Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

Cánh chim hồng cô độc (chương 10-18)

Chương 10

Lúc tới nhà dì, người giữ cửa thông báo, dì tôi liền ra đón mẹ tôi.

Rồi dì sang nhìn tôi, hỏi mẹ tôi:

− Cậu này là con cái nhà ai vậy?

Mẹ tôi cười, chỉ vào tôi mà nói :

− Tam Lang đó, vừa mới về nhà hôm trước.

Dì tôi nghe nói thế thì mặt mày hớn hở, bảo:

− Thật sao! Tam Lang quả nhiên còn sống mà trở về đây! Sao chị không đánh điện tín báo em hay!

Vừa dứt lời, dì vừa đưa tay phủi hoa tuyết bám trên vai tôi, chậm rãi than:

− Thiệt tội nghiệp cho Tam Lang! Dì không thấy mặt cháu đã mười mấy năm rồi! Ngày nay trông tướng mạo cháu thật khó mà nhận ra, so với lúc còn nhỏ, cháu có gầy ốm đi nhiều. Cháu chắc đã mệt rồi, mình vào nhà thôi.

Chúng tôi theo gót dì vào phòng, cởi áo ngoài ra. Hốt nhiên thấy một cô gái đem khay trà tới. Nàng vận y phục màu nhạt, dáng đi tha thướt yêu kiều không bút nào tả xiết. Nàng chào chúng tôi xong, tôi ngồi một bên chăm chú nhìn, thấy nàng quả là thanh tú tao nhã vượt hẳn thế gian.

Lòng tôi bỗng nhiên thấy kinh nghi, tựa hồ như từng gặp nàng ở đâu đó rồi.

Dì tôi cầm một đôi que sắt gạt tro lạnh trong lò lửa. Vừa gạt tro, vừa nói:

− Chị em ta xa nhau hơn một tuần rồi, khiến lòng em cứ nhớ nhung. Hôm trước, nhận được thư chị, mới hay rằng bệnh chị đã thuyên giảm, em mới hơi yên tâm. Nay Tam Lang về, đúng là như mộng ảo. Em thiệt mừng quá đỗi.

Mẹ tôi đáp:

− Cảm ơn em đã có dạ quan hoài. Chị tuy già nua bệnh tật tuổi tác, nhưng nay thấy mặt Tam Lang thì trong lòng hân hoan sung sướng lắm. Nhưng Tam Lang trông thật đáng thương quá đỗi!

Lúc bấy giờ cô gái kia đã pha trà xong, đem lại mời mẹ tôi trước, rồi đến mời tôi. Tôi nhận thấy cô lúc đó có vẻ bối rối thẹn thùng, tay chân lóng cóng như bị cảm lạnh, không biết đặt vào đâu. Dì tôi thấy tình trạng đó, liền quay sang nhìn cô gái nói:

− Tĩnh Tử! Ta còn nhớ thuở Tam Lang ra đi, con cũng đã biết đến nỗi buồn ly biệt nên khóc lóc dầm dề, con còn nhớ chăng?

Rồi dì bấm đốt ngón tay để tính toán, rồi nói tiếp:

− Con lớn hơn Tam Lang hai mươi mốt tháng, nên Tam Lang là em của con vậy, con chẳng nên ngượng nghịu bối rối giống thói thường như vậy.

Cô gái làm thinh không đáp, chậm rãi đưa bàn tay trắng muốt ra vuốt mái tóc mai của em gái tôi. Hai gò má cô hơi ửng đỏ lên một tý.

Dùng cơm tối xong, tôi chợt thấy đầu óc choáng váng, cả cơ thể nóng hầm hập như đặt trong lò lửa. Suốt đêm, tôi trằn trọc không sao ngủ được. Tôi đã mắc bệnh trầm trọng mất rồi.

Sáng hôm sau, trời vẫn đổ tuyết không ngớt. Mẹ tôi, dì tôi và mọi người trong nhà đều buồn rầu ủ rủ, bảo rằng chứng bệnh của tôi không hề nhẹ.

Tôi dù nằm rên rỉ trong chăn, nhưng vì vừa về lại với gia đình, bắt đầu hưởng được khung cảnh êm ấm của gia đình nên có cảm giác từ xưa đến nay mình chưa bao giờ được hạnh phúc như vậy.

Tôi nằm suy gẫm lại mọi sự, kể từ ngày tôi quy y thoát tục tới giờ, từ chuyện gặp gỡ bổn sư, gặp gỡ mẹ con vú nuôi, đến gia đình mục sư Robert, mọi người ai nấy đều yêu thương tôi không khác gì tình thân cốt nhục, vậy thì mọi nỗi phiêu linh tân khổ trước kia kể như đã được đền bù. Nhưng rồi nghĩ tới Tuyết Mai, nàng phải một mình ôm nỗi lòng đau khổ mà không biết tỏ cùng ai.

Tuy nhiên, chuyện tôi xuất gia và chuyện Tuyết Mai, tôi đều giấu kín không nói cho mẹ tôi biết, chỉ sợ mẹ nghe được thì thêm đau lòng. Hai sự việc kia, một đằng xuất gia, một đằng kết hôn, hai chuyện đó cứ xoay lưng lại với nhau mà ra sức bôn trì. Tôi đã nguyện tu hành chứng được pháp thân thì cố nhiên không thể nào lấy vợ. Nhưng đã đi tu mà cứ muốn nương tựa bên mẹ mãi, liệu có được không?

Trong khi tôi quẩn quanh suy xa nghĩ gần như thế thì thấy mẹ và dì bước vào. Dì tôi tay bưng bát nước thuốc, tới bên cạnh giường tôi mà bảo:

− Tam Lang, bệnh của cháu là loại cảm mạo. Bây giờ cháu ngồi dậy uống thang thuốc này, một vài ngày sau ắt sẽ khỏi bệnh. Thang thuốc này toàn là những thảo dược do chính tay dì hái. Tam Lang này, dì của cháu hằng ngày nhàn rỗi chẳng có việc chi làm, chỉ biết đi vào trong núi mà hái thảo dược, đích thân bào chế thành thang thuốc, rồi đem giúp cho những kẻ nghèo khó mà lắm bệnh. Phải nên biết rằng trong thế gian, không có thầy thuốc nào lại chẳng ham tiền; do đó kẻ nghèo khó nếu bất hạnh mà mang bệnh, chỉ còn biết buông tay chờ chết. Những chuyện thương tâm thảm mục trên đời chẳng có gì đau đớn hơn chuyện đó. Dì tự nghĩ mình còn chút tháng năm thừa, nếu không có chuyện đi hái lá cây về làm thuốc giúp người thì chẳng còn lạc thú nào khác cả. Còn như những việc đốt hương niệm Phật như những người đàn bà chốn hương thôn thì dì lại không làm. Tam Lang nè, dì và mẹ của cháu đều già nua cả rồi. Ngạn ngữ có câu: “Lão giả dự vi giao đại sự. 老 者 預 為 交 代 事。”, ý nói người già nua chỉ nên vì người sau mà mưu việc hạnh phúc, còn bản thân mình có nhọc nhằn vất vả đi chăng nữa thì cũng không nên so đo tính toán làm chi. Con trai của dì hiện đang phục vụ trong hải quân, mà nó đã lập gia đình rồi nên dì chẳng còn phải lo lắng gì về phần nó nữa. Ngày nay, chỉ còn đứa con gái Tĩnh Tử kia là đứa mà dì rất lo âu. Tĩnh Tử mồ côi cha từ bé. Nó nương tựa vào dì đã mười mấy năm nay. Dì thì phó thác hết mọi sự cho Thiên mệnh vậy.

Dì tôi nói tới đó, trầm ngâm một lúc, thở dài một tiếng, rồi nhìn tôi nói tiếp:

− Tam Lang à, ngày trước mẹ cháu Trung Hoa về lại quê nhà, chưa được ba tháng thì nhận được một lá thư của gia đình nghĩa phụ của cháu, bảo rằng Tam Lang leo lên núi đã bị cọp vồ chết. Dì nghĩ rằng bên xứ ấy vốn xảy ra nhiều tai nạn cọp bắt người nên tin ngay đó là sự thật. Dì và mẹ cháu nhận được hung tin, khóc lóc một trận cơ hồ chết đi, khiến cả hai chị em như già thêm hơn hai mươi tuổi nữa. Sự việc đã thế, còn biết tính sao. Chỉ còn biết ngày đêm cầu nguyện ông trời xanh, mong sao linh hồn phiêu dạt của cháu ghé về ứng mộng cho mẹ cháu hay.

Tôi lắng tai nghe dì kể, giọng dì thật vô cùng thảm thiết. Trong lòng tôi lại dâng trào bao nhiêu mối u hận cũ, hai lá phổi như muốn vỡ toang ra, chẳng còn biết làm sao cho phải.

Chặp lâu sau, ngẩng mặt nhìn dung nghi của mẹ, thấy không còn vẻ sầu thương, tôi cố gắng đè nén bao nỗi bi thống trong lòng mà cung kính nói:

− Con xin ghi tạc trong lòng tấm lòng thương yêu của dì. Những cảnh ngộ khốn khổ mà con trải qua, chẳng nên nhắc lại làm chi nữa, xem như đã thuộc về quá khứ. Xin dì và mẹ hãy yên lòng. Từ nay về sau, con ở lại nhà, được sớm hôm chăm sóc cho dì và mẹ thì lòng con thấy sung sướng không gì bằng.

Tôi nói xong, mẹ tôi giục uống bát thuốc. Chẳng mấy chốc, toàn thân tôi mồ hôi toát ra như tắm. Tôi thấy cơ thể rã rời, rồi nhắm mắt ngủ thiếp đi.

Chương 11

Tôi nằm bệnh suốt bốn ngày đêm mới thấy khỏe lại mà ngưng uống thuốc. Mẹ tôi, dì tôi và tất cả mọi người trong nhà, ai ai cũng hân hoan ra mặt. Hôm đó là ngày mồng ba tháng ba, khí trời thanh tân, mát mẻ. Tôi đến bên cửa sổ, vén tấm màn mà nhìn ra ngoài. Sắc núi chói chang như đập vào mắt, hoa lá xinh tươi, muôn chim đua hót, khiến tâm hồn sảng khoái lâng lâng.

Tôi chợt nhớ đến một chuyện. Dường như trong những mấy ngày tôi ốm sốt li bì, mỗi phen mê mê tỉnh tỉnh, khứu giác tôi lại cảm nhận một mùi u hương thanh nhã. Trên chiếc bàn nhỏ bằng gỗ tử đàn cạnh bên giường tôi nằm thường có một bó hoa tươi, được cắm gọn gàng trong một chiếc bình, màu hoa tươi sáng, lòng hoa như còn đọng mấy giọt sương mai.

Hôm nay chợt thấy một chiếc trâm cài áo bằng phỉ thúy đặt trên chiếc bàn thì tôi chợt hiểu rằng những đóa hoa tươi kia hiển nhiên là quà tặng của cô gái xinh đẹp nọ. Tôi đột nhiên nhớ lại tựa hồ như ngày trước tôi và người ngọc đã từng có phen gặp gỡ. Nhân vì có một lần tại khuê phòng của cô tiểu thư con gái mục sư Robert, tôi đã từng nhìn thấy bức di ảnh của nữ thi nhân Sappho Hy Lạp, do bàn tay một nghệ sĩ Đức quốc là Bá A Đà Phụ vẽ nên[1]. Bức di ảnh đó và cô gái này trông chẳng khác nhau mấy chút.

Đương lúc trầm ngâm như thế, tôi chợt đưa mắt phía dưới tấm rèm lụa, thấy trần thiết cực kỳ thanh nhã. Có một chiếc bàn bằng vân thạch tạc hình trứng ngỗng. Bên trên đặt một chiếc gương soi, một chiếc hộp bằng bạc, bút nghiên, một dải lụa hồng, tất cả đều sạch sẽ không vương một hạt bụi nào. Bên cạnh lại có một chiếc rương đựng sách bằng gỗ cây cam, hình dạng giống như cái chuồng bồ câu, chứa sách khá nhiều.

Tôi kiểm tra xem, thấy toàn là sách cổ Trung Quốc viết bằng chữ Hán. Tới lúc quay đầu nhìn bức tường bên trái, lại thấy một chiếc bàn nhỏ, bên trên có đặt một cây nhạn trụ minh tranh[2], tợ hồ như trên dây đàn còn vọng chút dư âm.

Đến lúc đó, tôi mới kinh hãi hiểu ra rằng nơi đây này là lầu trang điểm của cô gái xinh đẹp ấy. Trong lòng tôi lại càng thêm ngưỡng mộ cô ta học vấn thâm thúy, lại siêu thoát xuất trần, chẳng khác nào thánh nữ thiên tiên[3].

Lúc bấy giờ, tôi lại thấy rõ trong lòng như nảy ra một sở niệm, nhưng rồi có lúc lại thấy bùi ngùi như đánh mất đi.

Chợt thấy mẹ tôi lên lầu, tay cầm hai bộ áo xuân.

Mẹ dặn dò tôi:

− Tam Lang, hôm nay cái lạnh kinh người đã rút đi rồi. Con hãy thay bộ quần áo này đi.

Tôi nhận hai bộ quần áo, rồi xuống bên mẹ tôi, trên chiếc ghế lò xo, với những viền tua màu lam. Mẹ tôi âu yếm nhìn tôi, đưa tay sờ vào trán tôi và hỏi:

− Hôm nay, con cảm thấy thế nào rồi?

Tôi đáp:

− Con cảm thấy thoải mái, không còn khổ nhọc nữa, chỉ có cơ thể còn mỏi mệt đôi chút thôi. Mẹ định khi nào sẽ đưa con và em gái về nhà? Con cũng còn chưa gặp lại người chị của con mà.

Mẹ đáp:

− Lúc nào mà chẳng được. Ban đầu mẹ có ý chờ con hết bệnh là mẹ con ta lập tức đi ngay. Nhưng đêm qua, dì của con lại khẩn nài mẹ con ta khoan đi vội. Sáng nay, mẹ đã gởi thư báo tin chị con biết rồi. Có vẻ như dì con có một sự việc khẩn thiết trong lòng, đã cùng mẹ bàn bạc qua loa. Nếu như con ở đây mà cảm thấy thoải mái thì tạm thời mẹ cũng không có ý định về nhà. Con biết rằng mẹ tuổi đã đến lúc xế chiều, những bà con thân thuộc thuở bình sinh ai nấy cũng đều già nua cả rồi. Tình cảnh bây giờ khiến cho mọi người xa cách dần, đâu còn như thuở xuân xanh cứ thường xuyên lui tới viếng thăm nhau không lúc nào ngơi? Ngày nay, mẹ đưa mắt nhìn bốn phía, chỉ còn có chỗ dì con là nơi chốn thiết thân, gắn bó với nhau như hình với bóng. Hơn nữa, dì thấy con thì trong lòng dì sung sướng vô chừng; cho nên, nếu con ở lại đây cũng chẳng khác chi ở nhà. Mẹ biết bản tính con đam mê cảnh u tịch, bởi vậy, con ở nơi căn gác này là thích hợp nhất. Căn gác này vốn là khuê phòng của Tĩnh Tử. Từ ngày con tới thì nó dọn xuống dưới, ở chung với em gái con. Tam Lang à, con ở lại đây, nếu không thấy thích thì hãy nói hết cho mẹ biết.

Tôi đáp:

− Con kính cẩn nghe lời mẹ dạy. Phong quang cảnh vật bên ngoài nhà dì vốn xinh đẹp, nên nếu được ở lại một thời gian thì lòng con vui mừng lắm.

Lúc bấy giờ người giúp việc vào cho hay rằng cơm sáng đã dọn xong. Mẹ tôi vui vẻ bảo tôi thay y phục rồi xuống gác dùng điểm tâm. Tôi đi theo mẹ xuống phòng ăn, tôi hết lời chân thành cảm tạ sự hậu đãi của dì.

Dì tôi đón tôi vào, mặt mày rạng rỡ hân hoan. Rồi dì ngoảnh sang cô gái xinh đẹp kia mà bảo:

− Tạ ơn Trời Phật, Tam Lang đã được bình an rồi. Tĩnh Tử, con hãy mau đến vấn an Tam Lang đi.

Thoáng một cái, đã thấy người ngọc như bóng nhạn nhẹ lướt ngang trời, uyển chuyển đi tới trước mặt tôi, trang trọng cúi chào.

Lúc ấy, người ngọc với mái tóc đen buông dài, phong tư càng nhìn càng thêm nhu mì, duyên dáng. Tôi nào dám đưa mắt nhìn thẳng vào mặt nàng, chỉ thấy tâm hồn phiêu nhiên phơi phới, như chiếc lá cuốn bay theo chiều gió, chẳng biết sẽ rơi rụng nơi đâu.

Ba mẹ con tôi làm những khách lữ thứ ngụ tại nhà dì tôi chẳng khác gì sống giữa vườn hoa diễm ảo chốn thiên cung. Dì vốn đã yêu tôi hơn ai hết, tôi chỉ còn biết trăm cung ngàn kính, cẩn trọng hầu hạ sớm hôm để được thấy gương mặt dì, mẹ được rạng rỡ hân hoan, vậy là bản thân tôi đã cảm thấy vui mừng khôn tả rồi. Nếu trong lòng có dấy lên những cơn xúc động thì tôi lại ra vườn, ngồi tựa gốc cây, thơ thẩn nhìn dòng nước chảy, hoặc đọc sách để tự tiêu khiển. Thùng sách của Tĩnh Tử có nhiều sách lý học đời Tống, ngoài ra còn vài loại Phạn chương, Lư văn nữa[4], đã bị côn trùng gặm nhắm, không còn đọc được nữa. Thảy đều là bản in đời Đường. Lại còn thêm bản dịch tiếng Hán hai bộ sử thi MahabhrataRamayana. Hai bộ sử thi này ngày nay đã thất truyền tại Trung Quốc. Duy chỉ trong Hoa Nghiêm kinh là ngẫu nhiên có nhắc tới danh xưng hai bộ sách đó, và nghe nói rằng ấy là do bàn tay Mã Minh Bồ Tát soạn ra. Ngày nay bản dịch Anh ngữ của nhà Ấn Độc học là ông Dutt về những cuộc chinh phạt của những bộ lạc Bhrata, cũng là một phần trong bộ sách đó.

Chương 12

Có một lần, bóng nhạn bay vút ngang trời, tiếng ve râm ran bốn phía. Tôi cúi đầu đi quanh bờ ao cá trong khu sân vườn nhà dì, ngập tràn trong mắt tôi là không gian bao la tĩnh lặng, cùng những làn sóng li ti gợn trên mặt ao lạnh giá.

Tôi cứ trầm ngâm suy tưởng suốt buổi sáng, nhớ mẹ tôi có dặn rằng sáng mai mẹ sẽ dắt hai anh em tôi quay về lại nhà. Như thế thì cảnh vật nơi đây, nào mây trắng bồng bềnh giữa trời xanh, nào hoa thắm nở hồng trên cây lá, làm sao mà tôi chẳng ôm ấp trong tim với bao niềm lưu luyến. Giữa lúc đang miên man suy tưởng, chợt nghe tiếng gió xào xạc bên tai. Tôi ngước mắt nhìn lên trời, thấy lá cây đã lác đác rụng rơi, tiêu điều vàng úa thì chợt giật mình, mới hay rằng những ngày thu trong ngần xanh ngát đã tàn phai. Chẳng rõ vì đâu, lòng tôi bỗng thấy u hoài như có bao nỗi sầu chồng chất. Tôi nghĩ rằng lúc này mẹ tôi đã thu xếp hành lý xong xuôi, nên mới quay lại mái hiên thoái nhàn[5] để gặp lại người con gái kiễm kiều nho nhã nọ.

Vừa thả bộ đến hàng lan can trên cầu đá, chợt vẳng nghe tiếng y phục xào xạt. Được một lúc thì nghe một làn u hương theo gió lan tỏa bốn bề. Rồi thấy người ngọc trang điểm xinh đẹp như hoa, phiêu nhiên như tiên nữ, uyển chuyển đi đến cách tôi vài bước. Nàng trịnh trọng chuyển đôi mắt, từ từ nhìn vào mắt tôi. Tôi lập tức cung kính cúi mình xá lễ chào nàng.

Lúc bấy giờ, người ngọc hai má ửng hồng, tuy không phải ửng hồng vì bối rối thẹn thùng như lần đầu gặp gỡ, nhưng cũng đến mức ngại ngùng, lúng túng không biết phải làm sao.

Tôi nhìn thoáng qua, biết rằng người ngọc dường như có điều muốn nói, nhưng chưa thốt được nên lời. Tôi càng thêm bối rối, không biết nên lùi hay tiến, thấy đàng nào cũng đều bất khả, nên chỉ còn biết cúi đầu, đưa mắt nhìn xuống đất.

Sau một lúc lâu, tôi chợt trên đóa cúc tàn có một vật gì lấp lánh trước mắt, phất phới như cánh bướm, đong đưa tựa hồ sắp rơi xuống đất. Tôi vội vã bước tới, đưa tay bắt lấy, mới hay đó là dãi lụa mỏng như cánh ve, từ trên mái tóc người ngọc rơi xuống. Lúc ấy, tôi muốn ném nó xuống đất, nhưng lại nghĩ rằng như thế là trái lễ, nên bèn đem trao lại cho người ngọc. Người ngọc hiểu ra điều đó, lập tức đưa hai tay đón lấy, đưa cặp tuệ nhãn nhìn tôi như nói lời cảm tạ, rồi thẹn thùng cất giọng ôn nhu mà rằng :

− Đa tạ Tam Lang giúp đỡ.

Đây là lần thứ nhất người ngọc hé mở đôi môi anh đào, ban tặng cho tôi những lời thành khẩn, nên chi tôi ngây người ra, chẳng biết dùng lời nào để đáp tạ. Nhìn thấy đôi môi anh đào thỏ thẻ, tôi thầm nghĩ dẫu Sappho có phục sinh cũng chỉ diễm lệ đến ngần ấy mà thôi.

Sát na đó thật khiến con người hồn xiêu phách tán, điên đảo thần hồn!

Người ngọc lại nghiên cổ qua một bên một chặp, rồi dịu dàng thỏ thẻ cất lời huyền diệu mà rằng:

− Mấy hôm nay, Tam Lang có được khỏe chăng? Khí hậu vùng Đậu Tử ôn hòa, em thiết tha muốn đến bái kiến nơi ấy, nhưng mẹ ở nhà công việc bề bộn qua, chỉ e trong năm nay cũng chưa thể dứt hết được. Em nghe nói vùng đất này giống hệt với vùng Đậu Tử, phong cảnh đều rất mực trong lành, tót vời u nhã như nhau. Duy chỉ có khí hậu là khác biệt một trời một vực, vì vùng này ở chốn thâm sơn. Thi nhân đời Đường vịnh núi La Phù có lời thơ :

Du nhân mạc chước đơn y khứ,

Lục nguyệt phi vân đái tuyết hàn.

遊 人 莫 著 單 衣 去 ,

六 月 飛 雲 帶 雪 寒 。

(Du nhân chớ mặc manh áo mỏng,

Tháng sáu, mây mang tuyết buốt người.)

Em nghĩ dịch dời cái lời nọ mà áp dụng vào nơi đây, không chừng lại có phần ý vị thiết thân. Chẳng hay Tam Lang thấy lời em có thích đáng hay chăng?

Nghe người ngọc dùng lời chỉ định như thế, lòng tôi kinh hãi lạ thường, chỉ lắp bắp dạ dạ vâng vâng, chứ chẳng còn biết trả lời ra sao. Một lúc lâu sau, tôi mới cung kính mà rằng :

− Đa tạ a tỷ đã vì tiểu đệ mà hao tổn tinh thần. Nếu như a tỷ có lòng chiếu cố mà một phen ghé thăm hàn xá thì kẻ tiểu đệ hèn mọn này xin được sớm hôm cận kề hầu hạ, nếu a tỷ chịu về chèo ghe buông câu trên sông nước, nơi góc lạnh chốn hoang thôn thì thật là vạn hạnh, còn chi may mắn cho bằng! Nếu như a tỷ chẳng muốn buông câu bắt cá thì tại hàn xá cũng có không ít các thi tập Đông Tây, a tỷ cũng có thể khiêu ngọn hỏa đăng để lần giở những trang cổ lục, chắc a tỷ cũng đâu đến nỗi rẻ rúng coi thường kẻ tục tử phàm phu nơi phồn hoa phố thị? Dám hỏi a tỷ thích đọc tụng thi văn của nhà nào?

Người ngọc cúi đầu trầm tư một lúc, rồi đảo đôi mắt long lanh nhìn tôi, mỉm cười duyên dáng mà nói:

− Vô vàn cảm tạ thịnh ý của Tam Lang. Hỏi em thích đọc thi văn loại nào thì lời đó biến thành một trò cười đi mất. Tam Lang nên biết em chưa từng được đến trường đi học. Tam Lang đã không xem thường em thì em đâu dám không đưa ra những lời phế phủ? Rất mong được Tam Lang chỉ bảo thêm cho.

Rồi nàng nói tiếp, lời lời tiếp nối như nhả ngọc phun châu :

− Xưa nay em vốn thích đọc thơ của Trần Hậu Sơn, và cũng yêu thơ của Lục Phóng Ông. Chỉ có điều những lời “cố quốc Tây phong” (nghe ngọn gió tây mà chạnh niềm nhớ thương non nước cũ) để cho lệ rơi ngấn đầy trang giấy, khiến lòng người thương xót quá. Về sau, em có đọc Trang Tử và thơ Đào Uyên Minh mới ít nhiều hiểu được cảnh giới tiêu dao thế ngoại. Có thể thấy rằng thi văn kia quan hệ với cái học vấn về tính tình chẳng phải là ít. Tam Lang đã thấy cái rương đựng sách của em chứa nhiều tác phẩm về lý học. Những cuốn sách đó đều là của bậc di thần triều Minh là Chu Thuấn Thủy tiên sinh[6] đã tặng cho viễn tổ của em là An Tích Công. Thuở bấy giờ, viễn tổ của em tham sự chính sự ở Đức Châu, giữ lễ đệ tử mà đối đãi với Chu công, vì thế mà gia đình em mới nhận được ân tứ của Chu công để đời đời truyền nhau vậy. Gia đình em cất giữ những bộ sách đó đã hơn hai trăm ba mươi năm rồi.

Nàng thốt xong những lời đó, tôi kinh ngạc trố mắt nhìn người ngọc đăm đăm. Nàng lại nói tiếp mà rằng:

− Hồi còn thơ ấu, em có nghe tiên phụ nói về di sự của Chu công, cho tới ngày nay, em vẫn còn nhớ rõ. Giờ em xin thuật lại cho anh Tam Lang nghe.

Nàng thở một tiếng dài ảo não, rồi buồn rầu kể tiếp :

− Năm Sùng Trinh thứ mười bảy, tức ở nước Nhật em là năm Chính Bảo nguyên niên, đang lúc rợ Hồ nổi lên cướp phá thì Chu công đích thân dẫn một vài chiếc thuyền vượt biển đến Trường Trĩ (Nagasaki). Ngài đến Nhật là muốn khẩn cầu viện binh cứu nước[7], nhưng rốt cuộc chí nguyện chẳng thành. Đến Vạn Trị năm thứ ba thì xã tắc nhà Minh sụp đổ. Chu công làm kẻ di dân vong quốc, thấy xấu hổ vì ăn thóc của hai triều, nên đành chạy sang lưu ngụ tại Trường Trĩ, vì vùng đất đó ở gần miền Bình Hộ (Hirado) là nơi Trịnh Thành Công chào đời[8]. Về sau, Đức Xuyên (Tokugawa) nghe tin, bèn phái một nho thần ở Thủy Hộ (Mito) đem lễ vật tới mời về giữ chức tân sư[9]. Do cảm kích ơn tri ngộ, Chu công mới truyền bá học thuyết Vương Dương Minh[10] khắp xứ sở em. Chu công và Vương Dương Minh vốn đồng hương. Cho tới ngày nay, di mộ của Chu công vẫn còn ở huyện Thứ Thành, quận Cửu Từ, trên núi Thụy Long. Hôm nào thong thả, em sẽ đưa Tam Lang tới đó tế mộ để an ủi vong hồn của bậc trung quân vong quốc. Không biết ý của Tam Lang ra sao? Em lại nghe rằng Chu công rất thích hoa anh đào, nay trong vườn Hậu Lạc Viên ở Tiểu Thạch Xuyên vùng Giang Hộ vẫn còn lưu lại niềm di ái của Chu công, đó là những cây anh đào do ngài tự tay trồng và chăm sóc. Ngài tạ thế vào năm Thiên Hòa (Tenwa) thứ hai, hưởng thọ tám mươi ba tuổi. Chu công khinh bỉ người nhà Thanh, căm ghét họ như cừu thù. Thường ngày, Chu công học tiếng Nhật đến mức tinh thông, nhưng vào lúc lâm chung, mọi lời ngài nói ra đều là Hán ngữ. Bởi thế, không một ai hiểu được những lời ngài căn dặn trước khi vĩnh biệt, thật là điều đau xót vậy.

Nàng nói xong, ngẩng mặt lên trời mà thở dài. Lòng tôi cũng thấy buồn không kém. Một chiếc là hồng chợt rơi trên vai áo Tĩnh Tử, nàng nhíu cặp lông mày, ra dáng không vui, rồi cúi đầu khẽ nói :

− Tam Lang, sáng mai đi rồi sao? Sao không ở lại lâu thêm nữa? Em từ ngày cha mất, bỏ bê việc học đã lâu. Tam Lang ở lại thì em có thể hỏi anh những chỗ khó khăn trong sách. Tam Lang nếu không xem khinh bọn nhi nữ chân yếu tay mềm thì tuy em dẫu có tàn úa điêu linh cũng không có gì ân hận.

Không đợi nàng nói hết câu, hai gò má tôi đã đỏ tới mang tai, đầu cúi gầm tới ngực. Tôi muốn bày tỏ đôi lời thành khẩn nhưng không sao tìm được chữ nào. Một lúc sau, tôi mới ấp úng mà nói:

− Mẹ tôi bảo ngày mai phải về. A tỷ đã tha thiết như thế, tôi thật lấy làm cảm kích.

Lúc bấy giờ em gái tôi bỗng hiện ra tại hành lang. Nó vừa đi, vừa gọi:

− A tỷ không thấy rằng em đã vận áo kép rồi sao? Cơm chiều đã sắp xong rồi. Sao chị chưa về phòng ăn vậy?

Tĩnh Tử nhường tôi đi trước, rồi thong thả theo gót tôi vào nhà. Buổi ăn tối đầy các món ngon, hơn hẳn ngày thường, nhưng tôi thật tình chẳng biết mùi vị ra sao.

Ăn xong, tôi ngồi ủ rũ ngoài bao lớn trên lầu, chợt nghĩ rằng đến hôm nay tôi mới lần đầu thấy người ngọc xuất lộ thiên chân. Chẳng những nàng học vấn uyên thâm mà dung nghi lại diễm lệ. Dẫu là Ô Xá Tiên Tử giám thủ thiên môn cũng không thể hơn được nàng. Đang suy nghĩ đến đó, chợt ngẩng đầu lên thấy trăng sáng mênh mông, sao đêm thưa thớt, liền nhân đó mà khẽ ngâm một vần thơ của Ức Ông[11]:

 Thiên nham vạn hác vô nhân tích,

Độc tự phi hành minh nguyệt trung.

千 岩 萬 壑 無 人 跡 ,

獨 自 飛 行 明 月 中 。

(Chập chùng núi thẳm không người,

Mình ta bay lướt giữa trời sáng trăng).

Lòng nghe rỗng rang như không gian man mác, tôi chăm chú nhìn trăng trầm tưởng một hồi lâu Qua lại nhìn thì thấy bấc đã lụi tàn, mới biết đêm đã khuya lắm. Bèn cởi áo ra chui vào giường nằm ngủ. Rồi lại bùi ngùi tự nhủ :

− Đêm nay trăng hoa như nước. Biết đâu đêm mai mây gió âm u lại chẳng ùa về?

Tôi chưa kịp nói xong, quả nhiên đã nghe văng vẳng tiếng sấm vang rền, tự hồ như phát ra từ bờ ao sen ngoài vườn. Nhân thế mà nghe trong lòng càng chua xót không thôi. Tôi lại thở dài mà nói :

− Nào mây, nào sấm sét, nào mưa, nào tuyết, tất cả đều quán thông là một vật, chẳng qua chỉ do nhiệt độ khác nhau mà nảy sinh biến hóa. Đa tạ Trời cao, xin đừng dùng những sợi tơ mềm để buộc đời con lại!

Sáng hôm sau, dùng điểm tâm xong, mẹ tôi bảo tôi vận y phục lữ hành vào, và nói thêm rằng dì tôi cũng dẫn Tĩnh Tử cùng đi. Tôi nghe nói, thấy vui mừng quá đỗi, tự nhủ rằng như thế thì tôi tránh được một trận sầu não tiêu hồn vì cuộc chia phôi.

Chúng tôi vào toa tàu, thấy trên khung cửa kính hãy còn đọng ngấn sương. Mẹ tôi và dì tôi chỉ trỏ mây trời, cây cối, trông hớn hở vui tươi. Chẳng mấy chốc, đã nghe gió trời thổi sóng biển rì rào, rồi đến nhà lúc nào chẳng hay. Kể từ hôm ấy, ngoài những lần cùng đi dạo bên nhau, tôi cũng thường gặp mặt Tĩnh Tử. Nhưng chúng tôi không trò chuyện lâu, mà chỉ tươi cười kính trọng chào nhau thôi.

Một hôm, mưa bay lất phất, tôi vừa đứng bên cạnh mẹ, tựa lan can để nhìn cảnh biển khơi, chợt nghe tiếng gõ cửa nhẹ nhẹ. Lát sau, người giúp việc vào mang bức thư, quỳ xuống cung kính trao cho mẹ tôi. Mẹ tôi vội vã mở thư ra đọc một hồi, rồi bảo :

− Tam Lang, đây là thư của chị con. Nó bảo ngày mai nó sẽ tới đây. Cũng là gặp dịp ngày mai chồng nó đi kinh đô, nên nó mới có thể phân thân mà về thăm mẹ. Chị con cũng là đứa đáng thương.

Rồi bà rồi tiếp:

− Ngạn ngữ có câu: “Dưỡng nữ đồ lao.” (nuôi con gái chỉ uổng phí công lao khó nhọc) há chẳng đúng sao? Con gái một phen xuất giá theo chồng ắt đành phải gác bỏ mẹ cha ra khỏi đầu óc. Mỗi khi gặp thời tiết đẹp, muốn đi gặp lại con gái cũng đâu có dễ gì. Sự đó mặc dù cũng là do công việc bề bộn mà ra, nhưng tấm lòng con gái trong thiên hạ phần lớn thường hay quên mất cội nguồn. Xưa kia có một cô gái nhà nghèo, lấy chồng được mấy năm, người chồng bỗng trở nên giàu có. Cha mẹ cô gái trong lòng khấp khởi mừng thầm, nghĩ rằng như thế từ nay hai miệng ăn sẽ không còn chịu cảnh đói khát nữa. Ai ngờ không đến mấy hôm sau, đứa con gái sai người đem y phục cũ của nó trả hết về cho cha mẹ, lại còn đánh tiếng cho cha mẹ biết rằng : “Đứa con gái giàu có chẳng mặc quần áo của cha mẹ sắm cho ngày đi lấy chồng được.” Ý nó muốn châm chọc rằng đồ vật cha mẹ cho lúc xuất giá đều là những thứ tồi tàn, rẻ tiền. Tâm lý người đời đã như thế đó thì làm sao chẳng có cảnh “giang hà nhật hạ[12] cho được?

Mẹ tôi nói xong, đem phong thư của chị tôi đặt lên bàn, rồi gương mặt hiền từ quay sang nhìn tôi mà bảo :

− Tam Lang, sáng nay con không thấy lạnh sao? Mẹ thấy hai cánh tay lạnh buốt cả.

Tôi liền đáp :

− Dạ không.

Mẹ lại từ tồn bảo tôi:

− Tam Lang, con hãy ngồi xuống đây.

Tôi ngồi xuống. Mẹ hỏi :

− Tam Lang này, con thấy Tĩnh Tử là người thế nào?

Tôi đáp:

− Thông tuệ, xinh đẹp, cao sang mà cô độc, thật là một nữ lang toàn hảo.

Mẹ tôi nghe xong, lộ vẻ sung sướng không sao tả xiết. Rồi bà nói luôn một tràng dài :

− Quả đúng thế thật! Con nói không sai! Mẹ cũng cực kỳ thương yêu Tĩnh Tử vì nó ôn nhu thùy mị lại xinh đẹp. Hôm nay mẹ có lời này muốn nói, có liên quan đến con. Con hãy lắng tai nghe. Tam Lang này, mẹ đã quyết đem Tĩnh Tử về làm vợ con. Tĩnh Tử lớn hơn con hai tuổi. Về lý mà nói thì mẹ không đồng ý cho con đâu. Nhưng mẹ đã dò xét quanh đây rất kỹ rồi, chẳng đâu có được một giai ngẫu hơn Tĩnh Tử, chẳng tìm đâu ra một đứa con gái nào công, dung, ngôn, hạnh vẹn toàn như nó. Hơn nữa, Tĩnh Tử không còn đầy đủ cha mẹ. Theo lệ ông bà xưa nay, con phải về gia đình nó ở rể một thời gian trước khi thừa hưởng di sản của phụ thân nó. Như vậy, mẹ dĩ nhiên có thể ở chung với dì con một chỗ. Hai còn thiệt đúng là trời khéo se tơ, thiên duyên xảo tấu. Nếu dì con đã thu xếp mọi chuyện ổn định thì chờ tới sang năm, vừa khai xuân thì làm lễ thành hôn cho hai con. Sang tới mùa hè thì mẹ cũng sẽ dời nhà về Sương Căn. Sự việc này, lấy tình lấy lý mà nói thì cũng đâu có khác chi việc dì bắt rể thằng con Tam Lang của mẹ, có vậy trong lòng dì con mới thư thái được. Vả lại, dì con nuôi Tĩnh Tử từ bé, nay nó đã lớn khôn, đã đến tuổi lập gia đình, chẳng có lúc nào là dì con không vì con bé Tĩnh Tử mà lo toan trăm mối. Thật tình là liên tiếp mấy năm gần đây, người đến cầu hôn Tĩnh Tử tuy nhiều, nhưng dì con không quan tâm chi tới họ. Ý của dì con chẳng có quan hệ chi tới cửa nhà gia thế những người đó cả, mà dì chỉ lo về chuyện tâm địa người đời có kẻ tốt người xấu, vàng thau lẫn lộn, thiện ác khó phân, nếu Tĩnh Tử gặp phải thằng chồng tồi tệ thì dì con biết làm gì để khỏi ray rức khổ đau? Nay dì con có được thằng rể như con thì dì con trút được gánh nặng trên lưng rồi.

Mẹ tôi nói tới đó thì xúc động muốn khóc, mà nói :

− Tam Lang nè, mẹ già của con suốt một đời sống trong cô liêu tịch mịch, ngày nay mẹ mới sắp được chứng kiến ngày vui hạnh phúc của con thì mẹ và dì mặc dầu tuổi đã xế chiều, cũng lấy làm an ủi trong lòng. Từ đây về sau, mọi sự xin phó mặc cho số mệnh. Mẹ biết rằng Trời Phật thế nào cũng sẽ ban cho hai chúng con đầy đủ phúc tuệ song tu.

Trong khi mẹ tôi nói liên miên như thế, tim tôi đập thình thịch. Lúc mẹ tôi dừng lại, tôi lại không dám mở miệng đáp lời. Chính lúc tôi toan đem hết mọi sự đã trải qua để trình bày cho mẹ rõ thì lại sợ đem lại phiền muộn cho từ mẫu, đó không phải là đạo làm con. Tôi đắn đo suy nghĩ một hồi lâu, nước mắt đoanh tròng, miệng lí nhí thưa với mẹ :

− Này con có mấy lời bày tỏ, xin mẹ hãy lắng nghe. Con đã quyết tâm …

Mẹ tôi vội vã hỏi dồn:

− Con nói sao?

Tôi đáp:

− Con đã quyết tâm suốt đời này không lấy vợ[13].

Mẹ tôi nghe câu đó thì cực kỳ kinh hãi, bà đứng lên trố mắt nhìn tôi mà thốt lên :

− Ôi trời! Con nói vậy nghĩa là sao? Con đã nhìn thấy cái gì mà nói ra những lời đó? Hay là con cố chấp, cứng đầu? Con nói thế mẹ thiệt không sao hiểu nỗi. Con đã đến tuổi thành niên mà không chịu lấy vợ thì thiên hạ sẽ nói sao về mẹ? Dì con thương mến con, chẳng là chuyện uổng phí cả hay sao? Con hãy bình tâm suy nghĩ lại mà coi, cái lời con thốt đó làm sao có thể để dì con nghe được? Huống nữa còn con Tĩnh Tử đã nói với mẹ rằng, trừ Tam Lang ra nó không để ý tới ai hết cả. Những ngày trước, lúc con nằm bệnh ở nhà dì, mọi thang thuốc cho con đều do tự tay nó pha nấu. Tấm lòng chân thành của nó đối với con đã lâu rồi. Mẹ không thể nào hiểu được vì sao hôm nay con lại nghiêm túc nói ra cái lời đó được.

Mẹ tôi chưa dứt lời mà càng nói càng lớn tiếng. Tôi lau nước mắt mà nói :

− Xin mẹ hãy nghe con thưa chuyện. Con tự hỏi lòng mình, cố nhiên là con rất yêu Tĩnh Tử, con xem nàng chẳng khác nào xương thịt của bản thân mình. Con cũng vô cùng kính trọng nhân cách của nàng, thiết tưởng trong lòng Tĩnh Tử cũng hiểu rõ điều đó. Nay con lại hờ hững thốt những lời này, chẳng phải là dám có ý phản đối mệnh lệnh của mẹ và dì, mà thật ra là con có một nỗi khổ tâm bất đắc dĩ. Mong mẹ rộng lòng tha thứ cho đứa con ngu muội này.

Mẹ tôi buồn thiu không đáp lời nào cả. Một hồi lâu, bà mới nghẹn ngào nói:

− Tam Lang, con nên vui vẻ làm theo ý mẹ. Những giọt lệ già nua của me cũng đã cạn khô rồi. Mẹ chỉ còn mong nhìn thấy con và Tĩnh Tử sớm thành quyến thuộc thì dẫu mẹ có đi vào lòng đất ắt cũng ngậm cười nơi chín suối.

Chương 13

Nghe mẹ tôi nói thế, nước mắt tôi trào ra như suối. Trong lòng tôi cảm thấy mình có lỗi với mẹ, đúng ra là không nên làm trái ý nguyện của huyên đường. Để cho mẹ già phải thốt ra những lời lẽ thương tâm, tình cảnh đó phận làm con sao mà chịu được? Tôi bàng hoàng một chặp, rồi quỳ xuống gục đầu vào gối mẹ, kiếm lời an ủi mà rằng:

− Mẹ hãy tha thứ cho con. Con thực là đứa con bất hiếu, tội của con nặng nề lắm. Từ đây về sau, con xin kính cẩn tuân theo lời mẹ dạy bảo. Con còn trẻ người non dạ, chưa từng trãi sự đời, nên mong mẹ hãy tha thứ cho con.

Mẹ tôi chậm rãi gạt lệ, rồi ôn tồn bảo :

− Con trẻ cần nghe theo lời mẹ mới là phải lẽ. Người xưa bảo rằng: “Bất tín lão nhân ngôn, hậu hối tương hà cập.” (không tin lời người già, về sau hối hận sao còn kịp nữa). Huống chi đây là chung thân đại sự của con, mẹ già há đâu chẳng thâm tư tường sát, đắn đo cân nhắc kỹ càng? Con phải biết rằng không một phút giây nào mẹ lại chẳng vì con mà lo tính. Như chị của con đó, khi còn ở nhà, mỗi phen nó không nghe lời mẹ thì mẹ liền mắng cho nó một trận mà không có lấy một lời an ủi. Nay nó đã về nhà người ta, mọi sự mẹ chẳng cần phải hỏi han chi tới nữa. Nên biết rằng nữ tâm hướng ngoại, lòng đứa con gái luôn hướng về bên nhà chồng, mẹ còn biết nói chi đây? Nhưng Tĩnh Tử của con thì không thế. Con bé này tính tình u nhàn, trang trọng, lại có túc tuệ[14], thiệt hợp ý mẹ hết sức. Con tuyệt đối không được xem nó như những hạng gái suốt ngày chỉ thích ăn diện đua đòi, se sua trang điểm.

Mẹ tôi còn muốn nói nữa thì người giúp việc bước vào thưa:

− Thư bà, phòng tắm đã chuẩn bị sẵn cả rồi, bây giờ là khoảng mười giờ rồi ạ!

Nói xong, lui ra.

Gương mặt mẹ hòa hoãn trở lại. Bà vỗ vai tôi, bảo:

− Tam Lang, hôm nay mẹ phải xuống gác kiểm tra lại quần áo mùa đông, phải đến mười một giờ mới rãnh. Con hãy lo đi tắm đi.

Lúc ấy, tôi biết mẹ đã hết buồn nên trong lòng tự nhiên thấy hân hoan sung sướng. Ngẩng đầu nhìn khoảng không, thấy mây trời như những sợi tơ trôi bềnh bồng, lờ lững. Mưa cũng đã ngừng. Tôi đứng dậy bước xuống cầu thang đi vào phòng tắm. Tắm xong, tôi lại lên lầu gác, ngồi nhìn ra biển. Tôi lặng lẽ ngồi yên như vậy một hồi lâu thì đột nhiên cảm thấy những nỗi sầu bi ùn ùn kéo đến như mây, những niềm tư lự dập dồn xô ùa đến như sóng biển, tất cả cùng đua nhau bời bời tập kích khiến tôi chao đảo hoang mang.

Đến lúc này, tôi mới hiểu rõ rằng ngày hôm nay, lúc tôi hứa với mẹ sẽ cưới Tĩnh Tử thì đó chẳng qua chỉ là lời thốt ra trong lúc cùng cực hoang mang, tót vời sầu muộn. Chẳng khác nào tiếng sóng biển cứ triền miên rì rầm không dứt, tựa hồ như kéo dài nỗi ngậm ngùi đến vô tận vô biên. Nhưng nếu không làm thế thì lấy gì để an ủi mẫu thân?

Sự tình đã đến nước này, liệu còn biết xoay xở ra sao? Chỉ còn cách ngộ biến tòng quyền, cứ tạm thời thuận theo ý mẹ già, chờ đến lúc thong thả sẽ lựa lời mềm mỏng mà dần dần khuyên giải, an ủi để mẹ già thu hồi lại mệnh lệnh đã ban ra.

Nếu mẹ già cứ khăng khăng không chấp thuận, ắt tôi đành phải nói hết cho mẹ nghe những chuyện đời tôi đã trãi qua, mà lâu nay cứ chôn kín trong lòng. Biết đâu cuối cùng mẹ sẽ chấp thuận cho tôi quay về cửa Phật làm người chốn Không môn, có nghĩa là không lập gia thất. Tôi tự hỏi lại lòng mình, dĩ nhiên tôi không phải là kẻ vong tình phụ nghĩa, đâu phải là đứa nỡ đành lòng lãng quên đi người con gái kiều diễm nọ.

Rồi tôi chợt nhớ ra rằng theo tông phái Tịnh Độ Chân Tông của Nhật Bản thì tu sĩ có quyền lấy vợ, trong chùa vẫn cho tiến hành nghi thức cưới hỏi như thường. Điều này so với Cảnh giáo Ba Tư chẳng khác gì nhau. Nếu mẹ tôi viện dẫn lý do đó ra thì tôi biết lấy gì mà ăn nói với mẹ đây?

Tôi cứ suy đi nghĩ lại, quanh quẩn mãi với những ý tưởng đó mà không sao yên lòng được. Lại nghe phía sau núi, gió lạnh từng cơn heo hút thổi xào xạc trên cây. Nhân đó mà tôi chợt nhớ lại lời Phật dạy : “Thân trung tứ đại, các tự hữu danh, đô vô ngã giả! 身 中 四 大 , 各 自 有 名 , 都 無 我 者 。”. Tứ đại là địa, thủy, hỏa, phong trong thân ta đây, mỗi thứ đều có tên riêng, tất cả đều có phải là ta đâu.

 Than ôi! Dám mong từ mẫu khá chớ bắt con phải làm một con dê câm lặng!

Chương 14

Ngày hôm sau, quả nhiên chị tôi đến. Chị gặp tôi không nói gì nhiều, chỉ ôn tồn khuyên bảo:

− Dù có ở đâu hay vào lúc nào đi chăng nữa thì em cũng phải nghe theo lời mẹ. Phàm mọi việc, chớ nên phó mặc theo cái tính khí hăng hái nông nổi nhất thời. Được như thế thì những chuyện liên quan đến sự đời và lòng người, ta cũng suy nghĩ ra được hơn một nửa rồi. Còn chuyện em bảo rằng suốt đời em không lấy vợ, tự cho mình là thanh cao, thật ra đó cũng chỉ là thái độ thường thấy ở những đứa trẻ chốn hương thôn, đủ khiến thiên hạ cười chết đi được. Tam Lang, từ rày về sau em nên ghi nhớ lời chị dặn, đừng làm trò cười cho thiên hạ.

Tôi vâng vâng dạ dạ, rồi cáo lui. Từ đó trở đi, lòng tôi lúc nào nơm nớp lo âu. Những lần vào thăm mẹ lúc sáng sớm hay chiều hôm theo đạo lý định tĩnh thần hôn của phận làm con, tôi đều không dám ngồi lâu. Suốt ngày tôi cứ bồn chồn bất an, chỉ sợ mẹ già nêu ý định kia trở lại.

Mẹ tôi mỗi phen gặp tôi thì hân hoan vô tỷ, tợ hồ như chẳng lý gì đến muôn vạn nỗi sầu ngổn ngang trăm mối trong lòng tôi.

Một hôm, tôi ngồi trong thư phòng, hạ bút vẽ tranh để phát tiết nỗi sầu. Vẽ xong cảnh sóng biển cuồng nộ nhô cao đập vào gành đá, tôi lại vẽ tiếp cảnh biển xa khơi gợn sóng lăn tăn. Rồi tôi vẽ thêm một con sa âu nghiêng cánh khuất chìm trong khói lạnh.

Chợt nghe tiếng gõ cửa, tiếp đó là đứa em gái tôi xô cửa, hỏi:

− A huynh sao chẳng ra ngoài du ngoạn?

Tôi quay lại nhìn, chợt thấy Tĩnh Tử trang điểm qua loa, má hồng nhã đạm, đang cầm tay em gái tôi, đứng ngoài khung cửa. Nàng vừa thấy tôi, lập tức cúi mình thi lễ.

Tôi liền nói:

− Mời a tỷ vào trong thư phòng ngồi nghỉ chân một chút. Hôm nay tôi vừa vẽ xong một bức tranh, chứ chẳng còn việc chi khác.

Tôi vừa nói xong, em tôi liền lôi tay Tĩnh Tử, ép nàng bước vào đứng bên tôi. Tĩnh Tử chăm chú nhìn bức tranh tôi để trên bàn. Được một lúc, nàng mỉm cười quay sang nhìn tôi mà nói :

− Tam Lang thứ lỗi cho cái tội đường đột. Xưa kia Đồng Nguyên vẽ núi Giang Nam; Lý Đường vẽ núi Trung Châu; Lý Tư Huấn vẽ núi Hải Ngoại; Mễ Nguyễn Huy vẽ núi Nam Từ; Mã Viễn, Hạ Khuê vẽ núi Tiền Đường; Hoàng Tử Cửu vẽ núi Hải Ngu; Triệu Ngô Hưng vẽ núi Triếp Thiều; nay Tam Lang của em há chẳng phải vẽ Nhai sơn đó ư? Một phen nhìn vào bức tranh thì người ta cảm thấy tâm hồn lâng lâng siêu thoát, như gửi thân vào cõi thuần phác thanh nhã thời cổ đại. Thật khiến người ta thấy thư thái tâm hồn, rỗng rang tầm mắt vậy.

Nói xong, nàng trao lại bức tranh cho tôi. Tôi cầm lấy, nói:

− Tiểu đệ bỏ cây bút họa đã lâu, nay cao hứng vẽ bức tranh này, chẳng ngờ được a tỷ quá khen, khiến cho người ta cảm thấy thêm phần hổ thẹn.

Tĩnh Tử lại mỉm cười mà rằng:

− Tam Lang, những lời em nói chẳng có chi là khách sáo hết. Chẳng hạn như những họa sĩ ngày nay, họ vẽ tranh chỉ cốt sao cho giống được phần ngoại hình để lọt vào mắt những kẻ trung gian mua bán tranh, chứ họ làm sao đạt đến cảnh giới lý thú của hội họa nổi? Người xưa nói rằng vẽ nước thì có thể suốt đêm nghe như có tiếng nước chảy trong bức tranh. Em nay nhìn bức tranh này của Tam Lang, quả thật chứng minh rằng lời người xưa không phải ngoa truyền. Bức tranh này của Tam Lang, so với các tay danh họa cận đại, quả thật có sự cách biệt một trời một vực, như minh châu với gạch ngói. Há cần phải chờ em nói nhiều lời?

Tôi dồn hết tâm trí lắng nghe lời nói đó, trong lòng thầm nghĩ trên thế gian sao có được một giai nhân thông tuệ dĩnh ngộ đến thế. Tôi nhân lúc Tĩnh Tử đang xem tranh mà bước ra phía sau nàng, đưa mắt nhìn nàng. Làn tóc mây buông dài óng mượt, vóc người thon thả dịu dàng, vai tròn đều đặn, eo thắt lưng ong. Tôi thầm thở dài một tiếng mà tự nhủ trong lòng:

− Nàng đúng là người mà có suốt kiếp cũng khó lòng gặp gỡ.

Chợt Tĩnh Tử quay mắt lại nhìn, ra chiều bẽn lẽn mà bảo:

− Tam Lang, bức họa này có thể theo em về làm người hầu được chăng[15]? Tam Lang không nghĩ em yêu cầu theo khuôn phép lễ nghi như vậy là điều sai quấy đấy chứ? Em nhìn bức tranh này thấy cảnh tượng bát ngát bao la lại cổ kính phiêu dật, nên lòng em thấy thiết tha yêu chuộng. Nay mở lời xin tặng, hẳn Tam Lang nguyên lượng cho em.

Tôi lập tức đáp lời :

− Há dám! Há dám! Bức tranh thật đâu đáng để mắt xanh a tỷ một phen chiếu cố. Tiểu đệ cho rằng a tỷ vốn đã tinh thông hội họa, những mong a tỷ đừng hẹp hòi mà chỉ giáo thêm cho. A tỷ làm lương sư dạy dỗ tiểu đệ, há chẳng phải là một giai sự hay sao?

Tĩnh Tử bối rối, cúi hai rèm mắt xuống, đưa bàn tay ngọc mảnh mai kéo nhẹ dải dụa, rồi nói:

− Vậy sao được! Ngày trước tuy em có ngẫu nhiên học qua, nhưng chẳng có chút gì gọi là thành tựu cả. Nay trong cái thùng sách chỉ còn giữ lại một bức tranh “Hoa yến” mà thôi.

Tôi nói:

− Dám hỏi sao gọi là “Hoa yến”?

Tĩnh Tử đáp:

− Vườn ao nhà em, mỗi mùa hoa sen nở, đêm nào cũng có chim tử yến bay về vô số, làm tổ giữa đám hoa sen. Đến khi hoa tàn cả rồi chúng vẫn không chịu bay đi. Em cảm nhận được cái tính lưu luyến đó giữa tử yến với hoa sen, gọi đó là “hoa yến”, rồi vẽ cảnh tượng đó vào tranh. Tam Lang, nay để em đi tìm lấy ra xem, chỉ e chuốc lấy trận cười của bậc đại phương mà thôi.

Tôi cúi mình mà đáp :

− Xin a tỷ đi nhanh về, tiểu đệ nôn nóng muốn được trang trọng thưởng lãm

Tĩnh Tử không đợi tôi nói dứt lời, gót ngọc đã uyển chuyển dời đi. Nàng phất nhẹ tà áo, làn hương u nùng thoảng đưa làm ngây ngất hồn người.

Tôi giữ đứa em gái lại mà hỏi :

− Sao chẳng nghe tiếng mẹ và chị đâu cả? Mẹ và chị đi ra ngoài rồi chăng?

Em gái đáp:

− Dạ, đúng rồi. A tỷ hẹn với mẹ và dì đi dạo chơi hết cả rồi. Bảo rằng đi Diệp Sơn (Hamaya) để ngắm những cây tùng ngàn năm. Và cũng có thêm việc khác nữa, thuận đường ghé bái yết Thiển Đảo thần xã. Mẹ đã căn dặn cô bếp hôm nay cả nhà dùng cơm trưa lúc mười hai giờ rưỡi, và dặn em nói lại với anh điều ấy.

Tôi hỏi:

− Sao em không đi cùng?

Em đáp:

− Em không đi. Tại chị Tĩnh Tử không đi, nên em cũng chẳng muốn đi.

Tôi nhìn thấy trong tay em tôi có một quyển sách, bèn hỏi:

− Sách gì vậy em?

Em tôi đáp:

− Đó là bộ bát thư của Ba Nhĩ Ni (Panini).

Tôi nói:

− Đó là Phạn văn điển. Em gái anh học cuốn sách đó à?

Em gái đáp:

− Chị Tĩnh Tử mỗi ngày bày cho em đọc. Ban đầu học thấy rất là khó. Lần lần thấy quen dần rồi đâm ra thích thú. Câu văn đọc lên nghe thật thanh nhã, nhẹ nhàng. Các ngôn ngữ khác như tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh thật khó mà sánh được.

Tôi nói:

− Vậy là chị Tĩnh Tử đã nghiên cứu tiếng Phạn từ lâu rồi.

Em tôi nói:

− Chị Tĩnh Tử thường ngày thích bàn về giáo lý nhà Phật, vì lẽ đó nên chị thêm sách đọc Phạn văn. Chị thường bảo em: “Phật giáo tuy bài xích thanh luận, nhưng mà kinh Lăng Già hay Du Già Sư Địa Luận nói về ngũ pháp: nào Tướng, nào Danh, nào Phân Biệt, nào Chánh Trí, nào Chân Như, năm thứ đó rất gần học phái Ba Nhĩ Ni. Kinh Lăng Nghiêm tuy ra đời sau, nhưng cũng dựa vào nhĩ căn để tu tập viên thông, có những lời bàn rõ ràng về thanh luận. Như vậy, Phật giáo cũng giữ phần thanh luận, chỉ duy có hình thức là khác nhau mà thôi.

Tôi nghe xong liền nghiêm mặt lại mà bảo với em:

− Thiện tai! Thiện tai! Tĩnh Tử quả thật là siêu phàm nhập thánh. Em hãy chăm chỉ theo chị học tập, đừng có xao lãng nhé!

Chương 15

Nói chuyện với em gái đến đó, lòng tôi thầm nhủ:

− Tĩnh Tử tuệ cốt thiên sinh, có một không hai, há chẳng khiến người ta đem lòng kính sợ? Tiếc thay, ta làm sao có thể giữ gìn được mãi người ngọc với làn thu ba kiều diễm ấy.

Vừa nghĩ xong thì đã thấy Tĩnh Tử đã dịu dàng quay lại, trên tay cầm một bức tranh. Nàng đến trước mặt tôi, tôi trịnh trọng đứng lên, hai tay đón lấy bức tranh để xem. Bao quanh bờ ao sen là những hàng thùy dương rủ tơ lõa xõa. Dĩ nhiên đấy là phong cảnh bên nhà dì tôi. Có một cô gái đứng cạnh ao sen, phong thái anh nhiên tươi thắm, với y thường là lụa bích la xanh man mác, hầu như đạt đến cảnh giới phiêu dật tân kỳ trong những bức thần họa của Ngô Đạo Tử.

 Cô gái ấy búi tóc cao kiểu Nhật, tức kiểu tóc “phi tiên” (tiên nữ bay trong gió) thời nhà Hán. Nàng cúi xuống nhìn cảnh chim tử yến ríu rít trong hoa, mà dường như cũng đang tự ngắm vẻ trang điểm của mình nơi chiếc bóng soi trong làn nước. Có gái đó có tư thái cao nhã xuất trần lại phất phơ như tiên nữ bay lượn giữa trời mây.

Tôi than một tiếng mà rằng:

− Người con gái đó sao mà đẹp vậy! Thật có khác chi thần tiên giáng thế?

Tĩnh Tử nghe nói thế, đưa mắt nhìn tôi và cả em tôi, rồi mỉm cười nói:

− Sao mà xứng đáng được Tam Lang khen ngợi vậy chăng? Vả lại, Tam Lang làm sao có thể trông mặt mà bắt hình dong, nhận biết được tâm hồn con người qua tướng mạo? Liệu có hiểu được bên trong linh hồn còn chứa chất những gì chăng? Nhìn bề ngoài thì người trong bức tranh tựa hồ như mang vẻ cao nhã làm xúc động lòng người, nhưng nàng không biết nói thì Tam Lang căn cứ vào đâu mà biết được tâm tư nàng mang hình hài dáng vẻ ra sao?

Tôi bỏ mặc những lời mà không đáp lại, mà nói tiếp:

− Nét bút tú dật tuyệt luân, hiển nhiên là tiên phẩm. Tiểu đệ sinh bình đã từng xem qua tranh của rất nhiều họa sĩ, tất cả đều không theo kịp bức này. Hỡi ôi! Y bát chân truyền ngày trước đã tan thành cát bụi từ lâu, tiểu đệ còn biết nói gì đây? Nay căn cứ vào nét bút tài hoa như hành vân lưu thủy này mà nói, chỉ a tỷ là người duy nhất có sự sáng tạo độc đáo, khiến tiểu đệ thưởng lãm tranh chỉ có thể than dài mà chiêm ngưỡng, chứ không còn biết làm chi khác! A tỷ thật xứng đáng làm thầy của tiểu đệ, được vậy tiểu đệ là người vô cùng may mắn!

Lúc đó, Tĩnh Tử thẹn thùng không nói. Nàng cúi đầu trầm ngâm một lúc rồi dịu dàng lên tiếng:

− Tam Lang sao lại nói những lời đó? Để cho một kẻ tầm thường như em phải xấu hổ, không còn biết giấu mặt vào đâu. Chỉ mong Tam Lang hạ tứ, đem bức tranh hôm nay trao tặng thì em sẽ lấy đó làm bản gốc, và cũng xem nó là vật kỷ niệm để vĩnh viễn ghi lòng tạc dạ. Nhân vì cái tình cảnh biểu hiện trong bức tranh kia lại hoàn toàn tương hợp với thân thế em. Tâm tình của Tam Lang, phải chăng cũng không có khác?

Tôi đáp:

− Tiểu đệ lâu nay chẳng chú tâm tới việc vẽ vời, bởi vì tài năng đã kiệt tận cả rồi. A tỷ mới đúng là kẻ có thể điệu tài hoa hơn người, khiến tiểu đệ phải ngoảnh mặt về phương bắc mà chiêm ngưỡng khách hồng trang[16], sao a tỷ lại cho là tiểu đệ vọng ngôn?

Tĩnh Tử càng sượng sùng không đáp. Tôi cũng làm thinh, nhưng hai tay thì nâng bức tranh để hiến tặng cho nàng. Và vô tâm buột miệng :

− Kính mong úy hữu[17] vui lòng nhận cho món quà tặng này. Đây chỉ xem như để bày tỏ chút lòng thành của tiểu đệ, chứ chẳng dám bảo là hội họa gì cả.

Tĩnh Tử hớn hở mà rằng:

− Tam Lang nói thế càng biểu hiện rõ cái phẩm chất đáng quý trọng của kiệt tác này.

Nói xong, nàng lập tức vén tay áo, trang trọng đón nhận bức trang. Rồi cất giọng thuần hậu ôn nhu mà nói:

− Kính tạ Tam Lang! Tam Lang từ nay đừng dùng hai chữ úy hữu gọi em nữa nhé. Hôm nay, nhận được bức tranh này, em sẽ sớm hôm chiêm ngưỡng, không bao giờ dám quên người đã tặng.

Đêm ấy, mảnh trăng non đã mọc trên mặt biển phía Tây. Mặt biển phẳng lặng mênh mông, không nhấp nhô gợn sóng. Tôi cầm gậy bước ra ngoài cửa, thong thả lần đi. Gặp một ngư ông, tôi dừng lại để chuyện phiếm cùng ông. Đến khi ông lão thu cần cuốn lưới, tôi cũng quay về nhà. Lúc bấy giờ, đêm khuya vắng lặng, gió lạnh hắt hiu. Tôi nhìn ra bốn mặt, ngoài mảnh trăng tàn mờ ảo trên mặt biển thì chẳng còn thấy gì nữa cả.

Lúc tôi còn cách nhà khoảng một trượng, chợt thoáng thấy một bóng người ngồi yên bên một tảng đá cheo leo lạc loài bên bờ biển, yên lặng nhìn ra mặt biển bao la. Tôi nhận rõ bóng dáng thon thả xinh đẹp kia chính là Tĩnh Tử. Liền bước tới hỏi:

− Người ngồi đó có phải là a tỷ chăng?

Tĩnh Tử nghe tiếng tôi thì vô cùng mừng rỡ. Nàng vội vã quay đầu lại mà rằng :

− Tam Lang, sao về muộn thế? Anh không sợ gió biển lạnh hay sao? Em ngồi đây chờ đợi Tam Lang đã lâu. Lúc ra ngoài biển, Tam Lang có mặc thêm áo hay không? Khi hậu lúc về đêm không như ban ngày, chỉ e Tam Lang không chịu nổi. Anh chẳng nên để người nhà phải lo lắng trong lòng. Tam Lang phải tự lo giữ gìn sức khỏe, cái lạnh như thế này cũng đáng sợ lắm đấy.

Tôi liền đáp:

− Cảm tạ a tỷ quan tâm. Trời lạnh giá thế này, giữa đêm khuya tịch mịch mà a tỷ ra ngồi đây trầm ngâm tư lự chuyện gì? Em gái tiểu đệ vì sao không đi bầu bạn cùng a tỷ?

Tĩnh Tử dịu dàng nói :

− Chút thân bèo bọt này có chi mà đáng tiếc? Em cũng vừa mới ở nhà ra đây thôi. A mẫu, lệnh tỷ, lệnh muội và di mẫu cùng tập trung nơi nhà bếp gọt dưa, chẻ trái cây. Chỉ một mình em rãnh rỗi nên ra đây ngồi đợi Tam Lang. Bây giờ Tam Lang đã về rồi, em mới thấy yên lòng.

Tôi cảm tạ nàng một lần nữa và nói :

− Thật vô cùng cảm kích hậu ý của a tỷ đã ngồi chờ. Tiểu đệ thật xấu hổ không dám nhận sự quan hoài. Mong a tỷ quay về nhà, đừng có mạo hiểm lặn lội dưới sương khuya mà chờ tiểu đệ như thế. Ân đức của a tỷ, tiểu đệ tự xét thấy mình chẳng đáng đón nhận.

Nói xong, tôi dợm chân toan đi về nhà thì Tĩnh Tử đã đi vội đến trước mặt, nắm tay tôi giữ tôi mà nói:

− Tam Lang hãy dừng bước. Tam Lang cho phép em hỏi vài điều có được chăng?

Tôi trả lời :

− Có chuyện gì vậy? Sao a tỷ lại khách sáo thế! Có việc gì xin a tỷ cứ hỏi. Tiểu đệ hứa sẽ trình bày rõ ràng cùng a tỷ.

Tĩnh Tử ngần ngừ một lúc, rồi cất giọng ôn nhu mà hỏi câu thứ nhất :

− Tam Lang, từ ngày biết nhau đến nay, em thấy vẻ mặt Tam Lang luôn trĩu nặng nỗi ưu sầu. Đó là bởi nguyên cớ làm sao? Tam Lang đã sầu bi thì khiến người ta không muộn phiền sao đặng. Đêm nay, em thỉnh cầu Tam Lang giải thích tỏ tường.

Đến lúc này thì lòng tôi đã hiểu rõ mọi sự, nên cứ đứng ngây người ra mà không nói được lời nào.

Tĩnh Tử liền hỏi tiếp câu thứ hai :

− Tam Lang cũng biết hôm nay a mẫu yêu cầu a di cùng lệnh tỷ đi lễ bái ở Đạm Đảo Minh Thần. Nguyên nhân vì đâu thì tất nhiên Tam Lang chưa được rõ.

Nghe nàng hỏi thế, lòng tôi hoang mang khôn xiết, chỉ trố mắt ra nhìn mà không biết đáp lại thế nào. Được một lúc, tôi mới lên tiếng :

− Quả đúng như lời a tỷ nói. Tiểu đệ chưa được rõ lắm.

Tĩnh Tử hạ thấp giọng, lời nói ngập ngừng lúc được lúc mất, không nghe rõ tiếng. Dường như nàng nói thế này:

− Tam Lang nghĩ lại mà xem. Tất cả những chuyện đó chẳng qua cũng chỉ vì Tam Lang và tâm thân cỏ nội hoa hèn là em đây mà thôi.

Chương 16

Ngực tôi tưởng chừng như chấn động, khi hiểu ra điều cốt yếu trong lời nói ngập ngừng của giai nhân. Tôi bàng hoàng hoảng hốt, quay người bước cách xa nơi Tĩnh Tử đứng. Rồi làm bộ thản nhiên, đưa tay chỉ mặt biển mà chậm rãi nói :

− A tỷ hãy thử nhìn kỹ cái bóng đen ở giữa lòng biển xa tít mù khơi kia kìa. Dường như đó là chiếc khinh chu của ngư phủ đang trôi lờ lững trong sương lạnh. Phải chăng? Hay là chẳng phải?

Tĩnh Tử cúi đầu không đáp. Rồi nàng bước tới sát bên ngực tôi, đưa hai làn mắt thu ba chăm chú nhìn vào mặt tôi. Dưới ánh trăng lung linh mờ ảo, tôi ngưng thần lăng lẽ nhìn đôi má nàng. Ôi, khuôn mặt khả ái lạ thường, dưới bóng mây vắt ngang ánh trăng tà huyền ảo, trông gương mặt nàng đoan trang diễm lệ tuyệt luân. Lúc nấy giờ cảnh vật bốn bề đều tịch nhiên lặng lẽ, cả vũ trụ đều như chìm sâu vào cõi lặng lẽ vô ngôn. Tâm hồn tôi không còn tự trấn tĩnh được nữa. Tôi ngước mắt lên nhìn trời, thấy mây đen trôi lướt khắp trời. Chỉ còn một vài ngôi sao lấp lánh, tỏa sáng một cách yếu ớt rồi tắt mất giữa không gian. Tôi bất giác tự nhủ:

− Hỡi ôi! Đây chẳng phải là thế gian của con người sao? Đêm nay, thân ta vì đâu mà lại lạc loài vào cảnh ngộ hoang mang giữa chốn này.

Tôi vừa nghĩ xong, chợt có một vật gì như bông tơ mềm mại xứ Ngô, vừa dịu mềm vừa ấm áp đặt lên lòng tay tôi. Tôi nhìn lại, hóa ra đó là bàn tay Tĩnh Tử, Nàng một tay nắm tay tôi kéo đi, một tay phủi tảng đá khô để ngồi. Tôi đành phải ngồi kề vai sát gồi bên nàng mà không biết cách nào để thoát khỏi tình cảnh này.

Im lặng một hồi lâu, Tĩnh Tử mới lên tiếng, giọng nàng nghe vang vang trong vắt, nhưng nghe ra như sầu oán, như thổn thức :

− Em xin hỏi Tam Lang, a di đã nói với anh về chuyện liên quan đến hai ta chưa?

Tôi lúc đó tâm thần hốt hoảng, hoang mang không sao tự chủ được, hai chân run lẩy bẩy, còn hai hàm răng như đánh bò cạp. Tôi cúi gằm đầu xuống, không dám nhìn nàng. Trong lòng thầm nghĩ khi lưới tình đã phủ vây thì dẫu có chấp cánh cũng khó lòng mà bay cho thoát. Em kiều diễm đem nụ cười giăng lưới. Tôi dại khờ khốn quẫn giữa trùng vây. Đúng là tình cảnh lúc này vậy.

Lại nghe Tĩnh Tử hỏi tiếp :

− Tam Lang à, thật ra a di đã nói với anh những gì? Tam Lang chẳng chịu để tâm xem xét thế tình chi cả. Hay là trong lòng Tam Lang đã rõ hết cả rồi, nhưng không chịu nói ra? Vì lẽ chi mà anh chẳng đoái hoài đến em chút nào cả? Em ngày nào cũng thấy anh ủ rũ sầu muộn, nhưng lại không dám hỏi han sợ làm phiền đến anh.

Tôi gắng hết sức để chế ngự nỗi kinh hoàng, rồi lắp bắp mà rằng:

− Mẹ tiểu đệ chẳng hề nói gì cả. Mà dẫu có nói đi chăng nữa thì tiểu đệ cũng mơ mơ hồ hồ không còn nhớ gì đâu.

Tôi vừa thốt lời đó, đột nhiên cảm thấy gân mạch Tĩnh Tử dao động dữ dội, bàn tay nhỏ nhắn nàng bất chợt buông thỏng xuống. Tôi biết lời nói của tôi đã khiến nàng quá đỗi ngạc nhiên. Tôi đương suy nghĩ tìm cách nói lãng sang chuyện khác, đi đột nhiên một trận gió não nùng từ ngoài khơi thổi lại. Trận gió thổi tới đầu núi rồi cuốn về nơi xa tắp. Tôi đứng im lìm bất động. Tĩnh Tử hoảng sợ nhìn bốn phía, rồi lấy trong tay áo ra chiếc khăn lụa thoang thoảng mùi thơm. Nàng đặt chiếc khăn lụa vào giữa lòng bàn tay tôi, rồi nói vội :

− Tam Lang, xin bảo trọng. Trong chiếc khăn tay này có thêu hình hoa lê ở một góc. Em lúc nhỏ nhờ có học thêu với mẹ mà làm thành, nay trân trọng trao tặng, gọi là báo đền đôi chút cho bức tranh kiệt tác của anh. Xin anh hãy nhận cho. Vật mọn này chẳng đáng kể là bao, sao đủ để gọi là quà tặng được? Nhưng xin Tam Lang hãy thấu hiểu lòng em!

Tôi vừa nghe nàng nói thế thật vô kế khả thi. Tôi thầm nhủ: từ chối không nhận thì lòng chẳng nỡ, mà nhận thì lại rơi vào tình cảnh éo le là thấy vật nhớ người. Làm sao tôi có thể đáp ứng được trọn vẹn đôi đường? Một bên là chấp nhận tình yêu của Tĩnh Tử để đáp lại hoài vọng thiết tha, một bên là sống cô độc trong cõi thanh tu để chứng đắc lẽ vô sinh của Phật pháp. Tôi suy đi nghĩ lại bao phen mà cũng chẳng biết làm thế nào cho phải lẽ. Tĩnh Tử còn muốn nói nhiều nữa, nhưng tôi chỉ nghe thấy tiếng gió lạnh cuồng nộ rú gào, âm thanh chấn động cả mười phương quốc độ; cùng tiếng sóng lớn đập vào đá ghềnh, nghe thê lương như âm thanh của cảnh tượng chiến trận tan hoang, cờ xí ngữa nghiêng, ba quân tan tác.

Tĩnh Tử cầm chiếc khăn lụa gấp lại tỉ mỉ, ân cần nhét vào túi áo nơi ngực tôi. Xong rồi, nàng đặt tay trên vai tôi, dịu dàng áp má nàng vào đó, giọng nghẹn ngào như muốn khóc :

− Tam Lang! Nhận lấy vật này đi và đừng buồn nữa. Em nguyện cầu đấng cao xanh che chở cho anh được vạn sự bình yên. Bây giờ hai đứa mình cùng về nhà để gặp mẹ.

Tôi đứng ngây ra như phỗng, chỉ còn cảm thấy mọi thứ trong người chấn động dữ dội, như muốn nhảy dựng cả lên.

Tĩnh Tử kiều diễm không bút nào tả xiết. Nàng ân cần nắm tay tôi dìu tôi bước đi. Về tới thư phòng, tôi mới cảm thấy đầu óc có phần nhẹ nhàng sáng láng nhưng tình tự trong lòng vẫn rối loạn bời bời, chỉ muốn vất bỏ hết mọi thứ trên đời.

Đêm hôm đó, tôi mới giác ngộ ra rằng nếu không xa lìa được cái xác thân ngũ lậu[18] kia để đem hình hài trả lại cho phụ mẫu thì làm cách nào để vượt qua được cửa quan của tình ái đa đoan mà xa lìa những nỗi u sầu, sợ hãi? Tôi chợt nhớ lại lời kinh Phật :

Nhất thiết ân oán hội,

Vô thường nan đắc cửu.

Sinh thế đa úy cụ,

Mệnh nguy ư thần lộ.

Do ái cố sinh ưu,

Do ái cố sinh bố.

Nhược ly ư ái giả,

Vô ưu diệc vô bố.

一 切 恩 愛 會 ,

無 常 難 得 久 。

生 世 多 畏 懼 ,

命 危 於 晨 露 。

由 愛 故 生 憂 ,

由 愛 故 生 怖 ,

若 離 於 愛 者 ,

無 憂 亦 無 怖 。

 (Mọi ân oán đời này,

Đều vô thường chóng phai.

Cõi thế nhiều lo sợ,

Mạng nguy như sương mai.

Do ái sinh sợ hãi,

Do ái sinh ưu phiền.

Kẻ nào lìa chữ ái,

Tâm mới được an nhiên.)

Chương 17

Sáng hôm sau, bầu trời trong xanh quang đãng, chỉ có khí hậu là lạnh buốt. Vì lúc này đang ở giữa mùa đông. Mẹ tôi dậy sớm, bảo thím đầu bếp bày đồ ăn thức uống ê hề trên bàn. Mọi người cùng tề tựu đông đủ trong phòng ăn, tiếng cười nói vui vẻ nghe nhộn nhịp rộn ràng. Hôm nay chị tôi sắp trở về lại nhà chồng. Tĩnh Tử lúc bấy giờ trang điểm theo kiểu “hiểu hà trang” đời nhà Ngụy[19]. Phần tóc dư buông lòa xòa xuống vai phải, phần tóc búi như cánh chim, hoàn toàn khác hẳn với cách trang sức đương thời. Nàng e lệ nghiêng người thi lễ chào tôi, trông càng tăng thêm phần diễm kiều cao ngạo. Tôi lại gần bên lò bếp ngồi xuống, lòng cứ nhấp nhỏm không yên, bởi vì đêm qua, khi nói chuyện với nàng bên bãi biển, tôi vẫn chưa nói cho người con gái xinh đẹp kia kiểu rõ sự thực đau lòng.

Lát sau, chị tôi từ biệt mọi người, tôi thấy Tĩnh Tử mặc chiếc váy dài, đưa tay nắm lấy tay em gái tôi để đưa chị tôi ra cửa. Tôi bước theo sau. Đến chỗ hành lang thì mẹ tôi đứng qua một bên, bảo tôi hãy đưa chân chị tôi. Tĩnh Tử nghe được lời đó thì vẻ mặt lộ vui mừng, nàng liền quay lại, cầm mũ và gậy đem lại cho tôi.

Tôi nói:

− Cám ơn a tỷ đã quan tâm đến tiểu đệ thật là chu đáo.

Chúng tôi cùng đi tới nhà ga. Khi tiếng còi tàu vang lên, tôi đưa tay từ biệt chị. Trên đường về, chỉ còn Tĩnh Tử và hai anh em tôi mà thôi.

Tĩnh Tử thong thả bước đi, xa xa trông thấy những người nông dân đang cày cấy, nàng đưa ngón tay xinh xắn tay chỉ cho tôi nhìn, rồi thuận miệng ngâm thơ :

 Thái lăng tân khổ phế lê sừ,

Huyết chỉ lưu chu quỷ chất khô,

Vô lực mãi điền liêu chủng thủy,

Cận lai hồ diện diệc thu tô.

彩 菱 辛 苦 廢 犁 鋤 ,

血 指 流 丹 鬼 質 枯 。

無 力 買 田 聊 種 水 ,

近 來 湖 面 亦 收 租 。

(Đào ấu gian nan, bỏ cấy cày,

Ngón tay rướm máu, xác khô gầy,

Sức đâu mua ruộng, trồng cây nước,

Lại phải còng lưng đóng thuế ngay.)

Ngâm xong, nàng quay sang nhìn tôi mà hỏi :

 − Tam Lang! Đó có phải là thơ của Phạm Thạch Hồ hay không? Dĩ nhiên là vào đời Tống. Chẳng trách ngày nay trong nước ta thuế nông nghiệp cũng quá sức nặng nề. Em nghĩ tới cuộc sống của những người nhà quê mà thấy cảm thương vô hạn.

Tĩnh Tử nói xong thì khẽ thở dài, bỗng chốc má nàng ửng đỏ, nàng lại nhìn tôi mà hỏi :

− Tam Lang có thấy mệt chăng? Mấy hôm nay, thân tâm anh có được an lạc, bình yên hay không? Sáng nay, em nghe a mẫu cho biết trong ba hôm nữa sẽ dẫn lệnh muội cùng em về lại Sương Căn. Chẳng hay lúc đó anh Tam Lang có chịu để hành lý thêm một phen lấm bụi ngao du nữa hay chăng?

Tôi nghe những lời đó thì trong lòng nảy sinh muôn ngàn ý niệm dập dồn. Tôi không trả lời ngay mà quay nhìn Tĩnh Tử. Nàng che mặt dưới tán dù hoa, đưa cặp tuệ nhãn nhìn tôi, ra chiều bẽn lẽn.

Tôi nói:

− Nếu a mẫu đi, ắt tiểu đệ cũng theo mẹ mà đến bái viếng tôn phủ.

Nói xong, tôi quay sang nhìn Tĩnh Tử lần nữa, thấy mặt nàng đượm vẻ u sầu. Phút chốc, bỗng thấy Tĩnh Tử đôi mắt đẫm lệ, cất tiếng nghẹn ngào:

− Sáng nay vào phòng ăn, em nhìn thấy Tam Lang vì cớ chi mà vẻ mặt u sầu ão não? Chẳng lẽ trong mình anh có gì không ổn? Dám xin anh hãy nói cho em hay. Còn nếu Tam Lang có điều chi thương cảm, cũng xin anh đừng ngại mà tỏ bày cho em rõ, đừng xem em xa lạ như người ngoài.

Tôi lặng thinh không đáp.

Tĩnh Tử lại thỏ thẻ hỏi tiếp:

− Anh giận em đấy ư? Sao chẳng trả lời em?

Tôi dừng bước, cất cao giọng nói:

− Lòng tiểu đệ chỉ ngẫu nhiên thấy bồi hồi, xao xuyến, cũng chẳng rõ vì đâu. Làm phiền a tỷ phải quan tâm hỏi han, đã tự thấy xấu hổ lắm rồi, còn biết nói năng chi? Chỉ vạn lần mong a tỷ rộng lòng tha thứ cho.

Tôi vừa đi vừa suy nghĩ. Bỗng nhiên thấy trong lòng máy động, tôi không kìm hãm được nữa, bèn thất thanh la lớn:

− Hỡi ôi! Lòng tôi thấy xấu hổ, ăn năn, không bao giờ thoát được tâm trạng này.

Đến lúc đó, nước mắt tôi trào ra theo lời nói. Tĩnh Tử tuy nghe những lời tôi nói, nhưng nàng vẫn chưa hiểu ra tâm ý tôi muốn nói điều gì, nên nàng lặng thinh không nói lời nào. Nhưng từ lúc đó, gương mặt nàng trông tiều tụy hẳn đi. Nàng rút trong áo ra một tấm khăn lụa đan hà[20] trao cho tôi để lau nước mắt, nói mấy lời an ủi. Nhưng phần nàng vừa cứ khóc mãi, đến nỗi nước mắt ướt đầm tay áo.

Tôi kinh hoàng tự nhủ:

− Cả hai đứa đều cùng đau khổ thế này, đây là dấu hiệu không thể sống lâu!

Đến gần giờ ngọ, chúng tôi mới về đến nhà. Tĩnh Tử và tôi, không đứa nào đến phòng ăn dùng bữa cơm trưa.

Chương 18

Chị tôi quay về nhà, mới đấy mà đã được ba ngày. Lúc bấy giờ, tuyết rơi dữ dội, tôi đóng chặt cửa sổ, tĩnh tọa suy tư. Lúc đó, lòng tôi như cùng với hoa tuyết hòa nhau theo gió cuốn, bay tán loạn, mù mịt cả khoảng trời biển bao la. Tôi trầm tư một hồi lâu rồi bồi hồi đứng lên, thầm nhủ :

− Hỡi đấng cao xanh! Hỡi đấng cao xanh! Vì lẽ gì mà suốt ngày con cứ phải ôm ấp mãi trăm ngàn nỗi sầu khổ trong lòng, mà không có cách gì nguôi ngoai đi được? Học đạo không thành, mà kế sinh nhai cũng không còn đường xoay xở, sau này có ăn năn hối hận thì cũng đã muộn mất rồi.

Tôi tập trung hết tâm tư nghĩ về người con gái xinh đẹp nhu mì là Tĩnh Tử. Tâm hồn nàng cao viễn thoát trần, dung nhan tuyệt tục, đúng là một bậc thiện tri thức của thế gian. Nhưng cứ nhìn đôi mắt long lanh tựa sóng hồ thu mà đoán định thì dẫu sao nàng cũng không thoát khỏi nhi nữ tình trường, thật đáng để ta lo sợ. Giả sử lúc ấy tôi có là U Yên lão tướng[21] đi chăng nữa thì cũng không thể nào vung cương đao, tuệ kiếm để xua đuổi nàng con gái yêu kiều kia về chốn sa mạc Bắc phương.

Trước kia, tôi về lại nhà xưa là cốt đi tìm từ mẫu. Không biết bởi túc duyên nào, do sự tình chi mà khi gặp nàng Tĩnh Tử diễm kiều thì bao nhiêu sợi tơ tình quyến luyến cứ triền miên vây bủa lấy trái tim tôi, kéo tấm thân khốn khổ của tôi vào tấm lưới tình dằng dặc. Đã phụ mình, lại phụ người, còn đâu một chỗ yên vui? Than ôi! Lụy tình là cái chẳng những khó đem lại thanh thản bình yên, mà còn gây thêm bao nỗi niềm sầu oán. Tự ngàn xưa, sự tình đó đã như vậy rồi. Giờ đây, tôi sao có thể đắm chìm trong tình cảm quyến luyến của gia đình để rồi chết dần mòn trong cảnh sầu bi vô cớ vô đoan? Phật bảo: “Phật tử ly Phật Tổ thiên lý, đương niệm Phật giới. 佛 子 離 佛 數 千 里 , 當 念 佛 戒 。” (Phật tử dầu xa cách Phật hàng ngàn dặm, vẫn phải nhớ nghĩ giới luật của Phật.)

Tôi từ đây về sau, ắt phải lấy trì giới làm nền tảng thì mới mong gần được với lời Phật dạy

Đang suy nghĩ quẩn quanh như thế, hốt nhiên tôi ngộ ra được lẽ “đoạn hoặc chứng chân” (đoạn trừ hết điều nghi hoặc và chứng nhập được chân lý), gạt bỏ hết mọi ý tưởng về nhan sắc diễm kiều, về hồng nhan mị lực thì bỗng nhiên trong lòng vui sướng lạ thường, và cảm thấy một niềm an ủi vô biên. Tôi quyết tâm quay về tìm lại vị bổn sư để trình bày mọi niềm sám hối ăn năn trùng trùng lớp lớp. Tôi cũng nghĩ rằng chuyện này tuyệt đối không thể bẩm bạch với mẫu thân được. Mẹ tôi mà biết được thì tất cả đều hỏng bét.

Chợt em gái tôi cầm một đóa hoa làm bằng gấm bước vào, bảo tôi :

− A huynh! Đây là đóa hoa tự tay em làm theo phong cách phái Từ Khê. A huynh xem thử có được không nhé!

Tôi lặng lẽ nhìn đứa em gái, chợt nghe lòng đau nhói, nước mắt đoanh tròng. Tôi muốn nói cho em tôi biết ý định rời bỏ gia đình của mình, nhưng sợ nói ra thì sẽ không thể nào đi được.

Đến khi em tôi ra khỏi phòng rồi, tôi không sao kìm nén nỗi nên quay người lại, úp hai tay vào mặt mà khóc tầm tã như mưa.

Đêm hôm đó, lòng tôi ngổn ngang trăm mối tơ vò, như mây giăng trùng điệp trên trời. Tôi nghĩ tới gương mặt của Tĩnh Tử trong những ngày sắp tới sẽ càng thêm tiều tụy. Gương mặt nàng như người đã ngã bệnh. Căn cứ theo những lời bày tỏ tình cảm của nàng, dường như Tĩnh Tử cũng đã nhiều phen suy gẫm về tâm trạng xao xuyến của tôi? Hay là nàng đã thấu hiểu mọi nỗi niềm ẩn ức trong lòng tôi nên xem tôi là kẻ sống trong cảnh giới tót vời cao viễn mà quên đi những rung động của tình yêu? Đến hôm nay, hai bên kể ra cũng có phần thân thiết, đâu còn phải bị ngăn cách nghiêm ngặt trong vòng lễ giáo, vậy thì tại sao tôi lại không tự mình đến thẳng phòng của Tĩnh Tử, đem hết mọi nguyên nhân từ trước kể rõ cho nàng nghe, biết đâu nàng có thể thông cảm mà tha thứ cho tôi. Hơn nữa, người con gái xinh đẹp đó có chân tình sâu sắc, tôi có đem tâm sự bộc bạch cùng nàng cũng có mất mát gì đâu, sao lại hấp tấp bỏ đi, không từ mà biệt?

Nghĩ xong, tôi liền sửa y phục lại cho chỉnh tề rồi thong thả bước xuống thang gác. Đi đến hành lang, chợt nghe tiếng đàn cầm. Tôi biết đó là tiếng cây đàn Bát vân cầm của mẹ tôi, do Tĩnh Tử đánh đàn. Nàng rất thích giai điệu của khúc nhạc Mai Hoa. Gảy tới câu “Dạ thiều thiều, ngân đài giáng lạp, bạn nhân thùy lệ. 夜 迢 迢 , 銀 台 絳 蠟 , 伴 人 垂 淚” (Đêm khuya dằng dặc xa xôi, ngân đài nhỏ giọt nến hồng, người ngồi bên đầm đìa giọt lệ.) thì hai dây đàn hốt nhiên nghe như lạc lõng, âm điệu chùng lại, không còn ngân lên được nữa, tựa hồ như dây tơ đã bị thấm ướt bởi những giọt lệ rơi. Tôi chờ đến khi dư âm tắt hẳn, liền bước tới khung cửa sổ, đứng im bất động. Chợt nghe tiếng em gái tôi:

− A tỷ, bức gấm thêu chị dệt sáng nay đã xong chưa?

Tĩnh Tử thở dài một tiếng, rồi đáp:

− Chị muốn dệt cho anh Tam Lang một chiếc cà-vạt, thế mà hết ngày này sang ngày khác vẫn chưa xong. Chị thật là kẻ biếng lười quá đỗi.

Tôi biết em gái còn thức nên định quay gót, bỗng nghe Tĩnh Tử khóc thút thít, nghẹn ngào nói với em tôi :

− Em có rõ vì sao mà a huynh suốt ngày cứ lộ, vẻ u sầu ảm đạm phiền muộn không nguôi như thế không?

Em gái tôi đáp:

− Em cũng chẳng rõ duyên do. Sáng nay em còn thấy a huynh ngồi một mình trong phòng khóc nức nở không ngừng. Thật lòng em cũng lấy làm lạ. Nhưng không dám đem chuyện ấy thưa lại với mẹ. Có cách gì an ủi a huynh không, xin a tỷ hãy chỉ bày cho em với.

Tĩnh Tử đáp:

− Chẳng có cách gì đâu em. Chỉ còn biết chờ ngày chúng ta trở về Sương Căn, em hãy cố gắng giúp chị, yêu cầu anh Tam Lang cùng đi. Chị về nhà ắt sẽ có cách khiến a huynh giải tỏa hết niềm u uẩn trong lòng. A huynh tới nhà chị rồi, hai chị em ta thay phiên nhau trò chuyện suốt ngày để a huynh phá tan đi nỗi u sầu, đó chẳng phải là diệu kế hay sao? Em có nhận thấy gương mặt a huynh mấy ngày gần đây gầy rạc đi chăng. Thật khiến chị thấy đau nhói trong lòng. Hôm nay, chí có một điều muốn hỏi em. Em có biết a nương, a di, hoặc a tỷ có dặn dò điều gì với anh Tam Lang chăng?

Em tôi đáp:

− Em chẳng nghe gì hết.

Tĩnh Tử làm thinh không nói. Một lúc lâu sau, nàng khẽ thở dài:

− Hay là chị có điều gì đắc tội với anh Tam Lang? Chị tuy không thông minh, nhưng sao mỗi lần gặp nhau thì…

Nói tới đó, nàng lại thở dài, rồi nói tiếp:

− Chờ đến sáng mai, chị sẽ yêu cầu anh Tam Lang nói cho ra lẽ.

Khi Tĩnh Tử nói, âm thanh cứ thổn thức, nghẹn ngào rồi im dần, không còn nghe được nữa. Tôi xúc động khi thấy người đẹp biểu hiện mối chân tình quá đỗi mãnh liệt, nồng nàn. Lòng tôi ngổn ngang trăm mối bi thương, nghe sao lạnh giá, bất giác nước mắt đổ ròng ròng. Tôi quay về phòng, để nguyên quần áo mà nằm vật trên giường rồi thiếp đi.


[1] Nguyên tác phiên âm là Bá-A-Đà-Phụ 伯 阿 陀 輔, tôi không tra cứu được là ai.

[2] Cây đàn tranh có những trụ chống dây sắp xếp thành hàng như đàn nhạn.

[3] Nguyên văn là Miễu Cô Tiên Tử 藐 姑 仙 子 (hay Cô Xạ Tiên Tử 姑 射 仙 子) là nhân vật thần thoại trong truyền thuyết Trung Quốc cổ đại, được sách cổ mô tả là “Thiên tư linh tú, ý khí thù cao khiết. 天 姿 靈 秀,意 氣 殊 高 潔”. (Thiên tư linh tú, ý chí cao khiết lạ thường.)

[4] Phạn chương là kinh sách Ấn độ, còn Lư văn thì tôi không tra cứu được là gì.

[5] Mái hiên dùng làm nơi nghỉ ngơi, thư giãn.

[6] Chu Thuấn Thủy 朱 舜 水 (1600 − 1682) tên thật là Chu Chi Du 朱 之 瑜, tự Tự Lỗ Dư 魯 璵, hiệu Thuấn Thủy 舜 水. Ông là một học giả đa tài thời Minh mạt. Ông là vừa là nhà tư tưởng, nhà văn, vừa là nhà sử học. Ông ôm chí nguyện phản Thanh phục Minh nhưng thất bại, nên phải lưu lạc sang Việt Nam rồi sang Nhật. Trong khoảng thời gian ở nước ta, Chu không được nhà cầm quyền thời bấy giờ là Chúa Nguyễn xem trọng, thậm chí còn bị quản thúc, bắt phục dịch. Năm 1657 Chu có viết một ký sự ghi chép lại sự kiện trong khoảng thời gian này có tên là An Nam cung dịch kỷ sự 安 南 供 役 紀 事 (Ghi chép lại chuyện phục dịch ở An Nam). Sau khi sang Nhật, Chu được mến mộ tài năng, nên có cơ hội phát huy sở học, có nhều đóng góp cho sự phát triển nền học thuật nước Nhật lúc bấy giờ.

[7] Nguyên văn “tác Tần đình thất nhật chi khốc. 作 秦 庭 七 日 之 哭” (khóc ở sân Tân bảy ngày), lấy tích nước Sở lâm nguy, bề tôi nước sở là Thân Bao Tư sang cầu cứu nước Tần để xin viện binh. Vua Tần nhất định không chịu phát binh. Thân Bao Tư cứ đội mũ mặc áo, đứng ngoài sân vua Tần, kêu khóc suốt bảy ngày bảy đêm, không ăn uống gì cả. Điển cố này dùng để chỉ cảnh trung thần lưu vong sang nước khác cầu viện binh để cứu nước.

[8] Trịnh Thành Công 鄭 成 功 (1624 − 62), là nhà lãnh đạo quân sự, chính trị của triều Minh, sinh tại Hirado, Nhật Bản, cha là Trịnh Chi Long − một thương nhân − và mẹ là người Nhật. Ông là danh tướng lỗi lạc cuối đời Minh. Do kháng chiến chống Thanh bất thành, ông đưa tướng sĩ và gia quyến vượt biển di cư sang Đài Loan, xây dựng lực lượng vững mạnh trên đảo nhằm hỗ trợ cho các hoạt động chống nhà Thanh ở đại lục. Sau khi ông mất, con là Trịnh Kinh kế tục sự nghiệp, biến Đài Loan thành một nước độc lập, cho tới khi bị thủy sư đô đốc nhà Thanh là tướng Thi Lang mang hải quân sang tiêu diệt năm 1683.

[9] Tân sư 賓 師 là những người không tham gia làm quan, nhưng được vua trọng đãi như bậc thầy.

[10]          Vương Dương Minh 王陽明 (1472-1528) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng lỗ lạc đời Minh. Học thuyết “tri hành hợp nhất” của ông có ảnh hưởng sâu rộng ở Nhật Bản, Triều Tiên và cả Việt Nam.

[11]          Trịnh Sở Nam 鄭 所 南 (1241 − 1318) là thi nhân và họa gia cuối đời Tống, tự Ức Ông 億 翁. Khi nhà Tống mất về tay nhà Nguyên, ông lưu ngụ ở miền Giang Triết, ở ẩn không ra làm quan.

[12]          “Giang hà nhật hạ” là một thành ngữ trong văn học Trung Quốc, có nghĩa là nước sông từng ngày cứ chảy xuống phía hạ lưu, cũng giống như đạo lý thế gian cứ ngày một suy đồi.

[13] Nghe cương quyết như lời của Lệnh Hồ Xung trước “bà bà” Doanh Doanh trong căn nhà trúc ở Lục Dương!

[14] Trí tuệ có từ trong tiền kiếp.

[15]          Nguyên văn “Tam lang, thử họa năng kiến dựng phủ? 三 郎 , 此 畫 能 見 媵 否 ?” Ở Trung Quốc thời xưa, khi con gái về nhà chồng thì có người hầu gái theo hầu, gọi là dựng. Ở đây, ý Tĩnh Tử muốn Tam Lang tặng bức tranh.

[16] Nguyên văn “bắc diện hồng trang 北 面 紅 妝”. Trung Quốc thời cổ, khi lâm triều thi vua quay mặt về phương nam, bề tôi quay mặt về phương bắc. Kẻ quay mặt về phương bắc là người giữ thân phận bề tôi. Đối với một vưu vật như Tĩnh Tử thì tất cả khách tài tử trong thiên hạ có cung kính “bắc diện hồng trang” cũng là điều hợp đạo!

[17] Úy hữu là người bạn tài giỏi, khiến mình nể sợ.

[18] Lậu có nghĩa là rò rỉ, đánh mất, hàm nghĩa là thứ gây nên phiền não. Giáo lý nhà Phật cho rằng phụ nữ có năm thứ lậu. Thứ nhất, không làm chủ được thân mình. Thứ hai, không làm chủ được gia đinh. Thứ ba, không làm chủ được người khác. Thứ tư, không làm chủ được sự vật. Thứ năm, không làm chủ được đất nước. Cho nên người phụ nữ được gọi là thân ngũ lậu. Ngũ lậu ở đây chỉ Tĩnh Tử.

[19] Hiểu hà trang 曉 霞 妝 là một cách trang sức của phụ nữ thời nhà Ngụy. Hiểu hà có nghĩa là “cầu cồng buổi sáng sớm”. Cách trang sức này xuất phát từ một cung nhân của Ngụy Văn Đế tên là Tiết Dạ Lai 薛 夜 來. Khi Dạ Lai mới nhập cung, một hôm Văn Đế thắp đèn đọc thơ ban đêm sai lấy bức bình phong bằng thủy tinh để chắn gió. Dạ Lai đến, do tấm kính của bức bình phong trong suốt, nàng không nhìn thấy nên va phải, máu lấm tấm nơi các vết thương trên mặt trông xinh đẹp, giống như cầu vồng buổi sáng sớm lúc vừa mới tan. Từ đó, cung nhân trong triều đều dùng phấn sáp mô phỏng lại hình ảnh đó khi trang điểm, gọi là hiểu hà trang.

[20] Khăn thêu hoa văn như ánh ráng chiều.

[21] Ngao Đào Tôn 敖 陶 孫 bình thơ của hai cha con Tào Thào và Tào Tử Kiến như sau : “Ngụy Võ đế như U Yên lão tướng, khí vận trầm hùng ; Tào Tử Kiến như Tam Hà thiếu niên, phong lưu tự thưởng. 魏 武 帝 如 幽 燕 老 將 , 氣 韻 沉 雄 ; 曹 子 建 如 三 河 少 年 , 風 流 自 賞 ” 。” Tam Hà đời Hán gồm Hà Đông, Hà Nội và Hà Nam.

Thảo luận