Lịch sử tư tưởng và tôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết, khi vừa đản sinh đã bước đi bảy bước trên tòa sen để tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ duy Ngã độc tôn.” Chúng ta không cần phải thắc mắc về tính hợp lý của sự kiện và câu nói đó, vì chúng chỉ mang tính biểu tượng, như nhiều sự kiện trong mọi tôn giáo khác, mà chỉ nên lưu ý rằng trong suốt 49 năm thuyết pháp của đức Phật, nội dung câu nói đó được thể hiện trong tất cả những trang kinh.
Ngã ở đây, theo thiển ý của tôi, hoàn toàn không có liên quan gì đến khái niệm Ngã thông thường trong kinh điển, và đối lập với nó là khái niệm Vô Ngã. Trong tư tưởng Phật giáo, liệu có một cái Ngã nào tồn tại trong chủ trương “tứ đại giai không, ngũ uẩn phi hữu”? Hay có một cái Ngã nào đứng vững trước cơn lốc phủ định toàn triệt bằng “vô, phi, bất” trong Bát Nhã Tâm Kinh? Ngã ở đây là cái Tâm Minh Linh hay Tuệ Giác, phát sinh từ cảnh giới thánh trí tự chứng. Đây là ánh sáng chiếu ra từ cảnh giới “căn bản triệt ngộ” (mũlamantra) xua tan hết những bóng đêm huyền thoại về những giá trị tối linh trong cõi thế. Những giá trị tối linh trong các tôn giáo luôn được xác lập do thiên khải hay từ một thế lực siêu nhiên, để đảm bảo tính chất phi phàm của chúng. Đấng tiên tri Moses của Thiên Chúa giáo nhận lãnh giáo huấn và luật pháp từ Thiên Chúa trên đỉnh núi Sinai; đấng tiên tri Muhammad của Hồi giáo thì dựa vào sự khải thị của thánh Allah để thuyết lại kinh Qur’an; đến cả một triết gia trần tục nhất là Khổng Tử của Trung Quốc cũng phải dựa vào hình tượng Nghiêu, Thuấn, Chu Công, v.v… Chỉ đức Phật là đấng duy nhất tuyên bố mình là người tìm ra chân lý bằng tuệ giác, và đem chân lý ấy phổ biến cho khắp cõi thiên nhân. Ánh sáng từ tuệ giác đó phổ chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới để con người nhìn ra cấu trúc vĩ đại toàn bích của vũ trụ theo thuyết duyên khởi, và khai mở hết thảy những điều huyền mật của nhân sinh. Những giá trị siêu nhiên, những thứ từng đem thần thánh phủ bóng lên trí não nhân loại, bị đẩy hết vào quá khứ, để Trí Tuệ Viên Mãn được toàn nhiên thị hiện. Cảm nhận được điều đó ta mới nhận ra được diệu nghĩa trong thông điệp “Thiên thượng thiên hạ duy Ngã độc tôn!” Ở một góc độ nào đó, ta có thể so sánh Ngã trong thông điệp này với sự xuất hiện của Lý Tính, mở đầu cho Thời kỳ Khai Sáng (Age of Enlightenment) ở Châu Âu vào đầu thế kỷ 18, xua tan bóng đêm thời Trung Cổ. Thông điệp của đức Phật cũng xua tan hết những bóng tối u ám của thần linh, để mở ra những phương trời bao la của giác ngộ.
Cảnh giới thánh trí tự chứng trong đạo Phật có thể ví như một ngọn lửa. Ngọn lửa đó có thể được thắp sáng bằng cả một rừng cây, một thân cây, một bếp lửa, một ngọn đèn, hay thậm chí chỉ bằng một que diêm, v.v… nhưng hễ lửa còn cháy thì tính lửa kia không mất. Chính cảnh giới thánh trí tự chứng mới đem lại huyền lực cho kinh điển Phật giáo. Kinh điển Phật giáo chỉ được thắp sáng bằng ngọn lửa trí tuệ, chứ không phải bằng một thứ gì khác. Tất cả những thứ khác đều là “quách nhiên vô thánh”, theo tinh thần của Tổ Đạt Ma trả lời Lương Võ Đế, một khi ta chưa cảm nhận được huyền lực từ những trang kinh. Huyền lực đó được nuôi dưỡng bằng cảnh giới thánh trí tự chứng. Đó là cảnh giới tối thắng của “duy Ngã độc tôn.”
Một khi đã cảm nhận được huyền lực từ những trang kinh thì sự tu học của một hành giả sẽ không còn bị câu nệ vào những hình thức khô cứng. Một ngôi chùa chân chính được nuôi dưỡng bằng huyền lực từ những trang kinh sẽ tự nhiên biến thành một đạo tràng thuần tuý để tu học. Đó sẽ là nơi trang nghiêm của Trí Tuệ để con người nương theo lời Phật dạy mà tìm cầu giải thoát, chứ không phải là địa điểm du lịch hay tổ chức từ thiện, ma chay, v.v…
Tôi có chút cơ duyên với Phật pháp nên thường tìm đọc, dịch kinh điển, để học hỏi và tĩnh tâm. Và mỗi khi đọc, dịch tôi thường cảm nhận được huyền lực từ từng câu kinh. Mỗi chữ đều là cam lồ, mỗi câu đều là pháp bảo. Khi đang dịch bộ Lăng Già được hơn một nửa thì tôi mang bịnh nặng. Tôi cầu Tam Bao gia hộ cho tôi đủ sức khỏe để hoàn tất công trình. Những đêm gượng đau để dịch kinh, tôi thấy tâm lạc lạ thường, dù thân không an lắm. Dịch đến đoạn đức Phật cũng phải bao phen chịu khổ nạn, tự nhiên tôi thấy bệnh tật như tan biến hết, thân tâm thư thới. Tôi tin rằng huyền lực đó đến từ những trang kinh, khi ta đọc kinh bằng cả tâm nguyện “tín, giải, thọ, trì.” Từ đó, tôi lại thêm tin vào sức mạnh của kinh điển. Mỗi trang kinh, thậm chí mỗi câu kinh, không chỉ mở rộng tâm thức ta ra trước những phương trời tư tưởng bất khả tư nghì, mà còn có sự tác động vi tế đến thân tâm. Khi dich xong cuốn kinh Lăng Già, và được một nhà xuất bản nhận in, thì tác phẩm L’Enseignement de Vimalakīrti – bản dịch cuốn kinh Duy Ma sang Pháp ngữ từ Tạng ngữ – của Étienne Lamotte lại cuốn hút tôi. Và tôi lại bắt tay vào dịch bộ kinh phương đẳng kỳ diệu này. Vì dịch kinh có nghĩa là đọc kinh thật kỹ qua từng câu chữ. Tôi xem đây như là một Cuộc Chơi Chuyển Nghiệp khi tiếp cận bến bờ sinh tử, và làm một bài thơ:
Gượng đau ngồi dịch Lăng Già
Xong, lại mơ cõi Duy Ma phiêu bồng
Để mai về bến sương hồng
Trong tâm còn lại đôi dòng chân kinh
Bước chân qua cõi tử sinh
Khi trong tâm vẫn “còn lại đôi dòng chân kinh”, nghĩa là khi ta vẫn còn tiếp nhận được nguồn huyền lực từ những trang kinh Phật, tôi tin rằng ta vẫn có thể an nhiên tự tại để có thể một mình đi suốt cõi sinh tử luân hồi.
Sài Gòn 09.12.20, những ngày điều trị bệnh
Ghi chú : Bài này được viết để đăng trong số xuân Tân Sửu (2021) của tạp chí Liễu Quán, Huế. Do Ban biên tập chưa chia sẻ ý tưởng với người viết nên đã sửa đổi đoạn cuối, làm lệch đi ý nghĩa của từ “Cuộc Chơi” theo tinh thần Das Spiel của Heidegger và Nietzsche.
Thảo luận