Trời mới hừng đông, nỗi ưu tư lo lắng trong lòng tôi chợt nguôi đi đôi chút. Tôi tự nhủ: mình đã tìm ra chốn an tâm lập mệnh rồi. Đánh răng, rửa mặt xong xuôi, tôi ngồi vào bàn, cầm bút lên để tìm ý viết thư. Tôi ngồi thẩn thờ một lúc rồi viết vội lá thư này:
Gởi Tĩnh Tử tỷ tỷ,
Than ôi, tiểu đệ xin đành phải vĩnh viễn chia tay a tỷ. Tiểu đệ thật ra là một nhà sư “tam giới câu túc” suốt đời không được sống chung cùng phụ nữ. Thịnh tình của a tỷ thật tha thiết, sâu dày, ơn nghĩa lại cao ngất trời mây, tiểu đệ không phải là thân gỗ đá, sao lại không cảm kích? Nhưng tiểu đệ vốn sinh ra với số phận lạc loài, cuộc đời gặp không biết bao nhiêu là chuyện khổ đau mà đành phải âm thầm chịu đựng, không biết bày tỏ cùng ai. Tiểu đệ đâu nỡ đem tấm thân trôi dạt lênh đênh, phiêu linh cơ khổ của mình để quấy nhiễu cuộc sống vui buồn của a tỷ? Nay tiểu đệ tay cầm gậy lạnh, làm một đầu đà viễn du lang bạt. Vũ trụ bao la, thế gian mờ mịt, không biết đến khi nào hai ta mới được trùng phùng. Những mong a tỷ rộng lượng hải hà tha thứ cho kiếp tàn sinh của tiểu đệ thì thật không còn gì để nói.
Lìa nhà ra đi vội vã thế này, không kịp bẩm báo với mẹ, với dì, chỉ mong a tỷ từ bi ai mẫn, thay mặt tiểu đệ mà bộc bạch tấm lòng này. Mong a tỷ khéo lựa lời an ủi hai vị lão thân, khuyên nhủ hai vị đừng vì thân thế của đứa con bướng bỉnh này sầu bi khổ não, nhắc nhở hai vị chịu khó ăn uống đầy đủ, mặc thêm áo quần cho ấm áp, như thế tức là thương yêu đứa con này rồi vậy.
Ấu đệ Tam Lang nuốt lệ mà cúi đầu cảm tạ.
Viết xong lá thư, tôi vội vã thay đổi y phục, đem lá thư giấu vào trong cái hộp nhỏ bên bằng rơm khô mà hôm trước Tĩnh Tử đã đựng đầy quà mang tới tặng tôi. Tôi biết rằng sau khi tôi đi rồi, thế nào Tĩnh Tử cũng lục soát cái hộp và sẽ tìm thấy lá thư trong đó. Gói ghém hành lý xong xuôi, tôi ngước mắt lên nhìn đồng hồ bằng đồng treo trên tường, nghe đồng hồ thong thả điểm bảy tiếng. Tiếng chuông đồng hồ như giục giã tôi lên đường. Lúc bấy giờ a mẫu, a di chắc là ở trong phòng ngủ để sắp xếp y phục cùng đồ trang sức cho em tôi, Tĩnh Tử và người đầu bếp cùng chị giúp việc chắc vẫn còn ở trong nhà bếp, không hay biết gì.
Cuối cùng, tôi mở cổng, len lén bước ra. Mới đi được mấy bước, tôi ngoảnh đầu nhìn lại chợt thấy Tĩnh Tử hớt hải chạy theo bén gót. Mái tóc đen huyền lòa xòa phủ xuống bờ vai, rõ là nàng chưa kịp chải tóc. Nàng bàng hoàng hỏi lớn:
− Tam Lang, sáng sớm thế này mà anh đi đâu thế? Tuyết tụ đêm qua còn chưa tan, ra ngoài không được đâu. Mà đồ điểm tâm đã dọn sẵn cả rồi, sao anh không chờ một chút?
Trong lòng tôi vô cùng hoảng hốt, vội giở mũ chào nàng, rồi cung kính mà đáp rằng :
− Mấy ngày gần đây, cả người tiểu đệ đau nhức như dần, quên luôn cả chuyện vấn an a tỷ mỗi sáng, mong a tỷ lượng thứ cho. Hôm nay, tiểu đệ muốn đi ngắm cảnh Bạch Long Bất Động Tôn Thần, nên cần phải đi trước lúc tuyết tan. Rất mong a tỷ đừng vì tiểu đệ mà bận tâm.
Tĩnh Tử bước tới trước mặt tôi, ngạc nhiên cất tiếng hỏi:
− Gương mặt Tam Lang sao lại tái mét thế này? Anh bị cảm mạo chăng?
Nói xong, nàng đưa cánh mịn màng trắng muốt sờ vào trán tôi, rồi cầm tay tôi mà nói :
− Quả nhiên là bị nóng sốt rồi. Chuyến đi này Tam Lang phải ngừng ngay thôi. Xin anh quay vào nhà ngay cho, chờ em bẩm báo lại với a mẫu.
Giọng nói nàng run run như lạc hẳn đi.
Tôi vội trình bày :
− A tỷ quan tâm thái quá đó thôi. Tiểu đệ chỉ thấy hơi chóng mặt một chút. Chính vì vậy mà tiểu đệ có ý ra ngoài đi dạo một chút để hít thở không khí trong lành. Xin a tỷ đừng cản trở, hãy để cho tiểu đệ đi nhé. Độ hai giờ nữa, tiểu đệ sẽ quay về nhà, vậy có được chăng?
Tĩnh Tử đưa ngón tay vuốt lại mái tóc, thở dài một tiếng chứ không đáp lời tôi. Một lúc lâu, nàng mới cất giọng yêu kiều khẽ nói :
− Được chứ! Để em cùng đi với Tam Lang.
Tôi vội nói:
− Há dám phiền gót ngọc! Tiểu đệ đi dạo một mình, không có gì phải ngại cả.
Tĩnh Tử có vẻ không vui, gắng gượng kìm chế dòng nước mắt, rồi ngậm ngùi nói:
− Không được đâu anh. Dầu có tan xương nát thịt, em cũng phải bảo vệ cho Tam Lang, không có gì phải hối tiếc. Huống chi đây chỉ là đi bộ loanh quanh? Chỉ mong Tam Lang đừng có cố chấp như thế là may mắn cho em lắm rồi.
Tôi không còn lời nào để cự tuyệt, đành phải quyền biến, cùng Tĩnh Tử sánh vai mà đi. Trên đường tuyết rơi lấp lánh, tôi nhìn qua chiếc má lúm đồng tiền trên gương mặt xinh như hoa phù dung của Tĩnh Tử. Gương mặt đó nổi bật lên giữa ánh sáng phản chiếu từ tuyết trắng trông diễm lệ tuyệt luân. Tâm hồn tôi lại hoang mang dao động. Tĩnh Tử từ từ đưa bàn tay trắng như ngọc nắm chặt bàn tay tôi, hoặc sờ vào trán tôi để xem nhiệt độ tăng giảm thế nào. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã đi đến một bãi nơi góc biển. Lúc bấy giờ, thủy đang rút xuống. Tĩnh Tử khẽ nhắm hàng mi, tựa hồ đang suy nghĩ. Tôi thấy gương mặt nàng gầy đi quá đỗi, và trên mi mắt lấp lánh những giọt lệ, lòng tôi thấy xiết bao thương cảm. Tôi đưa cánh tay đỡ lấy eo nàng, khuyên nàng nên ngồi nghỉ ngơi một chút. Tĩnh Tử đưa mắt chăm chú nhìn ra mặt biển bao la mà không nói lời nào. Nàng nghe lời tôi, ngồi xuống nghỉ khoảnh cát mịn khô. Lúc bấy giờ thần trí tôi đã có phần tỉnh táo, tâm hồn đã lấy lại bình tĩnh. Hai bên thái dương tôi không còn nóng nữa mà trở lại bình thường, nhưng tôi vẫn ngồi trầm mặc, làm thinh không nói. Tĩnh Tử dường như cũng nguôi bớt nỗi bi thương, nhưng nàng vẫn buồn rầu nhìn những đợt sóng lấp lánh nhấp nhô trên mặt biển.
Chúng tôi ngồi bên nhau im lặng thật lâu, chợt nàng vịn lấy vai tôi mà buồn bã hỏi:
− Tam Lang, suy nghĩ cái gì mà ngẩn ngơ thế? Tam Lang có chịu nghe những lời đường đột của em không? Hôm nọ, anh tiếp nhận bức thư gởi từ bưu điện Hương Giang tới, bên trong là một lá thư nho nhỏ màu hồng toàn những chữ tiếng Anh, ký tên là “Miss Robert”. Lá thư đó là của cô tiểu thư khuê các nhà ai thế? Anh có thể nói cho em nghe được không? Em nhìn nét chữ thấy thật là khả ái dễ lay động lòng người, đâu thua gì lối thư pháp trâm hoa cách?[1] Sao nàng đó lại dùng cái nét chữ xinh xắn trông tợ lông chim bay ngang trang giấy để mê hoặc Tam Lang của em? Khiến Tam Lang phải ngày đêm mơ tưởng, đến mức thẩn thờ như mất hồn mất vía? Riêng phần em suy nghĩ thì em biết chắc Tam Lang đã đem lòng thương cảm con người bạc mệnh xinh tươi như hoa anh đào kia rồi. Hôm nay, Tam Lang chịu cho em biết tỏ tường mọi sự hay chăng?
Chợt nghe Tĩnh Tử nói những lời nhẹ nhàng mà đầy ngậm ngùi cay đắng một cách vô đoan vô cớ như thế, tôi ngẩn người sững sốt, không kịp chuẩn bị được lời nào để tả lời nàng cả, nên đành ngồi yên không biết phải nói sao.
Giọng nói của Tĩnh Tử vẫn tiếp tục :
− Tam Lang, vì lẽ chi anh ngậm miệng như tượng đá thế kia? Anh không muốn cho em biết một đôi điều đáng yêu trong câu chuyện ấy hay sao?
Tới lúc bấy giờ, tôi liền đáp ngay :
− Cô ấy là người quê ở Madrid, xứ Tây Ban Nha. Cha cô ấy chính là ân sư của tiểu đệ.
Tĩnh Tử nghe tôi nói như thế thì ánh mắt rung động, lộ vẻ hoang mang, tựa hồ như bi thương sợ hãi đến tột độ. Rồi nàng từ tốn nói tiếp:
− Chắc hẳn cô ấy là người con gái dung nhan tuyệt đại, vậy thì Tam Lang làm sao có thể quên cho được?
Tĩnh Tử nói xong, đôi môi anh đào còn hé mở, cặp mặt long lanh tựa sóng nước hồ thu nhìn chăm chăm vào mặt tôi, tựa hồ muốn soi thấu trái tim tôi để xem nó đang hướng đến phương nào. Tôi đưa mắt nhìn nàng, thấy dung nhan mười phần xuân có gầy ba bốn phần, đôi mắt thông minh chợt rớm hồng, long lanh giọt lệ chực lăn xuống má. Tôi biết Tĩnh Tử bản tính vốn hoạt bát tự nhiên, mà đến lúc này để sóng tình trùng điệp, lớp lớp dâng lên, nghe reo ái tình trong nhịp máu phân vân. Tôi đứng trước một tình huống tột cùng quẫn bách, không biết phải dùng lời nào để nói cho xuôi.
Được một lúc, tôi lấy lại vẻ mặt nghiêm trang mà đáp:
− Mong a tỷ hãy nguyên lượng cho nỗi lòng tiểu đệ. A tỷ hỏi nhiều như vậy để làm chi? Thật tình, tiểu đệ chẳng hề một mối quyến luyến nào trong tâm tưởng. Còn những ngày qua, tiểu đệ cứ u sầu phiền muộn thì điều đó lại chẳng phải như a tỷ suy đoán. Tiểu đệ đã trải qua trọn vẹn những niềm thống khổ cùng cực chốn nhân gian, nên đến nay, lòng tiểu đệ tuyệt nhiên chẳng còn tơ tưởng gì với nhân thế. Chỉ vì a tỷ chưa hiểu rõ được đấy thôi.
Tôi nói xong, Tĩnh Tử đưa tay áo lên che mặt khóc, rồi nghẹn ngào cất tiếng :
− Nếu vậy thì Tam Lang đã xem em chẳng khác nào kẻ qua đường. Làm sao em biết được tâm tư đó?
Ngưng một lúc, nàng nói tiếp:
− Tam Lang ơi, tâm ý anh rốt cuộc thuộc về đâu? Nếu anh không một lòng một dạ hướng về người đẹp ấy thì sao lại nhẫn tâm làm hỏng kế hoạch của hai vị lão thân?
Nghe những lời đó, tôi thật không biết phải làm sao, lại càng không nỡ làm tổn thương mối tình của nàng. Cái gọi là “dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”[2], há chẳng phải là nói đến tình cảnh này sao?
Tôi bèn cuốn hết lại những sợi tơ sầu, mà cất lời an ủi:
− Tiểu đệ nào lại thế! Chẳng qua chỉ là những lời bỡn cợt thôi mà. A tỷ việc gì lại ấp ủ trong lòng, khiến tiểu đệ phải muôn phần hoảng sợ. Thật tình chỉ vì trong lòng tiểu đệ không được thư thái, nên buột miệng nói ra những lời thiếu suy nghĩ. A tỷ vốn rất thương mến tiểu đệ mà, xin a tỷ hãy rộng lượng tha thứ cho thì tiểu đệ cảm kích vô vàn. A tỷ bằng lòng tha thứ nhé?
Tĩnh Tử nghe nói thế, gương mặt nàng như vui như buồn, nửa như hoan hỷ, nửa tựa sầu bi. Nàng gục đầu vào vai tôi, toan nói điều gì, rồi lại thôi. Tôi bèn an ủi :
− Bi thương là điều chẳng nên, sao bằng ta quay về quách.
Tĩnh Tử nghe nói liền đổi sầu làm vui, tươi cười đứng lên, nắm chặt lấy tay tôi ra chiều thân thiết, rồi thỏ thẻ :
− Tam Lang, hãy nhớ lấy. Từ nay về sau, vô luận muốn đi đâu thì cũng phải hẹn em đi cùng, như thế thì lòng em vô cùng vui sướng. Còn như sáng nay anh hấp tấp ra đi một mình như thế, há chẳng phải là khiến cho người ta quan tâm lo lắng ư?
Tôi liền đáp:
− Xin kinh cẩn nhớ lời.
Lúc ấy, Tĩnh Tử cúi người xuống nhặt một chiếc vỏ nghêu hoa văn lóng lánh, cầm trong tay lật qua lật lại mấy lần, rồi úp xuống trên mặt cát. Bộ dạng nàng trông vô cùng vui vẻ. Chúng tôi sánh vai nhau mà đi. Bầu trời bỗng chuyển thành u ám, như muốn mưa tuyết mà lại chẳng mưa. Trên đường vắng ngắt, chẳng có người đi.
Tĩnh Tử vừa đi vừa khẽ thở dài. Lòng tôi không ngớt nơm nớp lo âu, bèn cất tiếng hỏi :
− Có chuyện gì mà a tỷ thở dài như vậy?
Tĩnh Tử đáp:
− Tam Lang còn có điều không vừa ý thì lòng em luôn áy náy không yên.
Tôi nói:
− Tiểu đệ chỉ mong a tỷ được vui tươi thư thái thôi.
Lúc bấy giờ, đã về gần tới bên hông căn đình chơ vơ nơi chân núi, cách nhà chỉ vài mươi bước. Tôi dừng chân lại, bảo :
− A tỷ về trước đi, an ủi hai vị lão thân. Tiểu đệ đi lại chiếc cầu gỗ đằng kia nhặt một ít vỏ sò đem về tặng a tỷ. Chừng vài mươi phút nữa, tiểu đệ sẽ về nhà. Chỉ ngại a tỷ phải nhọc lòng lo lắng. A tỷ bằng lòng chứ?
Tĩnh Tử nói:
− Hay lắm. Để em về trước, lo cơm sáng cho Tam Lang.
Nói xong, nàng cầm lấy tay tôi, khom người thi lễ mà nói:
− Tam Lang, nhớ về sớm nhé. Em và a muội cùng chờ Tam Lang về để cùng ăn sáng đấy. Tối nay, mình sẽ cùng ngắm trăng chiếu trên tuyết.
Tôi cúi mắt nhìn bàn tay tuyết bạch băng thanh của nàng, có ẩn hiện những đường gân xanh lợt lạt, lòng không nỡ bỏ đi ngay. Tôi đứng bồi hồi một lúc lâu, rồi nói:
− Kính
tạ a tỷ đối đãi tiểu đệ ân cần.
Tôi đưa mắt nhìn theo Tĩnh Tử đang uyển chuyển bước đi, ngậm ngùi than một tiếng, tự nhủ trong lòng:
− Những sợi tơ tình mảnh mai sao lại trói buộc con người quá chặt!
Tôi cố gắng kìm nén những đợt sóng lòng, rồi vòng qua chân núi để vội vã lên đường. Đi được một đỗi, chợt gặp người phu kéo xe, tôi vẫy tay gọi lại, thẳng đường đến nhà ga. Mua vé tàu xong thì tàu chuyển bánh. Xin vĩnh biệt xứ Phù Tang. Chuyến xe lăn như đưa người về trong thiên cổ, hương lửa mộng tình xin hẹn kiếp lai sinh[3].
Hai ngày rưỡi sau, tôi tới Trường Trĩ (Nagasaki), rồi đáp tàu thủy về lại Trung Hoa. Tôi chợt động tâm suy nghĩ, bèn đem hết bao nhiêu giấy mực và kỷ vật mà ngày trước Tĩnh Tử đã trao cho tôi, ném hết vào lòng biển. Lòng tôi thầm nhủ:
− Thôi, thế là hết! Từ đây bao nỗi ưu sầu lo lắng trong lòng đã tiêu tan sạch, để chìm vào trong lòng biển nguôi quên. Một lần đi là một lần vĩnh biệt. Bao mộng hoài xin vĩnh viễn chia xa.
Sau hai ngày, tôi đến bến Thượng Hải. Tôi lập tức lên bờ, vào thành phố sắm một bộ tăng phục, rồi lặng lẽ hướng về Vũ Lâm. Tôi vốn hâm mộ cảnh đẹp Thánh Hồ, bây giờ mới có dịp thuận đường thăm quan cho thỏa tâm nguyện ấp ủ lâu nay. Lúc đến bên bờ hồ Tây Tử, ngập tràn trong mắt là không gian vắng lặng bao la, cảnh tượng phiêu nhiên thoát tục như rời xa hẳn khỏi chốn trần hoàn.
Tôi lại đáp tiếp một chiếc thuyền con để đến bến cảng Mao Gia.
Đến nơi rồi, tôi rời thuyền, vác hành ý trên vai đi hàng mấy dặm để tìm tới chùa Linh Ẩn. Đây là nơi mà Tống Chi Vấn từng vịnh:
Lâu quan thương hải nhật,
Môn đối Chiết Giang triều.
樓 觀 滄 海 日 ,
門 對 浙 江 潮 。
(Lầu nhìn biển biếc reo trong nắng,
Cổng đối Chiết Giang sóng dậy triều).
Tôi tiến vào chùa, đi đến khách đường, bỏ hành lý xuống nơi góc trái, rồi vội bước sang bên phải, đứng cung kính trang nghiêm.
Một hồi lâu, có một vị tri khách tăng bước ra hỏi:
− Đại sư từ nơi đâu đến?
Tôi đáp:
− Từ Quảng Châu lại.
Vị tri khách tăng nghe nói thì vẻ măt tươi lên, bảo:
− Quảng Đông là nơi trù phú lắm[4].
Tôi không đáp, mò trong túi áo lấy tăng điệp ra, đưa ông ta xem. Vị tri khách tăng xem xong, liền hớn hở dẫn tôi lên căn lầu phía nam để nghỉ ngơi. Tôi thấy căn lầu khá rộng, ước chừng đến mấy trượng vuông. Trong lầu chẳng có đồ vật chi hết, chỉ có mấy viên gạch xám mà thôi.
Đến buổi chiều, dùng cơm chay xong, tôi vội đi nghỉ, dùng những viên gạch xám làm gối kế đầu. Nửa đêm, tôi chợt tỉnh giấc, không sao ngủ lại được, lại nghe có những âm thanh lanh lảnh trong lầu, nghe vô cùng quái dị. Tôi thấy kinh nghi, nghĩ rằng nơi đây có ma quỷ, trong lòng run sợ khôn nguôi. Tôi vội quấn tấm chăn trùm kín cả đầu, hai mắt nhắm nghiền, mình toát mồ hôi như tắm, năm im không dám rục rịch. Đêm khuya sao trôi qua quá chậm, lòng tôi khổ sở lo âu khôn xiết. Trời vừa hừng sáng, tôi nghe tiếng chuông sớm, liền ngồi dậy. Hỏi thăm vị tăng trực đêm, mới hay trên lầu có rất nhiều chuột, nên đến đêm chúng thường phát ra những âm thanh quái dị, những khách lai vãng đến cúng hương, nghỉ lại chùa, chẳng ai là không kinh hãi.
Ăn cháo sáng xong, vị trụ trì tới hỏi tôi thăm mà bảo :
− Sư từ xa đến đây, sớm chiều chẳng cần phải lên điện lễ bái làm gì, chỉ ra ngoài cổng chùa quét dọn lá khô, chất dồn lại mà đốt đi là được rồi.
Tôi đáp:
− Xin kính cẩn nghe lời đại sư dạy bảo.
Quá
ngọ, tôi được sai đi đến chân đá Lãnh Tuyền Đình để cắt cỏ rồi rửa cho sạch. Sống
bình yên như thế được năm ngày. Tôi thấy trong lòng thảnh thơi sung sướng, chẳng
còn biết chi tới những ưu sầu hoạn nạn cùng những điều đáng kinh sợ chốn nhân
gian. Nghe gió, ngắm trăng, vạn niệm đều rỗng không, tâm ý thênh thang vô ngại.
Chỉ duy có một điều khiến lòng tôi không thể không trăn trở : phong cảnh nơi
đây là chỗ tột đỉnh cho cõi thanh tu, nhưng khách thập phương qua lại quá đông,
ngựa xe như nước, biến nơi đây thành chỗ du ngoạn của đám tục tử phàm phu, thật
khiến người ta không sao chịu nỗi.
Một hôm nhàn rỗi vộ sự, tôi ngẫu nhiên ra ngoài Xuân Tông Đình ngắm cảnh, chợt thấy trên bức vách có bài thơ ai mới viết lên, vết mực đen như hãy còn ướt. Tôi tỉ mỉ đọc xem, thì ra đó là mấy chương trong bài “Tổn quan trúc chi từ 捐 官 竹 枝 詞:
Nhị phẩm gia hàm tứ phẩm giai,
Hoàng nhiên lục kiệu tứ nhân đài.
Hoàng đường bán quỵ xưng ty phủ,
Bạch giản thông tường thự hiến đài.
Đốc phủ thỉnh đàm đương tọa ấp,
Niết phiên tiếp kiến đại môn khai.
Tiện nghi thử nhật xưng quán sát,
Ngũ bách quang dương mãi đắc lai.
Đại phu nguyên bất hội y sinh,
Ngộ bị đô nhân hoán thử danh.
Thuyết mộng đãn cầu thăng đạo phủ,
Thăng giai hà cảm vọng tham chưng.
Ngoại thương lại lễ giai vô phân,
Binh hộ hình công lãng quải danh.
Nhất vạn bạch ngân năng báo hiệu,
Đăng lung mã thượng hoán kinh khanh.
Nhất huy phân tỉnh xuất kinh hoa,
Lam đỉnh hoa linh đáo xứ khoa.
Trực dữ hàn lâm tranh bổng mãn,
Ngẫu kiêm tọa biện vọng ly sai.
Đại nhân lưỡng tự bằng tha khiếu,
Tiểu khảo chư đồng thính ngã già.
Mạc vấn xuất thân thanh bạch phủ,
Hữu tiền tái bả đạo viên gia.
Công chẩn quyên thâu giá tiện nghi,
Bạch ngân lưỡng bách đắc đồng tri.
Quan trường phùng ngã xưng tư mã,
Chiếu bích bằng tha họa đại sư.
Gia thế vấn lai giai phiêu cục,
Đại phu mãi khứ thự môn mi.
Quái tha đa thiểu công bài đỉnh,
Hỗn ngã hung tiền bạch lộ ty.
Bát thành ngộ khuyết tận tiên ban,
Thuyên bổ cư nhiên phụ mẫu quan.
Quát đắc dân cao hoàn túc trái,
Yểm tương thê nhĩ mãi tân hoan.
Nhược phùng khổ khuyết hoàn cầu điệu,
Thiên tưởng chư tào yếu thỉnh an.
Biệt hữu thượng đài nhiêu bất đắc,
Nhất niên tiết thọ hựu phân xan.
Bổ quái triều châu đỉnh tự tinh,
Mạo sung nhất cá Trạng Nguyên lang.
Giáo quan đô tác gia hàm dụng,
Ân hộ hà phương khổ khuyết đương.
Ngoại phóng chích năng luân thứ sử,
Xuất thân nguyên thị tố trù phòng.
Khả lân tài khuyết bi công đẳng,
Đâu liễu kim tiền yếu phát cuồng.
Tiểu tiểu kinh quan bất túc trân,
Tố châu kim đỉnh diệc vinh thân.
Dã tùy biên kiểm xưng tiền bối,
Tằng hướng vương công tác thượng tân.
Tá dữ chiêu bài sung thế tượng,
Hô lai nhã hiệu mạo nho thần.
Hàm điều tam tự hàn lâm viện,
Cuống đắc gia nhân hoán đại nhân.[5]
二 品 加 銜 四 品 階 ,
皇 然 綠 轎 四 人 抬 。
黃 堂 半 跪 稱 卑 府 ,
白 簡 通 詳 署 憲 台 。
督 撫 請 談 當 座 揖 ,
臬 藩 接 見 大 門 開 。
便 宜 此 日 稱 觀 察 ,
五 百 光 洋 買 得 來 。
大 夫 原 不 會 醫 生 ,
誤 被 都 人 喚 此 名 。
說 夢 但 求 升 道 府 ,
升 階 何 敢 望 參 丞 。
外 商 吏 禮 皆 無 分 ,
兵 戶 刑 工 浪 掛 名 。
一 萬 白 銀 能 報 效 ,
燈 籠 馬 上 換 京 卿 。
一 麾 分 省 出 京 華 ,
藍 頂 花 翎 到 處 誇 。
直 與 翰 林 爭 俸 滿 ,
偶 兼 坐 辦 望 釐 差 。
大 人 兩 字 憑 他 叫 ,
小 考 諸 童 聽 我 枷 。
莫 問 出 身 清 白 否 ,
有 錢 再 把 道 員 加 。
工 賑 捐 輸 價 便 宜 ,
白 銀 兩 百 得 同 知 。
官 場 逢 我 稱 司 馬 ,
照 壁 憑 他 畫 大 獅 。
家 世 問 來 皆 票 局 ,
大 夫 買 去 署 門 楣 。
怪 他 多 少 功 牌 頂 ,
混 我 胸 前 白 鷺 鷀 。
八 成 遇 缺 盡 先 班 ,
銓 補 居 然 父 母 官 。
刮 得 民 膏 還 夙 債 ,
掩 將 妻 耳 買 新 歡 。
若 逢 苦 缺 還 求 調 ,
偏 想 諸 曹 要 請 安 。
別 有 上 台 饒 不 得 ,
一 年 節 壽 又 分 餐 。
補 褂 朝 珠 頂 似 晶 ,
冒 充 一 個 狀 元 郎 。
教 官 都 作 加 銜 用 ,
殷 戶 何 妨 苦 缺 當 。
外 放 只 能 掄 刺 史 ,
出 身 原 是 做 廚 房 。
可 憐 裁 缺 悲 公 等 ,
丟 了 金 錢 要 發 狂 。
小 小 京 官 不 足 珍 ,
素 珠 金 頂 亦 榮 身 。
也 隨 編 檢 稱 前 輩 ,
曾 向 王 公 作 上 賓 。
借 與 招 牌 充 薙 匠 ,
呼 來 雅 號 冒 儒 臣 。
銜 條 三 字 翰 林 院 ,
誑 得 家 人 喚 大 人 。
Tôi đọc đến đó, bụng nhủ thầm bài từ lời lẽ trang nhã mà hài hước. Chương đầu nói đến đạo viên, chương hai nói đến lang trung, chương ba nói đến tri phủ, chương bốn nói đến đồng tri, chương năm nói đến tri huyện, chương sáu nói đến quang lộc tự thự thừa, chương bảy nói đến đãi chiếu, chỉ tiếc là chương cuối bị gió mưa làm nhòe nét chữ nên không đọc được, chỉ còn sót lại mấy câu.
Thiên táng tư văn nhân ảnh tuyệt,
Quan đa tiệp kính sĩ tâm hàn.
天 喪 斯 文 人 影 絕 ,
官 多 捷 徑 士 心 寒 。
Ý nói nền văn hóa truyền thống có từ thời Văn Vương truyền đến đức Khổng Tử, đến nay Trời lại muốn hủy diệt đi, nên người tài đều dần mất hết, để cho lũ trung nhân dĩ hạ đắc thế tung hoành. Còn đám quan lại phần lớn là một đám bất tài vô tướng, dựa vào phe cánh và dùng tiền của đút lót để tiến thân, cho nên những kẻ sĩ có tâm huyết với đất nước đều thấy chản nản. Vận nước đã đến lúc suy vong. Thời bấy giờ, khoa cứ đã bị phế bỏ, nên những lời này ám chỉ những sinh viên du học ở nước ngoài.
Tôi toan bỏ đi nơi khác, chợt thấy một tỳ kheo thiếu niên mang một cái giỏ đi tới. Tôi thấy vị tỳ kheo đó trạc chừng mười sáu, mười bảy tuổi, gương mặt lộ vẻ đau buồn khôn tả. Vừa thấy tôi, người đó liền chắp tay trang nghiêm đảnh lễ mà rằng:
− Kính hỏi a sư, nơi đây có chỗ nào cho tôi ở tạm một đêm chăng?
Tôi đáp:
− Có. Để tôi dẫn chú tới khách đường.
Tỳ kheo nói:
− A Di Đà Phật!
Tôi nói:
− Chú từ đâu lại? Trông bộ dạng chú đủ biết chú lao đao, khốn khổ vô chừng. Để tôi xách giùm cái giỏ kia cho.
Vị tỳ kheo kia nhíu mày, đáp:
− Đa
tạ hậu ý a sư. Quả thật là tôi mỏi mệt lắm rồi, đúng như a sư vừa nói. Tôi từ Hồ
Nam tới đây, phát nguyện lễ bái thập phương. Thân hình tôi tuy ốm yếu, nhưng mối
uất hận trong lòng đã tiêu tan không còn gì cả. Hơn nữa, cũng chờ nên tìm hiểu nỗi
cay đắng có mùi vị ra sao
Tối đến, chú tỳ kheo cùng tôi lên lầu ngủ. Tôi nhìn thấy áo quần, vật dụng của chú ta đều không phải là đồ cũ, nên đoán rằng chú ta cũng chỉ mới xuống tóc đi tu gần đây thôi. Vả lại, chỉ cần nhìn thoáng qua cũng biết rõ trong lòng chú đang chất chứa muôn ngàn mối hận.
Tôi bèn hỏi:
− Chú xuất gia được bao lâu rồi?
Chú tỳ kheo nghe tôi hỏi, trầm ngâm một lúc lâu, rồi buồn rầu đáp:
− Chỉ mới hơn một tháng nay. A sư đối đãi với tôi nhiều lễ nghĩa như vậy, lòng tôi sao không cảm kích ơn đức cho được. Nay tôi xin nói cho a sư rõ duyên do nào mà tôi phải xuất gia. Tôi hận người đời!
Từ thuở bé, tôi đã không nơi nương tựa. Chú tôi hám lợi, đem tôi bán cho một gia đình giàu có làm con nuôi. Một hôm, mưa gió tầm tã, tôi ngồi bên cửa sổ, đọc Đường đại ngũ từ, chợt thấy bên nhà láng giềng có một cô con gái đang ngồi bên khung cửa thêu thùa. Tôi đưa mắt nhìn cô, quả nhiên đó là một mỹ nhân hoa dung tuyệt đại, trông như tiên nữ giáng phàm.
Ban đầu, tôi dĩ nhiên không dám manh nha vọng niệm. Chợt một ngày nọ, cô gái kia viết cho tôi một lá thư thật ngắn, đem dây chỉ hồng cột lá thư vào đuôi một con chuồn chuồn, rồi thả cho nó bay từ từ vào song cửa phòng tôi. Cửa sổ phòng tôi và cửa sổ cô gái làng giềng đối diện xeo xéo nhau, chỉ cách nhau có sáu tấc, bên dưới là một khe nước nhỏ làm ranh giới phân cách đôi bên. Nhận được lá thư, tôi đọc đi đọc lại hàng trăm lần, trong lòng ngây ngất đắm say, như lạc vào chốn Bồng Lai tiên cảnh. Tôi tìm cách đáp tạ lại mỗi diễm tình kỳ ảo ấy, nhân chuyện đó mà cảm thán : “Không biết ta tu mấy kiếp mà may mắn được lọt vào mắt xanh của thiên tiên giáng thế?” Bởi thế mà mộng hồn tôi cứ luyến lưu quấn quít mãi bên cô gái làng giềng, không sao còn có thể tự chủ được nữa.
Từ đó về sau, cứ sáng sáng chiều chiều là tôi đến ngồi bên song cửa, đưa mắt nhìn sang cửa sổ láng giếng để hai đứa nhìn nhau say đắm. Cô gái kia còn tặng cho tôi những thứ quý báu dùng trong thư phòng như bút, nghiên, giấy, mực. Tôi biết nhà nàng nghèo lắm, mà song thân nàng thì đã già nua, nên tôi bèn đem tiền bạc hậu báo mối ân tình của nàng. Được mấy lần như thế.
Một hôm, cô gái đó tự tay thêu một cái túi đựng bút, tẩm hương chiên đàn thơm ngát, rồi đem tặng tôi. Tôi cảm kích tấm lòng của cô láng giềng đến vô tận vô biên, trong lòng tự nghĩ, trừ phi đem vàng bạc trân châu đáp tặng, còn không thì quá ư xấu hổ, chẳng có cách nào có thể tự đối diện với lương tâm. Nhưng lúc bấy giờ, túi tiền đã rỗng, không biết xoay xở cách nào, tôi bèn hỏi mượn tiền của một chị người hầu trong nhà. Dâu dè chị ta ngoài mặt thì đồng ý cho tôi mượn tiền, nhưng lại âm thầm đem chuyện đó mách lại nghĩa phụ tôi.
Sáng hôm sau, nghĩa phụ tôi gọi tôi tới, nghiêm giọng trách mắng:
− Ta vốn rất yêu mày. Sao mày lại trở thành thằng nhỏ hư đốn đến thế? Nhà ta không thể nào chứa chấp loại người có hành vi hư hỏng bại hoại như mày. Mày cút đi ngay!
Nghĩa phụ tôi nói xong, liền thảo một bức thư, bảo tôi cầm về trao lại cho chú tôi. Tôi nhận lấy lá thư quay về phòng, cô gái láng giềng còn tựa bên song cửa đón tôi bằng nụ cười hàm tiếu.
Tôi nghiêm mặt, đem mọi chuyện kể hết cho cô bé hay:
− Hôm nay bị cha già đuổi đi. Chẳng biết sau này, đến ngày nào, nơi nào mới cơ duyên gặp lại em đây?
Cô gái nghe tôi nói thế thì có vẻ không vui. Cô ta rầu rầu đưa một ngón tay lên, uể oải bảo tôi :
− Đêm nay trời không có trăng. Đến mười một giờ khuya, anh chèo ghe ra phía sau phòng chờ em nhé. Anh có làm được không?
Tôi vội đáp ngay:
− Được chớ.
Nhận được lời căn dặn của hồng nhan, tôi tự cho mình đã nhận được ơn mưa móc của Trời xanh. Tôi về lại đến nhà. Chú tôi đọc thư xong, liền cật vấn:
− Mày hãy nói cho tao biết, mày lấy tiền tiêu xài vào việc chi? Cờ bạc ư? Hay là giao du với phường vô lại?
Tôi chỉ biết cúi đầu cung kính, không dám hé môi. Vì sợ nói sự thật ra thì thanh danh của cô gái láng giềng kia tan hoang như gạch tan, ngói bể. Ai nỡ làm thế cho đành?
Được một lúc, chú tôi lại hỏi tiếp:
− Rốt cuộc, mày cùng đứa nào bê tha cờ bạc, lêu lổng chơi bời?
Tôi vẫn lặng thinh như cũ, khiến chú tôi càng thêm nổi dóa. Ông cầm cái ống điếu bằng đồng đập xuống vai tôi một trận tơi bời.
Tôi cắn răng chịu đau, chẳng dám rục rịch mà cũng không dám khóc.
Chờ tới sau lúc hoàng hôn, tôi lén tháo trộm chiếc ghe chài cá của nhà láng giềng. Vai tôi đau nhức như dần, nhưng tôi vẫn cố gượng đau mà chèo, thầm nhủ trong lòng nếu đêm nay mà không đi được thì hóa ra lại phụ lời hẹn ước. Cho nên dù có đau đớn đến chết đi chăng nữa, cũng phải đến đúng hẹn để giữ cho bằng được phong cách của mình.
Thế là tôi ra sức chèo. Một lúc sau thì đến nhà cô gái. Lúc đó, tôi nghe chuông đồng hồ điểm chín giờ. Lòng tôi thấy vô cùng an ủi, quên bẵng hết mọi nỗi đau đớn trong gân xương. Tôi neo ghe lại, chờ nơi góc nhà nàng. Chờ đợi rất lâu, chẳng thấy bóng người nào thì lòng tôi vô cùng sầu não.
Trời bỗng đổ mưa như trút nước. Tôi bèn chèo chiếc ghe nan, nấp dưới những tàu lá chuối xanh nơi một góc tường. Tôi đội gió đội mưa mà đứng chờ mãi cho đến canh tư, vẫn mịt mờ không thấy một ai. Trong lòng tôi biết là nàng có sự thay đổi gì rồi, nên nhảy tòm xuống sông rồi ngất đi, chẳng còn hay biết gì nữa cả.
Đến khi tôi dần tỉnh lại, nhìn quanh bốn phía chỉ thấy phên trúc, mái tranh, thì tối biết đó là gian nhà cỏ của một ngư ông. Một ông cụ và một bà cụ ngồi bên tôi, mấy lần đưa tay sờ vào ngực tôi, ra chiều ân cần lo lắng.
Tôi đột nhiên hỏi:
− Có phải hai bác đã cứu vớt sinh mệnh của cháu không? Nhưng thật tình là cháu xấu hổ quá, chẳng còn mặt mũi nào mà sống trên đời này nữa!
Bà lão nói:
− Thiệt đáng thương quá! Cháu bé ôi! Bây giờ, cháu đừng có nói chi nhiều. Trời Phật sẽ phù hộ cho cháu được bình an vô sự.
Tôi nghe giọng bà lão ôn tồn thuần hậu thì bất giác nước mắt trào ra. Bèn đem hết sự tình đầu đuôi ra kể cho bà lão nghe.
Bà lão lắc đầu tóc bạc phơ, rồi chép miệng thở dài mà nói :
− Trong thiên hạ thiếu chi người phụ bạc. Từ rày về sau, cháu nên tự bảo trọng tấm thân.
Ông lão nói tiếp:
− Cố gắng lên! Cháu nay đã quay đầu là bến rồi. Tốt đẹp lắm đó!
Tôi nín khóc, quỳ xuống bái biệt hai ông bà rồi đi. Lúc đó, tôi chẳng biết về đâu. Trời đất bao la mà sao tôi thấy như mình không có một chỗ dung thân. Mang nỗi lòng ngập tràn bi thương, uất hận, tôi đến núi Nhạc Lộc xuống tóc quy y, xin làm tăng sĩ. Rồi đem bao kỷ vật của cô gái tăng, mà tôi thường luôn mang bên hông, chôn hết bên gốc cây cạnh chuông Phi Lai[6].
Rồi sau đó, tôi theo chân một đoàn thương nhân mà tới nơi này. Ngày nay, giữa vũ trụ mang mang nào thấy đâu được cái gọi là tình, cái gọi là hận?
Nghe Tương Tăng kể xong, lòng tôi bồi hồi nhớ lại bao chuyện cũ, không sao ngủ được. Bỗng nhiên nghe văng vẳng giọng từ mẫu trách mắng mình, thần trí tôi đâm ra hốt hoảng. Lệ trào ra khỏe mắt, đột nhiên tôi muốn quay về lại thăm nhà.
Sáng hôm sau, tôi nghe cả người rã rời, không sao ngồi dậy được. Tương Tăng sớm hôm lo thuốc thang, cơm cháo cho tôi. Nửa đêm thao thức, lòng tôi bất chợt cảm thương vô hạn, tôi ngậm ngùi khóc cho thân thế điêu linh. Từ đó về sau, hai đứa tôi trở thành đôi bạn hoạn nạn có nhau. Rồi sau đó, Tương Tăng cũng rõ hết những nỗi lòng u uẩn của tôi, nên chúng tôi gắn bó với nhau như hình với bóng, không một giây phút nào rời xa nhau.
Tôi
nằm bệnh kéo dài đến mấy tuần mới bắt đầu bình phục, có thể chống gậy bước ra ngoài
cổng chùa nhìn cảnh vật xa xa. Bầu trời bao la soi bóng nơi đầm nước, tiếng
chuông thưa thớt ngân dài giữa không gian u tịch. Phong cảnh đó như thấm vào tận
xương tủy của con người để làm nguôi đi những nỗi muộn phiền.
Chợt một hôm, vị tăng giám viện tới bên tôi bảo:
− Mai là tiết Trung Nguyên, gia đình họ Mạch trong thành có pháp sự. Vị thủ tòa đã phái lão nạp lo vụ này. Ngài cũng có hỏi trong số các trụ tăng trong chùa, ai là người có thể chọn làm đồng bạn đi cùng thì lão nạp đề cử đại sư. Vị thủ tòa rất vui mừng mà bảo rằng : “Sư trầm tĩnh ít lời, đủ đạo hạnh để giúp phong phạm của chùa ta thêm lớn mạnh, có thể khiến cho tín đồ thập phương tôn kính và ngưỡng mộ.” Hơn nữa, gia đình họ Mạch cũng là người ở Lĩnh Nam, nên đại sư cùng đi với lão nạp là hợp lắm, so với vị tăng khác thì tiện hơn nhiều. Bởi vậy, bọn lão nạp chẳng thể không xem trọng đại sư được.
Tôi bèn đáp:
− Từ ngày ngu đệ xuất gia tới giờ, chưa từng làm pháp sự kiểu đó. Ngoài việc thắp hương, tụng niệm Tâm Kinh và Chú Đại Bi ra, ngu đệ chẳng còn khả năng gì nữa cả. Chỉ e đến phụ lòng niềm kỳ vọng của đại sư mất.
Vị giám viện nói :
− Nghi thức tụng niệm, chừng đó đã đủ rồi. Lại có thêm thị giả ba người, rất mực thông thạo sự việc. Sư đệ chỉ cần giúp chúng tôi gõ chuông gõ mõ, đốt nhang thắp đèn là đủ, chẳng có chi nặng nhọc cả. Những mong sư đệ đừng từ chối gian khổ, được vậy thì tăng chúng ở đây càng thêm phần vẻ vang vậy.
Nghe nói vậy, tôi đành nhận lời. Vị giám viện hớn hở cáo từ.
Tôi bảo Tương Tăng:
− Những chuyện đó chẳng những không có ích gì cho chính giáo mà còn khiến thiên hạ xem chúng ta như những kẻ man di thô lậu. Những chuyện ứng phó làm pháp sự thế này, xưa kia chẳng hề nghe nói đến. Ngày trước, Bạch Khởi làm tướng nhà Tần, trong trận Trường Bình, ông ta đã chôn sống bốn mươi vạn hàng binh. Đến thời Lương Vũ Đế, sư Chí Công[7] là bậc trí giả, nêu trở lại sự kiện bi thảm kia, cốt để cảnh giác những kẻ hung tàn hiếu sát, đồng thời bày ra phương tiện cứu nhân độ thế. Vũ Đế bèn mời những cao tăng trong thiên hạ, tổ chức đạo trường cầu siêu cho những oan hồn dưới sông, trên cạn suốt bảy ngày bảy đêm. Lúc bấy giờ, những danh tăng trong thiên hạ, đáp ứng lời yêu thỉnh mà đến phó ước. Pháp ứng phó khởi đầu từ đó.
Tôi từng khảo cứu nội điển, thấy có ghi rằng : thuở xưa, khi còn đức Phật tại thế, vì cầu pháp mà bố thí cả mạng sống, dùng pháp mà giáo hóa tứ sinh[8], khắp nhân gian thiên thượng không nơi đâu mà Ngài chẳng dùng ngũ thời bát giáo[9] để lần lượt điều phục mà giúp cho thành thục. Chư đệ tử thì từng người cứ phân hóa thập phương để phát dương đạo pháp. Chờ đến sau khi đức Phật diệt độ, ông A Nan cùng chư vị Bồ Tát kết tập kinh điển thành Tam Tạng là Kinh, Luận, và Luật để đem pháp bảo truyền bá khắp thế gian. Mãi đến thời Hán Minh Đế, Phật pháp mới nhập vào Chấn Đán[10]. Từ các đời Đường, Tống về sau, Phật giáo dần dần suy vi, tăng sĩ nhận tiền bạc để mua đồ ăn thức mặc, và Phật giáo trở thành một món hàng hóa để đem ra bán mua. Than ôi! Kỳ dị thay! Tự mình còn chưa độ được bản thân, làm sao có thể độ người? Cũng tỷ như nhảy xuống giếng cứu người, đã không cứu được người mà rốt cuộc cả hai cùng chết đuối.
Huống nữa, bố thí có nghĩa là cho đi mà không nhận về. Nay ta đem Phật pháp ban cho người, người đem tiền bạc trao lại cho ta thì đó là giao dịch, mua bán, sao còn gọi là bố thí? Huống hồ vốn không có pháp ban cho người, vậy chẳng phải là khéo đọc kinh kệ cho trơn tru để thu tiền bạc hay sao? Cho dẫu trong việc đó có được chút công phu sùng tín mộ đạo đi chăng nữa, cũng chẳng bù đắp nỗi cái lỗi tham tài cầu lợi. Còn như đi làm pháp sự mà làm cẩu thả qua loa, chỉ chăm chăm mong chờ lợi lộc thì đó là ăn trộm tài vật của thí chủ, mà cũng xem là mang món nợ đối với các thí chủ. Trong luật tạng đã ghi rõ ràng, chỉ trách các tăng sĩ không chịu xem cho kỹ.
Tương Tăng nói :
− Lời a sư thật là cao thâm chí lý, khiến người ta không sao bắt bẻ được. Tôi không hiểu vì sao Chí Công lại đặt ra phép sám hối, khiến cho trăm họ trong thiên hạ hiểu lầm, cứ tưởng rằng có thể rửa sạch những tội lỗi đã gây ra bằng những lời ăn năn sám hối.
Tôi đáp:
− Chí Công vốn là Bồ Tát hóa thân, vốn có thể đem viên âm làm ích lợi cho quần sinh, vạn vật. Nhưng các tu sĩ đời Đường chỉ biết bo bo thọ trì kinh Phật, thật chẳng có ích một mảy may nào. Huống gì ngày nay, đâu đâu cũng chỉ thấy toàn một đám phàm tăng lố nhố, mê danh hám lợi, xu phụ thế quyền, thử hỏi như vậy càng có ích gì trong việc hoằng pháp độ sinh? Đại sư Vân Thê[11] hoằng dương phép sám hối, dây dưa tới tận ngày nay, chỉ gây hại cho những bậc chân tu, mưu cầu tiền bạc, lưu độc sa môn, cái họa đó thật vô cùng mãnh liệt. Còn như các môn phái Thiền tông vốn không có phép sám hối, nhưng ngày nay cũng a dua, học đòi bắt chước, há đó chẳng phải là một lời cảnh giới sâu xa đó ư? Nhưng tôi và a sư đều là những kẻ tu hành chân chính, đã quy y Phật thì chỉ cốt xiển dương thuyết tứ đế và bát chính đạo mà thôi. Thành quả hữu lậu nhỏ bé ở cõi nhân thiên, há đáng để hằng ngày đem ra bàn luận sao?
Tương Tăng nói:
− Thiện
tai! Mã Minh Bồ tát bảo: “Chư Bồ tát xả vọng,
nhất thiết hiển chân thực; chư phàm phu phúc chân, nhất thiết hiển hư vọng.
諸 菩 薩 舍 妄 , 一 切 顯 真 實 , 諸 凡 夫 覆 真 , 一 切 顯 虛 妄
。” (Chư Bồ tát xả
bỏ hư vọng, nên hiển lộ được chân như thực tướng của vạn pháp; kẻ phàm phu làm
điên đảo cái chân thực, nên chỉ hiển lộ được tính hư vọng của vạn pháp).
Ngày hôm sau, tôi theo chân vị tăng giám viện tới nhà họ Mạch. Nhưng tôi chưa hỏi rõ danh tính của chủ nhân họ Mạch kia là chi, quê quán nơi đâu. Chỉ biết rằng ông ta là một vị tể quan mà thôi. Đến tối, pháp sự bắt đầu. Đó là lần đầu tiên tôi tham dự lễ tế đàn như thế.
Lúc bấy giờ, nam nữ chen nhau xem lễ rất đông. Vị tăng giám viện lim dim đô mắt, cất cao giọng niệm chân ngôn, tới câu “Tưởng cốt nhục dĩ phân ly, đổ âm dung nhi hà tại? 想 骨 肉 已 分 離 , 睹 音 容 而 何 在?” (Tưởng nhớ đến cốt nhục đã chia lìa, muốn nhìn lại âm dung, tìm đâu cho thấy?), thì thanh âm nghe thật thê lương đau xót. Rồi tới các câu:
Ô hô!
Đỗ quyên kiến lạc đào hoa nguyệt,
Huyết nhiễm chi đầu hận chính trường.
嗚 呼 !
杜 鵑 叫 落 桃 花 月 ,
血 染 枝 頭 恨 正 長”
(Hỡi ôi!
Hoa rụng dưới trăng, quyên kêu thảm,
Đầu cành nhiễm máu, hận miên man.)
Tích nhựt phong lưu đô bất kiến,
Lục dương vân thảo độc lâu hàn.
昔 日 風 流 都 不 見 ,
綠 楊 芳 草 髑 髏 寒 。
(Phong lưu ngày cũ còn đâu nữa,
Trơ rọi đầu lâu với cỏ cây.)
Tướng quân chiến mã kim hà tại?
Dã thảo nhàn hoa mãn địa sầu!
將 軍 戰 馬 今 何 在 ,
野 草 閒 花 滿 地 愁 。
(Tướng quân chiến mã nào đâu tá?
Cỏ dại hoa sầu lan khắp nơi.)
Đọc đến những câu đó thì âm thanh của vị tăng giám viện lại trở nên bi thảm khôn cùng. Lúc bấy giờ, toan gia nam nữ đều giữ im lặng, chăm chú nhìn đám tăng lữ chúng tôi.
Đột nhiên trong đám người ngồi sát bức tường trước mặt vẳng lên một giọng nói nhỏ nhẹ yêu kiều:
− Đúng là người đó rồi, không còn hồ nghi gì nữa! Nhớ lại thời thơ dại, xỏa tóc nô đùa với nhau, thấp thoáng tưởng như hai miền cách biệt, thiệt là đau xót vô ngần!
Một lát sau, lại nghe giọng một người đàn ông nói tiếp:
− Thật tội nghiệp! Người đó quả nhiên là Tam Lang thật rồi!
Vừa nghe được những lời đó, làm sao tôi có thể không giật mình kinh hãi? Lúc ấy, thần sắc tôi lập tức biến đổi, nhưng tôi chẳng dám đưa mắt nhìn thẳng xem thử những người nói đó là ai.
Lại nghe giọng cô gái khe khẽ :
− Dường như anh ấy bị ốm nặng vừa mới khỏi. Em biết Tam Lang trước đây có một tâm sự kín đáo không sao bày tỏ được!
Tôi lặng lẽ suy đoán giọng nói kia để xem đó là ai. Một hồi lâu, tôi mới sực rõ rằng ấy chính là hai anh em nhà họ Mạch, vốn xưa kia là bạn láng giềng của tôi, đồng thời cũng là bạn cùng học ngày xưa. Mới đó mà chúng tôi đã xa cách năm năm rồi. Đây hay phụ thân của anh em họ lại làm bổ nhiệm làm quan ở nơi này.
Quay đầu nhìn lại, thấy quá khứ xa khơi như mù mịt khói sương, chỉ nghe trong lòng càng thêm thương nhớ ngậm ngùi.
Tôi nhớ lại thuở mình còn làm thân lữ thứ ở đất khách Hương Giang, đã cùng anh em nhà họ Mạch kết bạn láng giềng tại Mai Hoa Nhai (đường phố bán hoa). Phụ thân họ vốn là người tính tình trung hậu, đối xử với tôi vô cùng thân thiết, ân cần. Nay bỗng dưng gặp gỡ nơi đây, thật đúng là có tiền duyên thuở trước.
Từ đây về sau, tôi có thể nhờ vào họ mà dò la thăm hỏi tin tức chốn quê xưa. Như thế chẳng cũng an ủi một phần nào cho thân thế phiêu linh, lênh đênh trôi dạt của tôi hay sao?
Nghĩ đến đó, tôi thấy trong lòng trấn tĩnh như thường.
Tới lúc rạng sáng hôm sau, pháp sự mới xong. Quả nhiên, một chú bé người hầu đến trước mặt tôi, vòng tay thưa:
− Chủ nhân có lệnh mời đại sư đến thư trai dùng cơm”.
Tôi lập tức đi theo ngay. Lúc đó, chư tăng cùng đến đây làm lễ với tôi ai ấy đều lấy làm kinh dị. Bởi họ vốn không rõ thân thế của tôi, nay thấy tôi bỗng nhiên được mời riêng đi ăn cơm một cách trang trọng như thế, tất nhiên họ cho đó là một vinh dự và ân sũng đặc biệt. Các sa môn ngày nay, tuy thân gởi nơi cửa Phật, nhưng tâm tình lại hướng hết về chốn vinh hoa quyền thế của thế gian. Thế cho nên họ mới suy nghĩ như vậy.
Khi tôi đến trai phòng, thấy thức ăn dọn ra vô cùng thịnh soạn : nào là rau thuần, cá nấu chua, thịt kho rim ngũ hương, hạt dẻ nấu hoa quế, củ lăng hồng nấu tim sen, nào dưa tam bạch[12], trà Long Tĩnh Hổ Bào, nào giò heo rắc tương hình cầu vồng[13]. Tất cả những thức ăn đó dọn ra chính là để chiêu đãi cho tôi. Trong thâm tâm, tôi lặng lẽ cảm tạ ông bà họ Mạch. Quả thật ông bà có ý ân cần quyến luyến cố nhân. Ngần ấy cũng đủ cho thấy rõ phong cách của bậc trưởng giả. Giữa thời buổi thói đời xu viêm phụ nhiệt, thế thái nhân tình đơn bạc như hiện nay thì ông bà đúng là thuộc nòi kỳ lân, chim phượng.
Chốc lát sau, ông bà họ Mạch dắt tay hai người con bước vào để chào hỏi tôi. Tôi chăm chú nhìn kỹ hai anh em con nhà họ Mạch, thấy họ vẫn chẳng khác chi ngày trước, vẫn hớn hở vui tươi bên cha mẹ thì tôi lại càng thấy ngậm ngùi khôn xiết. Nghĩ mình tứ cố vô thân, lẻ loi cô quạnh, đã phụ mình lại phụ người, hỏi sao chịu nổi? Không kìm lòng được nữa, tôi đưa hai tay che mắt mà khóc rấm rức không thôi.
Cha con nhà họ Mạch thấy vậy cũng lộ vẻ buồn rầu thương cảm. Cô con gái quá đỗi xúc động vì tôi nên bất giác bật òa lên khóc.
Không khí như chùng xuống, không ai nói một lời nào. Một lúc sau, ông nhà họ Mạch đưa tay vỗ vai tôi, nghiêm mặt mà rằng:
− Cháu đừng nên ưu sầu thái quá. Đã lâu ngày, ta không gặp cháu. Ban đầu ta có nghe người làng nói, mới hay rằng cháu đã xa lìa thế tục mà quy ẩn chốn Thiền môn. Ta thật vô cùng đau xót khi thấy một đứa thiên tư tuấn sảng như cháu, mà sao bước đường đời lại trắc trở, lao đao đến vậy? Đã hơn một năm nay, ta đưa gia đình đến cư ngụ nơi đây. Đêm qua, hai đứa con mới cho ta hay cháu đến đây cùng chư tăng để lo pháp sự, khiến bác vừa kinh ngạc, và mừng rỡ. Bác nay tuổi tác đã cao, đâu có liệu được còn gặp lại cháu trên cõi đời này. Hôm nay bác cháu ta được gặp nhau đây, há chẳng phải là duyên trời hay sao? Bà vợ của nghĩa phụ cháu mùa xuân năm trước đã dời về Hương Giang, mắc bệnh dịch yết hầu mà mất. Nay bác mong rằng cháu đừng quay về Quảng Đông làm chi nữa. Bác biết rõ cháu chẳng mang cốt phàm, nên muốn mời cháu ở lại đây làm khách để cùng bầu bạn với hai đứa con ngu đần của bác. Được vậy là cháu đã giúp ích cho bác rất nhiều rồi vậy. Ý cháu thế nào?
Tôi
nghe nghĩa mẫu của mình đã mất thì nghe lòng bi thương vô hạn, thấy buồn trước
sự dời biến ảo khôn lường.
Tôi lau nước mắt mà thưa cùng ông họ Mạch :
− Tấm lòng của bác, cháu xin ghi lòng tạc dạ. Bác không vì thân thế phiêu bạt điêu linh của cháu mà đem lòng rẻ rúng, thật khiến cho cháu bàng hoàng lo sợ, không biết lấy gì báo đáp. Nhưng trong chùa còn chú Tương Tăng, pháp danh Pháp Nhẫn, vốn là bạn chí cốt của cháu, cùng sống chung với nhau đã lâu ngày, cháu chẳng nỡ lòng nào mà chia tay. Sau này, cháu mong sẽ dịp khấu đấu dưới cao hiên để nghe lời chỉ giáo, xin bác hãy rộng lương tha thứ cho cháu.
Ông Mạch suy nghĩ một lúc, rồi ôn tồn bảo:
− Như vậy cũng tốt! Bác chỉ lo đời sống trong chùa khắc khổ quá, cháu chịu không nỗi mà thôi.
Tôi đáp mà rằng :
− Dạ không có chi đâu. Chư tăng trong chùa đối đãi với cháu rất tốt. Kính tạ bác đã có lòng thương yêu chiếu cố đến cháu, cháu không dám một ngày quên ơn đức này.
Ông Mạch vẻ mặt hân hoan, tươi cười hớn hở, cầm tay tôi dẫn vào nhập tiệc. Trên bàn có đầy đủ những món ăn danh tiếng ở Chiết Giang, nhưng lòng tôi trăm mối ngổn ngang ưu tư sầu não nên ăn các thứ cao lương mỹ vị thấy cũng chẳng khác gì nhai sáp.
Ăn xong, tôi kể sơ lược chuyện tôi đi Nhật Bản tìm mẹ. Cả gia đình ông Mạch chắm chú lắng nghe, ai nấy đều cảm động, than thở không thôi.
Vợ và mẹ ông Mạch cũng ngồi nghe. Hai vị cùng bảo tôi rằng ông Trời tự nhiên sẽ có cách an bài, và khuyên nhủ tôi đừng buồn đau nữa. Tôi cảm kích vô vàn, rồi lại òa lên khóc.
Tới lúc chia tay, Mạch phu nhân đem một tấm ngân phiếu một trăm đồng vàng tặng cho tôi, và căn dặn ân cần :
− Cháu đừng từ chối, cứ giữ lấy số tiền này mà tiêu dùng khi cần cấp.
Tôi khước từ mà nói :
− Cháu từ lúc khởi hành ở Đậu Tử, có dành dụm được hai trăm đồng, tới nay vẫn còn giữ được phân nửa, nằm trong túi áo cà sa đây. Ân đức này của hai bác, cháu xin tâm lĩnh, kính tạ phu nhân.
Tôi quay về chùa. Mấy ngày sau, hai anh em Mạch cùng tới viếng chùa Linh Ẩn, gặp tôi tại Lãnh Tuyền Đình. Tôi nhân lúc hàn huyên, hỏi thăm tình hình của Tuyết Mai gần đây ra sao. Lúc đầu, anh em họ Mạch đều nói có vẻ ấp úng, tôi nghe không hiểu đầu đuôi. Tôi liền gạn hỏi đến lần thứ hai, rồi lần thứ ba thì người em gái hơi nhíu hàng lông mày, rồi thở dài mà nói:
− Nếu như sự tình đã là ngọc nát hương tan, trâm gãy bình rơi thì sao?
Tôi nghe câu đó như sét đánh ngang tai. Tôi lùi lại, cả người chấn động, run lên cầm cập, rồi thu tay đấm vào ngực mình, kinh hãi hỏi lại :
− Quả có chuyện bất hạnh thế chăng?
Người anh biết chuyện, liền nắm lấy cánh tay tôi mà nói :
− Em nó nói bừa, chứ làm gì có chuyện đó! Sự thật là…
Nói tới đó, anh ta ngập ngừng, chuyển sang giọng điệu an ủi tôi :
− Anh bạn Tam Lang thân mến, muôn ngàn lần xin anh hãy bảo trọng. Em gái nó nói câu ấy chẳng có chi xác thực hết. Thật ra thì chúng tôi có nghe người ta đồn rằng cô Tuyết Mai mang bệnh tương tư rất nặng thế thôi. Nhưng người ăn ở hiền lành thì thế nào cũng có Trời Phật giúp đỡ, nên chỉ mong bạn hiền đừng quá lo âu mà tổn thương thân thể.
Tôi gắng gượng hết sức để kìm hãm nỗi bi thương. Ngày đó, anh em họ Mạch lại mời tôi cùng về nhà chơi.
Sáng sớm hôm sau, tôi tình cờ ra vườn hoa sau nhà đi dạo để hít thở không khí trong lành, chợt thấy cô em họ Mạch đứng trên chiếc cầu gỗ, tay vịn lan can mà đôi mắt rất đỗi đăm chiêu, dường như đang suy nghĩ điều gì.
Thấy tôi đi tới, hai má lúm đồng tiền của nàng bỗng nhiên ửng đỏ, dường như ý nàng không nỡ đem tin tức về giai nhân kia mà nói ra. Tôi quay người lại, dợm chân bước đi thì cô gái bỗng liếc mắt nhìn sang rồi cất giọng nhẹ nhàng :
− Tam Lang có vui lòng cho phép em dẫn anh đi dạo quanh vườn không?
Tôi nghiêng thân cung kính chào, trang nhiên cảm tạ mà rằng:
− Há dám làm phiền gót ngọc? Kính hỏi hiền muội một câu: Tuyết Mai rốt cuộc có còn trên nhân thế hay không? Hiền muội có thể nói rõ hết đầu đuôi được chăng?
Cô gái thỏ thẻ giọng vàng rồi thở dài, lắc đầu mà nói :
− Ngạn ngữ có câu: “Kế mẫu tâm can, thậm ư xà hủy. 繼 母 心 肝 , 甚 於 蛇 虺。” (Tâm can mẹ ghẻ còn độc hơn rắn rết), chẳng đúng hay sao? Ngày trước còn ở quê nhà, em có nghe nói bà mẹ ghẻ kia ép bức chị Tuyết Mai phải về làm dâu một nhà giàu có. Trong cái đêm trước ngày về nhà chồng, chị Tuyết Mai đã lìa đời sau một thời gian dài tuyệt thực. Trời hỡi là Trời! Người trong làng ai ai cũng xót thương chị Tuyết Mai mệnh bạc. Còn em thì chỉ biết than thở sao người đời lại có thể tàn nhẫn vô lương đến mức ấy.
Lúc ấy, tôi mới tin những lời này là thật, nên òa lên khóc nức nở đến lạc cả tiếng. Tôi cấp tốc quay về sơn môn, bàn bạc với Pháp Nhẫn, rồi cả hai cùng khăn gói quay về Lĩnh Hải[14], mong tìm tới mộ Tuyết Mai mà phúng điếu để an ủi linh hồn trinh bạch của nàng.
Quá
ngọ ngày hôm sau, gia đình ông Mạch cùng tiễn chân chúng tôi tới Củng Thần Kiều,
hai bên đều gạt lệ mà chia tay.
Tôi và Pháp Nhẫn tới Thượng Hải, mới hay rằng tất cả tiền bạc ở trong túi áo đều không cánh mà bay. Không thể mướn thuyền, nên tôi đành cùng Pháp Nhẫn quyết định đi bộ. Dọc đường chúng tôi đi khất thực qua ngày, cay đắng trăm bề, khổ đau khôn xiết.
Gần một năm sau, chúng tôi mới tới được Hoành Bồ Quan, đi vào biên giới huyện Nam Hùng[15]. Qua trạm dịch Hồng Mai, nghe dân địa phương bảo đường đi từ đây vốn bằng phẳng, duy có những đoạn đường thủy thì đi hơi khó, phải lắm phen gian nan vất vả mới mong tới được huyện Thủy Hưng, nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Đông. Hai đứa chúng tôi dốc hết số tiền bạc ít ỏi dành dụm bấy nay cũng tạm đủ để có thể mướn thuyền và mua lương thực. Xong xuôi, thuyền giương buồm mà đi.
Nhờ thuận buồm xuôi gió, mấy ngày sau thuyền đã vượt qua Trinh Thủy, đến được huyện Thủy Hưng. Đến lúc đó, hai đứa tôi mới bớt lo âu.
Đêm hôm ấy, thuyền buộc tại một bến đò hoang, dưới gốc cây dương tàn úa. Bấy giờ vào tháng chín, đêm thu lạnh lẽo, sông núi tịch liêu. Đưa mắt nhìn, chỉ thấy phong cảnh tiêu điều quạnh quẽ. Chợt một trận gió tây bắc heo hút thổi qua tai, tôi kinh hãi lắng nghe, tựa hồ như có một con gì rất to lớn tới tập kích chiếc thuyền nghe rột rột. Dưới ánh đèn dầu leo lắt, tôi đưa mắt dòm thấy một đống cuồn cuộn kéo tới. Tôi lấy làm lạ, cúi xuống nhìn đăm đăm, thấy ước chừng hơn một trăm con cua to bự mập tròn. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn được cảnh tượng này nên cảm thấy rất kỳ thú.
Pháp Nhẫn bảo tôi:
− Tôi nghe nói ở núi Đan Phượng cách đây không bao xa, có căn nhà xưa của Trương Cửu Linh[16]. Sáng mai, chúng ta cứ lần theo các đường mòn để đến đó tham quan một phen.
Rồi nói tiếp :
− Chỉ tiếc là chúng ta không biết thống ẩm cuồng ca. Chứ không thì mình luộc mấy con cua kia, rồi vào trong thôn xóm tìm mua một mớ rượu vàng, rồi ngồi trên thuyền mà uống rượu cho tiêu bao niềm u hận. Được thế thì đêm nay làm sao trăm nỗi ưu sầu có thể mê hoặc được tâm hồn ta?
Ông lái đò đưa tay chỉ một ngôi chùa giữa một rừng phong, bảo với chúng tôi rằng:
− Đó là ngôi chùa cổ Hoài Am. Những tường vàng vách ngọc ngày xưa, giờ đây đều tiêu điều đổ nát. Phụ lão tương truyền rằng vào tháng ba năm Giáp Thân, các bậc di lão của dân tộc ta đã làm lễ thệ sự tại đó. Các vị có nhìn thấy cỏ cây mục nát biến thành ma trơi lập lòe trong đêm vắng, đến nay hãy còn đó chăng? Hỡi ôi! Phong cảnh vẫn như xưa mà giang sơn đã đổi chủ, há chẳng khiến lòng người phải đau buồn mà sinh xúc cảm nghẹn ngào?
Chúng tôi đang thiu thiu ngủ, chợt trời nổi một trận gió mưa mù mịt. Tôi bảo Pháp Nhẫn:
− Đêm nay không thể ngủ trên thuyền được. Chi bằng mình vào trong ngôi chùa hoang kia tránh mưa, sáng mai đi tiếp.
Pháp Nhẫn đồng ý :
− Phải lắm.
Hai đứa tôi bèn từ biệt người lái thuyền, thẳng hướng rừng phong mà đi. Tới cổng chùa, nhìn thấy tường vách bốn bề đều đổ nát, cửa nẻo cũng không còn. Vào trong chùa, trong điện vắng lặng, không một tiếng động. Chỉ thấy một ngọn đèn leo lắt trên bàn thờ Phật, tỏa ánh sáng chập chờn ra bốn bức tường. Bên cạnh điện có một con đường thông, dẫn tới một căn phòng nhỏ. Tôi đoán chắc đó là liêu phòng của vị tăng trụ trì, nên dừng gót không tiến vào. Pháp Nhẫn đưa tay mò mẫn tấm bia có đề thơ, rồi đọc:
Thập quận danh hiền thỉnh tự tư,
Tòa trung nhược cá thị nam nhi.
Đỉnh Hồ nan vãn long tu nhựt,
Uyển Thủy tranh trì ngưu nhĩ thì.
Khốc tận đông thanh đồ hữu lệ,
Ca tàn Ngưng Bích cánh vô thi.
Cố lăng mạch phạn thùy kiêu thủ,
Doanh đắc không đường tửu mãn ba.
十 郡 名 賢 請 自 思 ,
座 中 若 個 是 男 兒 。
鼎 湖 難 挽 龍 髯 日 ,
鴛 水 爭 持 牛 耳 時 。
哭 盡 冬 青 徒 有 淚 ,
歌 殘 凝 碧 竟 無 詩 。
故 陵 麥 飯 誰 澆 取 ,
贏 得 空 堂 酒 滿 巵 。
Tôi bảo :
− Đó là bài thơ của Đạm Quy hòa thượng tặng cho Ngô Mai Thôn[17] đó. Thuở bấy giờ, những kẻ được xem là có danh tiếng đã nhẫn tâm đem quê cha đất tổ dâng hiến dâng cho bon rợ Hồ. Chuyện cùng cực ô nhục đó, chỉ cần tưởng tượng thôi cũng đủ hiểu rõ. Đạm Quy hòa thượng vốn đường đường là một đấng anh hào, đầu đội trời, chân đạp đất. Than ôi! Chỉ một ánh đuốc đơn độc thắp lên, ánh sáng của các bậc di lão thì leo lắt, cho đến hôm nay cũng đành chịu ẩn khuất không sao tỏa sáng được. Để giang sơn xã tắc đến nông nỗi này, ông Trời sao lại u mê, hồ đồ đến vậy?[18]
Đến lúc ấy, trời bỗng tạnh mưa. Tôi và Pháp Nhẫn không nói gì nữa, cởi áo trải xuống đất, rồi nằm ở một góc điện. Tôi đang mơ màng trong giấc mộng thì chợt tỉnh giấc, bốn bề tĩnh mịch, nghe gió tây thổi hắt hiu đập vào bẹ trúc, tiếng côn trùng rã rích suốt đêm.
Bỗng nhiên có tiếng đọc chương Lục Nga của kinh Thi vẳng lên từ phòng bên cạnh, âm thanh sao mà sầu não, cay đắng vô ngần. Nghe đến câu “Ai ai phụ mẫu! Sinh ngã cù lao! 哀 哀 父 母 , 生 我 劬 勞! ” (Thương thay cha mẹ, Sinh ta biết bao cực khổ nhọc nhằn!) thì tôi nghe cõi lòng quặn thắt đớn đau.
Sáng sớm hôm sau, trời trong xanh quang đãng. Tôi gặp nhà sư đêm hôm niệm kinh Thi thì hỡi ôi, đó chính là Triều Nhi, con trai của vú nuôi tôi ngày trước. Tôi kinh ngạc không thôi. Còn Triều Nhi thì cơ hồ như tưởng tôi là hồn ma hiện về. Hai đứa nhìn nhau thật lâu, nghe trong lòng thổn thức ngậm ngùi.
Triều Nhi nghẹn ngào hỏi :
− A huynh trở về được mấy ngày rồi?
Tôi đáp:
− Tiểu huynh mới tới đây đêm hôm qua, gặp lúc mưa gió đầy trời nên đành tá túc trong điện này. Hiền đệ vì lẽ chi mà hình dung trông tiều tụy vậy? A mẫu vẫn bình an khỏe mạnh chứ?
Triều Nhi chưa kịp nói đã thấy dàn dụa hai hàng nước mắt, rồi nức nở :
− Mẹ em đã mất, em đau lòng quá nên đi tu. Em lưu trú chốn này, gần bên nấm mộ, đã ba mùa trăng rồi.
Tôi nghe nói, bủn rủn cả tay chân, bước tới ôm Triều Nhi mà khóc rống lên :
− Ý anh là về Nam Hải thì trước tiên là tìm thăm vú nuôi. Tự ngày anh còn ẵm bế trong nôi, chỉ có vú nuôi là người thương yêu vỗ về anh, đâu hay giờ đây đã thành người khuất núi.
Ông Trời hỡi! Ơn đức dưỡng dục của vú nuôi, tôi chưa đền đáp được trong muôn một, lòng tôi tan nát cả rồi
Triều Nhi dẫn chúng tôi ra ngoài cửa viện phía tây, tới trước nấm mộ của vong mẫu. Chỉ thấy đất vàng một nấm, hàng bạch dương trong gió hắt hiu, những con chim rừng đậu trên cành cất tiếng hót bi ai. Tôi và Pháp Nhẫn phủ phục xuống khóc than.
Triều Nhi đưa tay gạt lệ mà nói :
− Vong
mẫu cảm kích ơn đức của cổ trang phu nhân vô cùng. Trừ cổ trang phu nhân ra, muốn
tìm cho một người có tấm lòng nhân hậu giúp người không bao giờ có. Tháng trước
đây, em có dò la tin tức, đâu hay a huynh quay về gấp thế. Hôm nay gặp được a
huynh tại đây, quả thật em có nằm mơ cũng không ngờ tới, há chẳng phải là Trời xanh
thương xót anh em mình sao? Linh hồn mẹ em ắt cũng thấy được an ủi nơi chín suối.
Chúng tôi tạm biệt Triều Nhi, rồi cùng nhắm hướng làng cũ của Tuyết Mai mà đi. Chúng tôi làm hành khất, vừa đi, vừa xin ăn dọc đường. Bảy ngày đêm sau mới tới thôn Hoàng Diệp. Bạn đọc còn nhớ chăng? Thôn ấy là nơi ở của vú nuôi tôi ngày trước. Tôi từng làm kẻ chăm sóc vườn hoa ở đó. Nhưng căn nhà cũ của vú nuôi tôi nay đã đổi chủ, nhìn bên ngoài cũng không còn giống ngày xưa, lòng tôi càng thêm sầu muộn.
Tôi cùng Pháp Nhẫn nghỉ đêm tại một ngôi chùa cũ nát ở ven thôn. Trời chưa sáng tỏ, tôi đã vội cùng Pháp Nhẫn khoác áo hành khất, men theo bờ ruộng phía tây mà đi.
Lúc bấy giờ, lòng tôi ngổn ngang trăm mối, rồi tợ tơ vò, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến Tuyết Mai nữa.
Tới căn nhà cũ của Tuyết Mai, tôi dừng chân lại, hồi tưởng lại ngày trước, khi đi bán hoa, mình thường đi ngang qua căn nhà này. Mọi chuyện hiện ra rõ mồn một trong trí óc, tưởng chừng như mới sáng hôm qua. Nào ai ngờ được tóc mây tha thướt, mặt ngọc phù dung, nay bỗng nhiên biến thành kính vỡ, khói tan, trôi xa biền biệt? Than ôi! Tuyết Mai ở cõi vô cùng, vĩnh hằng thăm thẳm, hẳn cũng thương xót đến tôi. Còn tôi khốn quẫn lưới trần, chán ngán sự đời, chỉ mong đến ngày chấm dứt. Ta hồ! Tuyết Mai diệc tất lân ngã ư vĩnh vĩnh vô cùng. Dư ky my thế võng, diệc yêm yêm dục tận hỹ.
Ngẫm lại từ lúc tôi từ biệt nước Nhật về đây, từ mẫu ở nhà, đêm ngày tựa cửa ngóng trông, chờ ngày tôi trở lại. Thật chẳng khác nào đem con trâu bằng bùn đất ném xuống biển khơi, còn mong gì tin tức? Tôi quả thật trẻ người non dạ, đem bao kỳ vọng của mẹ, của dì trong buổi bóng xế tàn niên mà ném cả vào lòng biển xanh bát ngát. Ngẫm ra, tội lỗi của tôi biết lấy gì gột sạch?
Lúc bấy giờ, lòng tôi hoang mang lo sợ, gắng gượng lò dò bước tới trước cửa nhà, run run cất giọng gọi liên hồi :
− Thí chủ! Thí chủ!
Một lát sau, một cô bé bước ra. Tôi nhìn kỹ, đúng là cô gái hầu đã gặp tôi ngày trước, đã đưa vàng bạc của Tuyết Mai cho tôi. Cô bế đột nhiên đứng ngây người, mặt mày lợt lạt, giương hai mắt đăm đăm nhìn hai chúng tôi, nửa như quen biết, nửa như xa lạ.
Tôi chưa kịp mở lời đã nghe cõi lòng tan nát. Tôi vừa khóc, vừa hỏi :
− Cô còn nhớ kẻ bán hoa ngày trước chăng? Cô Tuyết Mai ngày nay chôn ở nơi nào? Mong cô dẫn tôi đi viếng mộ, tôi xin cảm tạ ân đức của cô không biết đến đâu mà kể. Tôi lúc này nôn nóng quá rồi, không thể nào dùng lời giải thích cho cô hiểu nỗi lòng tôi được, mong cô thương cảm mà lượng thứ cho.
Cô bé người hầu nghe nói, gương mặt bỗng nhiên lạnh lùng. Tiếp đó, cô phừng phừng nổi giận, ngoảnh mặt đi nơi khác một lúc lâu, rồi cao giọng mắng :
− Thật là kỳ quái! Tiên sinh này, người thì đã chết, khóc lóc có ích gì? Có từng nghe ai nói cô Tuyết Mai nhà tôi phụ lòng tiên sinh chưa? Xin thử hỏi chàng bán hoa một câu, tiểu thư nhà tôi đã vì ai mà tan nát ruột gan?
Nói đến đó, nàng lại nhìn tôi, hai má đỏ lên, lộ vẻ u sầu mà nói :
− Hòa thượng hãy đi đi! Tha cho nô tỳ cái tội vô lễ.
Nói xong, cô quay lưng trở vào nhà, đóng sầm cánh cửa lại.
Tôi đứng trơ ra đó, đầu cúi gầm xuống đất, thấy không còn lý do gì để biện hộ cho mình được nữa. Tôi đâu ngờ bị cô bé người hầu mắng cho một trận, cự tuyệt phũ phàng như thế, nên nghe lòng đau như dao cắt. Tôi đứng ngây người ra như tượng gỗ, chẳng còn thiết sống chi nơi nhân thế nữa. Một hồi lâu, Pháp Nhẫn ân cần khuyên giải, tôi mới thấy nguôi bớt nỗi bi thương. Tôi quay người lại bước đi, Pháp Nhẫn theo sau. Hai đứa đi lang thang khắp các bãi tha ma trong thôn, cho đến khi trời chiều ngã bóng vẫn tìm không thấy mộ Tuyết Mai đâu. Chẳng bao lâu, trời sập tối, bốn bề vắng lặng, gió thổi hắt hiu, chỉ nghe tiếng thở của tôi và Pháp Nhẫn đau khổ nhìn nhau.
Tôi hạ giọng bảo:
− Bạn thân ôi, thế là hết! Tôi chẳng thể nào chịu đựng thêm nỗi bi thương này nữa! Tôi muốn kết liễu kiếp sống thừa ở tại nơi đây.
Pháp Nhẫn nghe tôi nói, ngẩng mặt lên nhìn trời một lúc, rồi nghẹn ngào tìm lời an ủi tôi, khuyên tôi nên về lại với chùa. Sáng mai sẽ tìm đường mà quay về. Tôi đứng thừ người ra như xác chết, may nhờ có Pháp Nhẫn dìu dắt, tôi chậm rãi lê bước chân đi.
Hỡi ôi!
Đạp biến Bắc Mang tam thập lý.
Bất tri hà xứ táng khanh khanh?
踏 遍 北 邙 三 十 里 ,
不 知 何 處 葬 卿 卿 。
(Chân đi khắp núi Bắc Mang,
Biết tìm nấm mộ khanh khanh nơi nào?)
Bạn đọc thử nghĩ xem, lòng tôi lúc đó sầu khổ đến độ nào, nhân gian còn ai đau khổ như tôi không? Lúc bấy giờ, nước mắt tôi đã khô cạn! Tôi cảm thấy trái tim trơ trơ như gỗ đá, cõi lòng khô khốc như sa mạc hoang liêu. Tôi quyết tâm quay về lại tịnh thất của bổn sư, nên cùng Pháp Nhẫn khăn gói lên đường.
Chẳng
hay nỗi u hận này của tôi, nỗi u hận mênh mông lấp đầy hết cõi đất trời này,
không biết đến lúc nào nguôi![19]
[1] Trâm hoa cách 簪 花 格 là lối thư pháp xinh đẹp và ngay ngắn, chỉnh tề.
[2] Trong nguyên tác cũng chính là “ngẫu đoạn ty liên 藕 斷 絲 連”.
[3] Đọc đến, ta thấy tâm trạng Tam Lang như trĩu nặng nỗi u hoài, bàng bạc theo lời hát tuyệt vời trong bản Chuyến Tàu Hoàng Hôn củaMình Kỳ: “Xe lăn trong mơ khuất xa rồi biết đâu tìm. Mưa Thu bay bay vắt ngang trời ướt vai mềm. Hoàng hôn dần buông, mà ai còn đứng im trong chiều sương xuống. Tâm tư cô đơn trách con tàu nỡ sao đành. Đem yêu thương đi đến nơi nao cách đôi tình. Đường bao nhịp nối tình trăm nghìn mối, hướng theo một bóng người.”
[4] Quảng Châu là tỉnh lỵ của Quảng Đông.
[5] Bài thơ quá dài, không tiện dịch, nội dung chủ yếu là châm biếm xã hội nhố nhăng, bọn qua lại hãnh tiến đút lót tiền bạc để lên chức, lũ ngu dốt có tiền là biến thành trí thức. Đây cũng là cảnh tượng xã hội thường thấy trong những chế độ suy đồi.
[6] Chuông Phi Lai (Phi Lai chung) là một chuông cổ nổi tiếng của Sùng Thắng tự trên núi Quân Sơn.
[7] Chí Công 志 公là một cao tăng thời nhà Lương Trung Quốc. Lương Vũ Đế thấy ông được dân chúng sùng kính, cho rằng ông làm mê hoặc nhân tâm nên bắt giam vào ngục. Giam xong, quân sĩ lại thấy ông dạo chơi ngoài đường, vào ngục xem thì thấy ông đang ngồi tĩnh tọa. Lương Vũ Đế nghe chuyện bèn thỉnh vào cung để cung dưỡng. Ông từng soạn ra mười quyển sám văn, rồi thiết đàn trong cung, cúng chay ba tháng để làm lễ cầu sám cho hoàng hậu.
[8] Thấp sinh, hóa sinh, noãn sinh, và thai sinh.
[9] Đại sư Trí Khải tông Thiên Thai căn cứ vào nội dung các kinh điển Phật giáo để phân thành năm thời kỳ đức Phật thuyết pháp. Đồng thời căn cứ theo phương tiện thuyết pháp đức Phật mà chia giáo pháp của Ngài thành tám loại. Gọi chung là Ngũ thời Bát giáo.
Ngũ thời gồm : 1.Thời Hoa Nghiêm (đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày đầu tiên sau khi Ngài thành đạo cho chúng Đại bồ tát Biệt giáo và các vị ưu tú trong Viên giáo nghe.); 2. Thời A Hàm (trong khoảng 12 năm sau khi đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm, là thời kì Phật nói 4 bộ kinh A hàm); 3.thời Phương đẳng (Thời kì Phật nói các kinh đại thừa như Duy Ma, Tư Ích, Thắng Man, … trong khoảng 8 năm sau thời A Hàm); 4.thời Bát Nhã (thời kỳ Phật thuyết các kinh Bát Nhã); 5.thời Pháp Hoa (thời kì thính chúng tiến đến cảnh giới cao nhất và chứng nhập tri kiến Phật, nên đức Phật nói kinh Pháp Hoa).
Bát giáo gồm : 1.Đốn giáo, 2.Tiệm giáo, 3.Bí mật giáo, 4.Bất định giáo, 5.Tạm tạng giáo, 6.Thông giáo, 7.Biệt giáo, và 8.Viên giáo.
[10] Người Ấn ngày xưa gọi Trung Quốc là Chấn Đán 震 旦.
[11] Vân Thê tức Liên Trì Châu Hoằng 蓮 池 袾 宏 (1535 − 1615) là vị tổ thứ 8 của Tịnh Động tông Trung Quốc. Ông có pháp hiệu là Liên Trì, nhưng thường ở chùa Vân Thê nên hay được gọi là Vân Thê Liên Trì 雲 棲 蓮 池 hay Vân Thê đại sư.
[12] Dưa tam bạch (Tam bạch tây qua) là đặc sản nối tiếng ở Uy huyện, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Vỏ dưa trắng như ngọc, ruột trắng như mỡ, hạt trắng hạt châu, nên gọi chung là “tam bạch”.
[13] Những món này để chiêu đãi cụ Tản Đà hay Nguyễn Tuân mới là đúng điệu.
[14] Chỉ địa phương nằm giữa Quảng Đông và Quảng Tây. Miền này phía bắc dựa vào núi Ngũ Lĩnh, phái nam nhìn ra biển Đông, nên có tên là Lĩnh Hải.
[15] Hoành Bồ Quan 横 浦 關 (sau này được gọi là Mai Quan, Đài Quan, Hồng Mai Quan), là của quan thứ nhất của Lĩnh Nam, ở tại huyện Nam Hùng, tỉnh Quảng Tây.
[16] Trương Cửu Linh 張九齡 (678–740), thi nhân đời Đường, tự Tử Thọ, người Thiều Châu, huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông. Làm quan đến chức Thượng thư hữu thừa tướng. Ông để lại một văn tập gồm 20 quyển.
[17] Ngô Mai Thôn tức Ngô Vĩ Nghiệp (1609-1672), thi nhân đời Minh mạt.
[18] Những ai lỡ sinh vào thời thế đảo điên, khi từng ngày chứng kiến cảnh bọn cầm quyền lòn cúi ngoại bang, ngang nhiên bán nước, mãi quốc cầu vinh, nhưng lại vênh vang là kẻ có công với giang sơn xã tắc để đày đọa những người ái quốc, đọc đến câu này hẳn không khỏi bùi ngùi mà than thở như Tô Mạn Thù : “Ô hô ! Đan hà nhất cự, di lão u quang, chí kim do khuất nhi bất thân, hà thiên tâm chi hội hội dã ? 嗚 呼 ! 丹 霞 一 炬, 遺 老 幽 光 , 至 今 猶 屈 而 不 申 , 何 天 心 之 憒 憒 也 ?”
[19] Than ôi, nghe như tiếng than dài trong lời cuối bài Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị. “Thiên trường địa cửu hữu thời tận, Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ. 天 長 地 久 有 時 盡 , 此 恨 綿 綿 無 絕 期 。”
Thảo luận