nhìn như một nhân chứng. Thể xác này không tự do hơn một bức tranh treo trên tường. Vậy thì cớ sao ta lại phải quyến luyến nhiều đến thế vào thể xác này? Giả sử có một người nào vẽ bức tranh, sao anh ta lại phải quyến luyến với nó chứ? Anh phải chia tay với nó khi chết. Đừng có vươn những cái vòi vị kỷ ra, “Tôi phải chiếm hữu lấy nó”. Ngay khi vừa làm điều đó thì sự khốn khổ sẽ bắt đầu.

Do đó, karma-yoga bảo : trước hết phải hủy bỏ xu hướng vươn những cái vòi vị kỷ ra ngoài, và khi các bạn có được năng lực khống chế điều đó thì hãy ghìm nó lại, và chớ để tâm trí rơi vào làn sóng vị kỷ. Lúc đó, các bạn có thể nhập thế, và làm việc nhiều tùy ý. Hãy lăn lộn ở bất cứ nơi đâu, hãy đi đến bất cứ chốn nào bạn thích, các bạn sẽ không bị nhiễm những điều xấu ác nữa. Giống như lá sen trong nước, nước không thể làm ướt lá hay dính vào nó được, các bạn hãy sống như thế trong thế gian này. Điều đó được gọi là vairāgya, nghĩa là vô dục hay vô luyến cảm. Tôi tin là đã nói với các bạn rằng nếu không có tâm vô luyến thì không có bất kỳ pháp môn yoga nào. Vô luyến cảm là nền tảng của mọi yoga. Người từ bỏ cuộc sống trong nhà với quần áo đẹp và thức ăn ngon để đi vào sống trong sa mạc, vẫn có thể là một người còn mang luyến cảm nặng nề nhất. Vật sở hữu duy nhất của ông ta – cái xác thân đó – – có thể trở thành tất cả, và trong thời gian còn sống, ông ta sẽ đấu tranh ngày đêm để giữ gìn cái thể xác của mình. Ý nghĩa của vô luyến cảm chẳng có liên quan gì đến thể xác bên ngoài của chúng ta, nó hoàn toàn nằm trong tâm trí. Sợi dây trói buộc “Tôi và của Tôi” nằm trong tâm trí. Nếu ta không có nối liên kết ràng buộc giữa thể xác với sự vật của giác quan thì chúng ta vô luyến, cho dù chúng ta ở bất cứ nơi đâu và làm bất cứ điều gì. Một người có thể ngồi trên ngai vàng mà tâm hoàn toàn vô luyến, còn người khố rách áo ôm vẫn có thể mang nặng luyến cảm. Trước tiên chúng ta phải đạt được tâm vô luyến, rồi sau đó phải làm việc không ngừng nghỉ. Karma-yoga dạy phương pháp giúp chúng ta từ bỏ mọi luyến cảm, dù trên thực tế điều này rất đỗi khó khăn.

Có hai cách để từ bỏ mọi luyến cảm. Một cách dành cho người không tin vào Thượng Đế hoặc bất kỳ sự giúp đỡ nào ở bên ngoài. Họ bị bỏ mặc với những dụng cụ riêng của họ, họ chỉ làm việc bằng ý chí của chính mình, bằng năng lực của tâm trí và khả năng phân biệt, họ bảo : “Tôi phải giữ tâm vô luyến”. Còn đối với những người tin vào Thượng Đế thì có một cách khác, dễ hơn rất nhiều. Họ phó mặc mọi thành quả lao động cho Thượng Đế, họ làm việc và không hề bận tâm đến kết quả. Tất cả những gì họ thấy, cảm nhận, nghe hoặc làm đều dành hết cho Ngài. Đối với những việc tốt mà mình có thể đã làm, chúng ta đừng có đòi hỏi phải có được khen ngợi hay lợi ích. Nó là của đấng Chúa Tể, hãy hiến dâng hết mọi thành quả cho Ngài. Chúng ta hãy làm kẻ bàng quan và nghĩ rằng mình chỉ là những kẻ tôi tớ vâng lời Thượng Đế, vị Chủ Nhân của chúng ta, rằng mọi sự thôi thúc dẫn đến hành động đều xuất phát từ Ngài trong từng phút từng giây. Bất cứ những gì các bạn sùng bái, bất cứ những gì các bạn cảm nhận, bất cứ những gì các bạn làm, hãy dâng tất cả lên cho Ngài và hay nghỉ ngơi. Chúng ta hãy giữ tâm bình an, tuyệt đối bình an với chính mình, và hãy hiến dâng toàn bộ thể xác và tâm trí này cùng tất cả mọi thứ lê cho đấng Chúa Tể như là lễ vật hiến sinh vĩnh viễn. Thay vì rót rượu lễ vào trong lửa, như trong nghi thức hiến tế, hãy thực hành nghi thức hiến sinh vĩ đại duy nhất này suốt ngày và đêm – hy sinh các bản ngã nhỏ bé của các bạn. “Khi đi tìm sự giàu có trong thế gian này, Ngài là sự giàu có duy nhất mà tôi tìm thấy, tôi hy sinh bản thân tôi cho Ngài. Khi đi tìm người nào đó để thương yêu, Ngài là đấng thân thương duy nhất mà tôi tìm thấy, tôi hy sinh bản thân tôi cho Ngài”. Hãy lặp đi lặp lại câu này cả ngày lẫn đêm, và bảo : “Chẳng có việc gì đối với tôi cả, chẳng hề gì nếu như sự việc là tốt, xấu hoặc không tốt không xấu, tôi không quan tâm điều đó, tôi hiến dâng tất cả cho Ngài”. Chúng ta hãy từ bỏ cái tựa hồ như là bản ngã của chúng ta cả ngày lẫn đêm, cho đến khi điều đó trở thành thói quen, cho đến nó ngấm sấu vào trong máu thịt, vào thần kinh và não tủy của chúng ta, và cả thể xác này lúc nào sẵn sàng tuân theo ý tưởng giải trừ bản ngã. Lúc đó dù có đến giữa chiến trường, giữa tiếng bom đạn vang rền, tiếng ầm ĩ của chiến tranh, các bạn sẽ thấy mình vẫn tự do và bình thản.

Karma-yoga dạy chúng ta rằng quan niệm thông thường về bổn phận nằm trên bình diện thấp hơn, tuy nhiên, tất cả chúng ta đều phải làm tròn bổn phận của mình. Vậy mà chúng ta có thể thấy rằng ý nghĩa đặc biệt này của bổn phận thường là nguyên nhân gây nên bao điều khốn khổ. Bổn phận trở thành một căn bệnh đối với chúng ta, nó lẻo đẽo theo chúng ta suốt đời. Nó vồ chộp lấy chúng ta và biến cả cuộc đời chúng ta thành nỗi khốn cùng. Đó là nguyên nhân sụp đổ của đời người. Bổn phận này, quan niệm này về bổn phận là ánh mặt trời chói chang ngày hạ, thiêu cháy nơi tận cùng sâu thẳm của linh hồn nhân loại. Hãy nhìn những kẻ nô lệ đáng thương cho bổn phận! Bổn phận khiến họ không còn thời gian để cầu nguyện, không còn thời gian để tắm rửa, lúc nào bổn phận cũng đè nặng lên họ. Họ rời nhà và đi làm việc, bổn phận đè nặng lên họ! Họ quay về nhà và nghĩ đến công việc của ngày hôm sau, bổn phận đè nặng lên họ! Đó là cuộc đời của một kẻ nô lệ, cuối cùng sẽ gục ngã ngoài đường, và nằm hấp hối trong yên cương, như con ngựa. Đó là bổn phận theo cách người ta hiểu. Bổn phận duy nhất là phải trở nên vô luyến cảm, và làm việc như những người tự do, phó mặc mọi công việc cho Thượng Đế. Mọi bổn phận của chúng ta là của Ngài. Chúng ta thật có phúc khi được gửi đến chốn đây. Chúng ta phục vụ cho thời đại mình, ai biết được chúng ta thực hiện bổn phận mình tốt hay tồi? Nếu làm tốt, chúng ta đừng nghĩ đến thành quả. Nếu làm tồi, chúng ta cũng chẳng phải lo gì. Chúng ta hãy nghỉ ngơi, hãy tự do, và làm việc. Kiểu tự do này là điều rất khó đạt được. Thật dễ dàng biết mấy khi giải thích tình cảnh nô lệ của chúng ta như là bổn phận – luyến cảm mê muội của xác thân với xác thân như là bổn phận! Con người đi vào đời và đấu tranh hoặc chiến đầu vì tiền hay vì bất cứ thứ gì mà họ quyến luyến. Hỏi họ vì sao làm thế, họ đáp : “Đó là bổn phận”. Đó là lòng tham vô độ trước vàng bạc cùng sự thành đạt, và họ cố che lấp nó bằng một vài bông hoa.

Rốt cuộc thì bổn phận là gì? Thực ra nó là luyến cảm – nghĩa là xung động của xác thịt. Và khi luyến cảm này đã được xác lập thì chúng ta gọi nó là bổn phận. Chẳng hạn trong một quốc gia không có hôn nhân thì không có bổn phận giữa vợ và chồng, khi hôn nhân xuất hiện thì vợ chồng sống với nhau vì luyến cảm, và kiểu sống chung với nhau này được chấp nhận sau nhiều thế hệ, và khi đã được chấp nhận rồi thì nó trở thành bổn phận. Có thể nói đó là một loại bệnh trầm kha. Khi luyến cảm trở thành căn bệnh trầm kha thì ta rửa tội cho nó bằng tên gọi rất kêu về bổn phận. Chúng ta rắc hoa lên nó, nổi trống giong cờ cho nó, và nói về nó bằng những kinh điển thiêng liêng. Cả thế giới này đang đánh nhau, và người ta hăng hái cướp bóc lẫn nhau chỉ vì cái bổn phận này.

Bổn phận chỉ tốt trong chừng mực nó kiềm chế được thói hung bạo. Đối với những người thấp kém – những người không thể có được một lý tưởng nào khác – thì bổn phận đôi khi là điều tốt. Nhưng đối với những người muốn trở thành hành giả karma-yogi thì phải vất ý tưởng bổn phận xuống biển. Không có một bổn phận nào cho các bạn và tôi. Những gì các bạn cần trao cho thế gian này thì hãy trao bằng mọi cách, nhưng không phải như là bổn phận. Đừng bao giờ suy nghĩ đến nó nữa. Đừng để bị ép buộc. Vì sao các bạn lại để bị ép buộc? Tất cả những gì các bạn làm do cưỡng bức đều tạo nên luyến cảm. Và sao các bạn phải có một bổn phận nào đó? Hãy phó thác mọi sự cho Thượng Đế. Trong cái lò lửa dữ dội đang cháy ngùn ngụt, nơi mà ngọn lửa bổn phận thiêu cháy hết tất cả mọi người, hãy uống nước cam lộ nhẫn nhục và hãy hạnh phúc. Tất cả chúng ta chỉ làm việc theo ý chí của Ngài, và chẳng liên quan gì đến chuyện thưởng phạt. Nếu các bạn muốn có thưởng thì phải có phạt, con đường duy nhất để thoát phạt là từ bỏ luôn thưởng. Con đường duy nhất để thoát khỏi khốn khổ là từ bỏ hạnh phúc, bởi vì cả hai cùng liên kết với nhau. Ở mặt này là hạnh phúc, ở mặt kia lại là khốn khổ. Ở mặt này là sự sống, ở mặt kia lại là cái chết. Cách duy nhất để vượt qua cái chết là phải từ bỏ lòng ham sống. Sống và chết, sinh và tử chỉ là một, được nhìn từ hai quan điểm khác nhau. Bởi vậy, quan niệm về hạnh phúc mà không có khốn khổ, hay sống mà không có chết là quan niệm rất tốt đẹp cho học sinh và trẻ con, còn những nhà tư tưởng thì thấy bản thân nó đã mâu thuẫn trong thuật ngữ rồi, và họ từ bỏ cả hai. Đừng tìm kiếm lời ngợi khen hay phần thưởng cho bất kỳ việc gì các bạn làm. Vừa làm xong một việc thiện là chúng ta bắt đầu muốn có lời ca ngợi. Vừa tặng tiền cho một tổ chức từ thiện là chúng ta muốn tên tuổi mình được tuyên dương trên mặt báo. Khốn khổ ắt hẳn phải đến như là kết quả của những tham vọng đó.

 Những con người vĩ đại nhất trên thế gian này đã lặng lẽ đi qua cõi đời không một ai hay biết. Những nhân vật như đức Phật hoặc Chúa Jesus mà chúng ta đã biết chỉ là những vị anh hùng bậc hai so với những vị anh hùng mà thế giới hoàn toàn không hay biết một chút gì. Hàng trăm vị anh hùng vô danh đó đã lặng lẽ sống ở khắp mọi quốc gia, lặng lẽ sống và làm việc. Những vị đó sống lặng lẽ và ra đi lặng lẽ, tư tưởng họ sớm muộn gì cũng được biểu hiện trong tư tưởng của đức Phật hoặc Chúa Jesus, nhưng chỉ những vị sau là chúng ta được biết. Những con người vĩ đại nhất đó không đi tìm tên tuổi hay danh tiếng từ trí tuệ của mình. Họ lưu lại những tư tưởng cho thế gian, không yêu cầu gì về phần mình, chẳng dựng tông lập phái nhân danh mình. Trọn bản tính của họ thu mình lại trước những chuyện như thế. Họ là những vị sāttvika thuần khiết, giữ tâm tịch nhiên bất động, và chỉ tan chảy thành tình thương yêu. Tôi đã từng thấy được một hành giả yogi như thế sống trong một hang động tại Ấn Độ[8]. Người là một trong những người kỳ diệu nhất mà tôi từng thấy. Người hoàn toàn đang mất ý thức về cá nhân mình đến mức chúng ta có thể nói rằng con người trong người đã hoàn toàn tan biến, chỉ còn lại cảm thức trùm khắp cõi thiêng liêng. Nếu một con vật cắn cánh tay người, người sẵn lòng đưa luôn cánh tay kia, và bảo rằng đó là ý chí của Thượng Đế. Bất cứ thứ gì đến với người cũng đều xuất phát từ Thượng Đế. Người không hề lộ diện trước mọi người, tuy vậy người là một kho tàng của tình yêu và của những tư tưởng dịu hiền, chân thực.

Kế đến là những những người mang rất nhiều tố chất raja, hay hoạt động, với bản chất hiếu chiến, những người này tiếp thu tư tưởng của những người hoàn hảo rồi thuyết thuyết giảng lại cho thế giới. Những mẫu người cao cả nhất lặng lẽ kết tập những những tư tưởng cao siêu và chân thực, và những người khác – như đức Phật hay Chúa Jesus – đi từ nơi này đến nơi khác để thuyết giảng chúng, và làm việc vì chúng. Trong cuộc đời của đức Phật Thích Ca, ta lưu ý rằng Ngài luôn luôn nói rằng Ngài là vị Phật thứ hai mươi lăm. Hai mươi bốn vị Phật trước Ngài không được biết đến trong lịch sử, mặc dù đức Phật lịch sử mà ta biết hẳn phải xây dựng trên những nền tảng do các vị đó dựng nên. Những nhân vật cao siêu nhất thì lặng lẽ tịch nhiên và không ai biết đến. Các vị đó là những người thực sự biết đến năng lực của tư tưởng, họ biết chắc rằng thậm chí họ có ngồi yên trong thạch động, khép cửa lại và chỉ cần quán tưởng đến năm tư tưởng chân thực rồi viên tịch thì năm tư tưởng đó từ ý chí họ sẽ trường tồn vĩnh viễn. Trong thực tế, những tư tưởng như thế sẽ xuyên thấu qua núi non, băng qua đại dương và du hành khắp thế gian. Chúng sẽ thâm nhập vào tâm hồn và nào bộ con người, nâng cao những người muốn thực hiện những tư tưởng đó trong đời sống thực tế hàng ngày. Các vị sāttvika này quá gần gũi với Thượng Đế nên, theo lời họ nói, không thể hoạt động hay chiến đấu, không thể làm việc, đấu tranh, thuyết pháp hay làm việc thiện cho nhân loại trên thế gian này. Những người hoạt động năng nổ, dù thiện hảo, vẫn còn đôi chút vô minh trong tâm. Chỉ khi nào trong bản tính chúng ta còn đôi chút bất tịnh thì ta mới có thể làm việc. Bản chất của công việc thường mang tính ép buộc do động cơ làm việc và luyến cảm. Trước sự hiện diện của một Thiên Mệnh năng động, lưu tâm đến cả một con chim sẻ bị rơi, thì làm sao con người có thể gán được tầm quan trọng nào vào công việc của mình? Làm như thế há chẳng là một điều bất kính, khi chúng ta biết rằng Ngài luôn chăm lo đến từng việc lặt vặt nhất trong thế gian? Chúng ta chỉ còn biết kinh ngạc và kính sợ đứng trước Ngài mà nói “Xin vâng ý Người”.

Những người cao siêu nhất không làm việc, vì họ không còn luyến cảm. Những ai tìm thấy hỷ lạc trong Chân Ngã, thỏa mãn với Chân Ngã, và chỉ tìm thấy niềm vui trong Chân Ngã – thì đối với những người đó không còn công việc gì để làm. Đó thực sự là những vị cao siêu nhất của nhân loại, còn ngoài ra thì ai cũng phải làm việc. Trong khi làm việc, chúng ta đừng có bao giờ nghĩ rằng mình có thể giúp ích được một chút xíu gì trong vũ trụ này. Chúng ta không thể. Chúng ta chỉ có thể tự giúp bản thân mình trong cái phòng tập thể dục của thế gian này. Đó là thái độ làm việc đúng đắn. Nếu chúng ta làm việc theo cách này, nếu chúng ta luôn luôn nhớ rằng cơ hội làm việc như hiện nay là được trao một đặc ân, thì chúng ta sẽ không bao giờ nảy sinh luyến cảm với bất cứ việc gì.

Hàng triệu người như các bạn và tôi nghĩ rằng chúng ta là những người vĩ đại trong thế giới này, nhưng tất cả chúng ta đều phải chết, và chỉ trong vòng năm phút là mọi người đã quên bẵng chúng ta. Nhưng đời sống của Thượng Đế thì vô tận. “Liệu ai có thể sống được trong một phút chốc, hít thở trong một phút chốc, nếu như đấng Toàn Năng không muốn điều đó?”. Ngài là Thiên Mệnh sinh động vĩnh hằng. Mọi quyền năng đều thuộc về Ngài và nằm trong Mệnh Lệnh của Ngài. Thông qua mệnh lệnh của Ngài mà gió thổi, mặt trời tỏa sáng, trái đất di chuyển và cái chết bước đi hiên ngang trong cõi thế. Ngài là đấng Toàn Dung, bao trùm tất cả; Ngài là tất cả và hiện hữu trong tất cả. Chúng ta chỉ có thể sùng bái Ngài mà thôi. Hãy từ bỏ hết mọi thành qủa của công việc, hãy làm việc thiện chỉ vì bản thân của công việc, rồi ta sẽ đạt đến cảnh giới vô luyến hoàn toàn. Những xiềng xích trói buộc tâm hồn sẽ gãy vụn, và chúng ta sẽ thực chứng được sự tự do. Tự do này là mục tiêu của karma-yoga.

LÝ TƯỞNG CỦA KARMA-YOGA

Ý tưởng vĩ đại nhất trong tôn giáo Vedānta là chúng ta có thể đạt đến cùng một cứu cánh bằng nhiều con đường khác nhau, và tôi chia những con đường này thành bốn loại : công việc, tình yêu, tâm lý và tri thức. Nhưng đồng thời các bạn cũng cần phải nhớ rằng cách phân chia này không dứt khoát và không hoàn toàn loại trừ lẫn nhau. Loại này trộn lẫn trong loại kia. Trên thực tế, các bạn thấy rằng đâu phải có những người không có khả năng gì ngoài làm việc, hoặc những người chỉ biết thành tâm sùng bái, hoặc những người chỉ thuần túy nắm được tri thức. Các phân chia này được thực hiện theo các kiểu hoặc xu hướng chiếm ưu thế nơi một người. Chúng ta đã thấy rằng cả bốn con đường này cuối cùng sẽ đồng quy và hợp nhất. Mọi tôn giáo và mọi pháp môn tu tập đều đưa đến một mục tiêu duy nhất.

Tôi đã cố gắng chỉ ra mục tiêu này rồi. Đó là giải thoát, là tự do theo như tôi hiểu. Mọi thứ ta nhận thực sự được quanh ta đều đang đấu tranh để đi đến tự do, từ nguyên tử cho đến con người, từ những hạt vật chất vô tri không có sự sống cho đến dạng tồn tại tối cao trên trái đất là linh hồn con người. Trên thực tế, toàn thể vũ trụ là kết quả của sự đấu tranh vì tự do này. Trong mọi dạng tổ hợp, mỗi hạt đều cố gắng di chuyển cho quỹ đạo của nó, cố gắng bay ra khỏi những hạt khác, nhưng những hạt khác cố giữ lại. Trái đất chúng ta đang cố gắng bay ra khỏi mặt trời, còn mặt trăng thì cố gắng bay ra khỏi trái đất. Tất cả những gì chúng ta nhìn thấy trong vũ trụ đều có nền tảng là sự đấu tranh duy nhất hướng đến tự do này. Do sự thôi thúc của xu hướng này mà nhà hiền triết thì cầu nguyện, còn bọn cường đạo thì cướp bóc. Khi phương hướng hành động mà ta chọn tỏ ra không phù hợp thì ta gọi đó là xấu, còn khi nó tỏ ra phù hợp và cao quý thì ta gọi đó là tốt Nhưng động lực thúc đẩy là giống nhau, đó là sự đấu tranh hướng đến tự do. Nhà hiền triết bị thôi thúc bởi trí thức của ông ta về sự trói buộc, và ông ta muốn dứt bỏ nó, vì thế ông sùng bái Thượng Đế. Tên cường đạo thì bị thôi thúc bởi ý tưởng rằng y không sở hữu được một thứ gì đó, y muốn thoát khỏi sự thiếu hụt đó để đạt đến tự do, vì thế mà y đi trộm cắp. Tự do là mục tiêu của muôn vật trong thiên nhiên, dù hữu tình hay vô tri. Và dù vô tâm hay hữu ý thì muôn vật đều đấu tranh hướng đến mục tiêu đó. Tự do mà nhà hiền triết đi tìm khác xa với tự do của tên cường đạo, tự do mà nhà hiền triết thương yêu dẫn ông ta đến trạng thái hỷ lạc trong cõi vô biên, một niềm lạc phúc không nói nên lời, trong khi tự do mà tên cường đạo đã đặt cả tâm hồn vào đấy chỉ rèn đúc nên những xích xiềng trói buộc linh hồn y.

Trong mọi tôn giáo, phải tìm cho ra sự biểu hiện của cuộc đấu tranh hướng đến tự do. Nó là nền tảng của mọi nền đạo đức, của lòng vị tha, có nghĩa là thoát khỏi ý nghĩ cho rằng con người cũng chỉ như cái thể xác nhỏ bé của mình. Khi ta thấy một người làm việc thiện, giúp đỡ người khác, điều đó có nghĩa là anh ta không thể bị đóng khung trong cái vòng tròn chật hẹp của “Tôi và của Tôi”. Không có một giới hạn nào cho việc thoát khỏi lòng vị kỷ. Mọi hệ thống đức lý vĩ đại đều thuyết giảng lòng vị tha tuyệt đối là mục tiêu. Giả sử có người có thể đạt đến lòng vị tha tuyệt đối thì người đó sẽ ra sao? Anh ta sẽ không còn là ông X. hay bà Y. nữa, mà đạt đến sự khoáng trương vô tận. Cá tính nhỏ bé của  anh ta trước kia giờ đây đã biến mất vĩnh viễn, anh ta đã trở nên vô biên vô tận. Và đạt đến trạng thái khoáng trương vô tận đó là mục tiêu thực sự của mọi tôn giáo và mọi giáo huấn về triết học và đạo đức. Người theo thuyết cá tính, khi nghe ý tưởng này được biểu hiện về mặt triết học, sẽ cảm thấy kinh hãi. Đồng thời, nếu thuyết giảng về đạo đức thì rốt cuộc bân thân anh ta cũng sẽ giảng dạy chính tư tưởng đó. Anh ta không đặt ra một giới hạn nào cho lòng vị tha của con người. Giả sử người nào đó trở nên hoàn toàn vị tha qua thuyết cá tính thì làm cách nào chúng ta có thể phân biệt được anh ta với những con người hoàn hảo trong những học thuyết khác? Anh ta đã hợp nhất với vũ trụ, và được hợp nhất với vũ trụ là mục tiêu của tất cả, chỉ những người theo thuyết cá tính đáng thương mới không đủ can đảm theo đuổi lý luận của mình để đi đến kết luận đúng đắn. Karma-yoga là pháp môn dùng việc làm vị tha để đạt đến sự tự do đó –  mục tiêu của mọi bản tính con người. Mọi hành động vị kỷ, do đó, làm chậm trễ quá trình đạt đến mục tiêu đó, còn mọi hành động vị tha lại kéo ta hướng đến nó; do đó ta chỉ có thể đưa ra định nghĩa duy nhất về đạo đức như vầy : Cái gì mang tính vị kỷ đều vô đạo đức, còn những gì mang tính vị tha đều đạo đức.

Nhưng nếu xét đến tận chi tiết thì vấn đề lại không hoàn toàn đơn giản như vậy. Chẳng hạn, hoàn cảnh thường làm thay đổi các chi tiết, như tôi đã nhắc đến. Cũng một hành động đó, trong bối cảnh này có thể mang tính vị tha, nhưng trong bối cảnh khác lại hoàn toàn mang tính tính vị kỷ. Bởi vậy, chúng ta chỉ có thể đưa ra một định nghĩa chung, và để các chi tiết được hình thành tùy theo sự khác biệt của thời gian, không gian, và hoàn cảnh cụ thể. Ở quốc gia này, hành vi này được xem là đạo đức, nhưng cũng chính hành vi đó, ở quốc gia khác lại bị xem là vô đạo đức do hoàn cảnh khác nhau. Mục tiêu của toàn bộ thiên nhiên là tự do, và tự do chỉ có thể đạt được bằng lòng vị tha hoàn toàn; mọi ý nghĩ, lời nói, hay hành vi mang tính vị tha đều hướng chúng ta đến với mục tiêu, và như thế được gọi là đạo đức. Các bạn sẽ thấy rằng định nghĩa đó vẫn luôn có giá trị trong mọi tôn giáo và mọi nền đạo lý. Trong một vài hệ thống tư tưởng, đạo đức được rút ra từ một đấng Tối Cao, tức Thượng Đế. Nếu các bạn hỏi tín đồ của những tông phái đó vì sao con người phải làm điều mà không được làm điều kia, câu trả lời của họ sẽ là : “Bởi vì đó là mệnh lệnh của Thượng Đế”. Nhưng cho dù nguồn gốc có được rút ra từ đâu chăng nữa thì các chuẩn mực đạo lý đó cũng đều có chung một tư tưởng trọng tâm, đó là  không nghĩ tới bản thân mình mà hãy giải trừ bản ngã.

Tuy nhiên, có những người dù thực hành ý tưởng đạo lý cao thượng này, nhưng lại kinh hãi trước ý tưởng phải từ bỏ cá tính nhỏ bé của mình. Chúng ta có thể yêu cầu những người bám chặt vào cái ý tưởng cá tính nhỏ bé xem xét trường hợp người đã hoàn toàn vị tha, không còn nghĩ gì về bản thân mình, người hoàn toàn không làm gì cho mình, không nói gì về mình, để hỏi thử “cái tôi, cái tự thân” của người đó nằm ở đâu. Người đó chỉ biết đến cái “tự thân” đó khi anh ta suy nghĩ, hành động hay nói về nó. Nếu anh ta chỉ ý thức về kẻ khác, chỉ ý thức về vũ trụ thì “cái tự thân” đó nằm ở nơi đâu? Nó biến mất vĩnh viễn.

Pháp môn karma-yoga, do đó, là một hệ thống giới luật nhằm đạt đến tự do, thông qua tinh thần vị tha và những việc làm tốt. Hành giả karma-yogi không cần phải tin vào bất kỳ giáo lý nào. Anh ta có thể không tin vào Thượng Đế, có thể không cần hỏi linh hồn là gì, không cần suy tư về những tư biện siêu hình học. Mục đích đặc biệt của người đó là giải trừ bản ngã, và anh ta phải tự mình vạch lấy đường đi. Mỗi phút giây trong đời người đó đều phải là sự thực chứng, vì anh ta phải giải quyết vấn đề chỉ bằng công việc, không dựa vào sự giúp đỡ của một giáo lý hay học thuyết nào, đó chính là vấn đề mà tín đồ đạo Jain dùng lý trí và linh cảm để giải quyết, còn các bhakta thì dùng tình yêu.

Bây giờ đến câu hỏi tiếp theo : Công việc này là gì? Làm việc thiện cho thế gian nghĩa là gì? Chúng ta có thể làm việc thiện cho thế gian không? Theo nghĩa tuyệt đối thì không, theo nghĩa tương đối thì có. Không một việc thiện nào làm cho thế gian lại có thể trường tồn vĩnh viễn. Chúng ta có làm thỏa mãn cơn đói cho một người trong vòng năm phút, rồi anh ta sẽ đói trở lại. Mọi niềm vui ta đem lại người khác chỉ có tính cách tạm thời. Không ai có thể chữa dứt điểm cơn sốt tuần hoàn không dứt giữa lạc thú và khổ đau. Có hạnh phúc vĩnh viễn nào có thể đem trao được cho thế giới hay không? Trong đại dương, ta không thể làm dậy một ngọn sóng mà lại không gây nên một lỗ hõm ở đâu đó. Tổng số những điều tốt trong thế giới luôn luôn như nhau xuyên suốt trong mối quan hệ giữa nhu cầu và tham dục của con người. Nó không thể tăng hoặc giảm. Hãy nhìn lịch sử nhân loại, như ta được biết hiện nay. Chúng ta há không thấy cũng những khốn khổ đó, cũng những hạnh phúc đó, cũng những lạc thú và đau khổ đó, cũng những sự khác biệt về địa vị đó hay sao? Há không phải là có kẻ giàu người nghèo, kẻ cao người thấp, kẻ mạnh người yếu đó hay sao? Tất cả đều như vậy với người Ai Cập, Hy Lạp và La Mã thời cổ, cũng như với người Mỹ ngày nay. Trong chừng mực lịch sử mà chúng ta được biết, điều đó vẫn cứ luôn luôn như vậy. Tuy nhiên đồng thời chúng ta cũng thấy rằng : đi đôi với tất cả những sự khác biệt không thể chữa giữa lạc thú và đau khổ, lúc nào cũng có sự đấu tranh nhằm làm dịu chúng đi. Mọi giai đoạn lịch sử đều sản sinh ra hàng ngàn nam nữ làm việc vất vả, để giúp cho con đường đời của bao người khác được thuận lợi trơn tru. Và cho đến nay họ có thành công hay không? Chúng ta chỉ có thể chơi đùa, đá trái bóng từ nơi này đến nơi khác. Chúng ta giải quyết được cơn đau trên bình diện thể xác thì nó lại chạy lên bình diện tinh thần. Nó giống như bức tranh trong địa ngục của Dante, trong đó những kẻ khốn khổ phải đẩy một khối vàng lên đồi. Mỗi khi họ đẩy lên được một chút thì nó lại lăn xuống. Tất cả những cuộc thảo luận của chúng ta về thời hoàng kim đẹp đều giống như những câu chuyện của học sinh, nhưng chúng cũng chẳng khá hơn gì. Tất cả những quốc gia nào mơ tưởng đến một thời hoàng kim cũng đều nghĩ rằng trong tất cả những dân tộc trên thế giới này, riêng họ sẽ có được một kỷ nguyên đẹp đẽ nhất. Đó là quan niệm vị tha tuyệt diệu về thời hoàng kim!

Chúng ta không thể làm tăng thêm hạnh phúc cho thế gian này thì, tương tự như vậy, chúng ta cũng không thể làm tăng thêm khổ đau cho nó. Tổng số hạnh phúc và khổ đau trong thế gian này sẽ luôn luôn như nhau tự cổ chí kim. Chúng ta chỉ đẩy nó từ phía bên này sang phía bên kia, rồi lại đẩy từ phía bên kia sang lại phía bên này, nhưng tổng số đó sẽ như nhau, bởi vì chính bản chất của nó luôn luôn là vậy. Thăng rồi giáng, phát triển rồi suy tàn, những hiện tượng đó đều nằm trong chính bản chất của thế giới này, nếu quan niệm khác đi thì chuyện đó cũng hợp lý như bảo rằng chúng ta có thể sống mà không chết. Điều đó hoàn toàn vô nghĩa, bởi vì ngay cái ý tưởng về lạc thú cũng đã hao hàm sự khổ đau. Ngọn đèn thường xuyên cháy tàn dần, và đó là sự sống của nó. Nếu các bạn muốn có sự sống thì phải chết đi trong từng phút, từng giây. Sinh và tử chỉ là hai cách biểu hiện khác nhau của cùng một sự vật được nhìn từ hai quan điểm khác nhau, nó là hiện tượng lên và xuống của cùng một con sóng. Người nhìn ở góc độ “xuống” thì đâm ra bi quan, còn người nhìn ở góc độ “lên” thì trở nên lạc quan. Khi một đứa bé cắp sách đến trường thì được cha mẹ chăm lo, mọi thứ đối với nó tựa hồ như tràn đầy hạnh phúc, nhu cầu của đứa bé rất đơn giản, và nó là người rất lạc quan. Nhưng người già, với nhiều trải nghiệm khác nhau, trở nên trầm tĩnh hơn và chắc chắn là bầu nhiệt huyết đã nguội lạnh đi đáng kể. Bởi vậy, những quốc gia già cỗi, với những dấu hiệu suy tàn vây quanh, thường ít mang hoài vọng hơn những quốc gia mới nổi. Ở Ấn Độ có một câu ngạn ngữ : “Đô thị ngàn năm, rừng cũng ngàn năm”. Cảnh dâu biển tang thương biến đô thị thành rừng, và ngược lại, vẫn đang diễn ra ở khắp mọi nơi, và nó khiến cho con người trở nên bi quan hay lạc quan tùy theo họ nhìn ở góc độ nào.

Quan niệm tiếp theo mà chúng ta sẽ bàn tới là quan niệm về bình đẳng. Những quan niệm về thời hoàng kim đã là động lực vĩ đại khích lệ con người làm việc. Nhiều tôn giáo rao giảng điều này như là một trong những lý tưởng của họ, cho rằng Thượng Đế đang đến để cai trị vũ trụ này, và sẽ hoàn toàn không còn sự khác biệt về thân phận nữa. Những người rao giảng giáo lý này chỉ là những kẻ cuồng tín, và những kẻ cuồng tín thực ra là những người chân thành nhất của nhân loại. Cơ Đốc giáo được rao giảng trên nền tảng đầy mê hoặc của lòng cuồng tín này, và điều đó trở thành thứ vô cùng hấp dẫn đối với đám nô lệ Hy Lạp và La Mã. Họ tin rằng với tôn giáo của kỷ nguyên hoàng kim này thì không còn cảnh nô lệ, họ sẽ được ăn uống đầy đủ, bởi vậy, họ lũ lượt kéo nhau tụ tập chung quanh ngọn cờ Cơ Đốc giáo. Trước hết, những người rao giảng giáo lý này dĩ nhiên là những người cuồng tín ngu muội, nhưng rất mực chân thành. Trong thời hiện đại, khát vọng về thời hoàng kim đó được kêu gọi bằng những câu khẩu hiệu về tự do, bình đẳng và tình huynh đệ. Đó cũng là cũng sự cuồng tín. Trên trái đất này, chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ có bình đẳng thực sự. Làm sao mà tất cả chúng ta đều có thể bình đẳng trong thế gian này? Loại bình đẳng bất khả thi đó bao hàm sự chết chóc hoàn toàn. Cái gì làm cho thế giới này được như nó hiện nó? Sự mất cân bằng. Trong trạng thái nguyên thủy, được gọi là hỗn độn, có sự cân bằng hoàn toàn. Vậy thì tất cả những lực kiến tạo của vũ trụ đã đến bằng cách nào? Bằng đấu tranh, ganh đua, xung đột. Giả sử tất cả các hạt vật chất đều được giữ ở trạng thái cân bằng thì liệu có thể có được quá trình sáng tạo hay không? Nhờ khoa học, chúng ta biết rằng điều đó không thể. Thử khuấy động một mặt nước yên tĩnh, các bạn sẽ thấy các phân tử nước cố gắng yên tĩnh trở lại, phân tử này xô đẩy phân tử kia, cũng tương tự như vậy, tất cả những hiện tượng mà chúng ta gọi là vũ trụ này – tất cả muôn vật trong đó – đều đang đấu tranh để quay về lại với trạng thái cân bằng hoàn toàn. Một sự khuấy động khác lại xảy đến, và một lần nữa, chúng ta lại có kết hợp và sáng tạo. Bất bình đẳng chính là nền tảng của mọi sự sáng tạo. Đồng thời, những lực đang đấu tranh để được bình đẳng cũng cần thiết cho sự sáng tạo như những lực phá hoại nó.

Bình đẳng tuyệt đối, nghĩa là trạng thái cân bằng tuyệt đối của tất cả những lực đang đấu tranh trên mọi bình diện, không thể nào có được trong thế giới này. Trước khi các bạn đạt đến trạng thái đó thì thế giới này đã biến thành nơi hoàn toàn không phù hợp cho bất kỳ sự sống nào, và sẽ không còn một ai ở nơi đây nữa. Do đó, chúng ta thấy rằng những ý tưởng về thời hoàng kim và sự bình đẳng tuyệt đối không những là bất khả thi, mà còn hơn thế nữa, nếu chúng ta cố gắng thực hiện thì chắc chắn chúng sẽ đưa ta đến ngày tận diệt. Cái gì tạo nên sự khác biệt giữa người và người? Phần lớn là do sự khác biệt trong trí não. Ngày nay, chỉ có kẻ loạn trí mới bảo rằng tất cả chúng ta sinh ra đều có trí lực như nhau. Chúng ta đi vào thế giới này với những tố chất bẩm sinh khác nhau, chúng ta đi vào đây như là những người cao siêu hơn hoặc thấp kém hơn, và không có cách nào thoát ra khỏi thân phận tiền định trước khi sinh. Người da đỏ châu Mỹ đã ở xứ sở này hàng mấy ngàn năm, và chỉ có một nhóm tổ tiên các bạn[9] đến vùng đất của họ. Họ đã tạo cho bộ mặt của xứ sở này một sự khác biệt biết là ngần nào! Tại sao người da đỏ không phát triển và xây dựng thành phố, nếu như tất cả đều bình đẳng? Cùng với tổ tiên của các bạn, một loại trí lực khác đã đến miền đất này, những khối ấn tượng khác trong quá khứ đã đến, rồi chúng hoạt động và tự biểu hiện mình. Bất sai biệt tuyệt đối là sự chết chóc. Chừng nào thế giới này còn tồn tại thì phải còn và sẽ còn sai biệt, và thời hoàng kim của sự bình đẳng tuyệt đối chỉ đến khi chu kỳ sáng tạo đi đến hồi kết thúc. Trước đó, không thể có sự bình đẳng được. Tuy nhiên, ý tưởng thực hiện được thời hoàng kim vẫn là một nguyên động lực vĩ đại. Trạng thái bất bình đẳng cần thiết cho sự sáng tạo thế nào thì sự đấu tranh để hạn chế nó cũng cần thiết như thế nấy. Nếu không có sự đấu tranh để trở thành tự do và quay về với Thượng Đế thì cũng sẽ không có sự sáng tạo. Chính sự khác biệt giữa hai lực này đã quy định bản chất động cơ hoạt động của con người. Sẽ luôn luôn có những động cơ thúc đẩy làm việc, một số có xu hướng đưa đến tình trạng trói buộc, một số hướng đến tự do.

Tình trạng rối rắm của thế giới này là một cơ chế khủng khiếp. Vừa đặt tay vào nó thì lập tức chúng ta bị nắm lấy và cuốn theo ngay. Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng khi đã làm tròn một bổn phận nào đó thì chúng ta sẽ được nghỉ ngơi, nhưng trước khi làm tròn một phần của bổn phận này thì bổn phận khác lại đang chờ sẵn. Tất cả chúng ta đều bị cái cỗ-máy-thế-giới mãnh liệt và phức tạp này kéo đi. Chỉ có hai cách để thoát ra khỏi nó, một cách là cứ phó mặc cho cỗ máy, cứ để nó vận hành và làm khách bàng quan, từ bỏ những khát vọng của chúng ta. Cách này nói thì nghe rất dễ, nhưng hầu như không thể thực hành được. Tôi không biết trong số hai mươi triệu người thì có được một người làm nỗi điều đó không. Cách kia là lăn lộn vào cuộc sống, học hỏi lấy những bí quyết làm việc, và đó là con đường của karma-yoga. Đừng có bay xa khỏi bánh xe của cỗ máy, mà hãy bên trong nó và học hỏi lấy những bí quyết làm việc. Thông qua những việc làm thích hợp ở bên trong, ta cũng có thể thoát được ra ngoài. Thông qua chính cỗ máy, ta tìm được đường ra.

Bây giờ thì chúng ta đã thấy được làm việc là gì rồi. Nó là một phần trong nền tảng của tự nhiên, và cứ luôn luôn như thế. Những ai tin vào Thượng Đế sẽ hiểu điều này rõ hơn, vì họ biết rằng Thượng Đế không phải là một sinh thể bất lực đến độ phải cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Dù vũ trụ nầy vẫn luôn tiếp tục vận hành, chúng ta phải nhớ rằng mục tiêu của chúng ta là tự do, và theo karma-yoga thì mục tiêu đó có thể đạt được bằng công việc. Mọi ý tưởng muốn xây dựng một thế giới hoàn toàn hạnh phúc có thể là động cơ tốt đẹp cho những kẻ cuồng tín, nhưng ta phải nhớ rằng óc cuồng tín mang lại điều ác nhiều không kém gì điều thiện. Hành giả karma-yogi hỏi vì sao các bạn lại phải yêu cầu một động cơ làm việc nào đó, ngoài động cơ là tình yêu tự do bẩm sinh. Hãy vượt lên trên những cái gọi là động cơ “xứng đáng”. “Các bạn có quyền làm việc, nhưng không có quyền trông mong thành quả”. Các hành giả karma-yogi cho rằng con người có thể tự tu tập để biết và thực hành điều đó. Khi ý tưởng làm việc thiện đã trở thành một phần ngay trong bản chất của một người rồi thì anh ta sẽ không còn đi tìm động cơ nào ở bên ngoài nữa. Chúng ta hãy làm việc thiện, chỉ vì làm việc thiện là điều tốt đẹp, người nào làm việc thiện để cầu mong lên thiên đàng là tự trói buộc để kéo mình xuống thấp, theo lời các hành giả karma-yogi. Bất cứ việc gì được thực hiện dù chỉ bằng chút ít động cơ vị kỷ cũng sẽ rèn thêm xích xiềng buộc vào chân chúng ta, thay vì giúp chúng ta được tự do.

Bởi vậy, con đường duy nhất để từ bỏ tất cả những thành quả lao động là giữ tâm vô luyến với chúng. Nên biết rằng thế giới này không phải là chúng ta, và chúng ta cũng chẳng phải là thế giới này, rằng chúng ta không thực sự là thể xác, chúng ta cũng không thực sự làm việc. Chúng ta là Chân Ngã, vĩnh viễn tự tại an nhiên và yên bình. Vậy thì cớ sao chúng ta lại để bị ràng buộc bởi bất cứ thứ gì? Nói rằng chúng ta hoàn toàn vô luyến cảm, điều đó thật là tốt, thế nhưng có cách nào để thực hiện được điều đó không? Mọi việc tốt ta làm mà không vì bất kỳ một động cơ thầm kín nào, thay vì rèn đúc thêm một xích xiềng mới, sẽ bẻ gãy một trong những mắc xích trong chuỗi xích hiện có. Mọi ý nghĩ tốt đẹp ta gởi cho thế gian này, mà không nghĩ đến chuyện báo đáp, sẽ được tích trữ ở đó và bẻ gãy một mắc xích trong chuỗi xích, giúp chúng ta ngày càng thuần tịnh hơn, cho đến khi chúng ta trở thành người thuần tịnh nhất trong loài người. Tuy nhiên, tất cả những điều này có vẻ như mang tính hào hiệp viễn vông và triết học cao xa, mang tính lý thuyết hơn là thực tiễn. Tôi đã đọc nhiều lập luận phản bác kinh Bhagavad Gitā, và nhiều người cho rằng các bạn không thể làm việc nếu không có động cơ. Những người đó chưa bao giờ thấy được việc làm vị tha do ảnh hưởng của óc cuồng tín và do đó, họ mới nói theo cách đó.

Để kết thúc, tôi xin được nói một đôi lời về một người đã thực sự vận dụng giáo lý karma-yoga này vào thực tiễn. Người đó là đức Phật. Ngài là người duy nhất đã thực hành trọn vẹn giáo lý này. Tất cả những nhà tiên tri trên thế giới, trừ đức Phật, đều có những động cơ bên ngoài thúc đẩy họ đến với hành động vị tha. Những nhà tiên tri trên thế giới, mà đức Phật là ngoại lệ duy nhất, có thể được chia thành hai nhóm, một nhóm cho rằng họ là hóa thân của Thượng Đế để giáng trần, một nhóm khác lại cho rằng họ chỉ là sứ giả do Thượng Đế phái tới, và cả hai nhóm đều nhận sự thúc đẩy từ bên ngoài, hy vọng vào sự đền đáp từ bên ngoài, cho dù họ có dùng loại ngôn ngữ tâm linh cao siêu đến đâu đi nữa. Chỉ có đức Phật là nhà tiên tri duy nhất tuyên bố : “Ta không quan tâm tìm hiểu những lý thuyết của các ông về Thượng Đế. Tranh luận về tất cả những học thuyết tinh vi về linh hồn, thử hỏi có ích gì? Hãy làm việc thiện, và hãy có thiện tâm, điều đó sẽ đưa các ông đến giải thoát và đến bất kỳ chân lý nào hiện hữu”. Trong hành vi xử thế, Ngài tuyệt đối không vì một động cơ cá nhân nào, và có người nào có thể làm được gì hơn Ngài? Hãy chỉ cho tôi trong lịch sử một nhân cách đã bay cao vút, vượt lên trên tất cả như thế. Toàn thể nhân loại chỉ sản sinh ra một nhân cách duy nhất như thế, một triết học cao viễn như thế, một sự cảm thông rộng lớn như thế. Vị triết gia vĩ đại đó, dù thuyết giảng giáo lý vô thượng, vẫn có sự cảm thông sâu xa nhất đến từng sinh vật nhỏ bé nhất, mà không bao giờ đưa ra bất kỳ một đòi hỏi nào cho mình. Ngài là một hành giả  karma-yogi lý tưởng, hành động hoàn toàn không có động cơ, và lịch sử nhân loại chứng minh Ngài là một con người vĩ đại nhất đã từng sinh ra, không gì sánh nỗi – là sự kết hợp vĩ đại nhất giữa trí tuệ và tâm hồn đã từng hiện hữu, là sức mạnh tâm linh vĩ đại nhất từng hiển lộ. Ngài là nhà cải cách vĩ đại đầu tiên dám tuyên bố : “Đừng tin điều gì bởi vì một số kinh điển xưa đã tạo ra, đừng tin điều gì bởi vì đó là tín ngưỡng của quốc gia các ông, bởi vì các ông được dạy phải tin từ lúc còn bé, mà hãy suy luận cho đến chỗ rốt ráo, và sau khi đã phân tích mà các ông thấy điều đó đem lại lợi ích cho một người và tất cả mọi người thì hãy tin nó, sống theo nó và giúp người khác sống theo nó”.

Người làm việc tuyệt vời nhất là người làm việc không vì bất kỳ động cơ nào, không vì tiền hay danh tiếng, cũng không vì bất cứ một thứ gì khác, và khi một người làm được điều đó thì anh ta sẽ là một vị Phật, và từ người đó sẽ xuất phát một năng lực làm việc theo cách nào đó có thể biến chuyển được thế giới. Người đó đại diện cho lý tưởng tối cao của pháp môn karma-yoga.


[1] Đây là con đường ta luôn gặp trong những tôn giáo cực đoan và những thể chế xã hội độc tài.

[2] Đây là trường hợp của những tỷ phú người Mỹ, chẳng hạn như Bill Gate. Những người này đem trí lực ra làm giàu, như một cách để khẳng định mình, để rồi dùng phần lớn tài sản đó làm từ thiện hoặc thực hiện những công trình phục vụ cho xã hội, chứ không để lại cả cho con. Nó hoàn toàn khác hẳn tư tưởng “Hy sinh đời bố, củng cố đời con” đáng kinh tởm của một số người. Những người này dùng mọi thủ đoạn bất nghĩa để tích lũy của cải dành lại cho con, tạo ra một thế hệ bất tài ăn bám, sống phè phỡn bằng những đồng tiền tội lỗi từ mẹ cha, đẩy xã hội lún sâu vào sự ngu dốt và băng hoại.

[3] Trong tư tưởng Phật giáo được dịch là “hành”.”

[4] Đây chính là tinh thần “Vô công dụng hạnh” của Phật giáo, hay tư tưởng “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” của kinh Kim Cương.

[5] Trương Trào, trong tác phẩm U mộng ảnh, cũng có câu nói tương tự : “Thế nào là người tốt? Không làm hại đời là người tốt. Thế là người xấu? Làm hại cho đời là người xấu“.(何 謂 善 人 ? 無 損 於 世 者, 則 謂 之 善 人。 何 謂 惡 人 ? 有 害 于 世 者, 則 謂 之 惡 人。Hà vị thiện nhân? Vô tổn ư thế giả, tắc vị chi thiện nhân. Hà vị ác nhân? Hữu hại ư thế giả, tắc vị chi ác nhân.)

[6] Tức nước Mỹ.

[7] Ám chỉ Pavhari Baba, người mà  đại sư Vivekananda biết rất rõ [G.C trong nguyên tác].

[8] Ám chỉ Pavhari Baba [G.C trong nguyên tác].

[9] Chỉ người Mỹ.

Thảo luận