LỜI TỰA CỦA TÁC GIẢ
LỜI GIỚI THIỆU
NHỮNG GIAI ĐOẠN ĐẦU TIÊN
PRĀNA
PRĀNA TÂM LINH
ĐIỀU KHIỂN PRĀNA TÂM LINH
PRATYĀHĀRA VÀ DHĀRANĀ
DHĀRANĀ VÀ SAMĀDHI
RĀJA-YOGA TRONG TÍN NGƯỠNG
GIỚI THIỆU CÁCH NGÔN YOGA CỦA PANTAJALI
CHƯƠNG I CHÚ TÂM : TÁC DỤNG TÂM LINH
CHƯƠNG II CHÚ TÂM – THỰC HÀNH
NHỮNG QUYỀN NĂNG
TỰ TẠI
PHỤ LỤC
Từ buổi bình minh của lịch sử, nhiều hiện tượng kỳ diệu đã được ghi chép lại như là những biến cố xảy ra giữa loài người. Trong thời buổi hiện đại, không thiếu những nhân chứng làm chứng cho sự xác thực của những sự kiện như thế, ngay tại những xã hội sống trong ánh sáng rực rỡ của nền khoa học hiện đại. Số lượng khổng lồ những bằng chứng như thế thật không đáng tin cậy, bởi vì chúng xuất phát từ những người ngu dốt, mê tín hoặc bịp bợm. Trong nhiều trường hợp, những cái gọi là phép lạ đều là bắt chước. Nhưng chúng bắt chước điều gì? Vất bỏ tất cả những thứ không được nghiên cứu thích đáng, đó không phải là dấu hiệu của một đầu óc vô tư và khoa học. Nhiều nhà khoa học hời hợt, do không thể giải thích được nhiều hiện tượng tinh thần kỳ diệu, đã cố bỏ qua sự tồn tại của chúng. Những nhà khoa học này, do đó, còn đáng khiển trách hơn những người cho rằng lời cầu nguyện của họ sẽ được những đấng sống trên trời mây đáp ứng, hoặc còn đáng khiển trách hơn những người tin rằng lời cầu khẩn những đấng siêu nhiên như thế có thể làm thay đổi được sự vận hành của vũ trụ này. Những người sau còn có thể được biện minh là do ngu dốt, hoặc chí ít là do hệ thống giáo dục sai lầm từ hồi còn nhỏ, đã dạy họ dựa dẫm vào những đấng siêu nhiên như thế để cầu xin cứu giúp, và sự lệ thuộc đó đã biến thành một phần trong bản chất suy đồi của họ. Còn những người trước thì không thể nào biện minh như vậy được.
Đã hàng năm qua, những hiện tượng như thế đã được tìm tòi, nghiên cứu và khái quát hóa, toàn bộ nền tảng của những khả năng con người trong lĩnh vực tôn giáo đã được phân tích, và kết quả thực tiễn là khoa học về rāja-yoga. Rāja-yoga, theo cách không thể tha thứ của một số nhà khoa học hiện đại, không phủ nhận sự tồn tại của những sự kiện quá khó giải thích; mặt khác, bằng những lời lẽ chắc chắn, nó nhẹ nhàng bảo với những người mê tín rằng các phép lạ, sự đáp ứng cho lời cầu nguyện, và những năng lực của đức tin dù là sự kiện có thật, song chúng không phải đến từ vị thần này thánh nọ trên trời mây theo cách giải thích mê tín của họ. Rāja-yoga tuyên bố với nhân loại rằng mỗi người chỉ là một ống dẫn cho đại dương bao la vô tận của tri thức và quyền năng nằm ẩn đằng sau nhân loại. Nó dạy rằng khát vọng và nhu cầu là ở nơi con người, mà năng lực đáp ứng cũng ở nơi con người; bất cứ lúc nào và nơi đâu, khi một khát vọng, một nhu cầu, một lời cầu nguyện được thỏa mãn thì năng lực đáp ứng xuất phát từ chính cái kho vô tận đó, chứ không phải từ một đấng siêu nhiên nào cả. Quan niệm về những đấng siêu nhiên có thể kích thích được năng lực hành động nơi con người đến một mực độ nào đó, nhưng nó cũng đưa đến sự suy đồi về mặt tâm linh. Nó mang đến sự lệ thuộc, nó mang đến sự sợ hãi, nó mang đến óc mê tín. Nó suy đồi thành một đức tin đáng kinh tởm trong bản chất yếu đuối của con người. Không có gì là siêu nhiên cả, các hành giả yogi nói, mà trong tự nhiên có những biểu hiện thô phù và những biểu hiện tế vi. Cái tế vi là nhân, còn cái thô phù là quả. Cái thô phù có thể được nhận thức dễ dàng bằng giác quan, còn cái tế vi thì không. Thực hành pháp môn rāja-yoga sẽ dẫn đến việc thành tựu năng lực nhận thức cái tế vi.
Mọi hệ thống triết học Ấn Độ chính thống đều có chung một mục tiêu trong quan điểm, đó là giải thoát linh hồn thông qua sự toàn mãn. Phương pháp là yoga. Danh từ yoga bao hàm một cơ sở rộng lớn. Cả hai trường phái triết học Sāmkhya và Vedānta đều nhắm đến yoga dưới hình thức này hay hình thức khác.
Chủ đề của cuốn sách này là hình thức yoga như là Rāja-yoga[1]. Những câu cách ngôn của Patanjali là thẩm quyền tối cao và là sách giáo khoa về rāja-yoga. Những triết gia khác, mặc dù đôi khi có khác với Patanjali về một vài khía cạnh triết học nào đó, nhưng đều nhất trí, giống như một quy luật, với phương pháp thực hành của ông. Phần đầu của cuốn sách này gồm những bài thuyết giảng cho những lớp học do một nhà văn đương đại tổ chức. Phần hai là bản dịch khá thoáng tác phẩm Những câu cách ngôn của Patanjali, với phần chú giải đi kèm. Tôi đã cố hết sức tránh những những thuật ngữ chuyên môn, để cho cuộc đối thoại được dễ dàng và thoải mái. Trong phần đầu, có một số hướng dẫn đơn giản và cụ thể dành cho những hành giả muốn thực hành; nhưng cần phải có nhiệt tâm và đặc biệt cần cảnh giác rằng pháp môn rāja-yoga, trừ một số ít trường hợp ngoại lệ, chỉ có thể được học hỏi một cách an toàn dưới sự hướng dẫn trực tiếp của một vị đạo sư. Nếu các cuộc đối thoại này thành công trong việc đánh thức được niềm khát khao muốn tìm hiểu sâu hơn về đề tài này thì người thầy sẽ không còn cần thiết nữa.
Hệ thống Patanjali dựa trên hệ thống triết học của Sāmkhya, có rất ít điểm khác biệt. Chỉ có hai điểm khác biệt quan trọng nhất :
VIVEKANANDA
Tất cả tri thức của chúng ta đều dựa trên kinh nghiệm. Cái mà ta gọi là tri thức suy luận, trong hình thức suy diễn từ cái đặc thù đến cái phổ quát hoặc từ cái phổ quát đến cái đặc thù, cũng đều dựa trên cơ sở kinh nghiệm. Trong cái mà chúng ta gọi là các bộ môn khoa học chính xác, người ta dễ dàng tìm thấy chân lý, bởi vì chúng cần đến kinh nghiệm đặc thù của mỗi người. Nhà khoa học không yêu cầu các bạn tin vào bất cứ điều gì một cách mù quáng, mà ông ta đã có được kết quả nào đó từ kinh nghiệm của chính mình; và khi lập luận về chúng, ông ta muốn chúng ta tin vào những kết luận của mình, ông ta cần đến một số kinh nghiệm phổ quát của nhân loại. Trong mọi bộ môn khoa học chính xác đều có một cơ sở phổ quát mang ý nghĩa chung cho toàn thể nhân loại, bởi vậy chúng ta có thể thấy ngay sự thật hoặc sự giả trá của những kết luận được rút từ đó. Bây giờ, câu hỏi đặt ra là : liệu tôn giáo có được một cơ sở nào như thế hay không? Tôi sẽ phải đưa ra lời giải đáp theo hai nghĩa : có và không.
Tôn giáo, theo cách nó được thuyết giảng ở khắp nơi trên thế giới, được cho là dựa trên niềm tin và tín ngưỡng, và trong hầu hết các trường hợp, nó chỉ chứa một nhóm lý thuyết khác nhau; đó là lý do ta thấy tất cả các tôn giáo đều cứ luôn tranh cãi với nhau. Lại nữa, những lý thuyết này đều dựa trên đức tin. Người thì bảo rằng có một đấng Siêu Nhiên ngồi trên mây và cai quản cả vũ trụ này, và buộc tôi phải tin vào điều đó, chỉ căn cứ vào thẩm quyền là sự khẳng định của anh ta. Tương tự như vậy, tôi cũng có quan điểm riêng của mình và bảo người khác phải tin, nếu họ hỏi lý do thì tôi lại chẳng thể đưa ra được lý do nào. Đó là lý do vì sao ngày nay tôn giáo và siêu hình học phải chịu mang tiếng xấu. Tất cả những người có học thức dường như đều bảo : “Ồ, tôn giáo chỉ là một mớ lý thuyết chẳng có tiêu chuẩn nào để đánh giá cả, người nào cũng có quan điểm yêu thích của riêng mình”. Đồng thời, tôi phải bảo các bạn rằng có một cơ sở chung cho tín ngưỡng phổ quát trong tôn giáo; tín ngưỡng đó chi phối mọi lý thuyết khác nhau và tất cả những quan điểm khác nhau của mọi tông phái khác nhau, tại những xứ sở khác nhau. Đi đến tận nền tảng của chúng, chúng ta thấy rằng chúng cũng dựa trên những kinh nghiệm phổ quát.
Trước hết, tôi sẽ yêu cầu các bạn phân tích nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới. Các bạn sẽ thấy rằng chúng được chia thành hai nhóm : một nhóm có kinh sách, một nhóm thì không. Nhóm có kinh sách là nhóm mạnh hơn, và có số lượng tín đồ đông đảo hơn; còn nhóm không có kinh sách thì hầu như đã suy tàn, và một số ít tôn giáo mới nổi cũng chỉ có được dăm ba tín đồ. Tuy nhiên, trong tất cả những tôn giáo đó, ta thấy có sự nhất trí trong quan điểm, đó là : chân lý mà chúng thuyết giảng đều là kết quả từ những kinh nghiệm của các nhân vật đặc biệt. Tín đồ Cơ Đốc giáo bảo các bạn phải tin vào tôn giáo của anh ta, phải tin vào đấng Christ và phải tin rằng Ngài là hóa thân của Thượng Đế, phải tin vào Thượng Đế, tin vào linh hồn và trạng thái tốt đẹp hơn của linh hồn đó. Nếu tôi hỏi lý do thì họ bảo là họ chỉ biết tin như thế. Nhưng nếu đi sâu vào căn nguyên của Cơ Đốc giáo, các bạn sẽ thấy rằng nó dựa trên kinh nghiệm. Đấng Christ bảo rằng Ngài thấy Thượng Đế, môn đồ thì bảo rằng rằng họ cảm nhận được Thượng Đế v.v…. Cũng tương tự như thế trong Phật giáo, đó là kinh nghiệm của đức Phật. Ngài trải nghiệm được những chân lý nào đó, trực kiến được chúng, tiếp xúc với chúng, và thuyết giảng chúng cho thế giới. Ấn giáo cũng thế, trong kinh điển họ, những vị được gọi là rishi – hay các nhà hiền triết – tuyên bố rằng họ đã trải nghiệm được những chân lý nào đó, và thuyết giảng chúng.
Như thế, rõ ràng là mọi tôn giáo trên thế giới đều được xây dựng trên một cơ sở phổ quát và rắn như kim cương của toàn thể tri thức của chúng ta – nghĩa là kinh nghiệm trực tiếp. Tất cả các bậc đạo sư đều thấy Thượng Đế, các vị đó đều thấy linh hồn mình, thấy được tương lai và sự thường tồn vĩnh cửu của linh hồn, và các vị đó thuyết giảng những gì họ thấy được. Chỉ có một điểm khác biệt, đó là trong hầu hết những tôn giáo đó, nhất là trong thời hiện đại, người ta đã khẳng định một cách quái lạ rằng những kinh nghiệm đó không thể xảy ra trong thời hiện tại, mà chúng chỉ có thể xảy ra với một số ít người, đó là những vị giáo chủ sáng lập ra những tôn giáo mang tên họ. Trong thời hiện tại, những kinh nghiệm đó đã trở nên quá xa xưa, và do đó, chúng ta giờ đây phải chấp nhận tôn giáo vì đức tin.
Tôi hoàn toàn phủ nhận điều này. Trong thế giới này, nếu đã có người trải qua một kinh nghiệm trong bất kỳ lĩnh vực tri thức đặc thù nào thì nhất định kinh nghiệm đó có thể đã diễn ra hàng triệu lần trước đó rồi, và sẽ được lặp đi lặp lại cho đến vô cùng. Nhất quán là định luật nghiêm khắc của tự nhiên; điều gì đã xảy ra một lần thì có thể xảy ra luôn luôn.
Các vị đạo sư của khoa học Rāja-yoga, do đó, tuyên bố tôn giáo không chỉ dựa trên những kinh nghiệm của thời cổ, và người chưa tự mình đạt được những kinh nghiệm tương tự thì chưa phải là người tu đạo. Yoga là khoa học dạy ta cách đạt được những kinh nghiệm đó. Bàn suông về tôn giáo chẳng có ích lợi gì, chừng nào ta còn chưa cảm nhận được nó. Vì sao có quá nhiều nhiễu loạn, có quá nhiều cuộc chiến tranh và tranh cãi nhân danh Thượng Đế? Cảnh máu đổ vì Thượng Đế còn nhiều hơn vì bất cứ nguyên nhân nào khác, bởi vì người ta chưa bao giờ đi đến cội nguồn; họ chỉ việc hài lòng chấp nhận những phong tục tập quán của ông cha, và muốn người khác cũng phải làm như thế. Con người có quyền gì mà nói rằng mình có linh hồn, nếu chưa cảm nhận được nó; hoặc có quyền gì mà nói rằng có Thượng Đế, nếu chưa thấy được Ngài? Nếu có Thượng Đế thì chúng ta phải thấy được Ngài, nếu có linh hồn thì chúng ta phải cảm nhận được nó; nếu không, thà đừng tin còn hơn. Thà công khai làm một kẻ vô thần còn hơn làm kẻ đạo đức giả.
Theo quan niệm hiện nay, một mặt thì “giới học thức” cho rằng tôn giáo và siêu hình học, sau tất cả những công cuộc tìm cầu một đấng Tối Cao, đều tỏ ra vô ích; mặt khác, “giới học thức nửa vời” thì dường như cho rằng những điều này thực ra không có cơ sở chi cả, và giá trị duy nhất của chúng nằm ở chỗ chúng cung cấp những nguyên động lực mạnh mẽ để con người làm việc thiện cho đời. Nếu con người tin vào Thượng Đế thì họ trở nên tốt đẹp, và đạo đức, và như thế là làm công dân tốt. Chúng ta không thể trách là họ cứ giữ lấy những quan niệm đó, vì chúng ta thấy rằng tất cả những lời dạy mà con người tiếp thu chỉ là cứ tin vào một mớ ngôn từ vĩnh cửu đầy rối rắm, dông dài mà không có lấy một chút thực chất nào bên trong. Con người bị yêu cầu phải sống theo những lời dạy đó. Họ có thể làm được điều đó hay không? Nếu như họ làm được thì tôi chẳng còn một chút kính trọng nào đối với bản tính con người. Con người cần đến chân lý, muốn tự mình trải nghiệm chân lý. Khi họ nắm bắt được chân lý, thực chứng được chân lý, và cảm nhận được nó trong tận trái tim mình thì chỉ lúc đó thôi, như kinh Veda tuyên bố, mọi nghi ngờ mới biến mất, mọi tăm tối mới bị xua tan, và mọi điều gian xảo mới trở nên trung thực. “Hỡi những người con bất tử, cả những người sống trong cảnh giới tối cao, con đường đã được tìm ra rồi; có một con đường dẫn ra khỏi cõi tối tăm, và đó là con đường nhận thức được Ngài, đấng vượt lên trên mọi cảnh tối tăm. Không có con đường nào khác”.
Khoa học Rāja-yoga đề nghị với nhân loại một phương pháp thực tiễn, được trình bày một cách khoa học để đạt đến chân lý đó. Trước tiên, mọi bộ môn khoa học đều có phương pháp nghiên cứu riêng. Nếu các bạn muốn trở thành một nhà thiên văn học, mà cứ ngồi một chỗ và gào : “Thiên văn học! Thiên văn học!” thì nó sẽ không bao giờ đến với các bạn. Đối với hóa học cũng không khác. Cần phải theo một số phương pháp nhất định. Các bạn phải đi đến một phòng thí nghiệm, lấy một số hóa chất khác nhau trộn lại, kết hợp chúng với nhau, thử nghiệm chúng, từ đó các bạn mới có tri thức về hóa học. Nếu muốn trở thành một nhà thiên văn học, các bạn phải đến một đài thiên văn, dùng viễn vọng kính nghiên cứu các vì sao cùng những hành tinh thì các bạn mới trở thành một nhà thiên văn học được. Mỗi bộ môn khoa học đều phương pháp riêng của nó. Tôi có thể giảng cho các bạn hàng ngàn bài thuyết pháp, nhưng chúng không thể biến các bạn thành người có đạo tâm được, cho đến khi nào các bạn bắt đầu thực hành theo những phương pháp đó. Đó là chân lý được thuyết giảng bởi những vị hiền triết ở mọi quốc gia trong mọi thời đại, bởi những vị có tâm thuần tịnh và vị tha – những người không có động cơ nào khác ngoài việc làm đều thiện cho thế gian. Tất cả những vị đó đều tuyên bố rằng họ đã tìm thấy một chân lý cao siêu hơn những gì giác quan có thể mang lại cho ta, và họ mời chúng ta xác minh. Họ yêu cầu chúng ta tiếp thu phương pháp đó, và thực hành một cách chân thành. Sau đó, nếu như không tìm thấy được chân lý cao siêu đó thì chúng ta mới có quyền nói chẳng có chân lý gì trong lời khẳng định đó, nhưng trước khi làm vậy mà chúng ta lại phủ nhận những lời khẳng định đó thì điều đó không hợp lý. Bởi vậy, chúng ta phải làm việc một cách chân thành, vận dụng các phương pháp đã được chỉ dạy, rồi ánh sáng sẽ đến.
Khi thu hoạch tri thức, chúng ta dùng phương pháp khái quát hóa, và phương pháp khái quát hóa thì dựa trên quan sát. Trước tiên, chúng ta quan sát những sự kiện, rồi khái quát hóa chúng và rút ra những kết luận hoặc lập thành các nguyên tắc. Tri thức về tâm trí, về bản chất nội tại của con người, của tư tưởng sẽ không có được, nếu như trước tiên chúng ta không phát huy được năng lực quan sát những sự kiện diễn ra bên trong. Quan sát những sự kiện thuộc thế giới bên ngoài là điều tương đối dễ dàng, và hàng ngàn khí cụ đã được phát minh nhằm vào mục đích đó; nhưng đối với thế giới nội tâm thì chẳng có khí cụ nào giúp được chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết cần phải quan sát để có được một khoa học thực sự. Không có sự phân tích thích hợp thì khoa học nào cũng đều vô vọng và chỉ thuần là lý thuyết, và đó là lý do mà các nhà tâm lý học đã tranh cãi với nhau từ thuở khai thiên lập địa, trừ một số ít người tìm ra được phương tiện quan sát.
Trước hết, khoa học Rāja-yoga đề nghị cung cấp cho con người phương tiện như thế để quan sát các trạng thái nội tâm, và khí cụ đó chính là tâm trí. Năng lực chú ý của tâm trí, khi được hướng dẫn thích hợp để hướng đến thế giới nội tâm, sẽ phân tích tâm trí và soi sáng những sự kiện cho ta thấy rõ. Năng lực của tâm trí giống như những tia sáng bị tản mác, khi tập trung lại thì chúng có khả năng soi sáng. Đó là phương tiện thu hoạch tri thức duy nhất của chúng ta. Mọi người đều vận dụng nó vào thế giới ngoại tại lẫn thế giới nội tâm, nhưng đối với nhà tâm lý học thì sự quan sát nhỏ nhoi, mà con người khoa học có thể hướng đến thế giới ngoại tại, cũng sẽ được hướng vào thế giới nội tâm, và điều đó đòi hỏi phải thực hành rất nhiều. Từ bé đến lớn, chúng ta chỉ được dạy cách chú ý đến những sự vật bên ngoài, chứ không bao giờ chú ý đến những sự vật bên trong, và phần lớn chúng ta hầu như đều đánh mất kỹ năng quan sát cơ chế hoạt động bên trong. Chuyển ngược tâm trí, có thể nói vậy, vào bên trong, bắt nó ngừng hướng ra ngoài, rồi tập trung toàn bộ năng lực của nó và phóng những năng lực đó lên trên chính tâm trí, để tâm trí có thể biết được tự tính của mình, tự phân tích lấy mình, đó là công việc vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, đó là phương pháp duy nhất để tiếp cận chủ đề này một cách khoa học.
Tri thức như thế dùng để làm gì? Trước hết, tri thức tự nó đã là phần thưởng cao quý nhất cho nó rồi, thứ hai là cũng có lợi ích trong đó. Tri thức sẽ xua tan nỗi khốn khổ của chúng ta. Khi mà nhờ vào sự phân tích tâm trí mình, con người phải đối mặt, có thể nói như vậy, với một cái gì đó chưa từng hoại diệt, một cái gì đó vĩnh viễn thuần tịnh và hoàn hảo tự bản chất thì họ không còn khốn khổ hay bất hạnh nữa. Mọi khốn khổ xảy đến là do sợ hãi, do ước vọng không thành. Khi con người thấy rằng mình không bao giờ chết thì họ sẽ không còn sợ hãi cái chết. Khi con người thấy rằng mình hoàn hảo thì họ sẽ không còn ước vọng hão huyền. Và khi cả nguyên nhân này đều vắng mặt thì sẽ không còn khốn khổ nữa – sẽ có một niềm lạc phúc thường hằng, ngay trong thể xác này.
Chỉ có một phương pháp duy nhất để đạt đến tri thức này, được gọi là phương pháp tập trung tư tưởng. Nhà hóa học trong phòng thí nghiệm tập trung toàn bộ năng lực tâm trí vào một tiêu điểm, và phóng chúng lên những chất liệu mà ông ta đang phân tích, và nhờ đó mà tìm ra được những điều bí ẩn. Nhà thiên văn học tập trung toàn bộ năng lực tâm trí và phóng chúng lên những bầu trời qua các viễn vọng kính, nhờ đó mà mặt trời, mặt trăng cùng muôn vì tinh tú hiển lộ cho ông ta thấy những điều bí ẩn của chúng. Tôi càng tập trung tư tưởng vào đề tài mà tôi đang trình bày cho các bạn thì tôi càng diễn giải nó rõ ràng thêm. Các bạn đang lắng nghe tôi, nếu càng tập trung tư tưởng thì các bạn càng sẽ nắm bắt được những điều tôi muốn nói.
Toàn bộ khối tri thức trên thế gian này đã được thu hoạch bằng cách nào, nếu không phải bằng cách tập trung năng lực tinh thần? Thiên nhiên sẵn sàng hiển lộ những điều bí ẩn của chúng nếu như chúng ta biết cách gõ, biết cách trao cho nó một cú đập cần thiết. Sức mạnh và lực của cái gõ đó sẽ đến từ sự tập trung tư tưởng. Năng lực của tâm trí con người không hề có giới hạn. Tâm trí càng tập trung thì năng lực tại một điểm duy nhất càng phát sinh mãnh liệt. Đó là bí quyết.
Tập trung tâm trí vào những sự vật bên ngoài là điều rất dễ, vì tâm trí có bản chất hướng ngoại tự nhiên, nhưng trong trường hợp tôn giáo, tâm lý học, hay siêu hình học thì không dễ như vậy, vì chủ thể và khách thể là một. Khách thể ở bên trong : chính tâm trí là khách thể. Cần phải nghiên cứu chính tâm trí : tâm trí nghiên cứu chính mình. Chúng ta biết có một năng lực của tâm trí gọi là phản tư [reflective]. Tôi đang nói chuyện cùng các bạn, đồng thời tôi cũng đang đứng qua một bên làm người thứ hai, biết và lắng nghe những gì tôi đang nói. Các bạn làm việc và suy tưởng thì đồng thời một bộ phận khác của tâm trí cũng đứng qua một bên và xem các bạn đang suy tưởng những gì. Những năng lực của tâm trí có thể được tập trung và chuyển ngược về chính nó, khi mọi ngóc ngách tối tăm nhất đều phơi bày bí ẩn ra trước những tia sáng xuyên thấu của mặt trời như thế nào thì tâm trí tập trung đó cũng sẽ xuyên thấu mọi điều huyền ẩn trong nội tâm như thế ấy. Như thế, chúng ta sẽ đi đến tận nền tảng của đức tin, đó là tôn giáo chân chính thực sự. Lúc đó chúng ta sẽ tự nhận thức được quả thật chúng ta có một linh hồn hay không, cuộc sống là vô thường hay vĩnh cửu, có Thượng Đế trong vũ trụ này hay không. Tất cả đều phơi bày ra trước chúng ta.
Đó chính là điều mà Rāja-yoga muốn dạy cho chúng ta. Toàn bộ nội dung thuyết giảng đều có một mục tiêu duy nhất, đó là làm cách nào để tập trung tâm trí, làm thế nào để khám phá những sự kiện trong tâm trí, rồi làm thế nào để khái quát hóa những sự kiện đó và từ đó đúc kết nên những kết luận riêng cho chúng ta. Nó không bao giờ nêu câu hỏi chúng ta theo tôn giáo nào, không cần biết chúng ta là những kẻ vô thần hay đa thần, không cần biết chúng ta là tín đồ của Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo, hay Phật giáo. Chúng ta là con người, chừng đó là đủ. Mọi người đều có quyền và có năng lực đi tìm cho mình một tôn giáo, mọi người đều có quyền đặt câu hỏi “vì sao?”, và phải tự mình tìm ra lời giải đáp – nếu như họ nỗ lực.
Vậy thì cho đến lúc này, chúng ta thấy rằng trong việc nghiên cứu Rāja-yoga chẳng cần gì đến sự tin tưởng hay đức tin. Đừng tin vào bất cứ điều gì. cho đến chừng nào các bạn tự mình khám phá ra điều đó, đó là những gì Rāja-yoga dạy cho chúng ta. Chân lý không cần đến một trụ đỡ nào mới đứng vững. Có phải ý các bạn muốn nói rằng những dữ kiện về trạng thái thức tỉnh của chúng ta có đòi hỏi đến một giấc mơ nào hay một sự tưởng tượng nào để chứng minh chúng hay không? Chắc chắn là không. Nghiên cứu Rāja-yoga đòi hỏi nhiều thời gian và phải thường xuyên thực hành. Một phần thực hành thuộc về thể xác, nhưng phần chủ yếu là tinh thần. Trong quá trình thực hành, các bạn sẽ thấy rằng tâm trí và thể xác liên quan mật thiết với nhau như thế nào. Nếu chúng ta tin rằng tâm trí chỉ là phần tế vi của thể xác và tác động đến trên thể xác thì lẽ đương nhiên là thể xác cũng tác động trên tâm trí. Nếu thể xác đau ốm thì tâm trí cũng đau ốm theo. Nếu thể xác khỏe mạnh thì tâm trí cũng khỏe mạnh và cường tráng. Khi một người giận dữ thì tâm trí bị rối loạn, và khi thể xác bị rối loạn thì tâm trí cũng rối loạn theo. Với phần lớn nhân loại thì tâm trí hoàn toàn nằm dưới sự điều khiển của thể xác, tâm trí họ rất kém mở mang. Nếu các bạn rộng lòng bỏ lỗi thì đa số nhân loại vẫn chưa tiến hóa hơn loài thú là bao nhiêu. Không những thế, về nhiều phương diện khác thì năng lực kiểm soát của con người chỉ hơn loài thú một đôi chút. Chúng ta có rất ít quyền điều khiển đối với tâm trí mình. Bởi vậy, muốn tạo ra quyền lực đó, muốn điều khiển cả thể xác lẫn tâm trí, chúng ta buộc phải nhờ đến những sự trợ giúp nào đó về thể xác, khi thể xác được kiểm soát một cách đầy đủ thì chúng ta mới có thể cố gắng vận dụng được tâm trí. Bằng cách vận dụng tâm trí, chúng ta có thể đặt nó dưới quyền điều khiển của mình, bắt nó làm việc theo cách ta thích, và buộc nó tập trung năng lực theo ý muốn của ta.
Theo các hành giả rāja-yogi, toàn bộ thế giới ngoại tại chỉ là hình thức thô phù của thế giới nội tâm tinh tế. Cái tế vi hơn thì luôn là nhân, còn cái thô phù hơn là quả. Bởi vậy, thế giới ngoại tại là quả, còn thế giới nội tâm là nhân. Theo cách tương tự, các lực bên ngoài chỉ là phần thô, còn các lực bên trong mới là phần tế vi. Người nào đã khám phá ra và học hỏi được cách vận dụng các lực bên trong thì sẽ đặt toàn thể thiên nhiên dưới quyền điều khiển của mình. Các hành giả yogi không đặt ra cho mình một công việc nào khác hơn là làm chủ được toàn thể vũ trụ, điều khiển được trọn thế giới tự nhiên. Họ muốn đạt đến cảnh giới, nơi mà những thứ chúng ta gọi là định luật tự nhiên sẽ không còn ảnh hưởng đến họ nữa, nơi mà họ có quyền năng vượt ra khỏi các định luật đó. Họ sẽ làm chủ toàn thể thiên nhiên, bên trong lẫn bên ngoài. Sự tiến bộ và nền văn minh của nhân loại chỉ là sự chế ngự thiên nhiên mà thôi.
Nhiều dân tộc khác nhau chế ngự thiên nhiên theo nhiều quy trình khác nhau. Cũng như trong cùng một xã hội mà kẻ thì muốn chế ngự ngoại giới, người thì muốn chế ngự nội tâm, đối với các dân tộc cũng không khác, dân tộc này thì muốn chế ngự ngoại giới, dân tộc khác thì lại muốn chế ngự nội tâm. Kẻ thì bảo rằng hễ chế ngự được bản tính bên trong thì ta chế ngự được mọi thứ, người khác lại cho rằng hễ phải chế ngự được ngoại giới thì ta chế ngự được mọi thứ. Suy cho cùng thì cả hai đều đúng, bởi vì các bạn thấy trong thiên nhiên chẳng hề có sự phân chia trong với ngoài. Đó là một giới hạn tưởng tượng chưa bao giờ tồn tại. Khi cả hai loại người hướng nội và hướng ngoại đó đều đạt đến chỗ tận cùng của tri thức thì nhất định họ sẽ gặp nhau. Một nhà vật lý học, khi đẩy tri thức mình đến chỗ tận cùng, thấy nó tan đi trong siêu hình học như thế nào thì một nhà siêu hình học sẽ thấy rằng cái mà họ gọi là tâm và vật cũng chỉ là những thứ phân biệt bên ngoài, rốt cuộc cũng sẽ tan biến hết.
Cứu cánh và mục tiêu của mọi bộ môn khoa học là tìm cho ra cái Đơn Nhất, cái Nhất Thể, mà từ đó phát sinh ra tất cả những hiện tượng sai biệt đa thù – cái Nhất Thể hiện hữu như là đa hình tướng. Rāja-yoga đề nghị bắt đầu từ thế giới nội tâm để nghiên cứu bản tính bên trong, rồi thông qua đó mới chế ngự toàn thể – cả nội tâm lẫn ngoại giới. Nỗ lực đó đã có từ thời xa xưa. Ấn Độ đã là một pháo đài đặc biệt của nỗ lực này, nhưng các quốc gia khác cũng nỗ lực làm điều đó. Tại các nước phương Tây, nó được cho là ma thuật. Những người muốn thực hành nó đều bị xem là phù thủy, và bị thiêu sống hoặc tử hình. Tại Ấn Độ, vì nhiều lý do, nó rơi vào tay những người phá hủy hết chín mươi phần trăm phần tri thức, và biến mười phần còn lại thành những điều huyền bí. Trong thời hiện đại, ở phương Tây, người ta thấy có nhiều vị gọi là đạo sư, nhưng họ còn tồi tệ hơn những người ở Ấn Độ, bởi vì những diễn viên này chẳng biết một chút gì, trong khi những người ở Ấn Độ còn biết được một đôi điều.
Trong pháp môn Yoga này, bất cứ thứ gì mang tính bí ẩn hoặc huyền bí đều cần bị loại bỏ ngay lập tức. Sự hướng dẫn tối ưu trong cuộc sống là sức mạnh. Trong tôn giáo, cũng như trong bất cứ điều gì khác, hãy vất bỏ tất cả những thứ làm cho các bạn yếu đuối, suy nhược, đừng quan tâm gì đến chúng. Trò buôn bán ma thuật làm suy nhược bộ não con người. Do đó mà nó hầu như đã hủy diệt khoa học Yoga, một trong những bộ môn khoa học vĩ đại nhất. Kể từ lúc được khám phá ra, cách đây hơn bốn ngàn năm, Yoga đã được phác thảo, định hình và thuyết giảng một cách hoàn hảo. Thật là điều đáng kinh ngạc khi các nhà chú giải càng hiện đại thì càng phạm sai lầm về nó, trong khi người người viết ra nó, càng cổ xưa thì càng hợp lý. Như thế, nó rơi vào tay của một thiểu số, những người này biến nó thành một điều bí ẩn, thay vì đưa nó ra dưới ánh sáng mặt trời để lý tính sáng soi cho nó. Họ làm thế để giữ được uy quyền đối với pháp môn này.
Trước hết, chẳng có gì là huyền bí trong những gì tôi thuyết giảng cả. Tôi sẽ trình bày cho các bạn những hiểu biết ít ỏi của mình. Trong chừng mực có thể lý giải được nội dung thì tôi sẽ làm vậy, còn đối với những gì tôi không hiểu được thì tôi chỉ đơn giản bảo với các bạn rằng đó là lời kinh điển nói. Tin tưởng mù quáng là điều không đúng. Các bạn phải vận dụng lý trí và óc phán đoán, và bằng kinh nghiệm, các bạn xem thử những sự việc đó có xảy ra hay không. Các bạn muốn tiếp thu một bộ môn khoa học bất kỳ bằng cách nào thì các bạn cũng nên tiếp thu khoa học này bằng cách đó để mà nghiên cứu. Chẳng có gì là huyền bí hay nguy hiểm trong đó cả. Chừng nào nó còn là chân lý thì nó nên được thuyết giảng công khai trên đường phố đông người, giữa thiên thanh bạch nhật. Mọi nỗ lực thần bí hóa những điều đó chỉ tạo ra những nỗi nguy hiểm không cùng.
Trước khi đi xa hơn, tôi sẽ trình bày với các bạn đôi chút về triết học Sāmkhya, toàn bộ Rāja-yoga dựa trên nền triết học này. Theo triết học này thì nhận thức được phát sinh như sau : những ấn tượng từ sự vật ngoại giới được các khí cụ bên ngoài chuyển các trung tâm não bộ tương ứng, tức là các giác quan, các giác quan chuyển những ấn tượng đó đến tâm trí, tâm trí chuyển tiếp đến cơ quan quyết định, từ đây, Purusha, hay Linh Hồn, tiếp nhận nó, khi phát sinh ra nhận thức. Tiếp theo đó, Purusha ban lệnh ngược lại cho các trung tâm vận động để thi hành những điều cần thiết. Ngoài Purusha ra thì tất cả những thứ đó đều là chất liệu, nhưng tâm trí thuộc chất liệu tế vi hơn những khí cụ bên ngoài. Chất liệu cấu tạo nên tâm trí trở nên thô hơn và biến thành cái gọi là các tanmātra. Càng lúc nó càng trở nên thô hơn nữa, và tạo thành vật chất ngoại giới. Đó là tâm lý học của trường phái Sāmkhya. Như vậy giữa trí năng và vật chất thô bên ngoài chỉ khác nhau về cấp độ. Purusha là sự vật thông minh duy nhất. Tâm trí là một khí cụ nằm trong tay của linh hồn, có thể nói như vậy, để nhờ đó mà linh hồn nắm bắt được những đối tượng ngoại giới.
Tâm trí thường xuyên chuyển biến – chạy từ đối tượng này sang đối tượng khác. Khi thì nó tự gắn kết với một vài giác quan, khi thì gắn kết với chỉ một giác quan, khi thì không gắn kết với giác quan nào. Chẳng hạn, nếu tôi chăm chú lắng nghe tiếng kim đồng hồ thì có thể tôi sẽ không nhìn thấy bất cứ thứ gì mặc dù mắt tôi vẫn mở lớn, chứng tỏ tâm trí không gắn kết với thị giác trong khi đang gắn kết với thính giác. Đôi khi tâm trí gắn kết với mọi giác quan cùng một lúc. Tâm trí có năng lực phản tư là hồi quang phản chiếu, nhìn vào tận phần sâu thẳm của mình. Năng lực phản tư đó là cái mà các hành giả yogi muốn đạt đến, bằng cách tập trung năng lực của tâm trí và chuyển ngược nó vào trong, họ tìm hiểu những gì diễn ra ở bên trong nội tâm. Trong việc này, chẳng có vấn đề đức tin suông, mà nó là sự phân tích của một số triết gia nào đó. Các nhà tâm lý học hiện đại bảo các bạn rằng đôi mắt không phải là cơ quan của thị giác, mà cơ quan đó nằm tại trung tâm thần kinh của bộ não, tất cả các giác quan khác cũng vậy. Và họ cũng bảo với các bạn rằng các trung tâm thần kinh đó đều được tạo bởi một loại chất liệu giống như chính bộ não. Triết học Sāmkhya cũng sẽ bảo với các bạn điều tương tự. Cái trước là lời phát biểu trên phương diện vật lý, còn cái sau là lời phát biểu trên phương diện tâm lý, tuy nhiên cái hai đều như nhau.
Lĩnh vực nghiên cứu của chúng ta nằm đằng sau những thú này. Các hành giả yogi đặt ra mục tiêu là đạt đến một trạng thái nhận thức tế vi, trong đó họ có thể nhận thức được mọi trạng thái tinh thần khác nhau. Hẳn phải có sự nhận thức tinh thần về tất cả những trạng thái khác nhau đó. Ta sẽ nhận thức được, ngay khi một giác quan bên ngoài tiếp xúc với một đối tượng, cảm thụ phát sinh như thế nào, cảm thụ đó được một dây thần kinh đặc biệt truyền tới trung tâm thần kinh ra sao, làm thế nào để tâm trí đón nhận nó, rồi truyền nó đến với cơ quan quyết định, và cuối cùng là truyền tới Purusha. Tất cả các bước đó đều được quan sát, từng bước một. Mỗi khoa học đều đòi hỏi những sự chuẩn bị nào đó và có phương pháp riêng, cần phải tuân thủ thì mới hiểu được nó, Rāja-yoga cũng không khác.
Một số những quy định liên quan đến thực phẩm rất là cần thiết : chúng ta chỉ được dùng những thực phẩm đem lại trạng thái thuần tịnh nhất cho tâm trí. Nếu đi đến một vườn thú, các bạn sẽ thấy điều này được chứng minh ngay lập tức. Các bạn thấy những con voi, đó là những con thú khổng lồ nhưng trầm tĩnh và dịu dàng; nếu đi đến chuồng cọp và sư tử, các bạn sẽ thấy chúng rất hiếu động, điều đó chứng tỏ thực phẩm đã tạo nên sự khác biệt biết bao. Tất cả những sức mạnh đang hoạt động trong thể xác này đều được tạo ra từ thực phẩm, chúng ta thấy được điều đó mỗi ngày. Nếu các bạn bắt đầu nhịn đói thì trước tiên cơ thể các bạn sẽ trở nên yếu đuối, sức mạnh thể xác sẽ chịu tổn thương, sau một vài ngày thì sức mạnh tinh thần cũng tổn thương theo. Trước tiên là các bạn mất trí nhớ. Rồi đến một lúc nào đó, các bạn không thể suy nghĩ được nữa, lại càng không thể suy luận theo cách nào được cả. Bởi vậy, cần phải quan tâm đến những loại thực phẩm mà chúng ta ăn từ lúc ban đầu, và khi đã đủ sức mạnh, khi đã luyện tập thuần thục rồi thì chúng ta không cần phải quá cẩn trọng trong vấn đề này nữa. Khi một cây con đang phát triển, người ta phải rào chắn chung quanh để nó khỏi bị phá hỏng, nhưng khi nó đã trở thành một cây lớn thì phải bỏ rào chắn kia đi, vì nó đã đủ mạnh để đứng vững trước mọi cuộc tấn công.
Một hành giả yogi phải tranh hai cực đoan : xa xỉ và khổ
hạnh. Ông ta không được nhịn đói, hay đày đọa thể xác. Người nào làm thế thì,
theo lời kinh Bhagavad Gitā, không thể là một hành giả yogi, kẻ nào nhịn đói,
kẻ nào luôn thức không ngủ, kẻ nào ngủ nhiều, kẻ nào làm việc quá nhiều hoặc
không làm việc thì chẳng ai có thể là hành giả yogi.
Rāja-yoga được chia ra làm tám giai đoạn.
1. Giai đoạn đầu tiên là yama, tức ngũ giới : không sát sanh, không gian dối, không trộm cắp, không tà dâm và không thọ lãnh lễ vật.
2. Kế đó là niyama tức ngũ hạnh : tịnh hạnh, an vui, khổ hạnh, nghiên cứu và tận hiến cho Thượng Đế.
3. Rồi đến āsana, tức tư thế.
4. Giai đoạn thứ tư là prānāyāma, tức kiểm soát prāna (nguyên sinh khí).
5. Giai đoạn thứ năm là pratyāhārā, tức kiểm soát giác quan trước các đối tượng.
6. Giai đoạn thứ sáu là drāranā, tức chú tâm vào một điểm.
7. Giai đoạn thứ bảy là dhyānā, tức thiền.
8. Giai đoạn thứ tám là samādhi, tức định hay siêu thức[2].
Yama và niyama là những giới luật đạo đức, nếu không có nó thì không thể thực hành thành công bất kỳ pháp môn yoga nào. Khi đã có nền tảng vững chắc về giới luật thì hành giả yogi bắt đầu thực chứng được những thành quả của công phu tu tập, nếu thiếu chúng thì không thể có được thành quả nào. Một hành giả yogi không bao giờ làm tổn thương bất kỳ ai bằng ý nghĩ, hành động hay lời nói. Lòng từ bi của người đó không chỉ dành cho loài người, mà còn đi xa hơn nữa để bao trùm toàn thể thế giới.
Tiếp theo là āsana, tức tư thế, gồm một loạt các bài tập về thể xác lẫn tinh thần cần phải thực hành hàng ngày, cho đến khi đạt đến những trạng thái nào đó cao siêu hơn. Bởi vậy, tìm được tư thế để hành giả có thể duy trì lâu dài là điều tuyệt đối cần thiết. Tư thế nào dễ nhất đối với mỗi hành giả chính là tư thế cần phải dùng. Một tư thế có thể rất dễ với người này, nhưng lại quá khó đối với người khác. Sau đây, trong suốt quá trình nghiên cứu về những vấn đề tâm lý học, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều hoạt động liên tục diễn ra trong thể xác này. Những dòng thần kinh sẽ bị dịch chuyển và đưa vào một dòng chảy mới. Những loại dao động mới sẽ khởi đầu, và toàn bộ cấu trúc của thể xác sẽ được tái tạo, có thể nói như vậy. Nhưng phần chính của hoạt động này sẽ nằm dọc theo cột sống, do đó, điều duy nhất cần thiết cho tư thế này là giữ cho cột sống được thoải mái, ngồi thật thẳng, giữ cho ba phần – ngực, cổ và đầu – nằm theo một đường thẳng. Hãy để xương sườn chống đỡ toàn bộ sức nặng cơ thể, như vậy các bạn sẽ có một tư thế thoải mái tự nhiên, với cột sống đứng thẳng. Tự nhiên các bạn sẽ nhận ra một điều là ta không thể nghĩ ra được những tư tưởng rất cao xa với lồng ngực gập lại.
Tư thế này của rāja-yoga có ít nhiều điểm tương tự với Hatha-yoga, là pháp môn yoga chuyên rèn luyện thể xác, với mục đích tạo ra một thân thể cực kỳ khỏe mạnh. Chúng ta không cần quan tâm gì đến pháp môn yoga đó ở đây, bởi vì nó rất khó thực hành, không thể học được trong ngày một ngày hai, và cuối cùng nó cũng chẳng giúp cho tâm linh tiến bộ được bao nhiêu. Nhiều bài tập thực hành hatha-yoga, các bạn có thể tìm thấy nơi Delsarte và những nơi khác. Đối tượng của những bài luyện tập này chỉ dành cho thể xác, chứ không phải tâm linh. Không một cơ bắp nào trên cơ thể mà hành giả hatha-yogi lại không có khả năng kiểm soát hoàn toàn, ông ta có thể ra lệnh cho trái tim ngừng đập hoặc tiếp tục đập, tương tự như vậy, ông ta có thể buộc mọi bộ phận cơ thể hoạt động theo lệnh của mình.
Kết quả đạt được từ pháp môn yoga này là giúp con người trường thọ, sức khỏe là ý tưởng chính, là mục tiêu duy nhất của hành giả hatha-yogi. Ông ta quyết định không mắc bênh, vậy là không bao giờ mắc bệnh. Ông ta sống rất thọ, một trăm năm chẳng là gì đối với một hành giả hatha-yogi, ông ta luôn luôn trẻ trung và tươi tắn cho đến một trăm năm mươi tuổi, không một sợi tóc hoa râm. Nhưng chỉ có thế thôi. Một cây đa đôi khi sống đến năm ngàn tuổi, nhưng nó cũng vẫn chỉ là một cây đa chứ không gì khác. Nếu một người sống thọ thì cũng chỉ là một con thú khỏe mạnh. Một vài bài tập thông thường của hatha-yoga tỏ ra rất hữu ích. Chẳng hạn một số các bạn thấy chữa bệnh nhức đầu bằng cách uống nước lạnh bằng mũi lúc vừa thức giấc là điều tốt, cả ngày hôm đó, đầu óc các bạn tươi mát, và các bạn sẽ không bị cảm lạnh. Làm điều này thật dễ, đặt lỗ mũi bạn vào trong nước, rồi hít nước vào trong cổ họng.
Sau khi đã học cách giữ tư thế ngồi vững vàng, ngay ngắn, hành giả phải – theo một số trường phái – thực hành bài tập được gọi là tẩy uế thần kinh. Một số người đã loại bỏ phần này, xem như không thuộc về Rāja-yoga, nhưng một nhà chú giải lỗi lạc đầy thẩm quyền là Śankarāchārya lại khuyên nên thực hành nó, tôi tưởng cũng nên nhắc lại ở đây, và xin trích lời hướng dẫn trực tiếp của ông từ bản chú giải kinh Śvetāśvatara Upanisad :
Khi tâm trí đã được prānāyāma loại bỏ toàn bộ những thứ cặn bã ra ngoài thì nó trở nên cố định trong Brahman, do đó, prānāyāma được chỉ bày. Trước tiên, các dây thần kinh được tẩy uế, tiếp theo đó là năng lực để thực hành prānāyāma. Dùng ngón tay cái bịt kín lỗ mũi bên phải, để lỗ mũi bên trái hít thật đầy không khí đến mức tối đa, rồi lập tức bịt kín lỗ mũi bên trái, và tống hết không khí ra ngoài bằng lỗ mũi bên phải. Rồi lại dùng lỗ mũi bên phải hít thật đầy không khí đến mức tối đa, và tống hết không khí ra ngoài bằng lỗ mũi bên trái. Thực hành như thế mỗi ngày ba hoặc năm lần, vào các thời điểm : trước lúc bình minh, giữa trưa, buổi chiều và nửa đêm, thần kinh của hành giả sẽ được tẩy uế. Lúc đó mới bắt đầu prānāyāma.
Thực hành là điều cần thiết tuyệt đối. Các bạn có thể ngối nghe tôi giảng cả giờ mỗi ngày, nhưng nếu không thực hành thì các bạn cũng sẽ chẳng tiến bộ thêm một bước nào. Tất cả điều tùy thuộc vào công phu thực hành. Chúng ta không bao giờ hiểu những điều này, cho đến chừng nào chúng ta trải nghiệm được chúng. Chúng ta phải tự mình thấy và cảm nhận được chúng. Chỉ lắng nghe các lời giải thích và lý thuyết suông sẽ chẳng làm được gì.
Có một số trở ngại trong thực hành. Trở ngại thứ nhất là thân thể không khỏe mạnh, nếu thân thể không ở trong trạng thái thích hợp thì việc thực hành sẽ gặp trở ngại. Bởi vậy, chúng ta phải giữ gìn thân thể trong tình trạng sức khỏe tốt, chúng ta phải quan tâm đến thực phẩm mình ăn uống và hành vi mình làm. Hãy luôn vận dụng một thứ nỗ lực tinh thần, thường được gọi là “Khoa học Cơ Đốc giáo”[3], để giữ gìn cho thân thể khỏe mạnh. Thế là đủ, không cần gì thêm cho thể xác nữa. Chúng ta đừng quên rằng sức khỏe chỉ là phương tiện để đạt đến cứu cánh. Nếu sức khỏe là cứu cánh thì chúng ta chẳng khác gì loài vật, loài vật hiếm khi đau ốm.
Trở ngại thứ hai là tính hoài nghi. Chúng ta luôn nghi ngờ về những thứ mà mình không thấy được. Con người, cho dù có cố gắng đến cách mấy đi nữa, cũng không thể sống bằng những lời nói suông được. Bởi vậy, chúng ta đâm ra hoài nghi, không biết được chút sự thật nào trong những lời dạy đó hay không, ngay cả những người ưu tú nhất trong chúng ta cũng đôi khi không tránh khỏi nghi ngờ. Chỉ cần thực hành trong một đôi ngày là ta sẽ có được một ý niệm thoáng qua, đủ để đem đến cho chúng ta sự động viên khuyến khích và nguồn hy vọng. Đúng như lời của một nhà chú giải Yoga : “Khi đạt được một bằng chứng, dầu nhỏ đến mấy đi nữa, nó cũng cho chúng ta niềm tin trọn vẹn vào pháp môn Yoga”. Chẳng hạn, sau một vài tháng tập luyện đầu tiên, các bạn sẽ thấy rằng mình bắt đầu có thể đọc được tư tưởng của người khác, chúng hiện ra với các bạn dưới hình thức một bức tranh. Có thể các bạn sẽ nghe được một thứ gì đó đang diễn ra ở một nơi rất xa, nếu các bạn muốn tập trung tinh thần để lắng nhe. Những ý niệm thoáng qua này sẽ đến theo từng chút một, nhưng đủ để đem đến cho các bạn niềm tin, sức mạnh và hy vọng. Chẳng hạn, nếu tập trung tư tưởng vào chóp mũi, một vài ngày sau các bạn sẽ bắt đầu ngửi thấy một mùi hương vô cùng tuyệt diệu, và điều đó đủ để chứng minh cho các bạn thấy rằng có những nhận thức tinh thần có thể hiển lộ mà không cần phải tiếp xúc với đối tượng hữu hình. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng những thứ đó chỉ là phương tiện, còn mục tiêu, cứu cánh và cùng đích của mọi sự tập luyện này là để giải thoát linh hồn. Chế ngự toàn bộ bản tính ta, không để sót một thứ gì, đó phải là mục đích. Chúng ta phải là chủ nhân chứ không phải là nô lệ của bản tính mình, cả tinh thần lẫn thể xác đều không thể là chủ nhân của ta, và chúng ta cũng không được quên rằng thể xác thuộc về chúng ta, chứ không phải chúng ta thuộc về thể xác.
Một vị thần và một con quỷ đến học hỏi về Chân Ngã với một vị đại hiền triết. Họ học hỏi trong một thời gian dài, và cuối cùng vị hiền triết đó bảo : “Các ngươi chính là Đấng mà các ngươi đang tìm kiếm”. Cả hai đều nghĩ rằng thể xác họ là Chân Ngã. Con quỷ cực kỳ thỏa mãn, quay về bảo với người dân của nó : “Ta đã học đầy đủ mọi thứ cần học, hãy ăn chơi vui vẻ, chúng ta chính là Chân Ngã, ngoài ra chẳng có gì nữa”. Bản chất của con quỷ vốn ngu muội, u mê, nên nó không bao giờ tìm hiểu gì thêm nữa, mà hoàn toàn thỏa mãn với ý nghĩ rằng nó là Thượng Đế, còn thể xác có nghĩa là Chân Ngã.
Còn vị thần thì bản chất thanh tịnh hơn. Thoạt đầu, ông ta phạm sai lầm khi nghĩ rằng : “Ta, thể xác này, là Brahman, bởi vậy hãy giữ cho thể xác được cường tráng, mạnh khỏe, hãy ăn ngon mặc đẹp, và hưởng thụ đủ mọi lạc thú”. Nhưng chẳng mấy chốc, vị thần thấy rằng điều đó không thể là ý nghĩa trong lời dạy của nhà hiền triết, sư phụ của mình; hẳn phải có một cái gì đó cao siêu hơn nữa. Bởi vậy, ông ta bèn quay lại và hỏi :
– Bạch sư phụ, có phải người đã dạy con rằng thể xác nầy là Chân Ngã? Nếu vậy, sao con lại thấy mọi thể xác đều bị chsết, nhưng Chân Ngã thì không thể chết được.
Vị hiền triết đáp :
– Hãy tìm đi, ngươi là Đấng đó.
Vị thần bèn nghĩ rằng ý của vị hiền triết muốn nói đến những dòng sinh lực làm cho cơ thể hoạt động. Nhưng chỉ sau một thời gian, vị thần thấy rằng nếu ông ta ăn thì những dòng sinh lực đó mới mạnh mẽ, còn ông ta nhịn đói thì chúng trở nên yếu ớt, bạc nhược. Vị thần bèn quay lại và hỏi :
– Bạch sư phụ, có phải ý người muốn nói rằng những dòng sinh lực là Chân Ngã?
Vị hiền triết đáp :
– Hãy tự tìm đi, ngươi là Đấng đó.
Một lần nữa, vị thần quay về nhà, và nghĩ rằng có lẽ tâm trí chính là Chân Ngã. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, ông ta ngẫm thấy tư tưởng quá đa dạng, lúc thiện lúc ác, tâm trí biến đối quá bất thường không thể là Chân Ngã được. Vị thần bèn quay lại với nhà hiền triết và nói :
– Bạch sư phụ, con không tin rằng tâm trí là Chân Ngã. Có phải ý của người là thế không?
Vị hiền triết đáp :
– Không, ngươi là Đấng đó, hãy tự mình tìm đi.
Vị thần quay về, và cuối cùng nhận thấy rằng mình chính là Chân Ngã, siêu việt mọi tư tưởng, là cái duy nhất, không sinh không diệt, đao kiếm không thể đâm thủng, lứa không thể đốt cháy, gió không thể làm cho khô héo, nước không thể làm cho tan rã, nó vô thủy vô chung, là Hằng Hữu bất động, vô hình, toàn trí, toàn năng, chẳng phải là thể xác hay tâm trí mà vượt lên trên cả hai. Bởi thế, vị thần thấy thỏa mãn, còn con quỷ đáng thương kia, do quá mê say thân xác, nên không đạt đến chân lý được.
Thế gian này có rất nhiều người có bản chất giống như con quỷ đó, nhưng cũng có một số người có bản chất giống như vị thần kia. Nếu người nào đề nghị dạy bất kỳ một môn khoa học nào nhằm nâng cao khả năng hưởng lạc thì sẽ có đông đảo mọi người sẵn sàng nghe theo ông ta. Nhưng nếu có người nào đứng ra chứng minh cho nhân loại thấy mục tiêu tối thượng thì có rất ít người nghe theo. Rất hiếm người có khả năng thấu hiểu được mục tiêu tối cao, còn số người đủ kiên trì để đạt đến nó lại càng hiếm hoi hơn nữa. Nhưng cũng có một số ít người biết rằng dù có kéo dài thể xác đến vài ngàn năm đi nữa thì rốt cuộc cũng sẽ kết thúc như nhau. Khi những lực duy trì cho thể xác mất đi thì nó phải sụp đổ. Không một ai từng sinh ra đời lại có thể ngăn thể xác mình ngưng biến đổi, dù chỉ trong một thoáng chốc. Thể xác là tên gọi của một loạt các biến đổi. “Giống như trong một con sông, những khối nước không ngừng biến đổi trước mắt các bạn trong từng thoáng chốc, những khối nước mới đang trôi đến, nhưng vẫn mang hình thể tương tự, thì thể xác này cũng vậy”. Tuy nhiên, thể xác cần phải được giữ gìn cho cường tráng và khỏe mạnh, nó là công cụ tốt nhất mà ta có được.
Thể xác con người là thể xác vĩ đại nhất trong vũ trụ, và con người là sinh vật vĩ đại nhất. Con người cao cả hơn tất cả các loài thú, cao cả hơn tất cả các thiên thần, không có gì vĩ đại hơn con người. Ngay cả các deva, tức chư thiên, cũng giáng trần để đạt được giải thoát qua thân xác con người. Chỉ có con người mới đạt được sự hoàn hảo, ngay cả các deva cũng không làm được. Theo các tín đồ Do Thái giáo và Hồi giáo thì Thượng Đế sáng tạo nên loài người sau khi đã tạo nên các thiên thần cùng muôn loài, sau khi tạo nên con người thì Ngài cho gọi tất cả các thiên thần đến để chào hỏi con người, tất cả thiên thần đều làm thế trừ Iblis, bởi vậy Thượng Đế nguyền rủa anh ta và bắt làm quỷ Sa-tăng. Đằng sau câu chuyện ngụ ngôn này là một chân lý vĩ đại : sự khai sinh ra con người sự khai sinh vĩ đại nhất mà chúng ta có được. Những sinh vật thấp kém như loài thú thì đần độn, và phần lớn chúng được tạo thành từ tama. Loài vật không có bất kỳ tư tưởng cao siêu nào, ngay cả chư thần, hay các deva, cũng không thể đạt nào được sự giải thoát trực tiếp nếu không sinh làm người. Tương tự như vậy, trong xã hội loài người, quá giàu có hay quá nghèo khổ đều là chướng ngại, ngăn không cho linh hồn tiến hóa cao hơn. Chính từ giai cấp trung lưu đã sản sinh ra những vĩ nhân của thế giới. Ở đây, các lực đó được điều chỉnh và cân xứng như nhau.
Quay lại với chủ đề của chúng ta, giai đoạn kế tiếp là prānāyāma hay điều khiển hơi thở. Điều đó có liên quan gì đến việc tập trung năng lực của tâm trí? Hơi thở giống như cái bánh đà của cái cỗ máy là thể xác này. Trong động cơ lớn, các bạn thấy bành đà khởi động trước, rồi sự chuyển động đó được truyền vào cỗ máy càng lúc càng tinh tế, cho đến khi cả cơ chế tinh tế nhất và nhẹ nhàng nhất trong cỗ máy đều vận hành hài hòa. Hơi thở là cái bánh đà đó, nó cung cấp và điều tiết động lực đến mọi bộ phận trong thể xác này.
Ngày xưa có viên đại thần thờ một vị vua vĩ đại. Ông bị thất sũng, và nhà vua hạ lệnh giam ông ta trên đỉnh của một tòa tháp rất cao để trừng phạt. Lệnh được thi hành, và viên đại thần bị bỏ rơi trên đó cho đến chết. Nhưng ông có một bà vợ trung thành. Khi màn đêm buông xuống, bà đến chỗ ngọn tháp và gọi người chồng ở tuốt trên cao, hỏi mình có thể giúp được gì. Viên đại thần bảo bà vợ đêm hôm sau quay lại và mang theo một sợi thừng dài, một cuộn nhợ chắc, một sợi chỉ gói đồ, một sợi chỉ tơ, một con bọ hung và một ít mật ong. Bà vợ rất lấy làm lạ, nhưng vẫn nghe lời chồng và mang theo những thứ ông cần. Viên đại thần bảo vợ buộc thật chắc sợi chỉ tơ vào thân con bọ hung, rồi bôi một giọt mật ong lên sừng của nó, sau đó thả nó bò tự do trên tường với cái đầu hướng lên trên. Bà vợ làm y theo lời dặn, và con bọ hung bắt đầu cuộc hành trình. Con bọ hung ngửi thấy mùi mật ong trước mũi nên cứ từ từ bò lên trên, hy vọng sẽ đến được chỗ có mật, cho đến khi nó bò đến tận đỉnh tháp thì viên đại thần bắt được nó, và nắm được sợi chỉ tơ. Ông bảo vợ cột đầu kia của sợi chỉ tơ vào sợi chỉ cột đồ, và sau khi ông kéo lên được sợi chỉ cột đồ thì ông cũng y theo cách đó để kéo lên theo sợi nhợ chắc, và cuối cùng là sợi dây thừng. Công việc còn lại rất dễ dàng. Viên đại thần dùng sợi dây thừng để leo xuống đất và trốn thoát.
Trong cơ thể chúng ta, hơi thở là “sợi chỉ tơ”, khi nắm được nó và học cách điều khiển nó thì ta có thể nắm được “sợi chỉ cột đồ” là những dòng thần kinh, và từ đó, ta nắm được “sợi nhợ chắc” là tư tưởng, và cuối cùng là sợi thừng prānāyāma, kiểm soát được prānāyāma thì chúng ta đạt đến tự do.
Chúng ta chẳng biết chút gì về thể xác của mình, chúng ta không thể biết được. Giỏi lắm thì chúng ta lấy một xác chết, mổ xẻ nó ra, cũng có những người có thể bắt một con vật sống và mổ nó ra để xem cái gì nằm ở bên trong cơ thể đó. Dẫu có làm thế thì điều đó cũng chẳng liên quan gì đến cơ thể chúng ta. Chúng ta hiểu biết rất ít về cơ thể mình. Vì sao như thế? Bởi vì sự chú tâm của chúng ta chưa đủ sức để phân biệt những vận động vô cùng tế vi đang diễn ra ở bên trong. Chúng ta chỉ có thể biết được những vận động đó khi tâm trí trở nên tinh tế hơn và, có thể nói như vậy, đi sâu hơn vào cơ thể. Để có được nhận thức tinh tế đó, chúng ta phải bắt đầu bằng những nhận thức thô hơn. Chúng ta phải nắm được cho bằng được cái đang điều khiển sự vận hành của động cơ này, và đó là prāna, mà biểu hiện rõ rệt nhất của nó là hơi thở. Sau đó, cùng với hơi thở, chúng ta sẽ từ từ tiến vào bên trong cơ thể, và điều đó giúp ta có thể phát hiện ra những nguồn lực tế vi, tức những dòng thần kinh chu lưu trong có thể. Ngay khi nhận ra được điều đó, và học cách cảm nhận chúng, chúng ta sẽ bắt đầu chế ngự được chúng, và chế ngự được toàn bộ cơ thể mình. Tâm trí cũng nhờ những dòng thần kinh đó mà vận động, do đó, cuối cùng chúng ta sẽ đạt đến trạng thái chế ngự được toàn bộ thân tâm, biến cả hai thành kẻ tôi tớ của mình. Tri thức là sức mạnh. Chúng ta phải nắm bắt được sức mạnh này, bởi vậy chúng ta phải bắt đầu tại điểm khởi đầu là prānāyāma, nghĩa là chế ngự prāna, hay điều khí. Prānāyāma này là một chủ đề dài, sẽ cần đến vài bài giảng nữa để giải thích đầy đủ về nó. Chúng ta sẽ giải thích từng phần một.
Dần dần, chúng ta sẽ hiểu đâu là lý do phải thực hành những bài tập này, và hiểu được những lực đang vận động trong cơ thể là gì. Tất cả những điều này sẽ đến với chúng ta, nhưng nó đòi hỏi sự thực hành kiên trì, và bằng chứng sẽ đến nhờ công phu tập luyện. Chừng nào các bạn chưa tự thực chứng lấy điều đó thì không một khối lượng lý luận nào tôi gởi đến các bạn lại có thể trở thành bằng chứng cho các bạn được. Ngay khi các bạn cảm nhận được những dòng khí đó chuyển động khắp châu thân thì những nỗi nghi ngờ đều tan biến, nhưng điều đó đòi hỏi phải luyện tập kiên trì hàng ngày. Các bạn phải luyện tập tối thiểu hai lần mỗi ngày, và thời điểm thích hợp nhất là lúc gần rạng đông và chạng vạng tối. Khi đêm chuyển sang ngày và ngày chuyển sang đêm sẽ phát sinh một trạng thái tương đối yên tĩnh. Lúc rạng đông và hoàng hôn là hai thời điểm yên tĩnh. Cơ thể các bạn cũng có khuynh hướng trở nên yên tĩnh tại các thời điểm đó. Chúng ta sẽ lợi dụng trạng thái đó của tự nhiên để bắt đầu tập luyện. Hãy giữ một quy tắc là không được ăn uống cho đến khi đã tập xong, nếu các bạn làm thế thì sức mạnh sắc nhọn của cơn đói sẽ bẻ gãy sự lười biếng của các bạn. Ở Ấn Độ, người ta dạy trẻ em không được ăn uống gì cho đến khi tập luyện hoặc làm lễ xong, sau một thời gian thì điều này trở nên tự nhiên, đứa nhỏ sẽ không còn thấy đói cho đến khi nó tắm rửa và tập luyện xong.
Trong số các bạn, ai có đủ điều kiện thì nên có một căn phòng riêng để tập luyện một mình. Đừng ngủ trong phòng đó, phải giữ nó được thiêng liêng. Các bạn chớ nên bước vô phòng đó trước khi tắm rửa, và thân tâm phải hoàn toàn trong sạch. Nhớ luôn luôn đặt hoa trong phòng đó, hoa là môi trường cực tốt một một hành giả yogi, và treo thêm những tranh ảnh đẹp. Đốt hương mỗi sáng và chiều. Đừng có cãi vã, hoặc nổi nóng hay có những tư tưởng thô tục trong căn phòng đó. Chỉ để cho những người nào có tư tưởng giống như bạn bước vào phòng đó mà thôi. Như thế, dần dần trong phòng sẽ tạo ra một bầu không khí linh thiêng, và mỗi khi các bạn gặp cảnh khốn khổ, muộn phiền, hoài nghi hay tâm trí bị xáo trộn, chỉ cần bước vô căn phòng đó là các bạn sẽ thấy tâm hồn bình thản trở lại. Đó là quan niệm của đền thờ hay giáo đường, thậm chí hiện này tại một số đền thờ hay giáo đường, các bạn cũng còn tìm được cảm giác đó, song phần lớn thì quan niệm này đã bị đánh mất. Trong thực tế, nếu gìn giữ những dao động tâm linh tại một nơi nào đó thì các bạn biến nó thành một chốn linh thiêng. Những người nào không có được một phòng riêng thì có thể tập luyện tại bất cứ nơi nào họ thích.
Các bạn hãy ngồi trong tư thế thật thẳng, và điều đầu tiên
cần làm là gởi một luồng tư tưởng linh thiêng đến với muôn loài. Hãy lặp đi lặp
lại trong tâm trí : “Cầu cho muôn loài đều được hạnh phúc, cầu cho muôn
loài đều được bình an, cầu cho muôn loài đều hưởng lạc phúc”. Hãy làm như
thế đến cả bốn phương đông, tây, nam, bắc. Càng làm như thế, các bạn cảm thấy
mình càng tốt đẹp hơn. Cuối cùng các bạn sẽ thấy rằng cách dễ nhất để giữ cho
bản thân mình khỏe mạnh là mong cho người khác được khỏe mạnh, cách dễ nhất để
mình được hạnh phúc là mong cho người khác được hạnh phúc. Sau khi làm thế rồi,
ai tin Thượng Đế thì nên cầu nguyện – đừng có cầu nguyện vì tiền bạc, vì sức
khỏe hay để lên thiên đàng, mà hãy cầu nguyện vì tri thức và ánh sáng, mọi cách
cầu nguyện khác đều ích kỷ. Điều cần làm tiếp theo là hãy quán tưởng rằng thể
xác các bạn rất vững chắc, cường tráng và khỏe mạnh, bởi vì nó là khí cụ tốt
nhất mà các bạn có được. Hãy quán tưởng nó cứng cáp như kim cương, và với sự trợ
giúp của thể xác, các bạn sẽ vượt qua được biển đời. Những kẻ yếu đuối, bạc
nhược sẽ không bao giờ đạt đến giải thoát, hãy vất bỏ mọi sự yếu đuối, bạc
nhược. Hãy bảo với thể xác các bạn rằng nó cường tráng, hãy bảo với tâm trí các
bạn rằng nó cường tráng, và hãy có niềm tin bao la cùng một niềm hy vọng vô bờ
bến nơi bản thân các bạn.
Prānāyāma không chỉ liên quan đến hơi thở, như nhiều người nghĩ. Hơi thở thực ra có liên quan rất ít với nó. Hít thở chỉ là một trong nhiều bài luyện tập, mà nhờ đó ta có thể đạt đến khả năng prānāyāma chân thực. Prānāyāma có nghĩa là kiểm soát prāna, hay nguyên sinh khí.
Theo nhiều triết gia Ấn Độ, toàn thể vũ trụ được cấu tạo bằng hai loại chất liệu, một loại là ākāśa, còn loại kia là prāna. Ākāśa là sự tồn tại toàn nhiên phổ hiện, bao trùm vạn hữu. Mọi sự vật mang hình tướng, mọi sự vật hình thành do hòa hợp đều tiến hóa từ ākāśa này. Chính ākāśa chuyển biến thành thể khí, thể lỏng, rồi thành thể rắn; chính ākāśa đã chuyển biến thành mặt trời, trái đất, mặt trăng, thành tinh tú, sao chổi; chính ākāśa chuyển biến thành thể xác con người, thể xác loài vật, cây cỏ, thành tất cả những gì ta có thể tri giác được, tất cả những gì tồn tại. Ta không thể nhận thức được ākāśa, nó tế vi đến mức bất khả tư nghì, vượt ra ngoài mọi sự nhận thức, ta chỉ có thể nhìn thấy được ākāśa khi nó biến thành dạng thô, và mang một hình tướng. Ngay từ buổi khởi thủy sáng tạo, chỉ có ākāśa, đến cuối chu kỳ thì mọi vật thể rắn, lỏng và khí đều tan chảy vào ākāśa trở lại, và một chu kỳ sáng tạo tương tự khác lại xuất phát từ ākāśa này.
Do năng lực nào mà ākāśa hiển lộ thành vũ trụ? Đó là nhờ năng lực của prāna. Giống như ākāśa là chất liệu vô biên và toàn nhiên phổ hiện của vũ trụ thì prāna cũng thế, nó là năng lực hiển thị vô biên và toàn nhiên phổ hiện của vũ trụ. Tại khởi thủy và chung cục của một chu kỳ thì vạn vật đều biến thành ākāśa, và tất cả những lực trong vũ trụ này đều hồi chuyển vào prāna. Trong chu kỳ tiếp theo từ prāna lại tiến hóa ra tất cả những thứ ta gọi là năng lượng, tất cả những thứ ta gọi là lực. Prāna tự thân hiển lộ như là sự vận động, prāna tự thân hiển lộ như là lực hấp dẫn vạn vật, như là từ lực. Prāna tự thân hiển lộ như là hoạt động của thể xác, như là những dòng thần kinh, như là sức mạnh của tư tưởng. Từ tư tưởng cho đến những lực vật lý thấp kém nhất, tất cả đều là sự biểu hiện của prāna. Tổng số các lực trong vũ trụ, tinh thần hay vật chất, khi hồi chuyển về trạng thái nguyên thủy, được gọi là prāna. “Khi không có một gì cả, cũng không có hư không, khi bóng tối bao trùm bóng tối thì cái gì tồn tại? Đó là ākāśa tồn tại trong trạng thái bất động”. Chuyển động vật lý của prāna dừng lại, nhưng nó vẫn luôn tồn tại y nhiên bất biến. Đến cuối chu kỳ, tất cả năng lượng đang phô bày trong vũ trụ sẽ lắng dịu lại và biến thành dạng thế năng. Đến đầu chu kỳ kế tiếp thì chúng lại khởi động, tác động mạnh vào ākāśa, rồi từ ākāśa xuất phát ra muôn ngàn hình tướng đa thù, và khi ākāśa chuyển biến thì prāna cũng chuyển biến thành những tất cả những dạng biểu hiện năng lượng này. Tri thức và năng lực kiểm soát prāna được gọi là prānāyāma.
Điều này mở ra cho chúng ta cánh cửa dẫn đến nguồn năng lực hầu như vô tận. Giả sử có người thấu hiểu hoàn toàn prāna, và có khả năng chế ngự được nó thì có năng lực nào trên trái đất lại không phải là của ông ta? Người đó có thể dịch chuyển mặt trời và những vì sao ra khỏi vị trí của chúng, có thể chế ngự được mọi thứ trong vũ trụ, từ những nguyên tử cho đến những vầng thái dương vĩ đại nhất. Đó là cứu cánh và mục đích của prānāyāma. Khi một hành giả yogi trở nên toàn hảo thì không có gì trong tự nhiên lại không nằm dưới sự chế ngự của vị ta. Nếu người đó ra lệnh gọi chư thần đến thì chư thần sẽ đến theo mệnh lệnh, nếu bảo đi thì chư thần cũng sẽ đi theo mệnh lệnh. Tất cả những lực trong tự nhiên sẽ phục tùng người đó như những nô lệ. Khi những người ngu dốt thấy những năng lực này nơi một hành giả yogi thì họ gọi đó là phép lạ.
Một đặc điểm trong tâm trí của người Ấn là trước tiên họ luôn đòi hỏi khả năng khái quát hóa cao nhất, còn những chi tiết thì phác họa sau. Câu hỏi sau đây được nêu lên trong kinh Veda : “Cái mà khi biết được nó thì chúng ta sẽ biết được mọi thứ, cái đó là gì?” Như thế, mọi kinh sách và mọi triết lý được viết ra cũng chỉ nhằm mục đích là chứng minh cái duy nhất đó, cái mà hễ biết được nó thì ta biết được muôn vật. Nếu một người muốn hiểu biết vũ trụ này cặn kẽ từng chút một thì anh ta phải biết được từng hạt cát, và điều đó đòi hỏi một thời gian vô tận, anh ta không thể nào biết hết mọi sự được. Vậy thì làm thế nào để có một tri thức nào đó? Làm thế nào một người có thể đạt đến toàn trí, thông qua từng cái đặc thù? Các hành giả yogi nói rằng đằng sau những biểu hiện đặc thù đó có một cái phổ quát. Đằng sau tất cả những quan niệm riêng biệt, đặc thù là một nguyên lý phổ quát, trừu tượng. Thấu hiểu được nguyên lý đó là các bạn thấu hiểu được vạn hữu. Giống như toàn thể vũ trụ này, theo kinh Veda, đã được khái quát hóa thành một Tồn Tại Tuyệt Đối Duy Nhất, và người nào thấu hiểu được Tồn Tại đó là thấu hiểu được toàn bộ vũ trụ, cũng thế, tất cả các lực đã được khái quát hóa thành prāna, và người nào thấu hiểu được prāna là thấu hiểu tất cả các lực của vũ trụ, trong phạm vi tinh thần lẫn vật chất. Người nào điều khiển được prāna thì điều khiển được thể xác mình và mọi thể xác đang tồn tại, bởi vì prāna là nguồn gốc của tất cả các lực.
Ý tưởng duy nhất của prānāyāma là làm thế nào điều khiển được prāna. Tất cả công phu rèn luyện và những bài tập thực hành về phương diện này đều nhắm đến mục đích duy nhất đó. Mỗi người phải bắt đầu từ nơi mình đứng, phải học cách điều khiển được những sự vật gần mình nhất. Thể xác là cái cận kề nhất với chúng ta, cận kề hơn bất cứ thứ gì trong cái vũ trụ ngoại giới này, và tâm trí còn cận kề hơn cả thể xác nữa. Nhưng prāna đang hoạt động trong tâm trí, và thể xác ta mới là cái cận kề nhất. Nó là một phần của prāna đang vận hành trong trong vũ trụ. Trong đại dương prāna bao la vô tận, làn sóng prāna tế vi đại diện cho những năng lượng của chúng ta – về tinh thần lẫn vật chất – là làn sóng cận kề nhất với chúng ta. Nếu chúng ta thành công trong việc điều khiển được làn sóng tế vi này thì chỉ khi đó chúng ta mới có thể hy vọng điều khiển được toàn thể prāna. Hành giả yogi nào đã thực hành pháp môn này sẽ đạt đến trạng thái viên mãn, sẽ không một quyền năng nào có thể chi phối người đó được nữa. Hành giả đó sẽ trở nên hầu như toàn năng, hầu như toàn trí.
Ở mọi quốc gia, chúng ta đều thấy những người cố gắng điều khiển được prāna. Tại xứ sở này thì có những người chữa bệnh bằng liệu pháp tâm thần, những người chữa bệnh bằng đức tin, những người theo thuyết duy linh, những người theo Khoa học Cơ Đốc giáo, những người theo thuật thôi miên v.v…, và nếu phân tích những nhóm người khác nhau này, chúng ta sẽ thấy rằng nền tảng của mỗi trường phái này đều là điều khiển prāna, dù họ có biết được điều đó hay không. Nếu đúc kết mọi lý thuyết của họ lại thì phần lắng đọng lại sẽ là điều đó. Họ đều vận dụng một lực duy nhất và tương tự như nhau, có điều họ không biết mà thôi. Họ đã tình cờ khám phá ra lực đó, và vận dụng nó một cách vô thức mà không biết được bản chất của nó, nhưng đó chính năng lực các hành giả yogi đã vận dụng, và nó xuất phát từ prāna.
Prāna là nguồn sinh lực trong mọi vật, và hoạt động tinh tế nhất, cao siêu nhất của prāna là tư tưởng. Nhưng như ta đã thấy, tư tưởng có ý thức không phải là tất cả. Còn có một loại tư tưởng mà ta gọi là bản năng, hay vô thức, bình diện thấp kém nhất của tư tưởng. Nếu bị một con muỗi đốt thì bàn tay chúng ta theo bản năng sẽ tự động đập chết nó, mà không hề suy nghĩ. Đây là một dạng biểu hiện của tư tưởng. Mọi hành động mang tính phản xạ của cơ thể đều thuộc về bình diện tư tưởng này. Như vậy, tư tưởng vẫn còn có một bình diện cao hơn, đó là ý thức : tôi suy luận, tôi phán đoán, tôi suy tư, tôi thấy được sự đồng thuận và phản bác về những sự vật nào đó. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa phải là tất cả. Chúng ta biết rằng lý tính bị hạn chế. Nó chỉ có thể hoạt động trong một cự ly nào đó, ngoài cự ly đó thì nó không sao vươn tới nỗi. Phạm vi hoạt động của lý tính thực ra rất là hạn chế. Tuy nhiên, đồng thời, chúng ta lại thấy có những sự kiện chen nhau vào trong phạm vi đó, giống như sao chổi lao vào quỹ đạo trái đất. Rõ ràng là chúng đến từ bên ngoài, dù lý tính chúng ta không thể vươn tơi nơi đó. Nhân của những hiện tượng xâm nhập vào trong phạm vi nhỏ hẹp này nằm ở bên ngoài. Các hành giả yogi bảo rằng ngay cả điều này cũng không thể là giới hạn của tri thức, tâm trí còn có thể hoạt động trên một bình diện cao hơn nữa, đó là siêu thức. Khi tâm trí đã đạt đến trạng thái đó – được gọi là samādhi hay định, tức trạng thái tập trung toàn mãn – thì nó vượt ra ngoài những giới hạn của lý tính, và đối diện với những sự kiện mà bản năng và lý tính chưa hề biết đến. Mọi sự vận dụng những lực tế vi đó của thể xác – một biểu hiện khác của prāna – đều thúc đẩy cho tâm trí, giúp nó vươn lên cao hơn và biến thành siêu thức, rồi nó hoạt động từ cảnh giới đó.
Trong vũ trụ này, có một bản thể liên tục duy nhất trên mọi mức độ tồn tại. Về phương diện vật lý thì vũ trụ này là duy nhất, không có sự khác biệt giữa mặt trời và các bạn. Các nhà vật lý học sẽ bảo các bạn rằng nói ngược lại chỉ là điều vô nghĩa. Không có sự khác biệt thực sự giữa cái bàn và tôi, cái bàn là một điểm trong khối vật chất, và tôi là một điểm khác. Có thể nói rằng mỗi hình thể tượng trưng cho một xoáy nước giữa đại dương vật chất vô tận. Những xoáy nước đó liên tục biến đổi. Giống như trong một con suối cuồn cuộn chảy có đến hàng triệu xoáy nước, và nước trong mỗi xoáy nước đó luôn tươi mới trong từng thoáng chốc, liên tục cuộn xoáy nối tiếp nhau trong từng giây, rồi trôi đi, để khối nước khác thay thế; thì cũng thế, toàn thể vũ trụ này là một khối vật chất thường xuyên biến dịch, mà trong đó tất cả những hình thức tồn tại đều là vô số những xoáy nước nhỏ bé. Một khối vật chất đi vào những cơn xoáy nước, cuộn xoáy liên tục, và biến thành hình thể con người trong một vài năm, rồi biến đổi, và có thể bị cuốn vào cơn xoáy nước để biến thành hình thể con vật trong một thời gian, rồi một vài năm sau, nó lại lao vào một cơn xoáy nước khác để biến thành một khối khoáng sản. Đó là sự chuyển biến thường xuyên. Không một thể xác nào là thường hằng bất biến. Không có cái gì là thể xác anh, thể xác tôi, trừ phi trên danh từ. Trong khối vật chất khổng lồ duy nhất đó, điểm này được gọi là mặt trời, điểm kia được gọi là mặt trăng, điểm khác được gọi là con người, điểm khác nữa được gọi là cây cỏ, khoáng chất. Không một thứ gì bất biến, mà muôn vật đều biến đổi vô thường, vật chất cứ mãi mãi hợp tan, tan hợp.
Đối với thế giới nội tâm cũng vậy. Vật chất được biểu trưng bằng khí ê-te[4]; khi hoạt động của prāna là hoạt động tế vi nhất thì khí ê-te này, trong trạng thái dao động còn tế vi hơn, sẽ biểu trưng cho tâm trí, và khi đó, ê-te vẫn là một khối vật chất nguyên vẹn. Nếu các bạn có thể tạo ra dao động tế vi này cho chính mình, các bạn sẽ nhìn thấy và cảm nhận được rằng toàn thể vũ trụ đều được cấu tạo bằng những dao động tế vi đó. Một vài loại thuốc thần kinh có khả năng đưa chúng ta đến trạng thái siêu thức để ta có thể cảm nhận được những dao động đó. Nhiều người trong các bạn còn nhớ đến thí nghiệm lừng danh của Sir Humphrey Davy, khi ông bị khống chế bởi khí gây cười, và trong suốt buổi diễn thuyết, ông trơ trơ bất động như người đần độn, rồi sau đó ông tuyên bố rằng toàn thể vũ trụ này được cấu tạo bằng những ý tưởng[5]. Trong thời gian đó, những dao động thô đã ngừng lại, có thể nói như vậy, và chỉ còn lại những dao động tế vi – mà Humphrey Davy gọi là tâm trí – hiện ra trước mắt. Ông ta chỉ có thấy được những dao động tế vi quanh mình, mọi thứ đều biến thành tư tưởng, toàn thể vũ trụ là một đại dương tư tưởng, và ông ta cùng mọi người khác đều biến thành những con xoáy nước tư tưởng nhỏ bé.
Như vậy, ngay cả trong vũ trụ của tư tưởng, chúng ta vẫn tìm thấy được sự đơn nhất, và cuối cùng, khi đến với Chân Ngã, chúng ta biết rằng Chân Ngã đó chỉ có thể là nhất thể. Vượt qua những dao động của vật chất dưới dạng thô hay tế vi, vượt qua những chuyển động, cũng chỉ có nhất thể. Ngay cả trong những dạng chuyển động đang hiển lộ, cũng chỉ có cái đơn nhất. Những sự kiện này không thể phủ nhận được. Vật lý hiện đại cũng đã chứng minh được rằng tổng số năng lượng là như nhau ở khắp mọi nơi[6]. Người ta cũng đã chứng minh được rằng tổng số năng lượng đó tồn tại dưới hai dạng. Nó biến thành thế năng, ở dạng tiềm ẩn và tĩnh lặng, sau đó nó hiển lộ thành tất cả những dạng năng lượng khác, rồi nó lại quay về ở dạng thế năng, và lại hiển lộ. Như thế, nó cứ tiến hóa và hồi chuyển đến thiên thu vô tận. Chế ngự được prāna này, như tôi đã trình bày ở phần trước, được gọi là prānāyāma.
Như tôi đã phát biểu, prānāyāma này rất ít liên quan đến việc hít thở. Nhưng điều khiển được hơi thở là phương tiện thực sự để luyện tập prānāyāma. Biểu hiện rõ ràng nhất của prāna trong cơ thể con người là sự chuyển động của hai lá phổi. Nếu chuyển động này ngừng lại thì, theo quy luật, tất cả những biểu hiện khác của lực trong cơ thể sẽ lập tức ngừng lại. Nhưng cũng có những người luyện tập đến mức thể xác họ vẫn tiếp tục sống, khi chuyển động này đã ngừng lại. Có những người tự chôn mình dưới đất nhiều ngày mà vẫn sống, dù họ không hít thở. Nhưng đối với tất cả những con người bình thường thì chuyển động của hai lá phổi là chuyển động thô chủ yếu trong cơ thể. Để đạt đến cái tế vi hơn, ta phải nhờ đến sự giúp đỡ của cái thô hơn, và cứ chầm chậm tiến dần về cái tế vi nhất, cho đến khi đạt đến cứu cánh.
Thực ra, prānāyāma có nghĩa là điều khiển chuyển động của phổi và chuyển động này gắn liền với việc hít thở. Không một hơi thở nào có thể tạo ra được nó, mà trái lại, chính nó tạo ra hơi thở. Chuyển động này hút đẩy không khí như một cái bơm. Prāna làm chuyển động lá phổi, và sự chuyển động của lá phổi hút không khí vào trong. Bởi vậy, prānāyāma không phải là hít thở, mà là điều khiển năng lực của cơ bắp làm chuyển động hai lá phổi. Năng lực dạng cơ bắp đó được truyền qua các dây thần kinh để vào các cơ bắp, rồi từ các cơ bắp được truyền vào phổi, khiến hai lá phổi chuyển động theo cách nào đó, năng lực đó chính là prāna mà chúng ta phải điều khiển khi thực hành prānāyāma. Khi đã điều khiển được prāna thì chúng ta sẽ thấy ngay rằng tất cả những hoạt động khác của prāna trong cơ thể sẽ từ từ nằm trong vòng kiểm soát. Bản thân tôi đã thấy những người điều khiển được mọi bắp thịt trên cơ thể – và tại sao lại không chứ? Nếu tôi đã điều khiển được một số cơ bắp nào đó thì tại sao tôi lại không thể điều khiển được mọi cơ bắp và thần kinh của cơ thể? Có gì là không thể đâu? Hiện nay, chúng ta đã đánh mất khả năng điều khiển đó, và những chuyển động đều mang tính tự động. Chúng ta không thể cử động đôi tai theo ý muốn, nhưng chúng ta biết loài vật có thể làm được. Chúng ta không có khả năng đó chỉ vì chúng ta không luyện tập nó.
Hơn nữa, chúng ta biết rằng chuyển động nào đã trở thành ẩn dấu vẫn có thể được làm cho hiển lộ. Bằng công phu luyện tập và rèn luyện kiên trì, một số chuyển động trên cơ thể, vốn đã ngủ yên không hoạt động, vẫn có thể được đưa trở lại vào vòng kiểm soát hoàn toàn. Lý luận theo cách này, chúng ta sẽ thấy rằng việc điều khiển được toàn bộ cơ thể không có gì là bất khả, mà trái lại còn mang tính khả khi. Hành giả yogi thực hành được điều này thông qua prānāyāma.
Có thể một số các bạn đã đọc điều này : trong prānāyāma, khi hít vào, các bạn đang làm đầy cơ thể bằng prāna. Trong tiếng Anh, prāna được dịch là “hơi thở”, và các bạn thường hay hỏi điều đó được thực hiện như thế nào. Lỗi này là do người dịch. Mỗi bộ phận cơ thể đều có thể chứa đầy prāna, hay sinh khí, và khi làm được điều đó thì các bạn có thể điều khiển được toàn bộ có thể. Mọi ốm đau bệnh tật xảy đến với cơ thể đều bị chế ngự hoàn toàn. Không những thế, các bạn còn có thể điều khiển được cả cơ thể người khác nữa. Trong thế gian này, mọi thứ đều có tính lây nhiễm – dù thiện hay ác. Nếu cơ thể các bạn đang ở trong trạng thái căng thẳng thì nó có xu hướng tạo nên sự căng thẳng tương tự nơi người khác. Nếu các bạn cường tráng và khỏe mạnh thì những người ở gần bạn cũng sẽ có xu hướng trở nên cường tráng và khỏe mạnh theo, còn nếu các bạn ốm đau bệnh tật thì những người chung quanh bạn cũng sẽ có xu hướng giống như bạn vậy. Dao động này sẽ được chuyển, có thể nói như vậy, sang cơ thể khác. Trong trường hợp một người muốn chữa lành bệnh cho người khác thì ý tưởng đầu tiên chỉ là truyền sức khỏe của chính mình cho người đó. Đây là cách chữa bệnh thời nguyên thủy. Sức khỏe có thể được truyền đi một cách có ý thức hoặc vô thức. Một người thật khỏe mạnh sống chung với một người ốm yếu sẽ làm cho người ốm yếu đó cường tráng hơn lên, dù anh ta có biết được điều đó hay không. Khi được thực hiện một cách có ý thức thì hành động đó trở nên nhanh hơn và tốt hơn. Kế đó là trường hợp của người có thể không khỏe mạnh lắm, nhưng chúng ta biết rằng anh ta lại có thể chữa lành bệnh cho người khác. Trong trường hợp người đầu tiên thì anh ta ít nhiều cũng đã điều khiển được prāna, và đúng vào lúc đó, anh ta có thể khơi dậy được prāna của mình đến một trạng thái dao động nào đó để truyền sang cho người khác.
Còn có những trường hợp mà quá trình này được thực hiện từ một nơi xa. Nhưng trên thực tế thì không có khoảng cách nào chấp nhận được các khoảng không gian trống. Đâu là khoảng cách có những khoảng không gian trống? Có khoảng không gian trống nào giữa các bạn và mặt trời chăng? Chỉ có một khối vật chất liên tục, mặt trời là một phần, còn các bạn là một phần khác. Có khoảng không gian trống nào giữa một phần của dòng sông và phần khác chăng? Nếu không, cớ sao lực lại không thể di chuyển được chứ? Không có lý do nào mà những điều này lại không thể thực hiện được. Chữa bệnh cách không là điều hoàn toàn có thật. Prāna có thể được truyền đi từ một khoảng cách rất xa, nhưng cứ một trường hợp có thật thì có cả trăm trò lừa đảo. Quá trình chữa bệnh cách không này không dễ dàng như ta tưởng. Trong hầu hết các trường hợp thông thường chữa bệnh theo cách này, các bạn sẽ thấy rằng người chữa bệnh chỉ lợi dụng tình trạng sức khỏe tự nhiên của cơ thể con người. Một y sĩ chữa bệnh bằng đối chứng liệu pháp [allopath] đến chữa cho bệnh nhân dịch tả và cho thuốc, một y sĩ chữa bệnh bằng phép vi lượng đồng căn [homoeopath] cũng đến và cho thuốc, và hiệu quả có thể tốt hơn vị y sĩ kia vì ông ta không làm xáo trộn cơ thể những bệnh nhan của mình, mà cứ để thiên nhiên tự chữa bệnh cho họ Người chữa bệnh bằng đức tin còn chữa bệnh hiệu quả hơn nữa, bởi vì ông ta mang sức mạnh đang chứa trong tâm trí mình để truyền lên bệnh nhân, và dùng đức tin để khơi dậy prāna đang say ngủ trong cơ thể họ.
Nhưng những người chữa bệnh bằng đức tin thường mắc phải sai lầm, họ cứ ngỡ rằng chính đức tin đã trực tiếp chữa lành cho người bệnh. Nhưng chỉ đức tin không thôi thì không thể chữa lành tất cả các bệnh tật. Có những căn bệnh mà triệu chứng tồi tệ nhất là người bệnh không bao giờ nghĩ rằng mình mắc bệnh. Niềm tin mãnh liệt đó của bệnh nhân tự nó đã là triệu chứng bệnh, và thường cho thấy họ sắp chết rất lẹ. Trong những trường hợp đó thì nguyên lý chữa bệnh bằng đức tin không áp dụng được. Nhưng chỉ dùng đức tin mà chữa bệnh được thì những bệnh nhân đó hẳn đã được chữa lành rồi. Chính prāna mới thực sự chữa lành bệnh. Những người mang tâm hồn thuần tịnh, do điều khiển được prāna, có khả năng đưa prāna đến một trạng thái dao động có thể được truyền cho người khác, để khơi dậy trong họ dao động tương tự. Các bạn có thể thấy được điều đó trong sinh hoạt hàng ngày. Tôi đang nói chuyện với các bạn. Tôi đang cố làm điều gì đây? Trong thực tế, tôi đang đưa tâm trí tôi đến một trạng thái dao động nào đó, và tôi càng thành công khi đưa nó đến trạng thái đó thì lời tôi nói càng có ảnh hưởng đến các bạn. Tất cả các bạn đều biết rằng hễ hôm nay tôi càng say sưa nhiệt tình thì các bạn càng thấy thích thú với bài diễn thuyết, mà hễ tôi càng ít say sưa nhiệt tình thì các bạn cũng thấy mất cảm hứng.
Những bậc làm lay chuyển thế giới, do được phú bẩm một ý lực [will-power] phi thường, có thể đưa prāna cho họ đến một trạng thái dao động rất cao, prāna đó vĩ đại và mãnh liệt đến mức ngay lập tức nó tác động được người khác, khiến cả hàng ngàn người bị lôi cuốn về phía họ, và một nửa thế giới suy nghĩ theo họ. Những vị đại tiên tri của thế giới có được năng lực điều khiển prāna kỳ diệu, điều đó đem đến cho họ một ý lực phi thường, họ đã đưa prāna của mình đến trạng thái dao động tối cao, và đó là cái đem lại cho họ quyền năng làm lay động cả thế giới. Tất cả biểu hiện của quyền năng này đều xuất phát từ việc điều khiển prāna đó. Con người có thể không biết điều này, nhưng đây là lời giải thích.
Đôi khi trong cơ thể các bạn, việc cung cấp prāna cho một bộ phận trở nên ít hơn hoặc nhiều hơn, khiến sự cân bằng bị xáo trộn, và khi sự cân bằng của prāna bị xáo trộn thì diễn ra cái mà ta gọi là bệnh tật. Lấy bớt đi phần prāna thừa, hoặc bổ sung phần phần prāna thiếu, điều đó sẽ chữa lành bệnh. Cảm nhận được bộ phận nào của cơ thể thiếu hay thừa prāna, đó cũng là một phần của prānāyāma. Nhận thức này sẽ trở nên tinh tế đến mức tâm trí sẽ cảm nhận được có ít prāna ở ngón chân hay ngón tay hơn mức cần thiết, và sẽ vận dụng năng lực để bù dắp vào. Đây là những chức năng khác nhau của prānāyāma. Ta cần phải học biết những chức năng đó một cách từ tốn và dần dần, và như các bạn đã thấy, toàn bộ nội dung của Rāja-yoga thực ra là dạy cách chế ngự và điều khiển prāna theo nhiều cách khác nhau. Khi một người đã tập trung được năng lượng thì người đó làm chủ được prāna trong cơ thể mình. Khi một người đang tham thiền thì người đó cũng đang điều khiển prāna của mình.
Trong một đại dương, có những con sóng to như quả núi, rồi có những con sóng nhỏ hơn, nhỏ dần như bọt nước, nhưng bối cảnh của tất cả những con sóng đó là đại dương vô tận. Bọt nước được kết nối với đại dương vô tận đó ở cực này, còn con sóng khổng lồ được kết nối với nó ở cực kia. Mỗi người có thể là con sóng lớn, hoặc là bọt nước nhỏ bé, những ai cũng được kết nối với đại dương năng lượng vô tận, và đó là quyền thừa kế thông thường của tất cả những sinh thể trên thế gian này. Nơi nào có sự sống thì đằng sau nó là kho năng lượng vô tận. Mới đầu như cái nấm, như bọt nước ly ty, và cứ luôn tiếp nhận được năng lượng từ cái kho vô tận đó, hình thể từ từ biến đổi cho đến khi nó biến thành cái cây, con thú, rồi thành con người, và đến bước tối hậu là thành Thượng Đế. Điều này được thành tựu trải qua hàng muôn triệu kiếp. Thế nhưng thời gian là gì? Sự gia tăng tốc độ, sự gia tăng tranh đấu có thể bắt được nhịp cầu qua khoảng cách thời gian. Những gì trong tự nhiên đòi hỏi nhiều thời gian để thành tựu đều có thể được rút ngắn nhờ cường độ của hành động, đó là lời của hành giả yogi. Một người có thể cứ từ từ rút năng lượng từ khối năng lượng vô tận trong vũ trụ, có thể anh ta cần đến một trăm ngàn năm để trở thành một deva, hay vị thần, và có thể cần đến năm trăm ngàn năm để trở thành một đấng cao hơn, và có thể phải cần đến năm triệu năm để trở thành một đấng hoàn hảo. Cho phát triển nhanh thì thời gian sẽ bị giảm đi. Với sự tinh tấn đầy đủ, sao lại không thể đạt đến trạng thái hoàn hảo trong vòng sáu năm hay sáu tháng? Không hề có giới hạn nào. Lý tính chứng minh được điều đó. Nếu một đầu máy chạy được hai dặm mỗi giờ với một số lượng than nào đó thì khi cung cấp nhiều than hơn, nó có thể chạy được một cự ly dài hơn trong khoảng thời gian ngắn hơn. Tương tự như vậy, nếu một linh hồn biết cách tăng cường hành động của nó thì cớ sao lại không thể đạt đến mục đích ngay trong kiếp này? Đến cuối cùng, tất cả mọi sinh linh đều đạt đến trạng thái hoàn hảo, chúng ta biết điều đó. Nhưng ai lại bận tâm đến việc chờ đợi hàng triệu kiếp? Tại sao lại không đạt đến cứu cánh đó ngay lập tức, ngay trong trong thể xác này, trong hình dạng con người? Vì sao ngay giờ đây, tôi lại không đạt được tri thức vô biên và quyền năng vô tận?
Đó là lý tưởng của một hành giả yogi, toàn bộ khoa học về Yoga đều hướng đến mục đích là dạy cho con người phương pháp tăng cường năng lực đồng hóa để rút ngắn thời gian đạt đến trạng thái hoàn hảo, thay vì cứ từ từ bước từ điểm này sang điểm khác, và cứ chờ đợi cho đến khi toàn thể nhân loại đều trở nên hoàn hảo. Tất cả những nhà tiên tri, những nhà hiền triết, những bậc thấu thị trên thế gian này – họ đã làm gì? Chỉ trong một đời người ngắn ngủi, họ đã sống trọn vẹn đời sống của nhân loại, và băng qua toàn bộ khoảng thời gian mà một người bình thường phải cần để đạt đến trạng thái hoàn hảo. Suốt bình sinh, những vị đó chỉ lo kiện toàn bản thân, họ không có một tư tưởng nào khác, không sống một phút giây nào cho những tư tưởng khác, và bằng cách đó họ đã rút ngắn được con đường hành đạo. Đó là ý nghĩa của định, hay tập trung tư tưởng : tăng cường năng lực đồng hóa, nhờ đó mà rút ngắn được thời gian. Rāja-yoga là khoa học dạy ta phương pháp đạt được năng lực tập trung tư tưởng.
Prānāyāma có liên quan gì với thuyết duy linh? Thuyết duy linh cũng là một sự biểu hiện của prānāyāma. Nếu những hồn ma thực sự tồn tại, có điều ta không thể thấy được chúng thì hoàn toàn có thể có hàng trăm, hàng triệu hồn ma quanh ta, mà ta không thể nhìn thấy, cảm nhận hay sờ chạm được. Chúng ta có thể tiếp tục đi qua đi lại xuyên qua thể xác chúng, và cũng rất có thể là chúng không thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được chúng ta. Đó là mặt phẳng trong một mặt phẳng, vũ trụ trong một vũ trụ. Chúng ta có năm giác quan, và chúng ta tượng trưng cho prāna trong một trạng thái dao động nào đó. Tất cả những sinh thể ở trong một trạng thái dao động giống nhau sẽ thấy được nhau, nhưng nếu có những sinh thể tượng trưng cho prāna trong một trạng thái dao động cao hơn thì không nhìn thấy được họ. Chúng ta có thể tăng cường độ ánh sáng cho đến khi ta không còn thấy được nó nữa, nhưng vẫn có những sinh thể có đôi mắt mạnh mẽ đến mức họ có thể thấy được ánh sáng đó. Lại nữa, nếu các dao động quá thấp thì ta không nhìn thấy được ánh sáng, nhưng có những loài vật thấy được nó, chẳng hạn như mèo và chim cú mèo. Phạm vi nhìn thấy được của chúng ta chỉ nằm trên bình diện dao động của prāna. Hãy lấy không khí làm ví dụ : nó chồng lớp này lên lớp khác, những lớp không khí ở gần mặt đất thì dày đặc hơn những lớp ở trên cao, và khi các bạn càng lên cao thì không khí càng loãng dần. Hoặc lấy đại dương làm ví dụ : khi các bạn càng lặn sâu xuống nước thì áp lực nước càng lớn, và những loài vật sống dưới đáy đại dương không bao giờ có thể trồi lên trên, nếu không chúng sẽ bị vỡ vụn ra.
Hãy suy tư toàn thể vũ trụ này như một đại dương ê-te, dao động dưới hoạt động của prāna, và nó lần lượt chứa nhiều tầng mức dao động khác nhau. Tầng càng ở ngoài thì dao động càng chậm, tầng càng gần trung tâm thì dao động càng nhanh, và cứ mỗi dãi dao động lại tạo ra một tầng mức. Hãy suy tư toàn thể sự vật như một vòng tròn có tâm là sự hoàn hảo, các bạn càng đi xa tâm điểm thì dao động càng chậm lại. Vật chất là tầng ngoài cùng, kế đó là tâm trí và tâm điểm là Tâm Linh. Bây giờ, rõ ràng là những người nào sống trong cùng một tầng mức dao động sẽ có khả năng nhìn thấy nhau, nhưng lại không thể nhìn thấy những sinh thể khác ở tầng mức dao động cao hơn hoặc thấp hơn. Tuy nhiên, chỉ cần dùng kính viễn vọng hoặc kính hiển vi là chúng ta có thể tăng phạm vi nhìn thấy của chúng ta, tương tự như vậy, bằng pháp môn yoga chúng ta có thể tự đưa mình đến trạng thái dao động của một tầng mức khác, và nhờ thế mà có thể thấy được những gì đang diễn ra ở đó.
Giả sử căn phòng này đầy ắp những sinh thể mà chúng ta không thể nhìn thấy. Họ tượng trưng cho prāna ở một trạng thái dao động nào đó, còn chúng ta tượng trưng cho một loại dao động khác. Giả sử họ tượng trưng cho loại dao động nhanh, còn chúng ta thì ngược lại. Họ được cấu tạo bởi prāna, và chúng ta cũng vậy. Tất cả chúng ta đều là những thành phần trong đại dương prāna, và chỉ khác nhau về tầng mức dao động. Nếu tôi có thể tự đưa mình đến một trạng thái dao động nhanh hơn thì tầng mức này sẽ thay đổi với tôi ngay lập tức, tôi sẽ không thể thấy được các bạn nữa, và họ sẽ hiện ra. Có thể một số trong các bạn biết được rằng điều này đúng. Toàn bộ khả năng đưa tâm trí đến một trạng thái dao động cao hơm được gói gọn trong một từ của pháp môn Yoga : samādhi hay định. Mọi trạng thái dao động cao hơn, tức trạng thái dao động siêu thức, cũng đều được chỉ ra bởi từ samādhi duy nhất đó,và những trạng thái samādhi thấp hơn cho ta thấy được những sinh thể siêu nhiên này. Trong cảnh giới samādhi tối cao, chúng ta có thể thấy được sự vật y như thực, chúng ta thấy được những chất liệu cấu tạo nên tất cả các sinh thể ở mọi cảnh giới. Khi biết được một cục đất thì chúng ta biết được mọi đối tượng được cấu tạo bằng cục đất đó trong vũ trụ.
Do đó, chúng ta thấy rằng prānāyāma bao hàm tất cả những gì
đúng đắn, ngay cả trong thuyết duy linh. Tương tự như vậy, các bạn sẽ thấy rằng
ở bất cứ nơi đâu, hễ một giáo phái hay một tổ chức quần chúng nào cố tìm ra
được cái gì đó huyền bí, diệu kỳ hay bí ẩn thì thực sự là họ đang thực hành một
loại pháp môn yoga nào đó, đang nỗ lực điều khiển prāna. Các bạn sẽ thấy rằng ở
bất cứ nơi nào có sự phô bày quyền năng siêu phàm thì đó là sự biểu hiện của
prāna. Ngay những bộ môn khoa học vật lý cũng có thể được bao hàm trong
prānāyāma. Cái gì làm dịch chuyển động cơ hơi nước? Đó là prāna đang hoạt động
thông qua hơi nước. Hiện tượng điện, cùng tất cả những thứ đại loại như thế, là
gì? Khoa học vật lý là gì? Đó là prānāyāma theo những phương tiện ngoại tại.
Prāna, tự hiển lộ như là năng lực tinh thần, chỉ có thể được điều khiển bằng
phương tiện tinh thần. Phần prānāyāma cố gắng điều khiển sự biểu hiện vật chất
của prāna bằng phương tiện vật chất thì được gọi là khoa học vật lý, còn phần
cố gắng điều khiển sự biểu hiện của prāna như là sức mạnh tinh thần thì được gọi
là Rāja-yoga.
Theo các hành giả yogi thì có hai dòng thần kinh trong cột sống, gọi là Pingalā và Iḍā, và một cái rãnh gọi là Sushumnā chạy dọc theo tủy sống. Ở phần đáy của cái rãnh đó là cái mà các hành giả yogi gọi là “hoa sen Kundalini”. Họ mô tả nó giống như hình tam giác, trong đó, nói theo ngôn ngữ biểu trưng của hành giả yogi, có một năng lực đang thu mình, có tên gọi là Kundalini. Khi Kundalini thức giấc, nó cố gắng khai phá một thông lộ xuyên qua cái rãnh đó, và khi nó từng bước tỉnh giấc thì, có thể nói như vậy, tâm trí được khai thông hết lớp này đến lớp khác, và nhiều cảnh tượng khác nhau cùng nhiều quyền năng kỳ diệu đến với hành giả yogi. Khi Kundalini đi đến bộ não thì hành giả yogi hoàn toàn tách ly khỏi thể xác và tâm trí, linh hồn đã được giải thoát. Chúng ta biết rằng tủy sống được cấu tạo một cách đặc biệt. Nếu ta dùng ký hiệu có số 8 nằm ngang (¥) để minh họa thì có hai phần, và hai phần này được nối với nhau ở đoạn giữa. Giả sử cứ chồng các ký hiệu đó lên, cái này trên cái khác, ta sẽ có hình ảnh một tủy sống. Bên trái là Iḍā và bên phải là Pingalā, còn cái rãnh chạy xuyên suốt giữa tủy sống là Sushumnā. Khi tủy sống dừng ở đốt sống vùng thắt lưng thì có một dây thần kinh rất nhỏ chạy xuống, cái rãnh thậm chí còn chạy xuyên suốt qua dây thần kinh đó, có điều là nhỏ hơn. Cái rãnh bị bít lại ở phía dưới cùng, gần cái gọi là đám rối thần kinh bàn tọa [sacral plexus], mà theo khoa sinh lý học hiện đại thì nó có hình tam giác. Những đám rối thần kinh [plexus] khác nhau có trung tâm là tủy sống đó đều có thể tượng trưng cho những “hoa sen” khác nhau của hành giả yogi.
Các hành giả yogi mô tả một vài trung tâm, bắt đầu với Mulādhāra, hay luân xa căn bản, rồi kết thúc bằng Sahasrāra, là luân xa hoa sen ngàn cánh trong não bộ. Do đó, nếu chúng ta xem những đám rối thần kinh khác nhau đó tượng trưng cho những hoa sen thì có thể dễ dàng hiểu được quan niệm của các hành giả yogi theo ngôn ngữ sinh lý học hiện đại. Chúng ta biết có hai loại hoạt động trong các dây thần kinh : thần kinh hướng tâm và thần kinh ly tâm, thần kinh giao cảm và thần kinh vận động. Một loại truyền cảm giác đến não, loại kia truyền từ não đến những bộ phần bên ngoài của cơ thể. Tất cả những dao động này cuối cùng đều được kết nối với não.
Có một vài sự kiện khác mà chúng ta cần phải ghi nhớ để dọn đường cho cách giải thích tiếp theo. Trong não bộ, tủy sống dừng tại hành tủy, hành tủy không gắn liền với xương mà bồng bềnh trong lớp dịch não tủy; do đó, nếu bị một sang chấn vào đầu thì lực tác động của sang chấn đó sẽ bị khuếch tán ra trong lớp dịch não tủy, chứ không làm tổn thương hành tủy. Đây là dữ kiện quan trọng cần ghi nhớ. Điều thứ hai mà chúng ta cũng cần ghi nhớ là trong số những trung tâm này, có ba trung tâm cực kỳ quan trọng, đó là Mulādhāra (luân xa căn bản), Sahasrāra (luân xa hoa sen ngàn cánh trong não bộ) và Manipura (luân xa hoa sen nơi rốn).
Tiếp theo, chúng ta sẽ dùng một dữ kiện từ môn vật lý. Tất cả chúng ta ai cũng nghe nói đến điện, cùng những sức mạnh liên quan với nó. Chẳng ai biết được điện là gì, nhưng trong chừng mực có thể hiểu được thì đó là một dạng chuyển động. Có nhiều dạng chuyển động trong vũ trụ. Giữa chúng và dòng điện có gì khác nhau? Giả sử cái bàn này chuyển động thì các phân tử cấu tạo nên cái bàn này chuyển động theo những hướng khác nhau, nếu chúng được sắp xếp để chuyển động theo cùng một hướng thì sẽ có dòng điện. Dòng điện được tạo ra khi tất cả các phân tử cùng chuyển động theo một hướng. Nếu tất cả các phân tử không khí trong căn phòng này được sắp xếp để chuyển động theo cùng một hướng thì chúng sẽ biến căn phòng này thành một bình điện khổng lồ.
Một điểm khác xét từ quan điểm của môn sinh lý học, mà chúng ta cần ghi nhớ, đó là trung tâm chi phối hệ hô hấp cũng có hành động kiểm soát hệ thống thần kinh, và trung tâm điều khiển hệ hô hấp nằm đối diện với ngực, trong tủy sống. Trung tâm này chi phối cơ quan hô hấp, và cũng có một vài chức năng điều khiển các cơ quan thứ yếu. Bây giờ chúng ta có thể thấy vì sao phải tập hít thở cho đúng tiết nhịp. Trước hết, hít thở đúng tiết nhịp sẽ có xu hướng đưa tất cả những phân tử trong cơ thể chuyển động theo cùng một hướng. Khi tâm trí, với bản chất vốn hay bị phân tán, tập trung vào một điểm thì nó biến thành một ý chí mạnh mẽ, và những luồng thần kinh cũng chuyển sang chuyển động tương tự như dòng điện, bởi vì người ta đã chứng minh được rằng các dây thần kinh bị phân cực dưới tác động của dòng điện. Điều này cho thấy rằng khi được chuyển hóa thành những dòng thần kinh thì ý chí biến thành một cái gì đó tương tự như dòng điện. Khi tất cả những chuyển động của cơ thể đã hoàn toàn theo một tiết tấu nhịp nhàng thì, có thể nói như vậy, cơ thể biến thành một bình điện khổng lồ của ý lực. Ý lực vĩ đại này chính xác là cái mà các hành giả yogi cần đến. Do đó, đây là cách giải thích cho prānāyāma, xét từ quan điểm sinh lý học, nó có xu hướng đưa tiết nhịp vào cơ thể và giúp chúng ta điều khiển được cách trung tâm khác, thông qua trung tâm hô hấp. Ở đây, mục đích của prānāyāma là đánh thức được năng lượng tiềm ẩn trong Mulādhāra, được gọi là Kundalini.
Tất cả những gì chúng ta nhìn thấy, tưởng tượng hay nằm mơ thì chúng ta phải nhận thức chúng trong không gian. Đây là cõi không gian bình thường, được gọi là mahākāśa, hay không gian vật lý. Khi một hành giả yogi đọc được tư tưởng của người khác, hoặc nhận thức được những đối tượng siêu thức thì ông ta nhìn thấy chúng trong một không gian khác, gọi là chittākāśa, hay không gian tinh thần. Khi nhận thức trở thành vô đối tượng thì linh hồn sẽ tỏa sáng trong Tự Tính của nó, cái đó gọi là Chidākāśa, hay không gian Tri Thức. Khi Kundalini được đánh thức và đi vào rãnh Sushumnā thì tất cả nhận thức đều ở trong không gian tinh thần. Khi nó đi đến tận cùng của rãnh Sushumnā, đây là chỗ mở thông đến não bộ thì nhận thức vô đối tượng nằm trong không gian Tri Thức.
Dùng dòng điện để minh họa, chúng ta thấy rằng ta phải cần đến dây dẫn để truyền dòng điện[7], nhưng thiên nhiên không cần đến dây dẫn mà vẫn có thể truyền được những dòng điện khủng khiếp của nó. Điều đó chứng minh rằng dây dẫn không thực sự cần thiết, mà do chúng ta bất lực không thể loại bỏ được nó nên buộc phải dùng đến nó. Tương tự như vậy, mọi cảm giác và chuyển động của cơ thể được truyền đến não, thông qua các sợi thần kinh này. Các bó dây thần kinh cảm giác và thần kinh vận động trong tủy sống là Iḍā và Pingalā của các hành giả yogi. Chúng là những rãnh chính để những dòng thần kinh hướng tâm và ly tâm lưu thông qua đó. Nhưng vì sao mà tâm trí lại không thể gởi được thông tin hoặc phản ứng nếu không có dây dẫn? Chúng ta thấy điều này được thực hiện trong tự nhiên. Các hành giả yogi nói rằng nếu làm được điều đó thì các bạn đã thoát ly được sự ràng buộc của vật chất rồi. Làm thế nào để làm được điều này? Nếu các bạn có thể khiến cho dòng thần kinh chạy xuyên quá các Sushumnā – rãnh nằm chính giữa cột sống – thì các bạn đã giải quyết được vấn đề. Tâm trí đã tạo ra mạng hệ thống thần kinh này, rồi nó phá vỡ hệ thống đó để không cần đến dây dẫn mà vẫn hoạt động được. Chỉ với thế, toàn bộ tri thức mới đến với chúng ta – không còn bị ràng buộc vào thể xác nữa. Đó là lý do vì sao nó lại quan trọng đến mức chúng ta cần phải điều khiển Sushumnā cho bằng được. Nếu các bạn có thể gởi một dòng chảy tinh thần [mental current] xuyên qua cái rãnh đó, mà không cần đến bất kỳ một sợi thần kinh nào làm dây dẫn, thì các hành giả yogi bảo đó là các bạn đã giải quyết được vấn đề, và họ cũng bảo có thể làm được điều đó. Nơi người bình thường thì Sushumnā bị bít ở chỗ tận cùng, không một dòng thần kinh nào đi xuyên qua được. Hành giả yogi đề nghị một phương pháp thực hành để khai mở nó ra, và để những dòng thần kinh lưu thông qua lại.
Khi một cảm giác được chuyển tới trung tâm thì trung tâm này có phản ứng. Phản ứng này, đối với những trung tâm tự động, được nối tiếp bằng chuyển động, còn đối với những trung tâm có ý thức thì trước hết nó được nối tiếp bằng nhận thức, rồi đó mới là chuyển động. Mọi nhận thức đều là sự phản ứng lại tác động từ bên ngoài. Như vậy thì nhận thức trong giấc mơ phát sinh như thế nào? Không có tác động nào từ bên ngoài cả. Cảm giác, do đó, hẳn phải tiềm ẩn ở đâu đó. Chẳng hạn, tôi thấy một thành phố. Việc nhận thức thành phố đó xuất phát từ sự phản ứng lại những cảm giác được đưa đến từ những đối tượng bên ngoài tạo nên thành phố ấy. Điều đó có nghĩa là có một chuyển động nào đó trong những phân tử của não được xác lập bởi chuyển động của những dây thần kinh dẫn truyền, bây giờ chuyển động đó lại được xác lập bởi đối tượng bên ngoài của thành phố này. Thậm chí sau một thời gian dài nữa, tôi vẫn có thể nhớ lại thành phố này. Những giấc mơ đúng là cùng một hiện tượng, chỉ có điều là ở trong một hình thức dịu dàng hơn. Nhưng những hoạt động xác lập nên các dao động tương tự dưới hình thức dịu dàng hơn này, chúng từ đâu mà có? Chắc chắn không phải từ những cảm giác đầu tiên. Như vậy, hẳn là những cảm giác đó phải tiềm ẩn ở đâu đó, và hoạt động của chúng đã làm nảy sinh phản ứng dịu dàng, mà chúng ta gọi là nhận thức trong mơ.
Trung tâm – nơi lưu trữ tất cả những cảm giác còn sót lại, có thể nói như vậy – được gọi là Mulādhāra, kho lưu trữ căn bản, và năng lượng tiềm ẩn của hành động được gọi là Kundalini, hay “năng lượng cuộn xoắn”. Rất có thể là năng lượng vận động còn sót lại cũng được lưu trữ tại cùng một trung tâm, bởi vì, sau việc nghiên cứu hay thiền quán sâu xa về những sự vật bên ngoài thì phần cơ thể – nơi trung tâm Mulādhāra được định vị (có thể là đám rối thần kinh tọa) – nóng lên. Giờ đây, nếu năng lượng tiềm ẩn này được kích hoạt và được điều khiển để di chuyển lên trên dọc theo rãnh Sushumnām thì sẽ phát sinh một phản ứng dữ dội. Khi một bộ phận nhỏ của năng lượng hoạt động này di chuyển dọc theo dây thần kinh và gây nên phản ứng từ những trung tâm thì nhận thức là giấc mơ hoặc trí tưởng tượng. Khi một khối lượng năng lượng khổng lồ – được lưu trữ do công phu nội quán lâu dài – di chuyển dọc theo Sushumnā và đập vào các trung tâm thì phản ứng rất là dữ dội, vượt xa hơn muôn vạn lần phản ứng của giấc mơ hay trí tưởng tượng, và mãnh liệt hơn muôn vạn lần phản ứng của nhận thức bằng giác quan. Đó là nhận thức siêu thức. Và khi nó đạt đến trung tâm của cảm giác thì não bộ, trọn cả não bộ, có thể nói như vậy, phản ứng lại, và kết quả là ngọn lửa toàn giác bùng lên rực rỡ : liễu ngộ được Chân Ngã. Khi sức mạnh của Kundalini di chuyển từ trung tâm này đến trung tâm khác thì hết lớp này sang lớp khác trong tâm trí, có thể nói như vậy, lần lượt được khai mở ra, và vũ trụ này sẽ được hành giả yogi nhận ra trong hình tướng tinh tế hay trong mối tương quan nhân quả. Rồi chỉ có những nhân của vũ trụ này – vừa như là cảm giác, vừa như là phản ứng – sẽ được nhận chân y như thực, và từ đó phát sinh toàn bộ những tri thức. Đã biết được nhân thì tri thức về quả chắc chắn sẽ theo sau.
Do đó, đánh thức được Kundalini là phương pháp duy nhất và
độc nhất để đạt đến thánh trí, đạt đến trí tuệ siêu thức và chứng ngộ được thế
giới tâm linh. Đánh thức Kundalini có thể được thực hiện theo phiều phương pháp
: bằng tình yêu thương dành cho Thượng Đế, bằng ân huệ của những vị hiền triết
toàn mãn, hoặc bằng năng lực của ý chí phân tích nơi các triết gia. Bất cứ nơi
nào đã có sự biểu hiện của cái thường được gọi là năng lực siêu nhiên hay trí
tuệ siêu nhiên thì ở đó dòng chảy nhỏ bé của Kundalini hẳn phải tìm được đường
đi xuyên qua Sushumnā. Chỉ có điều là đa số trường hợp của những hiện tượng
siêu nhiên như thế, con người lại cứ loay hoay một cách khờ khạo với một vài
phép luyện tập nào đó, chỉ giải phóng được một phần nhỏ năng lượng Kundalini
tiềm ẩn. Tất cả những chuyện sùng bái, dù ý thức hay vô thức, đều dẫn đến mục
đích này. Người nào ngỡ rằng mình được đáp ứng từ những lời cầu nguyện sẽ không
biết được rằng thành tựu đó chỉ xuất phát từ chính bản tính của mình, rằng anh
ta đã thành công bằng thái độ cầu nguyện trong tinh thần, khi đánh thức được
từng chút nhỏ của nguồn năng lực vô biên tiềm ẩn trong tự thân mình. Do đó, cái
mà kẻ vô minh ngu dốt đang sùng bái dưới nhiều danh xưng, sùng bái bằng sự sợ
hãi và nỗi khổ đau thì hành giả yogi tuyên bố với thế giới rằng đó là năng lực
thực sự đang tiềm ẩn trong tự thân mỗi người, là Người Mẹ của niềm lạc phúc
vĩnh cửu. Và Rāja-yoga là khoa học của tôn giáo, là cơ sở hợp lý của mọi sự
sùng bái, mọi lời cầu nguyện, của mọi hình thức, lễ nghi và phép lạ.
Bây giờ, chúng ta đề cập đến những bài tập trong prānāyāma. Chúng ta đã thấy rằng bước đầu tiên là, theo các hành giả yogi, điều khiển được sự chuyển động của lá phổi. Điều cần làm là chúng ta phải cảm nhận được những chuyển động tế vi đang diễn ra trong cơ thể. Tâm trí chúng ta đã bị biến thành ngoại cảnh, và đánh mất cái nhìn vào những chuyển động tế vi bên trong. Nếu có thể cảm nhận được chúng thì chúng ta có thể bắt đầu điều khiển chúng. Những dòng thần kinh này chạy khắp châu thân, mang sự sống và sinh khí đến từng cơ bắp, nhưng chúng ta lại không cảm nhận được chúng. Hành giả yogi bảo rằng chúng ta có thể học hỏi để làm được điều này. Làm như thế nào? Đó là điều khiển chuyển động của lá phổi. Khi đã thực hiện điều đó trong một khoảng thời gian đủ dài thì chúng ta cũng có thể điều khiển được những chuyển động tế vi này.
Bây giờ, chúng ta hãy đến với những bài tập trong prānāyāma. Hãy ngồi thẳng, toàn thân phải giữ thẳng đứng. Tủy sống, dù không dính chặt vào cột sống, nhưng vẫn nằm trong đó. Nếu ngồi cong vẹo là các bạn làm xáo trộn nó, bởi vậy hãy để cho nó được tự do thoải mái. Bất cứ khi nào các bạn ngồi cong vẹo mà muốn thiền quán là các bạn đang tự làm tổn thương mình. Cả ba phần của cơ thể – ngực, cổ và đầu – phải luôn luôn được giữ theo một đường thẳng đứng. Các bạn sẽ thấy rằng chỉ cần tập một chút thôi là các bạn sẽ thấy việc này dễ dàng như chuyện hít thở. Điều thứ hai là cần điều khiển các dây thần kinh. Chúng ta đã nói rằng trung tâm thần kinh điều khiển hệ hô hấp có ảnh hưởng đến các dây thần kinh khác, do đó hít thở nhịp nhàng là điều cần thiết. Kiểu hít thở lâu nay của chúng ta không có gì đáng để gọi là hít thở cả. Nó hoàn toàn không đúng cách. Rồi lại có sự khác biệt tự nhiên giữa kiểu hít thở của nam và nữ.
Bài học đầu tiên là hít vào và thở ra một cách đều đặn theo nhịp đếm. Điều đó sẽ tạo nên sự hài hòa cho cả hệ thống. Khi thực hành điều này một thời gian, các bạn có thể kết hợp hít thở với chữ OM, hoặc một linh ngữ nào đó. Tại Ấn Độ, chúng tôi dùng một số chữ mang tính biểu tượng để đo quãng thời gian hít thở, thay vì đếm một, hai ba bốn … Đó là lý do vì sao tôi khuyên các bạn nên luôn tâm niệm một linh ngữ khi luyện tập. Để linh ngữ đó lưu thông cùng hơi thở vào ra theo tiết tấu nhịp nhàng, các bạn sẽ thấy cả cơ thể sẽ trở nên nhịp nhàng theo. Lúc đó các bạn sẽ biết thế nào là nghỉ ngơi thực sự. So với trạng thái này thì giấc ngủ chẳng có là nghỉ ngơi. Một khi đạt đến trạng thái này thì ngay cả những dây thần kinh mệt mỏi nhất cũng sẽ dịu lại, và các bạn sẽ thấy rằng mình chưa bao giờ được nghỉ ngơi thực sự.
Hiệu quả đầu tiên của việc luyện tập này là gương mặt sẽ thay đổi, những nét mặt khắc khổ sẽ biến mất, sự tĩnh lặng sẽ chan hòa trên gương mặt cùng với tư tưởng bình yên. Kế đó là giọng nói trở nên dịu dàng. Tôi chưa bao giờ gặp một hành giả yogi có giọng nói the thé khó nghe. Những dấu hiệu này xuất hiện chỉ sau một vài tháng luyện tập.
Sau khi thực hành những bài tập hít thở đầu tiên trong một vài ngày thì các bạn thực hành những bài tập cao hơn. Dùng Iḍā, hay lỗ mũi trái, từ từ hít không khí cho đầy phổi, đồng thời tập trung tâm trí vào dòng thần kinh. Các bạn đang gởi, có thể nói như vậy, một dòng thần kinh xuống cột sống và đập mạnh vào đám rối thần kinh cuối cùng, tức hoa sen căn bản hình tam giác – vị trí của Kundalini. Rồi giữ dòng thần kinh ở đó một lúc. Hãy tưởng tượng các bạn đang dùng hơi thở để kéo từ từ dòng thần kinh đó qua phía bên kia, tức Pingalā, rồi từ từ đẩy nó ra ngoài theo lỗ mũi bên phải. Các bạn sẽ thấy ít nhiều khó khăn khi luyện tập bài này. Cách dễ nhất là dùng ngón tay cái bịt kin lỗ mũi bên phải, rồi từ từ hít vào theo lỗ mũi bên trái, kế đó dùng ngón cái và ngón trỏ bịt kín cả hai lỗ mũi, rồi tưởng tượng các bạn đang gởi một dòng thần kinh chạy xuống dưới và đập mạnh vào đáy của Sushumnā, kế đó, lấy ngón tay cái ra, để đẩy hơi thở theo lỗ mũi bên phải thoát ra ngoài. Tiếp theo, lại từ từ hít vào theo lỗ mũi bên phải, dùng ngón trỏ bịt kín lỗ mũi kia, rồi tiếp tục bịt kín cả hai lỗ mũi, như trước đó.
Các luyện tập của người Ấn có lẽ quá khó đối với người dân ở xứ sở này, bởi vì từ lúc còn bé họ đã quen thực hành từ bé, và phổi họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho điều này. Ban đầu thì chỉ nên tập hít thở đều trong quãng bốn hay năm giây, sau đó từ từ tăng dần lên. Hít vào trong bốn giây, nín thở trong mười sáu giây, rồi thở ra trong tám giây. Đó là tạo ra một chu kỳ prānāyāma. Đồng thời hãy quán tưởng đến luân xa hoa sen căn bản, hãy tập trung tâm trí vào tâm điểm đó. Sự tưởng tượng có thể giúp ích cho các bạn rất nhiều.
Bài tập hít thở tiếp theo là hít vào, rồi lập tức thở ra từ từ, rồi nín thở, cũng dùng phương pháp đếm số giống nhau. Sự khác biệt duy nhất là theo phương pháp đầu thì hơi thở được giữ lại trong một giây rồi thở ra. Phương pháp sau dễ hơn. Phương pháp hít thở giữ hơi thở trong phổi không được tập quá nhiều. Chỉ thực hành bốn lần vào buổi sáng, và bốn lần vào buổi chiều. Rồi các bạn có thể từ từ tăng dần số lần và số đếm. Các bạn sẽ thấy mình có khả năng làm điều đó, và tìm thấy niềm vui trong đó. Do đó, hãy tăng dần một cách cẩn thận và dè dặt khi các bạn cảm thấy mình có khả năng, đếm lên sáu thay vì bốn. Nếu luyện tập không theo quy tắc, nó có thể gây tổn thương cho các bạn.
Trong ba quá trình điều khiển prāna được mô tả ở trên thì quá trình thứ nhất và quá trình cuối cùng không hề gây khó khăn hay nguy hiểm. Càng luyện tập quá trình thứ nhất thì tâm hồn các bạn sẽ càng tĩnh lặng. Hãy lặp đi lặp lại linh ngữ Om khi các bạn hít thở, các bạn có thực hành điều này ngay cả khi ngồi tại bàn làm việc. Các bạn sẽ khá hơn lên nhờ thực hành điều này. Nếu luyện tập công phu thì Kundalini có thể sẽ được đánh thức. Đối với những người luyện tập một hoặc hai lần mỗi ngày thì chỉ có được gương mặt điềm tĩnh và giọng nói dịu dàng. Chỉ những người luyện tập công phu thì Kundalini mới sẽ được đánh thức. Lúc đó, toàn thể bản tính sẽ bắt đầu chuyển biến và cánh cửa dẫn đến tri thức sẽ mở rộng ra. Các bạn sẽ không còn cần đến kinh sách để tìm tri thức nữa, tâm trí các bạn sẽ biến thành kinh sách cho các bạn, chứa khối lượng tri thức vô biên.
Tôi đã nói về hai dòng Iḍā và Pingalā, luân lưu hai bên cột sống, tôi cũng đã nói về Sushumnā, cái rãnh chạy xuyên suốt tủy sống. Cả ba luân xa này đều có nơi mọi loài động vật – con nào cũng có xương sống. Nhưng hành giả yogi tuyên bố rằng nơi con người bình thường thì Sushumnā bị đóng kín, hoạt động của nó không rõ ràng, trong khi hoạt động của hai luân xa kia mang năng lượng đến những bộ phận khác nhau trong cơ thể.
Chỉ ở hành giả yogi thì Sushumnā mới khai mở. Khi dòng thần kinh chạy xuyên qua Sushumnā để lên trên thì chúng ta vượt ra khỏi cảnh giới của giác quan, tâm trí ta trở nên siêu cảm và siêu thức, chúng ta vượt ra khỏi cả lĩnh vực của trí năng, đến một cảnh giới mà lý tính không sao vươn đến nỗi. Khai mở Sushumnā là mục tiêu tiên quyết của hành giả yogi. Theo họ thì các trung tâm thần kinh – nói theo ngôn ngữ hoa mỹ của là Yoga là hoa sen – được sắp xếp dọc theo Sushumnā. Trung tâm hay luân xa thấp nhất nằm ở cuối tủy sống và được gọi là Mulādhāra, ở ngay trên đó là luân xa Svādhisthāna, luân xa thứ ba là Manipura, luân xa thứ tư là Anāhata, luân xa thứ năm là Viśuddha, luân xa thứ sáu là Ājnā, và luân xa cuối cùng ở ngay trên não được gọi là Sahasrāra hay “hoa sen ngàn cánh”. Trong số các luân xa này, chúng ta chỉ biết được hai, đó là luân xa thấp nhất Mulādhāra, và luân xa cao nhất Sahasrāra. Tất cả năng lượng được tích tụ tại Mulādhāra và đưa lên Sahasrāra.
Những hành giả yogi tuyên bố rằng trong số tất cả năng lượng chứa trong cơ thể con người, có một loại năng lượng cao nhất mà họ gọi là ojas hay nguyên khí. Ojas này được tích tụ nơi não, và người nào càng chứa được nhiều ojas trong đầu thì càng có nhiều năng lực, càng có tri thức nhiều hơn, và càng mạnh mẽ về phương diện tâm linh. Một người có thể diễn tả những tư tưởng hay ho bằng một thứ ngôn ngữ hoa mỹ bay bướm, nhưng lại không thể gây được ấn tượng nơi người khác. Một người khác có thể không biết sử dụng ngôn ngữ hoa mỹ để diễn đạt tư tưởng của mình, nhưng lời nói của họ lại có sức thu hút, mỗi cử chỉ của họ đều tràn đấy sức mạnh. Đó là năng lực của ojas.
Nơi mỗi người đều có
chứa ít hoặc nhiều khí ojas này. Ojas là hình thức cao nhất của tất cả những
sinh lực hoạt động trong cơ thể. Các bạn hãy nhớ rằng chỉ một vấn đề duy nhất
là sự chuyển hóa của lực này thành lực khác. Cũng một loại ngoại lực hoạt động
bên ngoài, như điện lực hay từ lực, sẽ được chuyển hóa thành nội lực bên trong,
cũng các loại lực đang hoạt động như một dạng năng lượng cơ bắp sẽ được chuyển
hóa thành ojas. Các hành giả yogi cho rằng bộ phần năng lượng đó của con người
– vốn được biểu hiện qua hành động tình dục và tư tưởng tình dục – nếu được
kiềm chế và điều khiển sẽ dễ dàng chuyển hóa thành ojas, vì Mulādhāra hướng dẫn
những năng lượng này cho nên hành giả yogi đặc biệt chú ý đến luân xa đó. Ông
ta cố gắng chuyển hóa tất cả năng lượng tình dục thành ojas. Chỉ có nam hay nữ
còn trinh khiết mới có thể tạo ra nguyên khí ojas và tích trữ nó trong não, đó
là lý dó vì sao trinh khiết được xem là đạo hạnh tối cao. Một người cảm nhận
được mình không còn trinh khiết thì tâm linh tính sẽ tiêu tan, anh ta sẽ đánh
mất sức mạnh tinh thần và sự kiên trì đạo đức. Đó là lý do vì sao đối với tất
cả những tổ chức giáo hội trên thế giới đã từng tạo ra những bậc đạo sư vĩ đại,
các bạn đều thấy có yêu cầu về sự trinh khiết tuyệt đối. Đó là lý do vì sao khi
bước vào đời sống tu sỹ là phải từ bỏ hôn nhân. Cần phải có sự trinh khiết hoàn
toàn trong suy nghĩ, lời nói và hành động. Nếu không thì việc tập luyện
rāja-yoga sẽ rất nguy hiểm, và có thể dẫn đến tình trạng điên loạn. Nếu mọi
người luyện tập rāja-yoga, mà đồng thời lại sống một cuộc đời bất tịnh thì làm
thế nào họ có thể mong mỏi trở thành một hành giả yogi?
Giai đoạn tiếp theo là Pratyāhāra (kiềm chế các cơ quan). Nó là gì? Các bạn đã biết nhận thức đến với chúng ta như thế nào. Đầu tiên là có những khí cụ bên ngoài, rồi đến những cơ quan bên trong, hoạt động trong cơ thể thông qua các dây thần kinh của não, và cuối cùng là tâm trí. Khi những thứ này kết hợp lại với nhau và tự gắn kết sự vật bên ngoài thì chúng ta nhận thức được sự vật đó. Thật khó tập trung tâm trí mà đồng thời lại gắn chặt nó vào một cơ quan duy nhất, vì tâm trí luôn luôn làm nô lệ cho những sự vật hữu hình.
Chúng ta nghe những câu “Hãy sống tốt đẹp”, “Hãy sống tốt đẹp” và “Hãy sống tốt đẹp” được giảng dạy khắp nơi trên thế giới. Khó có đứa nhỏ nào sinh ra tại một xứ sở bất kỳ trên trái đất nay mà lại chưa từng nghe dạy bảo : “Không được trộm cắp”, “Không được nói dối”, nhưng không ai bảo cho đứa nhỏ làm thế nào nó có thể tránh được thói trộm cắp và nói dối. Nói suông chăng giúp ích được gì. Vì sao nó không nên trở thành một tên ăn trộm? Chúng ta không dạy cho nó làm thế nào để không ăn trộm, mà chỉ đơn giản là bảo nó “Không được trộm cắp”. Chỉ khi nào chúng ta dạy nó biết cách chế ngự được tâm trí thì đó là mới thực sự là giúp nó.
Mọi hành động, ở bên ngoài hay bên trong, đều diễn ra khi tâm trí tự kết hợp với một trung tâm nào đó được gọi là cơ quan. Dù muốn hay không thì tâm trí tự nó bị lôi cuốn để kết hợp với một cơ quan nào đó, và đó là lý do vì sao con người làm những hành động điên rồ và cảm thấy khốn khổ, những hành động mà có thể họ sẽ không thể nào làm nếu điều khiển được tâm trí. Điều khiển được tâm trí này sẽ dẫn đến điều gì? Đó là tâm trí không kết hợp với những trung tâm nhận thức, và đương nhiên là nó chế ngự được toàn bộ cảm xúc và ý chí. Cho đến lúc này thì đó là điều hiển nhiên. Có thể nào vậy không? Điều đó hoàn toàn có thể. Các bạn thấy được điều đó được thực hiện trong thời hiện đại. Những người chữa bệnh bằng đức tin dạy cho dân chúng phủ nhận cảnh khốn cùng, khổ đau và cái ác. Triết lý của họ hơi bị lòng vòng, nhưng nó lại là một phần của pháp môn yoga, mà họ tình cờ phát hiện bằng cách này hay cách khác. Trong những trường hợp họ thành công khi giúp một người loại bỏ được sự đau đớn bằng cách phủ nhận nó thì họ thực ra họ đang dạy một phần của pratyāhāra, vì họ biến tâm trí của người được dạy đủ mạnh mẽ để không thèm quan tâm đến hồ sơ ghi chép của giác quan. Cũng bằng phương pháp tương tự như vậy, nhà thôi miên dùng cách ám thị để kích hoạt một loại pratyāhāra bạc nhược nơi người bệnh. Phương pháp được gọi là thôi miên ám thị này chỉ tác động được trên những cơ thể bệnh hoạn và tâm trí u mê ngu muội. Và những ám thị của người tiến hành thôi miên sẽ không bao giờ tạo nên tác động, cho đến khi nào anh ta – bằng cách sử dụng phương pháp nhìn đăm đăm hoặc phương pháp gì đó khác – thành công trong việc đưa tâm trí người bệnh vào một trạng thái thụ động, bạc nhược.
Khống chế các trung tâm thần kinh bằng phương pháp thôi miên hoặc dùng đức tin trong một thời gian ngắn là điều rất đáng khiển trách, vì cuối cùng nó sẽ dẫn đến tình trạng suy sụp hoàn toàn. Đó là không phải là thực sự điều khiển được các trung tâm thần kinh bằng chính ý chí của ta, mà đó là – có thể nói như vậy – gây choáng váng cho tâm trí bệnh nhân bằng những cú đấm bất ngờ theo ý muốn của người khác. Đó là không phải là phương pháp dùng dây cương và sức mạnh cơ bắp để chế ngự cỗ xe ngựa đang lao đi điên cuồng, mà là bảo người khác giáng những cú đấm dữ dội vào đầu lũ ngựa để chúng choáng váng rồi trở nên hiền lành, ngoan ngoãn trong một thời gian ngắn. Theo bất kỳ cách nào của những phương pháp này thì người bị điều khiển cũng bị mất một phần năng lượng tinh thần, và cuối cùng thì tâm trí, thay vì đạt được năng lực điều khiển hoàn hảo, lại trở nên một khối dị dạng bất lực, và đích đến duy nhất của người bệnh là nhà thương điên.
Mọi nỗ lực điều khiển không tự nguyện và không được thực hiện theo ý muốn của người bệnh, không chỉ là thảm họa mà còn hủy hoại cả cứu cánh. Mục tiêu của mọi linh hồn là giải thoát, nắm quyền làm chủ, giải thoát khỏi sự nô lệ vào tư tưởng và vật chất, làm chủ được cả bản tính bên trong và thiên nhiên bên ngoài. Thay vì hướng đến cảnh giới giải thoát và trạng thái tự tại thì mọi dòng ý chí chảy đến từ một người khác – dù trong bất cứ hình thức nào, hoặc điều khiển trực tiếp các giác quan của tôi, hoặc buộc tôi phải chế ngự được chúng trong một trạng thái bạc nhược – cũng chỉ đóng thêm một móc khoen vào xiềng xích vốn dĩ đã nặng nề của quan niệm thời xưa, của mê tín thời xưa. Do đó, các bạn hãy thận trọng trước cách tự để mình bị người khác sai sử. Hãy thận trọng về cách các bạn vô tình đưa người khác đến tình trạng suy sụp. Thật ra cũng có những người điều trị thành công cho nhiều người khác trong một thời gian ngắn, nhưng đồng thời họ cũng làm suy sụp tinh thần hàng triệu người bằng phương pháp ám thị thôi miên vô thức mà họ vung vãi khắp nơi, khiến cho người bệnh trở nên kiệt quệ, thụ động trong trạng thái bị thôi miên, và cuối cùng là lâm vào tình trạng hầu như không còn sức sống.
Bất cứ ai yêu cầu người khác phải tin tưởng một cách mù quáng, hoặc dùng ý chí ưu việt của mình để lôi kéo mọi người đi theo mình thì đó là kẻ gây hại cho nhân loại, dù có thể họ không cố ý làm điều đó. Bởi vậy, hãy vận dụng tâm trí các bạn, hãy tự kiểm soát thể xác và tâm trí của mình, hãy nhớ rằng chừng nào các bạn không là một người bệnh hoạn thì không một ý chí ngoại lai nào có thể tác động được đến các bạn, và hãy tránh xa những kẻ yêu cầu các bạn tin tưởng một cách mù quáng, cho dù họ có vĩ đại hoặc tốt đẹp đến đâu cũng mặc.
Khắp nơi trên thế giới, đâu đâu cũng có những giáo phái nhảy múa, la hét có ảnh hưởng lan lây như bệnh truyền nhiễm, khi họ ca hát, nhảy múa và giảng đạo, những người đó là một loại các nhà thôi miên. Trong một thời gian ngắn, họ chỉ chế ngự những người nhạy cảm, nhưng than ôi! về lâu về dài thì thường làm suy đồi cả chủng tộc. Đúng vậy, đối với một cá nhân hay một chủng tộc, thà độc ác còn tốt đẹp hơn là bị sức mạnh bên ngoài chi phối để trở nên hiền lành do suy nhược. Người ta thấy chùng lòng khi nghĩ đến những điều tổn hại gây ra cho nhân loại bởi những kẻ cuồng tín vô trách nhiệm, nhưng lại đầy nhiệt tình tôn giáo đó. Ho ít hiểu được rằng những đầu óc đạt đến trạng thái hưng phấn tinh thần đột ngột qua sự ám thị của họ, bằng âm nhạc và lời cầu nguyện, chỉ khiến cho bản thân những người đó trở nên thụ động, đờ đẫn và bất lực, và sẵn sàng đón nhận những ám thị khác, có khi còn tồi tệ hơn nhiều. Những kẻ ngu muội bị lừa phỉnh đó cũng ít hình dung được rằng khi họ tự ngợi ca những quyền năng kỳ diệu trong việc chuyển hóa tâm hồn con người – những quyền năng mà họ ngỡ là được ban phát từ một Đấng nào đó ở trên mây – là họ đang gieo những mầm mống suy đồi, tội ác, điên loạn và chết chóc cho tương lai. Bởi vậy, hãy cẩn trọng đừng để bất cứ thứ gì lấy mất sự tự do của các bạn. Hãy biết rằng điều đó nguy hiểm, và hãy cố hết sức mà tránh xa nó.
Những người nào thành công trong việc gắn bó hoặc xả ly tâm trí đối với những trung tâm đó theo ý muốn là người đã hoàn toàn thành công trong pratyāhāra, có nghĩa là “gom tụ hướng về”, kiểm soát tất cả những năng lực hướng ngoại của tâm trí, giải phóng nó khỏi tình trạng nô lệ vào các giác quan. Khi có thể làm được điều này là chúng ta thực sự sở hữu được một tính cách. Lúc đó, chúng ta đã thực hiện được một bước dài hướng đến tự do, trước khi làm được điều này thì chúng ta chỉ là những cỗ máy.
Chế ngự tâm trí thật vất vả biết ngần nào! Quả là đúng khi so sánh nó với một con khỉ điên. Có một con khỉ bản tính vốn đã hiếu động, như bao con khỉ khác. Làm như chừng đó còn chưa đủ, người ta còn cho nó uống rượu thoải mái để nó càng thêm hiếu động. Rồi có một con bò cạp chích nó nữa. Khi một người bị bò cạp chích thì anh ta nhảy nhót suốt ngày, do đó con khỉ đáng thương kia ở trong tình trạng còn tồi tệ hơn bao giờ hết. Để hoàn tất sự khốn khổ của con khỉ, lại có thêm một con quỷ nhập vào nó. Có ngôn ngữ nào diễn tả nỗi sự hiếu động bất trị của con khỉ kia không? Tâm trí con người cũng giống như con khỉ đó, bản tính vốn đã luôn luôn náo động, rồi còn bị say bởi rượu dục vọng, khiến nó càng thêm nhiễu loạn. Sau khi bị dục vọng chi phối thì nó còn bị bò cạp chích, đó là sự ganh tỵ với những người thành công mỹ mãn, cuối cùng thì con quỷ kiêu ngạo lại ám vào nó, khiến nó cứ tưởng mình là thứ vô cùng quan trọng. Chế ngự được một tâm trí như thế thật vất vả biết ngần nào!
Bài học đầu tiên, do đó, là hãy ngồi yên trong một thời gian và cứ để mặc tâm trí tự do chạy nhảy. Tâm trí thường không ngừng sôi động. Nó giống như con khỉ lăng xăng nhảy nhót kia. Hãy để mặc cho con khỉ nhảy nhót tùy thích, các bạn chỉ việc chờ đợi và quan sát. Một câu ngạn ngữ cho rằng tri thức là quyền lực, điều đó đúng. Chỉ đến khi nào biết được tâm trí đang làm gì thì các bạn mới có thể điều khiển được nó. Hãy buông lỏng dây cương cho nó. Nhiều tư tưởng gớm ghiếc có thể sẽ đi vào tâm trí, các bạn sẽ sửng sốt vì sao mình lại có thể suy nghĩ những điều như vậy. Nhưng rồi các bạn sẽ thấy rằng cứ mỗi ngày qua thì thói đồng bóng bất thường của tâm trí sẽ dần dần lắng dịu, và từng ngày tâm trí càng lắng dịu hơn. Sau một vài tháng đầu tiên, các bạn sẽ thấy rằng tâm trí có vô số tư tưởng; về sau, các bạn sẽ thấy rằng chúng giảm bớt đi, rồi cứ sau một vài tháng nữa thì chúng ít dần lại, cho đến cuối cùng thì tâm trí bị chế ngự hoàn toàn. Nhưng các bạn phải kiên nhẫn luyện tập hàng ngày. Ngay khi hơi nước được bật lên thì động cơ phải chạy[8], cũng như khi sự vật hiển bày trước mắt thì chúng ta phải nhận thức được chúng. Bởi vậy để chứng minh mình không phải là cỗ máy thì ta phải biểu hiện được mình không bị một thứ gì điều khiển. Điều khiển được tâm trí và không để nó kết hợp với các trung tâm, đó là pratyāhāra. Luyện tập như thế nào? Đây là kỳ công, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều. Chỉ bằng sự phấn đấu liên tục và kiên trì trong nhiều năm tháng thì chúng ta mới có thể thành công.
Sau khi luyện tập pratyāhāra trong một thời gian, hãy thực hành bước tiếp theo là dhāranā, tức là chú tâm vào một điểm. Chú tâm vào một điểm có nghĩa là gì? Đó là buộc tâm trí chỉ cảm nhận được một bộ phận nào đó của cơ thể thôi, và loại bỏ những phần còn lại. Chẳng hạn, cố gắng chỉ cảm nhận bàn tay thôi, và bỏ qua tất cả những phần khác của cơ thể. Khi chitta – hay tâm – được giới hạn trong một vị trí nào đó thì điều đó được gọi là dhāranā. Dhāranā có rất nhiều loại, và kết hợp nó thì tốt hơn là nên có một ít trí tưởng tượng. Chẳng hạn, hướng tâm trí đến một điểm tại trái tim. Điều đó thật quá khó; có một cách dễ hơn, đó là tưởng tượng tại đó có một đóa hoa sen. Hoa sen này rực rỡ ánh hào quang. Hãy chú tâm vào đó. Hoặc quán tưởng đến hoa sen rực rỡ ánh hào quang trong não, hoặc quán tưởng đến những trung tâm khác trong Sushumnā đã nói ở phần trước.
Hành giả yogi phải luôn luôn luyện tập. Ông ta phải cố gắng sống một mình, việc giao du với đủ hạng người sẽ làm xao lãng tâm trí, ông ta cũng không nên nói nhiều, vì nói nhiều quá sẽ làm xao lãng tâm trí, ông ta cũng không làm việc nhiều, vì làm việc nhiều quá cũng sẽ làm xao lãng tâm trí, ta không thể điều khiển được tâm trí sau trọn một ngày lao động nhọc nhằn. Người nào quan tâm đến điều đó mới trở một hành giả yogi.
Đó là năng lực tốt đẹp của pháp môn yoga, đến mức chỉ cần thực hiện một phần rất nhỏ là đã mang lại vô vàn ích lợi. Nó không làm tổn hại đến bất kỳ ai, mà còn mang lại lợi ích cho mọi người. Trước hết là nó làm dịu sự căng thẳng thần kinh, mang lại sự tĩnh lặng, giúp ta có thể thấy được sự vật rõ ràng hơn. Tính tình sẽ trở nên tốt hơn, và sức khỏe cũng tốt hơn. Sức khỏe dồi dào sẽ là dấu hiệu đầu tiên, và một giọng nói dịu dàng. Những khuyết điểm trong giọng nói sẽ thay đổi. Đây sẽ là hiệu quả đầu tiên trong nhiều hiệu quả sẽ xuất hiện. Người nào kiên trì tập luyện sẽ đạt được nhiều dấu hiệu khác nữa. Đôi khi có những âm thanh, như hồi chuông văng vẳng từ xa, hòa quyện vào nhau và vọng đến đôi tai như một âm thanh liên tục. Đôi khi ta sẽ thấy một cái gì đó, một vệt sáng thoáng qua, rồi lớn dần, lớn dần lên, khi những điều này xảy đến thì hãy hiểu rằng các bạn đang tiến bộ rất nhanh. Người nào muốn trở thành một hành giả yogi và kiên trì luyện tập thì trước tiên phải quan tâm đến cách ăn uống. Người nào muốn tiến bộ thật nhanh, chỉ nên sống bằng sữa và ngũ cốc trong vòng vài tháng sẽ thấy đó là điều thuận lợi. Còn những người chỉ muốn luyện tập chút đỉnh hàng ngày do cuộc sống bận rộn thì cũng không nên ăn quá nhiều, kẻo không thì họ lại ăn uống thỏa thích.
Đối với những người muốn tiến bộ nhanh chóng và tinh tấn tập luyện thì chế độ ăn uống kiêng khem là điều tuyệt đối cần thiết. Họ sẽ thấy rằng sống bằng sữa và ngũ cốc trong một vài tháng sẽ rất thuận lợi cho việc tập luyện. Khi toàn bộ cơ cấu của thể xác đã trở nên ngày càng tinh vi hơn thì ngay từ ban đầu, các bạn sẽ thấy rằng chỉ cần một chút bất bình thường cực nhỏ cũng đủ ném các bạn ra khỏi trạng thái cân bằng. Chỉ thêm hoặc bớt một chút thức ăn cũng làm đảo lộn toàn bộ hệ thống, chỉ đến khi nào các bạn có thể điều khiển hoàn toàn cơ thể thì lúc đó các bạn có thể ăn uống tùy thích.
Khi bắt đầu tập trung tư tưởng thì một tiếng kim rơi cũng sẽ giống như tiếng sấm nổ ngang đầu. Các giác quan trở nên tinh tế hơn, và nhận thức cũng trở nên tinh tế hơn. Đây là những giai đoạn cần phải trải qua, và người nào kiên trì sẽ thành công. Hãy từ bỏ mọi cuộc tranh luận và những điều gây xao lãng tâm trí. Những cuộc tranh luận khô khan của trí năng có đem lại cho được điều gì không? Nó chỉ làm cho tâm trí mất cân bằng và trở nên rối loạn. Ta cần phải thực chứng được những điều ở trên những bình diện tế vi hơn. Lời nói có làm được điều đó không? Bởi vậy, hãy từ bỏ mọi lời nói suông vô ích. Chỉ đọc những kinh sách do các vị đạo sư đã có những kinh nghiệm tâm linh viết ra.
Hãy như một hạt ngọc trai. Có một câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ rất lý thú cho rằng khi trời mưa thì vì sao Śvati sẽ theo cơn mưa để giáng thế, một hạt mưa sẽ rơi vào miệng con trai, rồi biến thành ngọc. Con trai biết điều đó nên nó trồi lên mặt biển khi vì sao kia xuất hiện, để chờ đón lấy những hạt mưa quý báu kia. Khi những hạt mưa rơi vào miệng, những con trai liền khép vỏ lại thật nhanh, và lặn sâu xuống đáy biển, rồi chúng kiên nhẫn chuyển những hạt mưa kia thành ngọc. Các bạn cũng nên như thế. Trước hết là nghe, rồi hiểu, tiếp theo đó là từ bỏ mọi điều làm xao lãng tâm trí, hãy đóng kín tâm trí trước mọi ảnh hưởng ngoại giới, và dốc toàn bộ tâm trí cho việc phát triển chân lý nội tâm. Có một điều nguy hiểm làm hao mòn năng lực của chúng ta, đó là đón nhận một tư tưởng chỉ vì vẻ mới lạ của nó, rồi lại từ bỏ nó để chạy theo một tư tưởng mới lạ hơn. Hãy đón nhận một tư tưởng và thực hành nó cho đến chỗ rốt ráo tận cùng, và trước khi các bạn thấy được cứu cánh thì đừng có từ bỏ nó. Chỉ có những người có thể đam mê đến điên cuồng vì một tư tưởng mới nhìn thấy được ánh sáng. Những kẻ chỉ lớt phớt hết tư tưởng này đến tư tưởng kia sẽ không bao giờ có điều gì sở đắc. Họ có thể trau chuốc được thần kinh trong một chốc, nhưng rồi cũng chỉ đến được ngần ấy thôi. Họ sẽ là những kẻ nô lệ trong bàn tay của bản tính, và sẽ không bao giờ vượt qua nỗi phạm vi của các giác quan.
Những người nào muốn trở thành những hành giả yogi thực thụ thì dứt khoát cần phải từ bỏ cái thói lớt phớt như thế. Hãy đón nhận một tư tưởng. Hãy biến nó thành tư tưởng của đời mình, hãy mơ mộng đến nó, hãy suy tư về nó, hãy sống với nó. Hãy để tư tưởng đó ngập tràn trong trí não, cơ bắp, thần kinh và mọi bộ phận trên cơ thể các bạn, và hay bỏ qua mọi tư tưởng khác. Đây là phương pháp để thành công, và là phương pháp mà các bậc chân sư tâm linh vĩ đại đã tìm ra. Những phương pháp khác chỉ là những cỗ máy nói suông. Nếu chúng ta muốn hưởng được lạc phúc tâm linh, và khiến người khác cũng được hưởng lạc phúc thì chúng ta phải đi sâu hơn nữa.
Bước đầu tiên là không làm xáo trộn tâm trí, không giao du
với những kẻ bị xáo trộn tư tưởng. Tất cả các bạn đều biết rằng có những người
nào đó, những nơi nào đó, những thực phẩm nào đó khiến các bạn phải xa lánh.
Hãy tránh xa chúng đi, và những ai muốn đi đến cảnh giới tối cao thì hãy tránh
mọi hình thức giao du, dù tốt hay xấu. Hãy chăm chỉ luyện tập, cho dù các bạn
có sống hay chết cũng không quan trọng. Các bạn phải lao vào và làm làm việc, không
cần nghĩ gì đến kết quả. Nếu các bạn đủ dũng khí thì các bạn sẽ là một hành giả
yogi hoàn hảo trong vòng sáu tháng. Còn những kẻ khác chỉ luôn lớt phớt với mọi
sự sẽ không bao giờ tiến bộ. Chỉ tham dự một khóa giảng thì cũng chẳng có ích
lợi gì. Đối với những kẻ tâm trí chứa đầy tama – tức những kẻ ngu muội, đần
độn, những kẻ không bao giờ chuyên tâm vào bất kỳ một tư tưởng nào, những kẻ
chỉ thèm muốn sự vật để giải khuây – thì tôn giáo và triết học cũng chỉ là
những trò tiêu khiển. Đó là những kẻ hời hợt, thiếu kiên trì. Họ nghe một lời
thuyết giảng, nghĩ rằng nó hay ho tốt đẹp, rồi khi quay về đến nhà thì quên
sạch. Muốn thành công thì các bạn phải có lòng kiên nhẫn phi thường và ý chí
kiên cường. “Tôi sẽ uống cạn cả đại dương”, một hành giả tinh tấn nói,
“và những ngọn núi sẽ sụp đổ tan tành theo ý muốn của tôi”. Hãy có
được năng lực đó, ý chí đó, sự tinh tấn đó và các bạn sẽ đạt đến mục tiêu.
Chúng ta đã xem lướt qua những giai đoạn khác nhau trong pháp môn Rāja-yoga, ngoài trừ giai đoạn tinh tế nhất là tập trung tư tưởng; đó là mục đích, mục tiêu mà Rāja-yoga sẽ đưa ta đến. Với tư cách là những con người, chúng ta thấy rằng mọi tri thức gọi là duy lý của chúng ta đều quy chiếu đến ý thức. Tôi ý thức được cái bàn này, tôi ý thức được sự hiện hữu của các bạn v.v… và điều đó khiến tôi biết được rằng các bạn đang ở nơi đây, cái bàn đang ở nơi đây, và những sự vật mà tôi nhìn thấy được, cảm nhận được và nghe thấy được đều đang ở nơi đây. Đồng thời, lại có phần rất lớn trong sự tồn tại của tôi mà tôi không ý thức được – tất cả những cơ quan bên trong cơ thể, những bộ phận khác nhau của não, bản thân của não, không một ai ý thức được những sự vật đó cả.
Khi ăn uống thì tôi làm điều đó một cách có ý thức, nhưng khi tiêu hóa thức ăn thì tôi lại làm điều đó một cách vô thức, và khi thức ăn chuyển hóa thành máu thì điều đó cũng được thực hiện một cách vô thức, khi máu nuôi dưỡng những thành phần khác nhau của cơ thể thì điều đó cũng được thực hiện một cách vô thức. Tuy nhiên, chính tôi thực hiện tất cả những điều này, không thể có đến hai mươi người trong cùng một cơ thể. Làm thế nào mà tôi biết được rằng tôi là người thực hiện những điều đó chứ không phải một ai khác? Người ta có thể dẫn chứng rằng phần tôi chỉ việc ăn rồi tiêu hóa thực phẩm, và một ai nào khác chứ không phải tôi đã dùng thực phẩm đó để nuôi dưỡng thể xác này. Nhưng không thể thế được, bởi vì có thể chứng minh được rằng hầu hết những hoạt động mà chúng ta không hề hay biết đều có thể được nâng lên bình diện của ý thức. Trái tim đập, rõ ràng là không có sự điều khiển của chúng ta, không một ai trong chúng ta ở đây có thể điều khiển được trái tim, nó cứ hoạt động theo cách riêng của nó. Nhưng do luyện tập, người ta thậm chí có thể điều khiển được trái tim, bắt nó đập nhanh hay chậm tùy ý, hoặc hầu như là ngưng đập hẳn. Hầu như mọi bộ phận của cơ thể đều có thể được đặt dưới quyền điều khiển. Điều này chứng tỏ được gì? Rằng những chức năng nằm dưới tầng ý thức cũng đều do chúng ta thực hiện, chỉ có điều chúng ta thực hiện một cách vô thức mà thôi. Vậy thì ta có đến hai bình diện để tâm trí con người hoạt động. Thứ nhất là bình diện ý thức, trong đó mọi công việc đều đi cùng cảm giác về “Cái Tôi”. Kế đó là bình diện vô thức, trong đó mọi công việc đều không đi cùng cảm giác về “Cái Tôi”. Phần hoạt động của tâm trí không đi cùng cảm giác về lòng vị kỷ là hoạt động vô thức, còn phần hoạt động của tâm trí đi cùng cảm giác về lòng vị kỷ là hoạt động có ý thức. Nơi loài vật thấp kém, hoạt động vô thức này được gọi là bản năng. Còn nơi loài vật cao cấp hơn – và nơi loài vật cao nhất là con người – thì phần hoạt động của tâm trí đi cùng cảm giác về lòng vị kỷ chiếm ưu thế, và được gọi là hành động có ý thức.
Nhưng sự việc chưa dừng ở đây. Vẫn còn có một bình diện cao hơn nữa mà tâm trí có thể hoạt động được. Nó vượt ngoài tầm ý thức. Giống như hoạt động vô thức nằm bên dưới bình diện ý thức, có một hoạt động khác nằm bên trên ý thức, và không đi cùng với lòng vị kỷ. Cảm giác về “Cái Tôi” chỉ là bình diện trung gian. Khi tâm trí ở trên hoặc ở dưới bình diện đó thì không có cảm giác về “Cái Tôi”, tuy nhiên tâm trí vẫn hoạt động. Khi tâm trí vượt ra khỏi bình diện của ý thức về tự ngã thì nó trải nghiệm một trạng thái gọi là samādhi, hay siêu thức. Nhưng làm thế nào để ta biết được rằng một người trong trạng thái samādhi – hay nhập định – đã không đi bên dưới tầng ý thức, đã không làm suy đồi ý thức, mà thay vào đó là đi đến cảnh giới cao hơn? Trong cả hai trường hợp, kinh nghiệm đó không đi cùng với cảm nhận về “Cái Tôi”. Lời giải đáp là : nhờ vào hiệu quả, nhờ vào kết quả của những hoạt động đó mà chúng ta biết được cái nào ở dưới, cái nào ở trên. Khi một người ngủ say thì anh ta đi vào trạng thái nằm dưới tầng ý thức. Chức năng của cơ thể anh ta hoạt động suốt thời gian đó, anh ta hít thở, có lẽ còn vận động cả cơ thể trong giấc ngủ, mà không có cảm nhận về “Cái Tôi” đi cùng, anh ta hoàn toàn vô thức, khi tỉnh giấc thì anh ta trở lại chính là người đã đi vào trong giấc ngủ đó. Tổng số tri thức mà anh ta có được trước khi chìm sâu trong giấc ngủ vẫn còn y nguyên như cũ, nó không hề tăng lên được chút nào. Không có sự giác ngộ nào. Nhưng đối với một người nhập định, nếu trước khi đi vào trạng thái đó anh ta là một kẻ khù khờ thì sau khi xuất định, anh ta là nhà hiền triết.
Cái gì tạo nên sự khác biệt đó? Đối với trạng thái trong giấc ngủ, khi đi ra khỏi trạng thái đó, anh ta vẫn y nguyên là con người cũ, còn đối với trạng thái nhập định thì khi đi ra khỏi trạng thái đó, anh ta đã giác ngộ, trở thành một nhà hiền triết, một nhà tiên tri, một vị thánh, toàn bộ tính cách anh ta đều chuyển hóa, cuộc đời anh ta biến đổi và bừng sáng. Đây là hai hiệu quả. Quả đã khác nhau thì nhân cũng phải khác nhau. Trạng thái giác ngộ – mà con người quay trở lại sau khi xuất định – cao hơn rất nhiều so với mức độ có được từ trạng thái vô thức, hoặc cao hơn rất nhiều so với mức độ có được từ lập luận trong trạng thái có ý thức, nên nó phải là siêu thức, và samādhi được gọi là trạng thái siêu thức.
Tóm lại, đó là quan niệm về samādhi. Ứng dụng của nó là gì? Ứng dụng đó là đây. Phạm vi của lý tính, hay của những hoạt động có ý thức của tâm trí, rất hạn hẹp và hạn chế. Có một vòng tròn nhỏ bé mà lý tính con người sẽ phải vận động trong đó. Nó không thể vượt ra ngoài phạm vi đó. Mọi cố gắng vượt ra khỏi phạm vi đó đều vô ích. Tuy nhiên, tất cả những thứ thân thiết nhất với con người đều nằm bên ngoài phạm vi đó. Mọi thắc mắc – như có Linh Hồn bất tử hay không, có Thượng Đế hay không, có một Trí Tuệ tối thượng điều hành vũ trụ này hay không – đều nằm bên ngoài phạm vi của lý tính. Lý tính không bao giờ có thể giải đáp được những câu hỏi này. Lý tính nói gì? Nó nói : “Tôi theo thuyết bất khả tri, tôi không biết phải nói có hay là không”. Tuy vậy, những câu hỏi đó lại rất quan trọng đối với chúng ta. Nếu không được giải đáp thỏa đáng thì đời người sẽ không có mục đích.
Mọi nền đức lý của chúng ta, mọi hành vi đạo đức của chúng ta, tất cả những gì tốt đẹp và cao quý trong bản tính con người đều đã được định hình từ những câu hỏi xuất phát từ bên ngoài phạm vi đó. Điều đó rất quan trọng, bởi vậy chúng ta cần phải giải đáp cho được những câu hỏi đó. Nếu cuộc sống chỉ là một vở tuồng ngắn ngủi, nếu vũ trụ chỉ là “sự phối hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử” thì việc gì tôi phải làm điều tốt cho người khác chứ? Việc gì cần phải có lòng nhân từ, công lý và tình đồng loại? Con người sống trong thế giới này thì tốt nhất là hãy tranh thủ thời cơ, ai cũng sống vì bản thân mình. Nếu không có hy vọng thì việc gì tôi lại phải thương yêu người anh em của mình, mà không cắt cổ anh ta đi? Nếu không còn có gì ở bên ngoài cõi đời này, nếu không có giải thoát mà chỉ là những quy luật lệ khắt khe của cái chết thì kiếp này tôi chỉ việc hưởng thụ để bản thân mình được sung sướng. Ngày nay, các bạn sẽ thấy mọi người bảo rằng họ vụ lợi trên nền tảng đạo đức. Nền tảng đó là gì? Là tìm mọi cách để hưởng thụ tối đa. Vì sao tôi nên làm điều đó? Vì sao tôi lại không gây nên đủ thứ bất hạnh cho thật nhiều người, nếu như điều đó phục vụ cho mục đích của tôi? Những người theo thuyết vị lợi sẽ trả lời ra sao cho vấn đề này? Làm thế nào để các bạn biết cái gì đúng, cái gì sai? Tôi bị thôi thúc bởi tham vọng đi tìm hạnh phúc và tôi thực hiện điều đó, nó nằm trong bản tính của tôi, ngoài ra, tôi không biết điều gì khác nữa. Tôi có những tham vọng này và phải thực hiện chúng. Vì sao các bạn lại phàn nàn? Những chân lý về đời người, về đạo lý, về linh hồn bất tử, về Thượng Đế, về thương yêu và cảm thông, về việc thiện, và trên hết là đời sống vị tha, tất cả những điều đó từ đâu mà có?
Mọi nền đạo đức, mọi hoạt động và tư tưởng của con người đều dựa trên quan niệm duy nhất về lòng vị tha, và toàn bộ nhân sinh quan của con người được thu gọn trong một từ duy nhất : lòng vị tha. Vì sao chúng ta cần phải vị tha? Đâu là tính thiết yếu, sức mạnh, và năng lực buộc tôi phải vị tha? Vì sao tôi cần phải vị tha? Các bạn có thể tự cho mình là người duy lý, một người vụ lợi, nhưng nếu các bạn không đưa ra được lý do thì tôi vẫn bảo các bạn là người phi lý. Hãy đưa cho tôi thấy lý do vì sao tôi không nên ích kỷ. Yêu cầu một người nào đó sống vị tha thì điều đó nghe ra có vẻ thơ mộng, nhưng thơ mộng không phải là là lý do. Hãy cho tôi thấy một lý do. Vì sao tôi lại phải có lòng vị tha và sống lương thiện? Nếu vì ông X, bà Y v.v… đã nói thế thì điều đó không có ý nghĩa gì với tôi cả. Sống vị tha thì tôi được lợi ích gì? Nếu lợi ích có nghĩa là có được nhiều hạnh phúc nhất thì lợi ích cho tôi có nghĩa là sống vị kỷ. Câu trả lời là gì? Người theo thuyết vị lợi không đưa ra được câu trả lời. Mà câu trả lời là như vầy : thế giới này chỉ là một giọt nước trong đại dương vô biên, một khoen nối trong dây xích dài vô tận. Những người rao giảng đức vị tha và dạy nó cho loài người, họ lấy quan niệm đó từ đâu? Chúng ta biết đó không phải là bản năng, loài vật hành động theo bản năng nhưng không biết đến nó. Nó cũng chẳng phải là lý tính, lý tính không biết gì nhiều về những quan niệm như thế. Vậy thì chúng từ đâu tới?
Khi nghiên cứu lịch sử, chúng ta thấy tất cả những vị đại đạo sư tôn giáo trên thế giới đều có một điểm chung, đó là họ tuyên bố họ đã tiếp thu những chân lý đó từ bên ngoài, chỉ có điều là nhiều vị trong số đó không biết mình tiếp thu chúng từ đâu. Chẳng hạn, vị này thì bảo rằng có thiên sứ hiện đến trong hình dáng con người mang đôi cánh, và nói : “Này, người kia, hãy nghe đây! Đó là thông điệp”. Vị khác thì bảo rằng có một deva – tức vị thần mang thân thể chói ngời – xuất hiện trước mặt mình. Vị thứ ba thì bảo mơ thấy tổ tiên hiện về bảo cho mình những điều gì đó, và ngoài ra ông ta không biết gì hơn nữa. Nhưng có một điểm chung : tất cả các vị đó đều quả quyết rằng tri thức đó đến với họ từ cõi ngoài, chứ không phải bằng năng lực lý luận. Khoa học Yoga dạy điều gì về chuyện đó? Nó dạy rằng tất cả những vị đó đều đúng khi tuyên bố tri thức đó đến với họ từ cõi ngoài phạm vi lý luận, nhưng nó lại đến từ chính nội tâm của họ.
Các hành giả yogi dạy rằng bản thân tâm trí có một trạng thái tồn tại cao hơn vượt trên lý tính, đó là trạng thái siêu thức, và khi tâm trí đạt đến trạng thái đó thì tri thức vượt ngoài lý tính này – một loại tri thức siêu hình và siêu việt – sẽ đến với người đó. Đôi khi trạng thái siêu quá lý tính, vượt ngoài tri thức thông thường của con người này lại tình cờ đến với người không hiểu gì về khoa học yoga, và anh ta, có thể nói như vậy, chỉ tình cờ phát hiện ra nó. Và khi tình cờ phát hiện như thế thì anh ta thường giải thích rằng nó đến từ bên ngoài. Bởi thế, điều này giải thích tại sao một cơn thần hứng hoặc một tri thức siêu việt lại có thể giống nhau tại những xứ sở khác nhau, nhưng ở xứ sở này thì nó có thể đến thông qua hình ảnh một một thiên sứ, ở xứ sở khác nó đến dưới hình dạng một deva, và ở xứ sở khác nữa thì nó lại đến thông qua Thượng Đế. Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là tâm trí đã làm phát sinh ra tri thức đó từ chính nó, và cách tìm ra tri thức đó đã được giải thích theo tín ngưỡng và nền giáo dục của người tiếp thu nó. Sự thật là những con người đa dạng đó, có thể nói như vậy, đã phát hiện ra trạng thái siêu thức này do tình cờ mà thôi.
Hành giả yogi bảo rằng có nguy cơ tiềm ẩn khi tình cờ phát hiện ra trạng thái này. Trong nhiều trường hợp, não có nguy cơ bị rối loạn, và lẽ tất nhiên là các bạn thấy rằng tất cả những người tình cờ phát hiện trạng thái siêu thức mà không hiểu được nó thì dù vĩ đại bao nhiêu đi nữa, họ vẫn mò mẫm trong bóng tối, và đi cùng với tri thức đó thường là thói mê tín quái dị. Họ sẵn sàng đón nhận các ảo giác. Mohammed quả quyết rằng Thiên sứ Gabriel một hôm đã đưa ông đến một hang động, và đặt ông lên con thiên mã Harak để đi tham quan các cõi trời. Thế nhưng, cùng với tất cả những thứ đó, Mohammed cũng đã nói ra một vài chân lý tuyệt diệu. Nếu đọc kinh Koran, các bạn sẽ thấy những chân lý tuyệt diệu xen lẫn với nhiều điều mê tín. Các bạn sẽ giải thích điều đó như thế nào? Mohammed đã trải qua một cơn thần hứng, đó là điều chắc chắn, nhưng cơn thần ứng đó, có thể nói như vậy, chỉ xảy đến tình cờ. Vì không phải là một hành giả yogi lão luyện, nên ông ta không hiểu lý do của những điều mình đã làm. Thử nghĩ đến những điều tốt đẹp mà Mohammed đã mang lại cho thế giới, và thử nghĩ đến tội ác tày trời mà óc cuồng tín của ông đã gây ra! Hãy nghĩ đến hàng triệu người bị thảm sát vì giáo lý của ông, mẹ phải lìa con, con cái thành trẻ mồ côi, nhiều quốc gia bị hủy diệt hoàn toàn, hàng triệu triệu người bị giết hại!
Bởi vậy chúng ta thấy được nguy cơ này khi nghiên cứu cuộc đời của một bậc đạo sư vĩ đại như Mohammed : bất cứ khi nào một nhà tiên tri nhập vào trạng thái siêu thức bằng cách nâng cao cảm xúc tự nhiên thì ông ta rút ra từ cảnh giới đó không chỉ một vài chân lý, mà còn rút ra óc cuồng tín và mê tín – những thứ này gây tổn hại cho thế gian cũng ngang bằng với những lợi ích mà giáo lý vĩ đại đó mang lại. Tuy nhiên, đồng thời chúng ta lại thấy rằng tất cả những bậc đại đạo sư đều trải qua cơn thần hứng. Để tìm ra một ý nghĩa bất kỳ nào từ khối ngẫu nhiên mà ta gọi là đời người, ta cần phải vượt lên trên lý tính, nhưng ta phải thực hiện điều đó một cách khoa học, từ tốn bằng cách tập luyện đều đặn, và phải vất bỏ tất cả những điều mê tín. Chúng ta phải tiếp thu việc nghiên cứu trạng thái siêu thức này như những bộ môn khoa học khác. Chúng ta phải đặt công việc nghiên cứu trên cơ sở lý tính. Chúng ta phải để lý tính dẫn ta đi đến hết khả năng của nó, và chừng nào lý tính thất bại thì tự nó chỉ cho chúng ta con đường đi đến cảnh giới cao hơn. Bởi vậy, bất cứ khi nào các bạn nghe người nào đó bảo : “Tôi được thiên khải” rồi nói ra những điều phi lý thì hãy khước từ anh ta. Vì sao? Vì ba trạng thái này – bản năng, lý tính, và siêu thức, hay vô thức, ý thức, và siêu thức – đều thuộc về cùng một tâm trí duy nhất. Không hề có ba tâm trí nơi một con người, mà trạng thái tâm trí này phát triển thành trạng thái kia. Bản năng phát triển thành lý tính, lý tính phát triển thành siêu thức, bởi vậy trạng thái này không bao giờ mâu thuẫn với trạng thái kia. Cơn thần hứng thực sự không hề mâu thuẫn với lý tính mà chỉ tựu thành cho lý tính. Giống như một nhà tiên tri vĩ đại đã nói : “Ta đến đây không phải để phá hủy mà để tựu thành”[9] thì cơn thần hứng này luôn luôn đến để tựu thành cho lý tính, và hòa hài với lý tính.
Tất cả những giai đoạn khác nhau của yoga đều nhằm mục đích đưa chúng ta đến trạng thái siêu thức – hay samādhi – một cách khoa học. Hơn nữa, cần phải hiểu điểm cốt tử này : cơn thần hứng vẫn có trong bản tính mỗi người, nhiều như trong bản tính của những nhà tiên tri thời cổ. Những nhà tiên tri này không phải là trường hợp đặc thù duy nhất, họ cũng chẳng khác gì các bạn và tôi. Họ là những hành giả yogi vĩ đại. Họ đã đạt đến trạng thái siêu thức này, các bạn và tôi cũng có thể đạt được điều tương tự. Họ không phải là những con người đặc biệt. Chính sự kiện một người đã từng đạt đến trạng thái đó chứng tỏ rằng mọi người đều có thể làm được điều đó. Không những là có thể, mà tất cả mọi người rốt cuộc đều phải đạt đến trạng thái đó, và đó là tôn giáo. Kinh nghiệm là người thầy duy nhất của chúng ta. Chúng ta có thể nói và lý luận suốt đời, nhưng chúng ta không hiểu được một chữ nào về chân lý, cho đến khi nào tự mình trải nghiệm. được nó. Các bạn không thể mong đợi biến một người thành bác sỹ giải phẫu bằng cách đưa cho anh ta vài cuốn sách. Các bạn không thể làm thỏa mãn trí tò mò muốn tham quan một thành phố của tôi bằng cách đưa cho tôi một tấm bản đồ, mà tôi phải trải nghiệm thực sự. Những tấm bản đồ chỉ gợi nên chút ít tò mò trong chúng ta để đạt được một tri thức hoàn hảo hơn. Ngoài ra, chúng chẳng có một giá trị nào khác. Bám vào kinh sách chỉ là suy đồi tâm trí con người. Có điều bất kính nào đáng kinh tởm hơn lời tuyên bố rằng tất cả tri thức về Thượng Đế đã được gói gọn trong cuốn kinh này hay sách nọ? Con người đã gọi Thượng Đế là đấng Vô Biên, mà đồng thời lại cố nhồi nhét Ngài vào trong cái bìa sách nhỏ nhoi kia, quả là liều lĩnh! Hàng triệu người đã bị giết vì đã không tin vào những lời trong các cuốn kinh sách đó, bởi vì họ không muốn thấy tất cả tri thức về Thượng Đế đều nằm bên trong bìa một cuốn sách. Mọi chuyện tàn sát, giết chóc đã đi qua[10], nhưng thế giới này vẫn còn bị trói buộc khủng khiếp bởi đức tin vào kinh điển.
Để đạt đến trạng thái siêu thức một cách khoa học, cần phải trải qua nhiều giai đoạn của Rāja-yoga mà tôi đã giảng giải. Sau các giai đoạn pratyāhāra và dhāranā, chúng ta đến giai đoạn dhyāna hay tham thiền, quán tưởng[11]. Sau khi luyện tập để chú tâm vào một điểm nào đó tại ngoại giới hay nội tâm thì, có thể nói như vậy, có một dòng năng lượng luân lưu bất tận chảy về điểm đó. Trạng thái đó được gọi là dhyāna. Khi hành giả tăng cường năng lượng quán tưởng đến mức có thể loại bỏ phần nhận thức thế giới bên ngoài, mà chỉ còn quán tưởng đến một bộ phận bên trong, tức phần có ý nghĩa thì trạng thái đó được gọi là samādhi hay định. Cả ba trạng thái dhāranā, dhyāna và samādhi (định tâm, tham thiền và định) cùng hợp nhất lại được gọi là samyama, hay tam chi tịnh hợp. Điều đó có nghĩa là, nếu ban đầu tâm trí có thể tập trung vào một đối tượng, và có thể kéo dài trạng thái đó trong một thời gian dài rồi, bằng khả năng tập trung liên tục đó, có thể chỉ định tâm vào phần bên trong của nhận thức – mà đối tượng đó là quả – thì mọi sự vật đều nằm dưới quyền điều khiển của tâm trí.
Trạng thái tham thiền này là trạng thái tồn tại cao nhất. Chừng nào trong lòng ta còn tham dục thì không thể có hạnh phúc chân thực. Chỉ có trầm tư quán tưởng về sự vật như một nhân chứng mới đem lại cho chúng ta sự hưởng thụ và lạc phúc chân thực. Loài vật có được hạnh phúc trong phạm vi giác quan, loài người trong tri thức, và thần thánh trong sự trầm tưởng về tâm linh. Chỉ có những linh hồn nào đạt đến trạng thái quán tưởng đó mới thực sự trở nên đẹp đẽ. Đối với người không còn tham dục, và không hòa mình vào những tham dục đó thì cảnh tượng biến đổi đa dạng muôn hồng nghìn tía của thiên nhiên là một bức tranh toàn cảnh xinh đẹp và hoành tráng.
Ta cần phải hiểu những quan niệm này trong dhyāna hay tham thiền. Ta nghe một âm thanh. Thoạt đầu, có một dao động bên ngoài, bước thứ hai là dây thần kinh rung động để truyền âm thanh đó vào tâm trí, bước thứ ba là phản ứng của tâm trí, cùng với phản ứng đó là tri thức về một sự vật – được xem là nhân ngoai tại của những thay đổi khác nhau này, từ những dao động của ê-te đến phản ứng của tâm trí. Trong pháp môn yoga, ba điều này được gọi là sabda (âm thanh), artha (ý nghĩa) và jnana (tri thức). Nói theo ngôn ngữ sinh lý học thì chúng được gọi là dao động của ê-te, chuyển động của thần kinh và não, và phản ứng của tinh thần. Bây giờ, cả ba điều này, dù là những tiến trình khác biệt, lại hòa quyện lẫn nhau theo cách sao cho chúng trở thành hoàn toàn bất khả phân. Trong thực tế, bây giờ chúng ta không thể nhận thức được bất kỳ cái nhân nào, mà chỉ nhận thức được cái quả của một trong các nhân đó, cái quả đó ta gọi là đối tượng ngoại tại. Mỗi hành động nhận thức đều bao hàm cả ba tiến trình này, và không có lý do vì sao chúng ta lại không thể phân biệt được chúng với nhau.
Khi tâm trí, bằng những sự chuẩn bị đã trình bày ở phần trước, trở nên mạnh mẽ và bị chế ngự thì chúng ta đạt được năng lực nhận thức tinh tế hơn, và lúc này thì nên vận dụng tâm trí vào việc tham thiền. Tham thiền phải bắt đầu những những sự vật thô, rồi từ từ mới nâng lên mức độ ngày càng tế vi dần, cho đến khi không còn đối tượng. Nên vận dụng tâm trí vào việc nhận thức những nguyên nhân ngoại tại của giác quan, rồi đến những chuyển động bên trong, rồi đến phản ứng của tâm trí. Khi tâm trí đã thành công trong việc nhận thức được những nguyên nhân ngoại tại của chính các giác quan thì nó có khả năng nhận thức mọi dạng tồn tại bằng vật chất tế vi, mọi hình tướng và thể xác tế vi. Khi tâm trí có thể nhận thức được chính những chuyển động đó bên trong nội tâm thì nó sẽ điều khiển được mọi làn sóng tâm thức, nơi bản thân nó hoặc nơi người khác, thậm chí trước cả khi chúng tự diễn dịch thành những năng lượng hữu hình. Và khi tâm trí của một hành giả yogi có thể nhận thức được phản ứng của chính nó thì nó sẽ đạt đến nhất thiết trí, bởi vì mọi đối tượng khả giác và mọi tư tưởng đều là kết quả của phản ứng này. Lúc đó, hành giả sẽ thấy được, có thể nói như vậy, chính những nền tảng của tâm trí mình, và nó hoàn toàn bị chế ngự. Những quyền năng khác sẽ đến với hành giả yogi, nếu ông ta để bị cám dỗ bởi bất kỳ một quyền năng nào thì con đường dẫn đến tiến bộ cao hơn sẽ bị chướng ngại – đó là tai họa của việc chạy theo lạc thú. Nhưng nếu đủ nghị lực để từ bỏ những quyền năng kỳ diệu này thì hành giả sẽ đạt đến mục tiêu của pháp môn yoga, đó là chế ngự hoàn toàn những đợt sóng dao động trong biển tâm thức. Khi đó, hào quang của Linh Hồn, do không còn bị xáo động bởi sự phân tán tâm trí hoặc bởi chuyển động của cơ thể, sẽ chói sáng trong tất cả vẻ huy hoàng rực rỡ, và hành giả yogi sẽ thấy chính mình vẫn y nhiên là, và như từng đã là, Cốt Tủy của Tri Thức, là đấng Bất Tử, đấng Toàn Nhiên Thị Hiện trong Vạn Hữu.
Samādhi hay trạng thái nhập định là thuộc tính của mỗi con
người – không, đúng hơn là của tất cả mọi loài vật. Từ con vật thấp kém nhất
cho đến thiên thần cao cả nhất, tất cả đều sẽ đạt đến trạng thái đó, vào lúc
này hay lúc khác, và chỉ đến khi đó tôn giáo mới thực sự khởi đầu. Trước đó,
chúng ta chỉ đấu tranh để hướng đến giai đoạn này mà thôi. Hiện giờ thì chẳng
có sự khác biệt nào giữa chúng ta với người không tôn giáo, bởi vì ta chưa có
được kinh nghiệm nào cả. Tập trung tâm trí có ích lợi gì, nếu không phải là đưa
chúng ta đến với kinh nghiệm này? Mỗi một giai đoạn trong tiến trình tiến đến
trạng thái nhập định đều có cơ sở lý luận, được điều chỉnh phù hợp, được tổ
chức một cách khoa học, và nếu được kiên trì luyện tập, chắc chắn sẽ đưa chúng
ta đến với mục tiêu mong muốn. Lúc đó, mọi phiền não, mọi khốn khổ đều chấm dứt,
những mầm móng tạo tác sẽ bị thiêu cháy, và linh hồn sẽ vĩnh viễn tự do.
Sau đó là bản tóm tắt của Rāja-yoga được phóng dịch từ Kurma Purāna.
Ngọn lửa Yoga thiêu đốt cái lồng tội lỗi bao quanh con người. Tri thức trở nên thuần tịnh và trực chứng được Niết Bàn. Yoga làm phát sinh tri thức, và tri thức lại hỗ trợ cho hành giả yogi. Người nào kết hợp được yoga với tri thức sẽ làm Thượng Đế hài lòng. Những ai luyện tập mahā-yoga mỗi ngày một lần, hoặc hai lần hoặc ba lần hoặc luôn luyện tập thì nên biết rằng họ sẽ là chư thần. Yoga được chia làm hai phần : một phần được gọi là abhāva-yoga (phi hữu yoga) và phần kia là mahā-yoga (đại yoga). Pháp môn quán tưởng bản ngã như là hư không, vô tự tính được gọi là abhāva-yoga. Còn pháp môn quán tưởng bản ngã trong trạng thái viên mãn lạc phúc, hoàn toàn thuần tịnh và hợp nhất với Thượng Đế được gọi là mahā-yoga. Hành giả yogi nhờ vào một trong hai pháp môn này mà thực chứng được Chân Ngã. Còn những pháp môn yoga khác mà chúng ta đã đọc và nghe nói đến để không đáng so sánh với mahā-yoga – là pháp môn giúp hành giả yogi thấy mình cùng toàn thể vũ trụ là chính Thượng Đế. Đó là pháp môn yoga tối thượng.
Yama (ngũ giới), niyama (ngũ hạnh), āsana (tư thế), prānāyāma (kiểm soát prāna hay nguyên sinh khí), pratyāhāra (kiểm soát giác quan), dhāranā (chú tâm), dhyāna (thiền) và samādhi (định) là các giai đoạn trong Rāja-yoga. Không làm tổn thương ai, chân thành, không tham lam, sống trong sạch, không nhận bất cứ thứ gì từ người khác, năm giới này được gọi là yama, nhằm giữ tâm được thanh tịnh. Không gây đau khổ cho bất kỳ một sinh linh nào – dù bằng suy nghĩ, lời nói hay hành động – được gọi là ahimsā, hay bất hại. Không có đức hạnh nào cao cả hơn đức bất hại này. Không có một lạc phúc nào cao cả hơn lạc phúc của người giữ được thái độ bất xâm hại đối với muôn loài. Nhờ chân thành mà chúng ta gặt hái được thành quả của công việc. Thông qua sự chân thành, ta đạt tới muôn vật, và trong sự chân thành, muôn vật được an bài. Tường thuật lại sự kiện y như thực, đó là sự chân thành. Không ăn trộm hoặc dùng sức mạnh để giành lấy tài vật của người khác, đó gọi là asteyam, hay bất tham. Giữ tư tưởng, lời nói và hành vi luôn được trong sạch trong mọi tình huống, đó gọi là brahmacharya hay tịnh hạnh. Không nhận vật phẩm từ bất kỳ ai, dù đang đói khổ cùng cực, đó gọi là aparigraha hay hạnh không tư hữu. Theo quan niệm này, khi nhận vật phẩm từ một người khác thì tâm ta trở nên bất tịnh, ta trở nên thấp kém, không còn tự tại, rồi bị ràng buộc và phát sinh luyến cảm.
Sau đây là các phẩm trợ đạo để tu tập thành công trong pháp môn Yoga :
Ăn uống đạm bạc hoặc chế ngự bản thân bằng nhiều cách khác được gọi là khổ hạnh thể xác. Tụng kinh Veda cùng những chân ngôn [mantra] khác, để nhờ đó giúp cho các chất liệu sattva được thanh tịnh, đó là svādhyāya hay nghiên cứu kinh điển. Có ba cách tụng niệm chân ngôn. Cách thứ nhất là khẩu niệm hay đọc thành lời, cách thứ hai là đọc lâm râm. và cách thứ ba là tâm niệm. Trong ba cách thì khẩu niệm là cách thấp nhất và tâm niệm là cách cao nhất. Đọc chân ngôn lớn tiếng để người nào cũng nghe được, đó là khẩu niệm, cách niệm tiếp theo chỉ để môi mấp máy nhưng không phát ra thành tiếng. Cách tụng chân ngôn không phát ra âm, và chú tâm quán tưởng ý nghĩa của nó, được gọi là tâm niệm, và là cách cao nhất. Các vị hiền triết bảo rằng có hai loại thanh tịnh: bên trong và bên ngoài. Dùng nước, đất cùng các loại vật chất khác để tẩy uế bên ngoài, ví dụ như tắm gội v.v… Làm sạch tâm trí bằng chân lý, cùng tất cả những đức hạnh khác được gọi là nội tịnh hay thanh tịnh tâm trí. Cả hai đều cần thiết để luyện tập yoga. Một người nếu chỉ giữ tâm thanh tịnh mà bên ngoài bẩn thỉu thì cũng chưa đủ. Khi không thể thực hiện được cả hai thì tốt hơn là nên giữ thanh tịnh tâm trí, nhưng phải giữ thanh tịnh cả hai mới được gọi là một hành giả yogi. Tôn thờ Thượng Đế bằng lời ngợi ca, tán thán, bằng tâm tưởng, bằng sự tận hiến.
Chúng ta đã nói về yama và niyama, giờ nói tiếp đến āsana hay tư thế. Điều duy nhất cần hiểu về āsana là hãy để cho cơ thể thật thoải mái, giữ cho ngực, vai và đầu nằm theo một đường thẳng. Kế đó mới đến prānāyāma hay điều khí. Prāna có nghĩa là những luồng nguyên sinh khí trong cơ thể của mỗi người, còn āyāma có nghĩa là điều khiển, chế ngự. Có ba kiểu prānāyāma : kiểu rất đơn giản, kiểu trung bình và kiểu rất cao siêu. Nó còn được chia thêm thành ba công đoạn : hít vào cho đầy, kiềm hơi, rồi thở hết ra. Khi các bạn bắt đầu tập với chu kỳ hít thở mười hai giây thì đó là kiểu prānāyāma thấp nhất, khi các bạn bắt đầu tập với chu kỳ hít thở hai mươi bốn giây thì đó là kiểu prānāyāma trung bình, và kiểu prānāyāma bắt đầu với chu kỳ hít thở ba mươi sáu giây là kiểu tốt nhất. Kiểu prānāyāma thấp nhất giúp sưởi ấm cơ thể, kiểu trung bình làm cho cho cơ thể dao dộng, còn kiểu prānāyāma cao nhất có thể nâng cơ thể lên cao khỏi chỗ ngồi trạng thái ngập tràn lạc phúc. Có một câu chân ngôn gọi là Gāyatri. đó là một câu kinh văn vô cùng linh thiêng trong kinh Veda. Nó như vầy : “Ta quán tưởng vinh quang của đấng Hóa Công tạo ra vũ trụ này, xin Người hãy sáng soi tâm trí chúng ta”. Đi kèm với câu này là âm Om, lúc mở đầu và kết thúc. Trong mỗi chu kỳ prānāyāma, lặp lại chân ngôn Gāyatri ba lần. Cuốn sách nào cũng chia prānāyāma thành ba bước : rechaka (thở ra), puruka (hít vào) và kumbhaka (kìm hơi thở).
Các Indriya hay giác quan được hướng ra ngoài và tiếp xúc với những sự vật bên ngoài. Đưa các Indriya đó nằm dưới sự chế ngự của ý chí được gọi là pratyāhāra hay quy tập hướng nội [gathering towards oneself].
Chú tâm vào hoa sen nơi trái tim hay trên đỉnh đầu được gọi là dhāranā. Tập trung toàn bộ tâm trí vào một điểm, xem đó là điểm gốc, nơi mà các ngọn sóng tâm thức dao động, những ngọn sóng này, do không bị nhận chìm bởi những ngọn sóng kiểu khác, dần dần trở nên nổi bật và chiếm ưu thế, trong khi những ngọn sóng khác cứ suy giảm dần rồi cuối cùng biến mất. Tiếp theo đó, những ngọn sóng phức tạp ban đầu này hợp nhất lại, và chỉ còn một ngọn sóng duy nhất trong tâm thức. Đó là dhyāna hay tham thiền.
Khi điểm gốc không còn cần thiết nữa, khi toàn cơ thể đã biến thành một ngọn sóng duy nhất thì hành giả đạt đến trạng thái nhất tâm gọi là samādhi hay định. Mọi hình thức trợ đạo từ các vị trí trên cơ thể hay từ các trung tâm đều bị loại bỏ, chỉ còn ý nghĩa của ngọn sóng đó hiện tiền. Nếu tâm trí có thể chuyên chú vào một trung tâm trong mười hai giây thì đó sẽ là một dhāranā (chú tâm), mười hai dhāranā như thế sẽ là một dhyāna (thiền), và mười hai dhyāna như thế sẽ là một samādhi (định).
Nơi nào có sự e sợ lửa và nước, nơi nào có lá khô rải trên mặt đất, nơi nào có nhiều tổ kiến, nơi nào bị thú hoang đe dọa, nơi nào có các giao lộ, nơi nào huyên náo xô bồ, nơi nào có nhiều kẻ ác – thì không được thực hành pháp môn yoga ở đó. Điều này còn được áp dụng chặt chẽ hơn nữa tại Ấn Độ. Không nên luyện tập khi cơ thể thấy mệt mỏi hay biếng lười, hoặc khi tâm trí đang khốn quẫn, muộn phiền. Hãy đến một nơi kín đáo, không có ai quấy nhiễu. Đừng chọn những nơi bẩn thỉu. Tốt hơn là nên chọn nơi có phong cảnh đẹp đẽ hoặc một căn phòng xinh đẹp trong nhà riêng của các bạn. Khi luyện tập thì trước tiên các bạn phải cúi chào tất cả những hành giả yogi thời trước, chào vị đạo sư [guru] của mình, đảnh lễ Thượng Đế, xong rồi hãy bắt đầu.
Tôi đã giải thích thiền (dhyāna) là gì rồi, và đã nêu ra một vài thí dụ để quán tưởng. Ngồi thẳng lưng, và nhìn vào chóp mũi. Sau này, chúng ta sẽ hiểu điều đó giúp ta tập trung tâm trí như thế nào, và khi điều khiển được hai dòng thần kinh thị giác thì hành giả sẽ tiến bộ vượt bậc ra sao trong việc điều khiển được cây cung phản ứng, rồi tiến tới việc điều khiển được ý chí. Đây là một minh họa mẫu trong thiền : hãy tưởng tượng một hoa sen trên đỉnh đầu, cao độ một tấc, đức hạnh là tâm sen còn tri thức là thân sen. Tám cánh sen là tám quyền năng của hành giả yogi. Nhụy hoa bên trong là sự xả ly, từ bỏ. Nếu biết khước từ những quyền năng bên ngoài, hành giả yogi sẽ đi đến cảnh giới giải thoát. Do vậy, tám cánh sen đó là tám quyền năng của hành giả yogi, nhưng nhụy hoa bên trong là sự xả ly, từ bỏ – từ bỏ tất cả những quyền năng đó. Bên trong đóa sen đó, hãy quán tưởng đến đấng Kim Thân, đấng Toàn Năng, đấng Vô Hình mang tên la Om, là đấng Bất Khả Tư Nghì, được bao quanh bởi hào quang rực rỡ. Tập quán tưởng điều đó. Còn đó là một chủ đề quán tưởng khác : Hãy quán tưởng một khoảng không gian trong trái tim bạn, và ngay giữa khoảng không gian đó, hãy quán tưởng một ngọn lửa đang bùng cháy. Hãy quán tưởng ngọn lửa đó như là linh hồn bạn. Bên trong ngọn lửa đó là một ánh hào quang rực rỡ khác, đó là Linh Hồn của linh hồn bạn, tức Thượng Đế. Hãy quán tưởng điều đó trong trái tim.
Giữ thân tâm trinh bạch, không gây tổn hại, khoan dung cho cả những kẻ thù lớn nhất, sống trung thực và đặt đức tin vào Thượng Đế – đây là những hạnh nguyện khác nhau. Nếu các bạn không thực hiện được trọn vẹn những lời nguyện đó thì cũng đừng sợ hãi. Công việc và các bạn sẽ nối tiếp nhau. Người nào đã từ bỏ được mọi luyến cảm, mọi nỗi sợ hãi cùng tất cả sự giận dữ, người nào mà linh hồn đã đến với Thượng Đế, người nào đã an trú trong lòng Thượng Đế, người nào có tâm hồn thuần tịnh, luôn khát khao đến với Thượng Đế thì sẽ được Ngài chuẩn nhận cho điều đó. Do đó, hãy sùng bái Thượng Đế bằng tri thức, bằng tình yêu và bằng sự xả ly, từ bỏ.
“Kẻ nào không ghét bỏ một ai, là bạn của tất cả mọi người, nhân từ với tất cả mọi người, không chiếm hữu một thứ gì cho riêng mình, hoàn toàn vị tha, xem sướng khổ là như nhau, biết kiên trì chịu đựng, lòng luôn thấy mãn nguyện, mãi mãi tận hiến cho pháp môn yoga, chế ngự được hoàn toàn bản ngã, có ý chí kiên cường, toàn tâm toàn trí hướng về Ta thì kẻ như thế mới là một bhakta mà Ta yêu quý. Kẻ nào không gây ra nhiễu loạn, không là nguyên nhân nhiễu loạn, không để người khác có thể làm nhiễu loạn tâm mình, kẻ nào đã vượt thoát khổ, lạc và phiền não, đó là kẻ mà Ta yêu quý. Kẻ nào giữ tâm an nhiên tự tại, thuần tịnh và hoạt bát, không màng đến thiện ác, không bao giờ lâm vào cảnh khốn cùng, kẻ nào từ bỏ mọi cố gắng phục vụ cho bản thân mình, kẻ nào dù được ngợi khen hay bị chê trách vẫn giữ được thái độ yên lặng, trầm tĩnh như nhau, kẻ nào hài lòng với những điều nhỏ nhoi đến với mình, sống không nhà, lấy cả thế gian làm nhà, tâm trí kiên định – thì kẻđó là một bhakta mà Ta yêu quý”[12].
&
& &
Ngay xưa có một vị thần minh triết tên là Nārada. Cũng như trong cõi nhân gian có những vị hiền triết, những hành giả yogi vĩ đại thì trong cõi thần cũng có những hành giả yogi vĩ đại. Nārada là một hành giả yogi vĩ đại, lừng danh. Ngài vân du khắp đó đây. Một hôm, ngài đi ngang qua một khu rừng và trông thấy một người đang mãi miết ngồi tham thiền, đến nỗi để cho mối làm một cái tổ lớn đóng quanh người – ông ta đã ngồi thiền ở đó quá lâu rồi.
Ông ta hỏi Nārada : “Ngài đi đâu đó?”.
Nārada đáp : “Ta đang đi lên trời”.
Ông ta liền nói :”Vậy thì nhờ ngài hỏi giùm Thượng Đế khi nào Người sẽ thương xót đến tôi, khi nào tôi sẽ được giải thoát?”
Nārada tiếp tục đi và gặp một người khác. Ông ta đang nhảy múa, ca hát và hỏi Nārada:
“Ồ, ngài Nārada, ngài đi đâu đấy?”
Giọng nói và điệu bộ của ông ta như cuồng loạn.
Nārada đáp : “Ta đang đi lên trời”.
Ông ta liền nói :”Vậy thì nhờ ngài hỏi giùm Thượng Đế khi nào tôi sẽ được giải thoát?”
Nārada bèn tiếp tục đi. Một thời gian sau, ngài lại đi qua con đường cũ, và người ngồi tham thiền với tổ mối quanh người vẫn còn ở đó.
Ông ta hỏi Nārada : “Ồ, ngài Nārada, ngài đã hỏi Thượng Đế giùm tôi chưa?”.
Nārada đáp : “Ồ, có chứ”.
– Vậy Thượng Đế bảo sao?
– Thượng Đế nói với ta rằng ông sẽ được giải thoát sau bốn kiếp nữa”.
Người kia liền than khóc và nói : “Tôi đã tham thiền đến nỗi mối đóng quanh người, vậy mà tôi còn phải chờ thêm bốn kiếp nữa”.
Nārada bèn đi tiếp đến gặp người kia.
– Ngài đã hỏi Thượng Đế giùm tôi rồi chứ?
– Ồ, có! Ông có thấy cây me kia không? Ta phải nói cho ông biết rằng cây me kia có bao nhiêu lá thì ông phải tái sinh bấy nhiêu kiếp mới đạt được giải thoát.
Người kia liền nhảy nhót mừng rỡ, rồi nói :
– Ta sẽ đạt được giải thoát trong một thời gian ngắn biết bao!
Một giọng nói bỗng vọng tới :
– Này con, con đã đạt được giải thoát ngay lúc này rồi.
Đó là phần thưởng cho
sự kiên trì. Ông ta đã sẵn sàng tu luyện qua vô lượng kiếp, mà không có gì có
thể khiến ông ta ngã lòng. Trong khi người đầu tiên thấy mới bốn kiếp là đã quá
dài. Chỉ có sự kiên trì như người đàn ông đó – người sẵn sàng chờ đợi vô lượng
kiếp – mới mang lại thành quả tối cao.
Trước khi đi vào tác phẩm Cách ngôn Yoga của Pantajali, tôi sẽ thử thảo luận về một chủ đề lớn, nền tảng của mọi lý thuyết tôn giáo dành cho các hành giả yogi. Có vẻ như những đầu óc vĩ đại trên thế giới đều nhất trí rằng, và hầu như đã được những nhà nghiên cứu thế giới vật lý chứng minh, chúng ta là kết quả và là sự biểu hiện của một trạng thái tuyệt đối nằm đằng sau trạng thái tương đối hiện giờ của chúng ta, và chúng ta sẽ quay về lại với trạng thái ban sơ đó. Nếu chấp nhận điều này thì câu hỏi đặt ra là : cái gì tốt hơn, trạng thái tuyệt đối hay trạng thái hiện nay? Không ít người cho rằng tình trạng trạng thái hiện nay là trạng thái cao nhất của con người. Những tư tưởng gia lỗi lạc đều quan niệm rằng chúng ta là những mẫu biểu hiện của một thể nhất như không sai biệt, và trạng thái sai biệt này cao hơn trạng thái tuyệt đối. Họ cho rằng trong trạng thái tuyệt đối không thể có bất kỳ phẩm tính nào, chắc chắn nó phải trơ lỳ, vô cảm và không có sức sống, rằng chỉ có cuộc đời này là đáng để hưởng thụ, do đó chúng ta phải bám chặt lấy nó.
Trước hết, chúng ta cần phải tìm hiểu những lời giải đáp khác về cuộc đời. Có một lời giải đáp cũ cho rằng sau khi chết đi con người vẫn cứ y nguyên như cũ, mọi phẩm tính tốt xấu của anh ta vẫn cứ mãi mãi như vậy. Nói theo lôgic thì điều này có nghĩa là cùng đích của con người là thế giới, khi thế giới này được nâng lên một tầng cao hơn và được gột sạch điều xấu ác thì đó là trạng thái được gọi là thiên đàng. Khi đối mặt với trạng thái đó thì học thuyết này tỏ ra phi lý và non nớt, bởi vì một trạng thái như thế không thể tồn tại. Không thể có thiện mà không có ác, không thể có xấu mà không có tốt. Một thế giới toàn điều tốt đẹp và không có điều xấu ác được các nhà luận lý học Ấn Độ gọi là “lâu đài trên không”.
Hiện nay, một số trường phái triết học đã trình bày một học thuyết khác, chủ trương số phận con người phải luôn luôn phát triển, luôn luôn đấu tranh để tiến tớim nhưng không bao giờ đạt đến mục tiêu. Lời phát biểu này, mặc dù có vẻ hấp dẫn, song cũng phi lý, song không hề có một chuyển động tuyến tính nào như thế. Mọi chuyển động đều đi theo đường tròn. Nếu bạn nhặt một viên đá và ném vào khoảng không, giả sử các bạn sống đủ lâu và viên đá đó không bị lực cản thì nó sẽ quay về chính bàn tay bạn. Một đường thẳng được kéo dài đến vô tận phải kết thúc nơi đường tròn. Bởi vậy, quan niệm cho rằng số phận con người phải liên tục tiến về phía trước, không bao giờ dừng lại, là điều phi lý. Mặc dù quan niệm chuyển động vòng tròn này không liên quan đến chủ đề hôm nay, nhưng tôi muốn lưu ý các bạn rằng nó giải thích được quan niệm đạo lý cho rằng các bạn không được ghét ai cả mà phải thương yêu. Cũng như trong trường hợp dòng điện, hay những lực khác, lý thuyết hiện đại cho rằng lực xuất phát từ máy phát điện, hoàn tất chu kỳ rồi quay trở lại máy phát điện, yêu ghét cũng thế, chúng đều quay trở lại nơi xuất phát. Bởi vậy, các bạn không được ghét bỏ một người nào, vì lòng hận thù xuất phát từ các bạn, sau một quãng đường dài, lại quay về với chính các bạn. Còn nếu các bạn yêu thương thì tình yêu đó sẽ quay về lại với các bạn, sau khi hoàn tất một chu kỳ. Có một điều chắc chắn là từng chút nhỏ hận thù xuất phát từ trái tim người nào cũng đều quay về lại với bản thân người đó bằng trọn vẹn sức mạnh, không có gì có thể làm dừng nó được. Mọi cảm xúc thương yêu cũng quay ngược về giống hệt như thế.
Dựa trên thực tế cùng những cơ sở khác, chúng ta thấy rằng quan niệm tiến bộ vĩnh viễn không được vững chắc, vì hoại diệt là đích đến của muôn vật trên thế gian này. Bao đấu tranh, hy vọng, sợ hãi và niềm vui của chúng ta, tất cả những thứ đó sẽ dẫn đến điều gì? Tất cả chúng ta đều sẽ kết thúc trong cái chết. Không có gì chắc chắn hơn điều đó. Vậy thì quan niệm chuyển động theo đường thẳng, theo sự tiến bộ vô tận này ở đâu ra? Điều đó chỉ có nghĩa : đi một quãng đường dài rồi quay về lại với tâm điểm xuất phát. Hãy xem cách mặt trời, mặt trăng cùng muôn vì tinh tú được tạo thành từ tinh vân, rồi quay lại với tinh vân ra sao. Những điều tương tự đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Cây cối lấy chất liệu từ đất, dung hóa xong rồi trả về với đất. Mọi hình tướng trong thế gian này đều được cấu thành từ những nguyên tử, rồi quay về thành những nguyên tử đó. Không thể có chuyện cùng một định luật lại tác động khác nhau tại những địa điểm khác nhau. Định luật là nhất quán, không có gì chắc chắn hơn điều đó. Nếu đó là định luật trong tự nhiên thì nó cũng áp dụng cho tâm trí. Tâm trí sẽ tan rã và quay về với cội nguồn nguyên thủy. Dù muốn hay không thì chúng ta cũng đều phải quay về lại cội nguồn nguyên thủy, được gọi là Thượng Đế hay đấng Tuyệt Đối. Tất cả chúng ta đều xuất phát từ Thượng Đế, tất cả chúng ta đều buộc phải quay về lại với Thượng Đế, các bạn thích gọi bằng bất cứ danh từ nào cũng được – Thượng Đế, đấng Tuyệt Đối hay giới Tự Nhiên – thì sự việc vẫn cứ y nhiên không đổi. “Từ Đấng đó vũ trụ được sinh ra, trong Đấng đó tất cả tạo vật được sống, và tất cả đều quay về với Đấng đó”. Đó là một sự kiện chắc chắn. Thiên nhiên hoạt động trên cùng một cấp độ, những gì đang diễn ra ở tinh cầu này cũng đang diễn ra ở muôn triệu tinh cầu khác. Các bạn thấy những hành tinh như thế nào thì trái đất, con người và muôn ngàn vì sao cũng đều y như thế ấy. Con sóng khổng lồ chứa nhiều con sóng nhỏ, có thể đến hàng triệu. Cũng vậy, sự sống của toàn thể thế giới này được cấu thành từ sự sống của muôn triệu sinh linh bé nhỏ, và cái chết của toàn thể thế giới này được cấu thành từ cái chết của muôn triệu loài sinh linh bé nhỏ đó.
Bao giờ, vấn đề được đặt ra : quay về với Thượng Đế có phải là đi đến trạng thái cao hơn hay không? Các triết gia yoga khẳng định chắc nịch là có. Họ bảo rằng con người hiện nay đang ở trong trạng thái suy đồi, không một tôn giáo nào trên đời này lại cho rằng con người đang phát triển. Quan niệm đó cho rằng ban sơ con người vốn hoàn hảo và trong sạch, rồi họ suy đồi đến mức không thể suy đồi thêm được nữa, cuối cùng phải đến lúc họ lại vươn lên cao để hoàn tất một chu kỳ, chu kỳ đó cần phải được vạch ra. Cho dù có suy đồi đến bao nhiêu đi chăng nữa thì rốt cuộc con người cũng phải vươn lên cao trở lại để quay về với nguồn cội ban sơ là Thượng Đế. Thoạt kỳ thủy con người đến từ Thượng Đế, ở giai đoạn giữa họ biến thành con người, rồi cuối cùng họ lại quay về với Thượng Đế. Đây là cách sắp xếp con người trong thuyết nhị nguyên. Theo thuyết nhất nguyên thì con người vốn là Thượng Đế, và biến thành Thượng Đế trở lại. Nếu trạng thái hiện nay là trạng thái cao siêu thì cớ sao lại có biết bao nhiêu là nỗi kinh hãi và khốn khổ? Và cớ sao lại có chung cục cho nó? Nếu đây là trạng thái cao siêu thì việc gì phải chấm dứt nó? Những gì hư hoại và suy đồi đều không thể là trạng thái tối cao. Cớ sao nó lại đáng kinh tởm, đáng bất mãn đến thế? Chỉ có một cách biện minh là thông qua nó, chúng ta mới có thể vươn tới một cảnh giới cao hơn, chúng ta phải trải qua cuộc đời này để phục hồi lại những gì đã mất. Đặt một hạt giống trong lòng đất, sau một thời gian, nó sẽ bị phân rã, và từ sự phân rã đó phát sinh ra một cây xum xuê to lớn. Mọi hạt giống đều phải bị phân rã mới biến thành đại thụ. Do đó, kết quả là sớm muộn gì chúng ta cũng đạt đến một trạng thái tốt đẹp hơn cái trạng thái mà chúng ta gọi là “con người”. Liệu chúng ta có thể thoát khỏi trạng thái này bằng cách tự tử hay không? Hoàn toàn không. Điều đó còn trở nên tồi tệ hơn. Hành hạ thể xác, hay nguyền rủa thế gian cũng không phải là cách để thoát ra. Chúng ta cần phải trải qua cảnh “đọa đày nơi địa ngục”, và trải qua cảnh đó càng sớm càng tốt. Nhưng phải luôn nhớ rằng đó không phải là trạng thái cao nhất.
Phần thực sự khó hiểu là Cảnh Giới Tuyệt Đối – được gọi là trạng thái tối cao, đó không phải là trạng thái trơ trơ vô cảm như cỏ cây hay sỏi đá, như một số người e ngại. Theo họ thì chỉ có hai trạng thái tồn tại : của sỏi đá và của tư tưởng. Họ lấy quyền gì để giới hạn sự tồn tại vào hai loại đó? Há không có một cái gì đó vô cùng cao viễn so với tư tưởng hay sao? Khi dao động ánh sáng quá thấp, ta không thấy được nó, khi dao động đó mạnh lên một chút thì nó trở thành ánh sáng với ta, nhưng khi dao động đó trở nên quá mãnh liệt thì ta lại không thấy được nữa, nó trở thành bóng tối đối với ta. Có phải bóng tối tại nơi kết thúc cũng giống như bóng tối tại lúc khởi đầu? Chắc chắn là không : chúng khác nhau một trời một vực. Trạng thái vô suy tư của tảng đá có giống như trạng thái vô suy tư của Thượng Đế hay không? Chắc chắn là không. Thượng Đế không suy tư, Ngài không lý luận. Vì sao Ngài lại thế? Có cái gì Ngài lại không biết mà phải suy tư? Tảng đá không thể suy tư, Thượng Đế cũng không suy tư. Đó chính là sự khác biệt. Các triết gia này cho rằng vượt qua giới hạn của tư tưởng là điều đáng sợ, họ không tìm thấy gì trong cõi ngoài đó. Nhưng có một trạng thái tồn tại cao siêu hơn rất nhiều so với lý luận. Chính ở bên ngoài phạm vi trí năng mà chúng ta mới thực sự tìm thấy được giai đoạn đầu tiên của đời sống tôn giáo. Khi bước qua khỏi phạm vi của tư tưởng, trí năng và mọi khả năng suy luận là các bạn đang có những bước đi đầu tiên hướng về Thượng Đế, và đó là sự khởi đầu của cuộc sống. Cái mà chúng ta thường gọi là cuộc sống này chỉ là một trạng thái phôi thai.
Câu hỏi tiếp theo sẽ là : lấy gì để chứng minh rằng trạng
thái vượt ngoài phạm vi của tư tưởng và trí năng này là trạng thái tối cao?
Trước hết, tất cả những vĩ nhân trên thế giới – những vị vĩ đại hơn vạn ngàn
lần những kẻ chỉ thuyết giảng suông, những vị làm lay chuyển cả thế giới, những
vị sống hoàn toàn vị tha không bao giờ nghĩ đến bản thân – đều tuyên bố rằng
cõi đời này chỉ là một quãng đường ngắn ngủi trên lộ trình hướng đến Vô Biên.
Thứ hai, không chỉ nói thế, các vị còn chỉ cho mọi người thấy con đường đó, chỉ
dẫn phương pháp để ai ai cũng có thể đi theo bước chân mình. Thứ ba, không có
con đường nào khác. Không có cách lý giải nào khác. Nếu mặc nhiên cho rằng
không có trạng thái nào cao hơn cuộc sống này thì vì sao chúng ta lại cứ mãi
mãi đi qua cái vòng tròn này? Điều gì có thể giải thích được sự tồn tại của thế
giới? Thế giới hữu hình này sẽ là giới hạn của tri thức chúng ta, nếu chúng ta
không thể đi xa hơn, nếu chúng ta không muốn đòi hỏi điều gì thêm nữa. Đó là
cái được gọi là thuyết bất khả tri. Nhưng có lý do gì để tin vào chứng cứ của
giác quan? Tôi muốn gọi kẻ theo thuyết bất khả tri thực sự là người muốn đứng
chết trân trên đường phố. Nếu lý tính là tất cả thì chúng ta phải chấp nhận
thuyết hư vô, và không còn chỗ nào để đứng. Nếu người nào cho rằng ngoài tiền
bạc và danh vọng ra, tất cả đều bất khả tri thì y chỉ là một kẻ lừa bịp.
Immanuel Kant đã nói rất rõ ràng rằng chúng ta không thể nào xuyên thấu được
bức tường khủng khiếp chết người được gọi là lý tính. Nhưng sự kiện chúng ta
không thể vượt qua lý tính lại là quan niệm khởi đầu để làm cơ sở lập thuyết
cho tất cả tư tưởng Ấn Độ; quan niệm đó dám tìm tòi, và đã thành công khi tìm
ra được một cái gì đó cao siêu hơn lý tính, và chỉ tại đó ta mới tìm thấy lời
giải thích cho trạng thái hiện nay. Đó là giá trị của việc nghiên cứu Yoga, một
pháp môn đưa chúng ta vượt ra ngoài cõi thế. “Ngài là Cha của chúng con,
và sẽ đưa tất cả chúng con sang bờ bên kia của biển vô minh”. Chỉ có vượt
qua vô minh, chứ không phải là thứ gì khác, mới là mục tiêu của tôn giáo.
1
Giải thích pháp môn yoga.
2
Yoga là pháp môn điều tâm (chitta) để tâm khỏi mang muôn ngàn biến trạng (vritti).
Ở đây, cần giải thích đầy đủ và rõ ràng. Chúng ta cần phải hiểu tâm (chitta) là gì và những biến trạng (vritti)của tâm là gì. Tôi có đôi mắt. Đôi mắt không thực sự thấy được. Loại bỏ trung khu não bộ ra khỏi đầu, đôi mắt sẽ vẫn ở đó, võng mạc vẫn còn nguyên vẹn đó, cả hình ảnh của đối tượng lưu trên đó cũng thế, nhưng đôi mắt sẽ không thấy gì. Như vậy, đôi mắt chỉ là khí cụ thứ cấp, chứ không phải là là cơ quan thị giác. Cơ quan thị giác nằm tại trung khu não bộ. Chỉ có đôi mắt thôi thì không đủ. Có người ngủ mà mắt vẫn mở. Ánh sáng vẫn có đó và hình ảnh vẫn có đó, nhưng điều thứ ba mới là quan trọng : tâm trí phải tham dự cùng giác quan. Đôi mắt chỉ là khí cụ bên ngoài, chúng ta cũng phải cần đến trung khu não bộ và cần đến tâm trí làm tác nhân. Ngoài đường xe cộ đang qua lại nhưng các bạn không nghe thấy. Vì sao? Tâm trí các bạn không gắn chặt với cơ quan thính giác. Thứ nhất là khí cụ, thứ hai là cơ quan, và thứ ba là tâm trí phải gắn chặt với hai yếu tố này. Tâm trí đưa ấn tượng đó đi xa hơn nữa, và trình nó lên chức năng quyết định là bhuddhi hay trí năng; cơ quan này tạo ra phản ứng. Cùng với phản ứng này, ý tưởng vị kỷ sẽ lóe sáng lên. Kế đó, tác động và phản ứng phối hợp với nhau để trình lên Purusha hay Linh Hồn chân thực, và Linh Hồn nhận thức được một đối tượng trong sự phối hợp này.
Các cơ quan (indriyas) cùng với tâm trí (manas), chức năng quyết định (bhuddhi) và lòng vị kỷ (ahamkāra), tất cả những thứ này tạo nên một tổ hợp gọi là antahkarana hay khí cụ bên trong. Chúng chỉ là những tiến trình khác nhau trong tâm hay chitta. Các con sóng tư tưởng trong tâm được gọi là những vritti (dịch theo nghĩa đen là “xoáy nước”).
Tư tưởng là gì? Tư tưởng là lực, cũng như lực hấp dẫn hay lực đẩy. Từ kho tàng vô tận của lực trong tự nhiên, khí cụ được gọi là tâm nắm bắt lấy một lực nào đó, hấp thu nó và đưa nó ra bên ngoài thành tư tưởng. Lực này được cung cấp cho chúng ta thông qua thực phẩm, rồi nhờ thực phẩm đó, cơ thể nhận được năng lượng để vận động v.v…. Những lực khác, tế vi hơn, xuất lộ ra bên ngoài thành cái mà chúng ta gọi là tư tưởng. Bởi vậy, chúng ta thấy rằng tâm trí không thông minh, tuy thế nó lại có vẻ như là thông minh. Vì sao? Vì có một Linh Hồn thông minh ở đằng sau nó. Linh Hồn đó là sinh linh hữu tình duy nhất, còn tâm trí chỉ là những khí cụ, mà nhờ đó Linh Hồn mới nắm bắt được thế giới bên ngoài. Lấy cuốn sách này làm ví dụ, với tư cách là một cuốn sách thì nó không tồn tại bên ngoài, cái gì tồn tại bên ngoài đều xa lạ và bất khả tri. Cái bất khả tri đó đưa ra gợi ý cho tâm trí như một cú đấm, và tâm trí biểu lộ phản ứng dưới hình thức một cuốn sách, cũng như khi một hòn đá bị ném vào mặt nước thì nước bị ném ngược lại hòn đá dưới hình thức những con sóng. Vũ trụ thực là cơ hội cho phản ứng của tâm trí. Hình thể cuốn sách, hình thể con voi hay hình thể con người không nằm ở bên ngoài, tất cả những gì chúng ta nhận biết đều là phản ứng tinh thần đối với những gợi ý từ bên ngoài. Vật chất là “khả tính thường xuyên của cảm giác”, John Stuart Mill đã nói thế. Nó chỉ là sự gợi ý từ bên ngoài.
Hãy lấy con trai làm ví dụ. Các bạn đã biết ngọc trai được tạo ra như thế nào rồi. Một vật ký sinh được nhét vào bên trong cơ thể nó và tạo ra sự kích thích, con trai bèn tiết ra một loại men bọc lấy vật đó, nhờ đó mà tạo thành ngọc trai. Vũ trụ của kinh nghiệm là lớp men của riêng ta, có thể nói như vậy, và vũ trụ thực là vật ký sinh có tác dụng như hạt nhân đó. Con người bình thường sẽ không bao giờ hiểu được điều này, bởi vì khi cố gắng làm điều đó thì anh ta tiết ra một lớp men và chỉ thấy được lớp men của chính mình.
Bây giờ thì chúng ta hiểu được những biến trạng (vritti) này có nghĩa là gì rồi. Con người thực đứng đằng sau tâm trí, và tâm trí là khí cụ trong tay người đó. Chính trí thông minh của anh ta đang chắt lọc qua nó. Chỉ khi nào các bạn đứng đằng sau tâm trí thì nó mới trở nên thông minh được. Khi các bạn từ bỏ tâm trí thì nó vỡ tan tành, và chẳng là gì cả. Như vậy, các bạn hiểu được chitta có nghĩa là gì rồi. Chitta là tâm, và các biến trạng (vritti) là những con sóng lớn cùng những gợn sóng nhâp nhô trên đó khi có những tác nhân bên ngoài chạm vào. Những biến trạng này là toàn thể vũ trụ của chúng ta.
Ta không thể nhìn thấy đáy hồ, vì những gợn sóng lao xao khắp mặt hồ. Chúng ta có thể nhìn thấy được đáy hồ chỉ khi nào những gợn sóng không còn lao xao nữa và mặt hồ tĩnh lặng. Nếu nước bị vẩn đục hay bị xao động liên tục thì ta cũng không thể thấy đáy hồ. Nếu nước trong và không gợn sóng, ta sẽ thấy đáy hồ. Đáy hồ là Chân Ngã của chính ta, hồ nước là tâm và sóng là các biến trạng của tâm. Hơn nữa, tâm trí có ba trạng thái :
1. Thứ nhất được gọi là tamas, là trạng thái tăm tối vô minh, gặp ở nơi loài vật hoặc những kẻ ngu muội, nó chỉ gây nên tổn hại cho người khác. Không một tư tưởng nào đến được với trạng thái này.
2. Kế đó là rajas, đây là trạng thái năng động của tâm trí, những động cơ chính của trạng thái nầy là quyền năng và lạc phúc ” Ta sẽ có đầy quyền năng và chế phục được kẻ khác”.
3. Cuối cùng là trạng thái có tên sattva – có nghĩa là yên bình, tĩnh lặng. Trong trạng thái đó thì sóng lặng và nước hồ tâm thức trở nên trong suốt. Đó không phải là trạng thái bất động, mà trái lại còn hoạt động cực kỳ mãnh liệt. Đó là sự biểu hiện tối cao của năng lực tịnh tâm.
Hoạt động là điều dễ dàng. Cứ buông lỏng dây cương, và những con ngựa sẽ kéo các bạn lao xuống dốc. Ai cũng làm được điều đó. Nhưng chỉ có người dũng mãnh mới có thể ghìm cương những con ngựa đang chìm xuống nước. Điều gì đòi hỏi nhiều tinh thần dũng mãnh hơn, để mặc ngựa chạy hay ghìm chúng lại? Các bạn đừng nhẫm lẫn trạng thái trầm lặng của sattva với trạng thái lờ đờ, uể oải. Người trầm lặng là người đã chế ngự được những con sóng đó. Hoạt động là sự biểu hiện của sức mạnh dạng thấp, chế ngự trầm lặng mới là sự biểu hiện của sức mạnh cao siêu.
Tâm luôn cố quay về lại với trạng thái thuần tịnh tự nhiên lúc ban sơ, nhưng những cơ quan cứ kéo nó đi xa. Điều phục tâm, kiểm soát xu thế hướng ngoại của nó, bắt nó khởi đầu cuộc hành trình quay về với Cốt Tủy của Trí Huệ, đó là bước đầu của pháp môn yoga, bởi vì chỉ có bằng cách đó, tâm mới có thể quay về với trạng thái phù hợp với nó.
Dù tâm hiện hữu cả trong loài vật, từ loài thấp nhất đến loài cao nhất, nhưng chỉ nơi con người, ta mới thấy nó như là trí năng. Chứng nào chitta – hay tâm – còn chưa mang hình thức của trí năng thì nó không thể quay ngược về trạng thái ban sơ, thông qua tất cả những giai đoạn đó, để giải thoát linh hồn. Sự cứu rỗi lập tức không thể xảy ra nơi con bò hay con chó dù chúng có tâm trí, bởi vì tâm của chúng vẫn chưa mang được hình thức mà chúng ta gọi là trí năng.
Tâm tự hiển lộ qua các hình thức sau đây : phân tán, u tối, thu tâm, nhất tâm và định tâm. “Phân tán” là dạng hoạt động, xu hướng của nó là tự hiển lộ dưới hình thức vui sướng hay đau khổ. “U tối” là dạng vô minh, xu hướng của nó là gây tổn hại cho người khác. Theo các nhà chú giải thì “phân tán” là hình thức tự nhiên của chư thiên hay các devas, còn “u tối” là hình thức tự nhiên của ma quỷ. “Thu tâm” là hình thức khi tâm cố gắng tự đưa mình về tâm điểm, “nhất tâm” là hình thức khi tâm cố gắng tập trung, và hình thức “định tâm” đưa ta đến trạng thái samādhi hay định.
3
Vào lúc này (nghĩa là lúc tập trung tư tưởng) thì Người Thấy – tức Purusha – an trú trong nguyên trạng của mình.
Ngay khi sóng dừng và mặt hồ trở nên tĩnh lặng thì chúng ta thấy được đáy hồ. Đối với tâm trí cũng vậy, khi nó tĩnh lặng thì chúng ta thấy được nguyên tính của mình, ta không còn hòa lẫn với những biến trạng của tâm trí mà trở về chính là ta.
4
Vào lúc khác, (nghĩa là không ở trong trạng thái tập trung tư tưởng) thì Người Thấy – tức Purusha – đồng hóa với những biến trạng (vritti) đó.
Chẳng hạn một ai đó khiển trách tôi, điều đó tạo ra sự biến đổi trong tâm trí tôi, rồi tôi tự đồng hóa mình với biến trạng đó, hậu quả là phát sinh khốn khổ.
5
Có năm loại chuyển biến,
[một số]
gây đau khổ, [một số khác] thì không.
6
[Đây là] tri thức chân chính, vô phân biệt, vọng tưởng ngôn ngữ[13], giấc ngủ và ký ức.
7
Nhận thức trực tiếp, suy diễn, và chứng cứ vững chắc tạo nên tri thức chân chính hay những bằng chứng.
Khi hai nhận thức của chúng ta không gây nên mâu thuẫn với nhau thì ta gọi đó là bằng chứng. Tôi nghe một điều đó, và nếu nó mâu thuẫn với điều tôi đã nhận thức thì tôi không tin nó nữa, và tìm cách tống nó đi. Cũng có ba loại bằng chứng. Nhận thức trực tiếp, pratyaksham, có nghĩa là tất cả những gì chúng ta nhìn thấy hay cảm thụ tự nó đã là bằng chứng, nếu không có gì đánh lừa giác quan. Tôi nhìn thấy thế giới, đó là bằng chứng đầy đủ rằng nó tồn tại. Thứ hai là anumāna hay suy diễn : các bạn thấy một ký hiệu, và từ ký hiệu đó các bạn đi đến một sự vật có ý nghĩa. Thứ ba là āptavākyam, tức trực thức của hành giả yogi, của những người đã thấy được Chân Lý. Tất cả chúng ta đều đang đấu tranh để hướng tới tri thức đó. Các bạn và tôi phải đấu tranh vất vả để đến được với tri thức đó thông qua một tiến trình lý luận dài dòng tẻ nhạt, còn hành giả yogi là bậc thuần tịnh nên vượt ra ngoài những thứ đó. Đối với hành giả yogi thì quá khứ, hiện tại và tương lai hiện ra như một cuốn sách để đọc trong tâm trí, để đạt được tri thức đó, ông ta không cần phải trải qua tiến trình lý luận dài dòng tẻ nhạt như chúng ta phải làm, lời nói của vị đó tự nó đã là bằng chứng, bởi vì ông ta đã kiến chiếu được trí thức trong tự thân. Những vị đó là tác giả của những thánh kinh, bởi vậy, những thánh kinh đó là bằng chứng của chính họ. Nếu bất cứ vị nào như thế còn sống hiện giờ thì những lời nói của họ là bằng chứng của chính họ. Các triết gia khác tham dự vào cuộc tranh luận dài dòng về nhận thức trực tiếp hay āptavākyam này, và họ hỏi : “Cái gì làm bằng chứng cho lời họ nói?”. Bằng chứng là trực thức của các vị đó.
Bởi vì, bất cứ thứ gì tôi thấy đều là bằng chứng cho chính nó, và bất cứ thứ gì các bạn thấy cũng đều là bằng chứng cho chính nó, nếu điều đó không mâu thuẫn với bất kỳ tri thức nào trong quá khứ. Có một loại tri thức nằm bên ngoài giác quan, và hễ khi nào nó không mâu thuẫn với lý tính và kinh nghiệm của con người trong quá khứ thì tri thức đó tự nó đã là bằng chứng rồi. Bất cứ kẻ điên nào cũng có thể bước vô phòng này và bảo rằng y thấy thiên thần bay quanh mình, điều đó không đủ để làm bằng chứng. Thứ nhất, bằng chứng phải là tri thức chân thực; thứ hai, nó không được mâu thuẫn với tri thức trong quá khứ; và thứ ba là nó phải tùy thuộc vào tư cách của người đưa ra bằng chứng. Tôi nghe người ta bảo rằng tư cách của một người không quan trọng bằng lời họ nói. Trước hết, chúng ta cần phải nghe lời họ nói. Điều này có thể đúng trong những trường hợp khác, chẳng hạn một người có thể là kẻ độc ác, nhưng lại có phát minh về thiên văn học, song trong tôn giáo thì điều đó lại khác, bởi vì không một ai có tâm hồn bất tịnh mà lại có năng lực để vươn đến được chân lý trong tôn giáo.
Do đó, chúng ta phải thấy rằng vị nào tuyên bố rằng mình đã giác ngộ, là một āpta (người giác ngộ) thì trước hết, vị đó là một người hoàn toàn vị tha và thánh thiện; thứ hai, vị đó đã vượt ra ngoài phạm vi của giác quan; thứ ba, những gì vị đó nói đều không mâu thuẫn với tri thức của nhân loại trong quá khứ. Mọi phát kiến mới mẻ về chân lý đều không được mâu thuẫn với chân lý trong quá khứ mà phải khế hợp với nó. Và điều thứ tư, chân lý đó phải có khả năng kiểm chứng. Nếu một người nào đó nói : “Tôi đã nhìn thấy một linh ảnh”, và bảo tôi rằng tôi không thể thấy được thì tôi chẳng thể tin anh ta. Mọi người đều phải có năng lực tự mình nhìn thấy linh ảnh đó. Hơn nữa, không một kẻ buôn bán tri thức nào lại có thể là một āpta được. Một āpta phải đáp ứng được tất cả những điều kiện này : trước hết, các bạn phải thấy vị đó là một người thuần tịnh, không hề có một động cơ vị kỷ nào, không màng đến danh lợi; thứ hai, vị đó phải chứng tỏ được mình đã đạt được kinh nghiệm siêu thức; thứ ba, vị đó phải ban cho chúng ta một điều gì đó mang đến lợi ích cho thế gian mà chúng ta không thể tìm thấy trong phạm vi của giác quan. Và chúng ta phải thấy điều đó không mâu thuẫn với những chân lý khác, nếu nó mâu thuẫn với những chân lý khoa học thì hãy vất bỏ nó ngay lập tức. Và điều thứ tư, người giác ngộ không phải là một ngoai lệ, vị đó chỉ đại diện cho những gì mà tất cả mọi người đèu có khả năng đạt được. Như vậy, có ba loại bằng chứng là : 1.nhận thức trực tiếp bằng giác quan, 2.suy luận và 3.giáo lý của vị āpta đó. Āpta không phải là “người trải qua cơn thần hứng” hay “người được khải thị” theo cách hiểu của người phương Tây, vì người ta tin rằng khải thị đến từ bên ngoài, trong khi tri thức này xuất phát từ nội tâm. Hiểu theo nghĩa đen thì đó là “người đã thành chánh quả”.
8
Vô phân biệt là tri thức sai lầm không dựa trên thực tính của đối tượng.
Loại tiếp theo của những biến trạng (vritti) nêu ra ở đây là sự nhầm lẫn vật này thành vật nọ, chẳng hạn nhầm miếng vỏ hàu là miếng bạc.
9
Vọng tưởng ngôn ngữ theo sau lời nói, không có thực tại [tương ứng].
Có một loại khác của những biến trạng (vritti) là vikalpa hay vọng tưởng. Một lời được thốt ra, và chúng ta chẳng hề chờ xem ý nghĩa của nó, mà đưa ra kết luận vội vàng. Đó là dấu hiệu tâm yếu đuối. Bây giờ các bạn có thể hiểu được tính quan trọng của sự kiềm chế. Hễ con người càng yếu đuối thì càng ít kiềm chế. Hãy tự xét bản thân mình bằng sự thử thách đó. Khi các bạn sắp nổi nóng hay gặp cảnh khốn khổ, hãy phân tích điều đó cho ra lẽ, rồi sẽ thấy rằng những tin tức đến với các bạn đang ném tâm trí các bạn vào những biến trạng (vritti).
10
Giấc ngủ là một biến trạng bao hàm cảm giác rỗng không.
Loại tiếp theo của các biến trạng (vrittis) được gọi là giấc ngủ, bao hàm giấc mơ và giấc ngủ sâu. Khi tỉnh giấc thì chúng ta biết rằng mình đã ngủ, chúng ta chỉ có thể nhận thức được điều đó bằng cách hồi tưởng lại. Những gì không nhận thức được thì chúng ta không thể nhớ lại. Mọi phản ứng đều là một con sóng trên mặt hồ. Giờ đây, nếu như trong giấc ngủ mà trong tâm trí không gợn một con sóng nào thì sẽ không có nhận thức, dù tích cực hay tiêu cực, và do đó, sẽ không nhớ được chúng. Lý do trong khi ngủ mà ta vẫn còn nhớ lại được là vì trong giấc ngủ vẫn có những lớp sóng nào đó dao động trong tâm trí. Ký ức là một loại biến trạng (vritti) khác, được gọi là smriti.
11
Ký ức trổi dậy khi
[biến trạng của]
chủ thể được nhận thức không bị trôi qua mất đi [và quay về lại với ý thức thông qua những ấn tượng].
Ký ức có thể xuất phát từ nhận thức trực tiếp, từ tri thức sai lầm, từ vọng tưởng ngôn ngữ, hoặc từ giấc ngủ. Chẳng hạn, bạn nghe một lời nói. Lời nói đó như viên đá ném vào mặt nước hồ tâm, nó tạo ra gợn sóng, rồi gợn sóng đó lại tạo ra một loạt những gợn sóng khác. Đó là ký ức. Trong giấc ngủ là vậy đó. Khi một loại gợn sóng đặc biệt – được gọi là giấc ngủ – ném tâm (chitta) vào gợn sóng ký ức thì nó được gọi là giấc mơ. Mơ ngủ là một dạng gợn sóng khác, mà ở trạng thái tỉnh ta gọi là ký ức.
12
Những [biến trạng] này được điều khiển bởi tập luyện và tâm vô luyến cảm.
Muốn vô luyến cảm, tâm trí phải thuần tịnh, thiện lương và điều độ. Vì sao chúng ta phải tập luyện? Bởi vì mọi hoạt động giống như những dao động lăn tăn trên khắp mặt hồ. Khi những dao động này mất đi thì cái gì còn lại? Đó là các samskāra hay những ấn tượng. Khi một số lượng lớn những ấn tượng này lưu lại trong tâm trí thì chúng kết hợp lại, và biến thành thói quen. Người ta nói : “Thói quen là bản tính thứ hai”. Nó cũng là bản tính thứ nhất, là trọn cả bản tính của con người, chúng ta là gì thì mọi cái đó đều là kết quả của thói quen. Điều đó đem lại cho ta sự an ủi, bởi vì nếu nó chỉ là thói quen thì chúng ta không thể tạo hoặc hủy nó bất cứ lúc nào. Samskāra – hay ấn tượng – được lưu lại do những dao động này đi ra khỏi tâm trí, mỗi ấn tượng đều để lại kết quả. Tính cách của chúng ta là tổng số những ấn tượng đó, và tùy theo loại sóng nào chiếm ưu thế mà tính cách của ta sẽ mang tính chất ấy. Nếu điều thiện chiếm ưu thế thì ta thành người tốt, nếu điều ác chiếm ưu thế thì ta thành người xấu, nếu niềm vui chiếm ưu thế thì ta được hạnh phúc. Phương thuốc chữa trị duy nhất cho các thói quen xấu là những thói quen ngược lại, mọi thói quen xấu nào lưu lại ấn tượng đều phải bị thói quen tốt chế ngự. Hãy tiếp tục mà điều tốt, luôn suy nghĩ những tư tưởng thanh cao, thánh thiện, đó là cách duy nhất để trấn áp mọi ấn tượng thấp hèn. Đừng bao giờ bảo một người bất kỳ nào đó là kẻ hết thuốc chữa, bởi vì người đó chỉ đại diện cho một tính cách, một nhóm thói quen, và những thói quen đó có thể bị khống chế bởi thói quen mới tốt đẹp hơn. Tính cách là thói quen được lặp đi lặp lại, và chỉ thói quen được lặp đi lặp lại mới có thể sửa đổi được tính cách.
13
Phấn đấu không ngừng để kiềm chế hoàn toàn những biến trạng (vritti), đó là tập luyện.
Sự tập luyện này là gì? Đó là nỗ lực kiềm chế tâm trí, không để nó phóng xuất ra ngoài thành những con sóng.
14
Việc tập luyện có được một nền móng vững chắc nhờ những nỗ lực kiên trì với tình yêu bao la (vì cứu cánh)
Kiềm chế được tâm trí không thể trong ngày một ngày hai, mà phải trải qua một quá trình tập luyện lâu dài, bền bĩ.
15
Chế ngự được tham dục đối với những đối tượng mắt thấy tai nghe, đó là tâm vô luyến cảm hay vô chấp.
Hành động của chúng ta có hai nguyên động lực : những gì tự chúng ta nhìn thấy, và kinh nghiệm của người khác. Hai động lực này làm trong hồ nước tâm trí nổi dậy đủ loại sóng. Vô luyến cảm là năng lực chống lại hai động lực này và chế ngự được tâm trí. Buông xả hai động lực này là điều chúng ta cần. Tôi đang đi ngoài phố, một người chạy đến giật lấy cái đồng hồ của tôi. Đó là sự trải nghiệm của riêng tôi. Tự tôi thấy được sự kiện đó, và nó ném chitta (tâm) tôi vào một con sóng dưới hình thức của cơn giận dữ. Đừng để điều đó xảy ra. Nếu không thể kiềm chế được cơn giận thì các bạn chẳng là gì cả, nhưng nếu kiềm chế được thì các bạn có hạnh vairāgya – hay buông xả. Lại nữa, kinh nghiệm trần thế bảo ta rằng lạc thú xác thân là lý tưởng tối cao. Đây là những cám dỗ vô cùng khủng khiếp. Khước từ những lạc thú đó và không để tâm trí chen vào những con sóng liên quan với chúng, đó là buông xả, điều khiển được hai động lực sinh khởi từ kinh nghiệm của tôi và kinh nghiệm về người khác, và do đó không để tâm bị chúng chi phối, đó là buông xả. Tôi cần phải điều khiển được chúng, chứ không để chúng điều khiển tôi. Loại sức mạnh tinh thần như thế được gọi là buông xả. Vairāgya – hay buông xả – là con đường duy nhất dẫn đến tự do.
16
Đó là tâm vô chấp tuyệt đối, tâm đó từ bỏ hết mọi tham dục đối với các gunas và xuất phát từ sự liễu tri [thực tính của] Purusha
Sự biểu hiện tối cao của tinh thần vairāgya – hay buông xả – diễn ra khi ta hoàn toàn không còn bị thu hút bởi các gunas. Trước hết, chúng ta phải hiểu được Purusha – hay Chân Ngã – là gì, và các gunas là gì. Theo triết lý Yoga thì toàn bộ thế giới tự nhiên bao gồm ba guna, đó là các yếu tố hay các lực : một là tamas, hai là rajas, và ba là sattva. Cả ba guna này biểu hiện trong thế giới vật lý như là bóng tối hay sự thụ động, lực hút hay lực đẩy, và sự kết hợp của hai lực đó. Mọi hiện tượng trong tự nhiên, tất cả những hình thức biểu hiện đều được cấu tạo từ sự hết hợp hay tái hợp của ba lực này. Triết học Sāmkhya chia giới tự nhiên thành nhiều loại, Chân Ngã của con người vượt ra ngoài những loại đó, vượt ra ngoài thế giới tự nhiên. Nó rạng ngời, thuần tịnh và hoàn hảo. Bất kỳ trí thông minh nào mà ta thấy được trong tự nhiên chỉ là sự phản chiếu của Chân Ngã này lên tự nhiên. Thiên nhiên tự nó vô trí giác. Các bạn nên nhớ rằng danh từ nature – thiên nhiên, bản tính tự nhiên – bao bàm cả tâm trí. Tâm trí ở trong thiên nhiên, tư tưởng ở trong thiên nhiên, từ tư tưởng xuống đến hình thức vật chất thô sơ nhất, tất cả đều ở trong thiên nhiên, đều là sự biểu hiện của thiên nhiên. Thiên nhiên này che lấp Chân Ngã của con người, và khi thiên nhiên lấy đi tất cả những lớp màn che phủ thì Chân Ngã hiển lộ trong tất cả vẻ rực rỡ huy hoàng của Nó. Tâm vô luyến – như được mô tả trong câu cách ngôn 25, hiểu như là sự chế ngự được tham vọng trước những sự vật hay thế giới tự nhiên – là pháp trợ duyên thù thắng nhất để hướng đến việc hiển lộ Chân Ngã. Câu cách ngôn kế tiếp sau đây định nghĩa samādhi hay định, tức trạng thái tập trung tư tưởng tuyệt đối, mục tiêu của hành giả yogi.
17
Samādhi đi cùng với chánh trí là cái đạt được bằng lý luận, phân biệt, lạc phúc và tự ngã vô phẩm tính[14].
Samādhi – hay định – được chia thành hai loại : một là hữu tưởng định (samprajnāta samādhi)[15], và loại kia là phi tưởng định (asamprajnāta-samādhi). Trong cảnh giới hữu tưởng định xuất hiện tất cả những quyền năng chế ngự thiên nhiên. Loại thứ nhất được gọi là savitarka (hữu tầm)[16], hành giả đạt được khi chú tâm quán tưởng vào một đối tượng, và tách ly nó ra khỏi tất cả những đối tượng khác. Trong số hai mươi lăm phạm trù của trường phái Sāmkhya thì có hai loại đối tượng để quán tưởng : một loại gồm hai mươi bốn phạm trù vô tri giác trong thiên nhiên, và một loại là Purusha khả giác. Phần này của pháp môn Yoga đặt toàn bộ nền tảng trên triết học Sāmkhya, mà tôi đã trình bày với các bạn. Như các bạn còn nhớ, tự ngã cùng ý chí và tâm trí đều có một nền tảng chung gọi là chitta hay tâm, cả ba đều được tạo tác từ tâm. Tâm tiếp thu những sức mạnh từ thiên nhiên rồi phóng chiếu chúng thành tư tưởng. Phải có một trạng thái mà trong đó lực và vật chất hợp nhất thành một. Trạng thái đó được gọi là avyakta (vô tướng), hay trạng thái tiềm ẩn của thiên nhiên trước thời sáng tạo; toàn thể thiên nhiên, sau khi kết thúc một chu kỳ, sẽ quay về lại trạng thái đó để lại tiếp tục khai sinh cho một chu kỳ khác. Ở bên ngoài trạng thái đó là Purusha, hay Cốt Tủy của Trí Thông Minh.
Tri thức là quyền lực, ngay khi chúng ta bắt đầu hiểu được một sự vật thì chúng ta có quyền lực với nó, cũng vậy đó, khi tâm trí bắt đầu quán tưởng những nguyên tố khác nhau trong tự nhiên thì nó đạt được quyền lực với chúng. Loại quán tưởng lấy ngoại vật làm đối tượng được gọi là savitarka. Tarka có nghĩa là “câu hỏi“, và savitarka có nghĩa là “hữu tầm” hay “còn tra hỏi”. Loại quán tưởng này bao hàm việc tra hỏi các nguyên tố trong tự nhiên, có thể nói như vậy, để chúng chịu trao những quyền năng cho hành giả yogi quán tưởng chúng. Không bao giờ có sự giải thoát trong việc tìm cầu quyền năng. Đó là sự theo đuổi lạc thú trần gian, và không có lạc thú thực sự trong cõi đời này. Mọi cuộc theo đuổi lạc thú đều hoài công vô ích, đó là bài học xa xưa, rất xa xưa mà con người thấy khó lòng học được. Khi nào con người học được bài học đó thì họ thoát ra khỏi vũ trụ, và trở nên tự do. Sở hữu những thứ được cho là quyền năng huyền bí chỉ làm sâu sắc thêm bản chất trần tục, rốt cuộc càng gây thêm khổ đau. Dù đạo sư Patanjali – với tư cách là một nhà khoa học – buộc lòng phải chỉ ra những khả tính của bộ môn khoa học này, nhưng ông không bao giờ quên cảnh báo chúng ta trước những quyền năng đó.
Lại nữa, cũng trong pháp môn quán tưởng này, khi hành giả cố gắng lấy được những nguyên tố đó ra khỏi thời gian và không gian, rồi trầm tư về chúng y như thực thì được gọi là nirvitarka-samādhi hay vô tầm định, tức là một loại “định không còn tra hỏi“. Khi công phu quán tưởng tiến thêm một bước cao hơn và lấy các Tanmātras là đối tượng quán tưởng, rồi trầm tư về chúng như đang hiện hữu trong thời gian và không gian thì được gọi là savichāra-samādhi hay hữu phân biệt định, tức là một loại “định có phân biệt“; cũng trong pháp môn quán tưởng này, khi hành giả đã xả trừ được thời gian và không gian, và trầm tư về những nguyên tố y như thực thì được gọi là nirvichāra-samādhi hay vô phân biệt định, tức là một loại “định không còn phân biệt“.
Trong bước tiếp theo, mọi nguyên tố tinh hay thô đều bị loại bỏ, xả ly; đối tượng quán tưởng là cơ quan bên trong, hay cơ quan tư duy. Khi cơ quan tư duy được quán tưởng như đã xả ly hết mọi phẩm tính hoạt động lẫn thụ động thì dẫn đến trạng thái sānanda-samādhi hay hỷ lạc định [blissful samādhi]. Khi tâm trí – đã xả ly hết mọi yếu tố bất tịnh của rajas và tamas – là đối tượng quán tưởng, khi tâm trí đã trở nên thuần thục và tập trung, khi mọi ý tưởng về vật chất thô hay tinh đều bị trừ, khi chỉ còn trạng thái sattva về tự ngã – nhưng vẫn khác biệt với mọi đối tượng khác – thì trạng thái đó được gọi là asmitā-samādhi[17]. Ngay cả trong trạng thái đó, hành giả cũng chưa hoàn toàn siêu việt được tâm trí. Hành giả đạt đến trạng thái, trong kinh Veda gọi là videha có nghĩa là “xả ly thân xác”. Hành giả có thể tư duy về chính mình như không hề có thể xác thô, mà phải tư duy về chính mình như là thể xác tế vi. Trong trạng thái ấy, hành giả nào hòa nhập vào tự nhiên mà không đạt đến mục tiêu thì được gọi là prakritilinas, còn những hành giả nào không dừng lại ở trạng thái này thì sẽ đạt đến mục tiêu là tự do, giải thoát.
18
Có một trạng thái samādhi khác, đạt được bằng cách luyện tập thường xuyên để dứt bặt mọi hoạt động tinh thần, trong đó chitta (tâm) chi còn lưu lại những ấn tượng tiềm ẩn.
Đó là phi tưởng định (asamprajnāta-samādhi) hay trạng thái vô thức tuyệt đối, giúp ta giải thoát. Trạng thái thứ nhất không đem lại cho chúng ta sự tự do, cũng không thể giải thoát được linh hồn. Một người có thể đạt được tất cả những quyền năng nhưng vẫn bị đọa trở lại. Không có gì bảo vệ được linh hồn, cho đến khi nào nó vượt thoát khỏi tự nhiên. Rất khó mà thực hiện được điều này, mặc dù phương pháp có vẻ như rất dễ. Phương pháp đó là tập trung tâm trí vào một đối tượng, bất cứ thứ nảy sinh trong tâm trí, hãy quật ngã nó đi, không để một tư tưởng nào nảy sinh trong tâm trí nữa, để cho tâm trí hoàn toàn rỗng không. Khi thực sự làm được điều này thì ngay lúc đó chúng ta đạt đến giải thoát. Khi một người không có chuẩn bị hay luyện tập gì mà cố gắng làm cho tâm trí mình rỗng không thì rất có thể họ chỉ thành công trong việc che phủ tâm trí mình bằng những tamas, tức chất liệu của vô minh, là những thứ làm cho tâm trí u tối và mê muội, khiến họ ngỡ đã làm cho tâm trí được rỗng không. Có thể thực sự thực hành được điều đó là sự biểu hiện của một sức mạnh tối cao và khả năng chế ngự tối cao.
Khi đạt đến trạng thái vô tưởng thì định (samādhi) này không còn mầm móng tạo tác. Điều đó có nghĩa là gì? Trong trạng thái tập trung có ý thức, khi tâm trí chỉ thành công trong việc dập tắt những đợt sóng trong chitta (tâm) và kiềm chế chúng thì chúng vẫn còn tồn tại dưới dạng những xu hướng; và những xu hướng này, hay hạt mầm, sẽ lại biến thành sóng khi có cơ hội. Khi các bạn đã hủy diệt toàn triệt mọi xu hướng, hầu như hủy diệt tâm trí thì định (samādhi) này không còn mầm móng tạo tác nữa, trong tâm trí các bạn không còn một hạt mầm nào có thể phát triển trở lại để thành cây đời sống – tức cái vòng sinh tử luân hồi vô tận. Các bạn có thể hỏi trạng thái không còn tâm trí, không còn tri thức đó là gì. Cái mà chúng ta gọi là tri thức là trạng thái thấp kém hơn trạng thái vượt ngoài tri thức. Các bạn cần luôn nhớ rằng các cực đoan nhìn có vẻ giống hệt nhau. Nếu dao động của ê-te quá thấp thì ta thấy tối đen, ở mức dao động trung bình thì ta thấy ánh sáng, nhưng khi dao động lên quá cao thì ta thấy tối đen trở lại. Cũng vậy, ngu dốt là trạng thái thấp nhất, tri thức là trạng thái trung bình, và vượt ngoài tri thức là trạng thái cao nhất, cả hai cực đoan tựa hồ giống nhau. Bản thân tri thức là một cái gì đó được tạo ra, là một sự kết hợp, nó không phải là Thực Tại.
Thường xuyên tập luyện tập trung tư tưởng cao độ sẽ mang đến kết quả gì? Mọi xu hướng trì độn cũ sẽ bị phá hủy, mọi xu hướng thiện hảo cũng vậy. Trường hợp này cũng giống như dùng hóa chất để tách chất xỉ ra khỏi quặng vàng. Khi quặng vàng được nấu chảy thì chất xỉ cũng tan theo hóa chất. Cũng vậy đó, năng lực chế ngự thường xuyên này sẽ chặn đứng những xu hướng xấu xa trước đó, và rốt cuộc cũng chặn đứng luôn những xu hướng tốt đẹp. Những xu hướng tốt xấu, thiện ác sẽ hủy diệt lẫn nhau, chỉ còn lại Linh Hồn trong vẻ rực rỡ rạng ngời, tự tại an nhiên giữa thiện ác, toàn nhiên phổ hiện và toàn năng, toàn trí. Khi hiểu rằng không có sinh tử thì con người chẳng cần chi đến thiên đàng hay địa ngục nữa. Họ biết mình vốn bất lai bất khứ, có nghĩa là thiên nhiên là dịch chuyển và sự dịch chuyển đó phản chiếu trên Linh Hồn. Hình ảnh của ánh sáng phản chiếu trên bức tường mới là cái dịch chuyển, nhưng bức tường lại khờ khạo ngỡ rằng nó đang dịch chuyển. Tất cả chúng ta cũng thế, chính chitta (tâm) mới thường xuyên dịch chuyển, tự khoác đủ mọi hình tướng, và chúng ta cứ ngỡ rằng mình là những hình tướng khác nhau đó. Tất cả những vọng tưởng đó sẽ tan biến hết. Khi Linh Hồn tự tại đó ra lệnh – không phải cầu xin hay nài nĩ, mà là ra lệnh – thì tất cả những gì Nó thích đều sẽ được thành tựu ngay lập tức, những gì Nó muốn thì Nó đều có thể làm được.
Theo triết học Sāmkhya thì không có Thượng Đế. Triết học đó cho rằng không thể có bất kỳ Thượng Đế nào trong vũ trụ này, vì nếu có thì Ngài phải là một linh hồn, mà đã là linh hồn thì phải hoặc bị trói buộc hoặc tự do. Làm thế nào mà một linh hồn bị ràng buộc bởi tự nhiên, bị khống chế bởi tự nhiên lại có thể sáng tạo? Bản thân nó là một nô lệ. Mặc khác, vì sao mà một Linh Hồn tự do tự tại có thể sáng tạo và sắp đặt được muôn loài? Nó không có tham vọng, do đó sẽ không có nhu cầu sáng tạo. Thứ hai, triết học đó cho rằng một học thuyết về Thượng Đế là điều không cần thiết, vì thiên nhiên đã giải thích hết mọi điều. Vậy thì còn cần đến Thượng Đế làm gì? Nhưng Kaplila[18] dạy rằng có nhiều linh hồn gần đạt đến sự toàn mãn, nhưng lại nửa đường đứt gánh vì không thể từ bỏ hoàn toàn tất cả những quyền năng. Tâm trí họ có lúc hợp nhất với thiên nhiên, rồi lại tái hợp nhất như là chủ nhân của nó. Những linh hồn đó được gọi là chư thiên. Có chư thiên như thế. Tất cả chúng ta sẽ trở thành chư thiên, và theo triết học Sāmkhya thì vị Thượng Đế được nhắc đến trong kinh Veda thực ra chỉ là một trong những linh hồn đã giải thoát. Bên ngoài những linh hồn đó, không hề có một đấng Sáng Tạo mãi mãi tự do và vĩnh viễn hưởng lạc phúc nào tạo ra vũ trụ cả.
Mặt khác, các hành giả yogi nói : “Không phải vậy. Có một Thượng Đế. Có một Linh Hồn tách biệt khỏi mọi linh hồn, và Ngài là vị Chủ Nhân vĩnh viễn của mọi tạo vật, đấng Vĩnh Viễn Giải Thoát, vị Đạo Sư của tất cả những đạo sư”. Những hành giả yogi chấp nhận rằng những linh hồn mà triết học Sāmkhya cho là “hợp nhất với thiên nhiên” đó cũng tồn tại. Đó là những hành giả yogi nửa đường đứt gánh không đạt đến sự toàn mãn, mặc dù có một giai đoạn, khi bị cản trở không đạt đến được mục tiêu, họ trở thành những người cai quản một phần của vũ trụ.
19
(Samādhi này, khi không đi cùng tâm vô luyến cảm tuyệt đối) trở thành nguyên nhân khiến chư thần cùng những vị đã hợp nhất cùng thiên nhiên phải tái hiển lộ mình.
Chư thần trong các hệ thống triết học Ấn Độ đai diện cho những chức vụ cao cấp nào đó, những chức vụ này được lấp đầy bởi nhiều linh hồn kế tục nhau. Nhưng không có một linh hồn nào là hoàn hảo.
20
Đối với những vị khác (thì samādhi này) đạt được bằng đức tin, năng lực, ghi nhớ, tập trung tư tưởng, và phân biệt cái thực với cái bất thực
Câu cách ngôn này muốn nói đến những vị không màng đến ngôi vị của chư thần, thậm chí cả ngôi vị của người cai quản những chu ký sinh hóa trong vũ trụ, những vị đó đạt đến cảnh giới giải thoát.
21
Thành quả đến rất nhanh với những người tràn đầy nghị lực.
22
Thành quả của những hành giả yogi khác nhau tùy theo họ sử dụng phương tiện nhẹ nhàng, vừa phải hay mạnh mẽ.
23
Hoặc (samādhi này đạt được) sự tận hiến dành cho đấng Iśvara.
24
Iśvara (đấng Chủ Tể Tối Cao) là một Purusha đặc biệt, vô nhiễm trước cảnh khốn khổ, trước thành quả của hành động hay khát vọng.
Chúng ta phải lại nhớ rằng triết học Yoga của Patanjali dựa trên triết học của Sāmkhya, chỉ có điểm khác biệt là triết học Sāmkhya không dành chỗ cho Thượng Đế, trong khi các hành giả yogi thì có. Tuy nhiên những hành giả yogi không kết hợp Thượng Đế với quan niệm sáng tạo và duy trì vũ trụ. Thượng Đế, hiểu theo nghĩa là đấng Sáng Tạo vũ trụ, không phải là đấng Iśvara theo cách hiểu của các hành giả yogi. Theo các kinh Veda thì Iśvara là đấng Sáng Tạo vũ trụ, bởi vì vũ trụ hòa hài, hòa điệu, nên nó phải là sự biểu hiện của ý chí chúng ta. Các hành giả yogi cũng muốn dựng lên một Thượng Đế, nhưng họ tiếp cận với Ngài theo một cách riêng. Họ nói :
25
Ở nơi Ngài thì nhất thiết trí trở nên vô biên vô tận, trong khi ở nơi người khác thì nó chỉ là một hạt mầm.
Tâm trí luôn du hành giữa hai thái cực. Các bạn có thể nghĩ đến một vùng không gian giới hạn, nhưng chính ý tưởng đó cũng có thể cho bạn một không gian bao la vô tận. Thử nhắm mắt và nghĩ đến một phạm vi hạn chế, khi các bạn nhận thức được phạm vi hạn chế đó thì đồng thời các bạn lại có một phạm vi bao quanh nó với chiều kích vô biên. Đối với thời gian cũng vậy. Thử nghĩ đến khoảng thời gian một giây thì đồng thời với nhận thức đó, các bạn sẽ phải nghĩ đến thời gian vô tận. Đối với tri thức cũng thế. Nơi con người, tri thức chỉ là một hạt mầm, nhưng các bạn phải nghĩ đến tri thức vô hạn quanh nó. Bởi vậy, chính cấu trúc của tâm trí chúng ta cho ta thấy có một loại tri thức giới hạn, và các hành giả yogi bảo rằng tri thức giới hạn đó thuộc về Thượng Đế.
26
Người là đấng Đạo Sư của cả những đạo sư thời cổ đại, không bị giới hạn bởi thời gian.
Mọi tri thức đều có ở trong ta, điều đó là thật, nhưng tri thức đó được khơi dậy bởi một tri thức khác. Mặc dù khả năng nhận thức có sẵn trong ta, nhưng nó cần phải được đánh thức, và hành giả yogi khẳng định rằng tri thức đó phải được khơi dậy bởi một tri thức khác. Vật chất trơ lì vô cảm không bao giờ có thể khơi dậy được tri thức. Chỉ có hoạt động của tri thức mới làm phát sinh tri thức. Những bậc thiện tri thức phải giúp chúng ta đánh thức được những gì tiềm ẩn trong ta, bởi vậy những vị đạo sư này luôn luôn đóng vai trò quan trọng. Thế gian này chưa bao giờ thiếu vắng họ, và không một tri thức nào có thể phát sinh nếu không có họ. Thượng Đế là Đạo Sư của cả những đạo sư, bởi vì tất cả những đạo sư này – dù họ có thể vĩ đại đến đâu đi nữa, dù họ có là chư thiên hay thiên sứ – cũng đều bị ràng buộc và giới hạn bởi thời gian, trong khi Thượng Đế thì không.
Có hai điều suy diễn đặc thù từ những hành giả yogi. Thứ nhất, khi nghĩ đến cái hữu hạn thì tâm trí lại phải nghĩ đến cái vô hạn, và nếu như một phần của nhận thức là đúng thì phần kia cũng phải đúng, bởi lẽ giá trị của chúng về mặt nhận thức của chúng là tương đương. Tri thức con người quá hạn chế, chính sự kiện đó chứng minh rằng tri thức của Thượng Đế là vô tận. Nếu tôi chấp nhận phần này thì sao lại không chấp nhận nốt phần kia? Lý tính buộc tôi phải chấp nhận cả hai hoặc chối bỏ cả hai. Nếu tôi chấp nhận rằng có một con người mang tri thức hữu hạn thì tôi phải chấp nhận rằng có một ai đó mà đằng sau anh ta có trí thức vô hạn. Điều suy diễn thứ hai là không một tri thức nào không thầy mà có[19]. Điều đó là thật, như các triết gia hiện đại cho rằng có một cái gì đó tiến hóa nơi con người từ bản thân họ. Mọi tri thức đều có sẵn trong ta, nhưng phải có một môi trường cần thiết để đánh thức chúng dậy. Chúng ta không thể tìm được bất kỳ tri thức nào nếu không có thầy. Mặc dù có những vị thầy là người, là chư thiên hay thiên sứ, nhưng tất cả những vị đó đều có tri thức hạn chế. Ai là vị đạo sư trước họ? Rốt cuộc, chúng ta buộc phải công nhận có một vị Đạo Sư không bị giới hạn bởi thời gian, vô thủy vô chung và có tri thức vô tận, được gọi là Thượng Đế.
27
Âm làm Ngài hiển lộ là OM.
Mọi ý tưởng trong tâm trí chúng ta đều có phần đối ứng trong ngôn từ; ngôn từ và tư tưởng không thể tách lìa nhau. Phần bên ngoài của một sự vật thì ta gọi là ngôn từ, và phần bên trong của chính sự vật đó thì ta gọi là tư tưởng. Không một ai có thể dùng phương pháp phân tích để tách lìa tư tưởng ra khỏi ngôn từ. Quan niệm cho rằng con người sáng tạo nên ngôn ngữ – những người nào đó ngồi lại với nhau và quyết định ý nghĩa của ngôn từ – đã chứng tỏ là sai lầm. Chừng nào con người còn tồn tại thì còn có ngôn từ và ngôn ngữ[20].
Giữa tư tưởng và ngôn từ có mối quan hệ gì? Mặc dù ta thấy rằng luôn phải có một ngôn từ đi cùng với một tư tưởng, nhưng một tư tưởng tương tự lại yêu cầu phải cùng một ngôn từ tương tự thì điều đó không cần thiết. Tư tưởng có thể y nguyên không đổi trong suốt hai mươi thế kỷ, nhưng ngôn ngữ thì khác biệt. Chúng ta phải có một ngôn từ để diễn đạt mỗi tư tưởng, nhưng những ngôn từ đó không nhất thiết phải có âm giống nhau. Âm đọc sẽ biến đổi theo từng quốc gia khác nhau. Một nhà chú giải bảo : “Mặc dù mối quan hệ giữa tư tưởng và ngôn từ là hoàn toàn tự nhiên, nhưng điều đó không có nghĩa là có sự kết hợp chặt chẽ giữa một ý tưởng với một âm đọc”. Những âm đọc này biến đổi, nhưng mối quan hệ giữa những âm đó với các tư tưởng là mối quan hệ tự nhiên. Sự kết hợp giữa tư tưởng và âm thanh chỉ tốt đẹp khi có sự kết hợp thực sự giữa sự vật được biểu nghĩa [thing signified] với biểu tượng, và chừng nào điều đó chưa có thì biểu tượng đó sẽ không bao giờ được sử dụng phổ biến. Biểu tượng là cái biểu hiện của sự vật được biểu nghĩa, và nếu sự vật được biểu nghĩa đã tồn tại rồi, và nếu bằng kinh nghiệm mà chúng ta biết rằng biểu tượng đó đã diễn đạt sự vật đó nhiều lần rồi thì chúng ta yên tâm rằng giữa chúng có một mối quan hệ thực sự. Thậm chí nếu sự vật đó không hiện hữu thì vẫn có hàng ngàn người sẽ biết chúng nhờ những biểu tượng về nó. Phải có một sự kết hợp tự nhiên giữa biểu tượng và sự vật được biểu nghĩa, như vậy, khi biểu tượng đó được phát âm thì nó gợi nhớ lại sự vật được biểu nghĩa.
Nhà chú giải Pantanjali nói rằng từ biểu hiện Thượng Đế là OM. Vì sao ông lại nhấn mạnh đến từ này? Có hàng trăm từ nói về Thượng Đế. Mỗi tư tưởng lại được nối kết với hàng ngàn ngôn từ, quan niệm về Thượng Đế được kết nối với hàng trăm từ, và mỗi từ đều là biểu tượng đại diện cho Thượng Đế. Tốt lắm. Nhưng giữa tất cả những ngôn từ đó hẳn phải có tính phổ quát, phải có một chất liệu nền nào đó, một cơ sở nào đó cho tất cả những biểu tượng này, và biểu tượng nào phổ biến nhất sẽ là biểu tượng tối ưu nhất, và sẽ thực sự là biểu tượng cho tất cả. Khi tạo ra âm thanh, chúng ta sử dụng thanh quản và vòm miệng như một màng hướng âm. Có âm nào đọc trôi chảy mà mọi âm khác đều là sự hiển lộ của nó, là âm tự nhiên nhất chăng? Om (Aum) là âm như thế, nó là nền tảng của mọi âm. Mẫu tự đầu tiên, A[21], là âm gốc, là từ khóa, được phát âm mà không đụng đến phần nào của lưỡi hay vòm họng, M đại diện cho âm cuối cùng của loạt âm này, được phát âm bằng cách mím môi, và U cuộn từ tận gốc đến tận cùng màng hướng âm của miệng. Do đó, âm Om đại diện cho toàn bộ hiện tượng phát âm. Như thế, nó phải là âm tự nhiên, là chất liệu nền cho tất cả những âm khác nhau. Nó biểu thị toàn bộ phạm vi và khả tính của mọi ngôn từ có thể được phát âm.
Ngoài những suy đoán này, chúng ta còn thấy tất cả những quan niệm tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ đều lấy từ Om này làm tâm điểm, mọi quan niệm tôn giáo trong kinh Veda đều tập trung chung quanh từ Om này. Điều này có liên quan gì với nước Mỹ, nước Anh hay một quốc gia nào khác? Đơn giản là từ đó đã được duy trì tại mọi giai đoạn phát triển tôn giáo ở Ấn Độ, và đã được vận dụng để chỉ mọi quan niệm khác nhau về Thượng Đế. Những người theo thuyết nhất nguyên, nhị nguyên, hay thuyết ly khai [separatist], thậm chí cả những người theo thuyết vô thần cũng đều đón nhận từ Om này. Om đã trở thành biểu tượng duy nhất cho khát vọng tôn giáo của đại đa số nhân loại. Lấy ví dụ từ God trong tiếng Anh. Từ God chỉ bao hàm một chức năng giới hạn, muốn mở rộng thêm ý nghĩa của nó, các bạn phải thêm các tính từ như Thượng Đế Nhân Thể [Personal God], Thượng Đế Phi Nhân Thể [Impersonal God] hay Thượng Đế Tuyệt Đối [Absolute God]. Các từ dùng để chỉ Thượng Đế trong các ngôn ngữ khác cũng vậy, ý nghĩa của chúng rất hạn chế. Còn từ Om này có đầy đủ mọi các ý nghĩa khác nhau chung quanh nó. Nhờ đó mà nó nên được tất cả mọi người công nhận.
28
Lặp lại từ Om và quán tưởng ý nghĩa của nó (là pháp môn tu tập).
Vì sao ta nên lặp đi lặp lại? Chúng ta không được quên rằng theo triết học Sāmkhya thì tổng số những ấn tượng tồn tại trong tâm trí. Chúng tồn tại trong tâm trí và ngày càng tiềm ẩn, nhưng vẫn nằm nơi đó, và khi được kích thích đúng cách thì chúng lập tức xuất hiện. Dao động của nguyên tử không bao giờ ngừng lại. Khi vũ trụ này bị hủy diệt, khi tất cả khối dao động khổng lồ đều tan biến, mặt trời, mặt trăng và trái đất đều tan chảy, nhưng những dao động này vẫn tồn tại trong những nguyên tử. Mỗi nguyên tử sẽ thực hiện chức năng tương tự như những thế giới rộng lớn. Do đó, ngay cả khi những dao động của chitta – hay tâm – lắng xuống thì những dao động ở dạng nguyên tử của nó vẫn cứ tiếp tục như cũ, và khi nhận được xung lực thì chúng lại xuất hiện.
Bây giờ thì chúng ta có thể hiểu được phương pháp lặp đi lặp lại có nghĩa là gì rồi. Đó là lực kích thích vĩ đại nhất tác động đến những ấn tượng (samskāra) tâm linh. “Một phút giây kết hợp cùng đấng Linh Thiêng tạo nên con tàu băng qua đại dương sinh tử”. Đó là sức mạnh của sự kết hợp. Do đó, việc lặp đi lặp lại từ Om và tư duy về mật nghĩa của nó sẽ kết hợp tốt cùng tâm trí các bạn. Hãy nghiên cứu, rồi quán tưởng về những gì các bạn đã nghiên cứu. Như thế ánh sáng sẽ đến cùng các bạn, và Chân Ngã sẽ hiển lộ. Nhưng ta cũng phải tư duy về từ Om và mật nghĩa của nó.
Tránh kết giao với kẻ xấu, bởi vì những vết thương cũ vẫn còn ở trong ta, và việc kết giao với kẻ xấu giống như điều kiện cần thiết làm các vết thương đó bung ra. Tương tự như vậy, kinh sách bảo ta rằng kết giao với các bậc thiện tri thức sẽ khơi dậy những ấn tượng tốt đang tiềm ẩn trong ta. Trên thế gian này không có gì thiêng liêng hơn việc kết giao với các bậc thiện tri thức, bởi vì những ấn tượng tốt đẹp sẽ theo xu hướng này này mà lộ diện.
29
Từ đó mà đạt được năng lực nội quán, và phá hủy mọi chướng ngại.
Hiệu quả đầu tiên của việc lặp đi lặp lại từ Om và quán tưởng mật nghĩa của nó là năng lực nội quán hiển lộ ngày càng rõ ràng, và tất cả những chướng ngại tinh thần cùng thể xác sẽ bắt đầu tan biến. Những gì là chướng ngại đối với hành giả yogi?
30
Bệnh tật, tâm trí uể oải, nghi ngờ, thiếu nhiệt tình, lờ đờ, mê say lạc thú, vọng tưởng, không tập trung tư tưởng, đã đạt được trạng thái định rồi lại xa lìa – đó là những mối phóng tâm gây nên chướng ngại.
Bệnh tật. Thể xác này là một con thuyền sẽ đưa ta vượt đến bờ bên kia của đại dương sinh tử. Cần phải chăm sóc nó. Những người ốm yếu không thể là hành giả yogi. Sự uể oải tinh thần khiến ta đánh mất hết nhiệt tình say sưa với chủ đề này, mà thiếu đi nhiệt tình đó thì sẽ không có ý chí hay năng lực để thực hành. Cho dù niềm tin bằng trí năng có kiên định đến đâu đi nữa thì tâm trí sẽ hoài nghi chân lý của khoa học Yoga, cho đến khi nào ta trải qua những kinh nghiệm tâm linh nào đó như nghe, thấy được từ xa. Những cảm nhận thoáng qua này củng cố tâm trí và giúp hành giả thêm kiên định. Xả ly trạng thái định tâm sau khi đã đạt được nó. Trong một vài ngày hoặc một đôi tuần, khi các bạn đang thực hành, tâm trí sẽ tĩnh lặng và dễ dàng tập trung, các bạn sẽ thấy mình tiến bộ nhanh chóng. Cho đến một ngày, sự tiến bộ sẽ đột nhiên dừng lại, và các bạn sẽ thấy mình, có thể nói như vậy, lâm vào tình huống nan giải. Hãy kiên trì. Mọi sự tiến bộ đều lên xuống kế tục nhau như vậy cả.
31
Đau buồn, khốn khổ tinh thần, chấn động thể xác, hơi thở bất thường, những thứ này đi cùng với trạng thái xao lãng tập trung.
Mỗi khi được luyện tập thì trạng thái tập trung tinh thần sẽ mang đến sự nghỉ ngơi hoàn hảo cho tâm trí và thể xác. Khi luyện tập sai cách, hoặc điều khiển trạng thái tập trung không tốt thì những nhiễu loạn trên sẽ xuất hiện. Lặp lại từ Om và phó mặc cho Thượng Đế, điều đó sẽ củng cố tâm trí và mang đến nguồn năng lực tươi trẻ. Hầu như người nào cũng gặp những cơn chấn động thần kinh. Đừng quan tâm gì đến chúng, mà cứ tiếp tục luyện tập. Luyện tập sẽ khắc phục những hiện tượng đó, và giữ cho tư thế ngồi được vững vàng.
32
Để khắc phục được điều này [hành giả nên] thực hành trên một đối tượng.
Để tâm trí mang hình thức của một đối tượng duy nhất trong một khoảng thời gian, điều đó sẽ phá hủy các chướng ngại này. Đây là lời khuyên chung. Trong những câu cách ngôn tiếp theo đây, điều này sẽ được giải thích cụ thể. Không có một phương pháp luyện tập nào phù hợp với tất cả mọi người, và mỗi người sẽ dựa vào kinh nghiệm thực tế để tìm ra phương pháp tối ưu cho mình.
33
Cảm xúc về tình bạn, lòng nhân từ, niềm vui, sự lãnh đạm – trong mối liên quan tương ứng với những đối tượng hạnh phúc, bất hạnh, thiện ác – làm định tâm.
Chúng ta phải có bốn loại thái độ. Chúng ta phải thân thiết với tất cả mọi người, chúng ta phải có lòng nhân từ đối với tất cả những kẻ khốn khổ, biết vui cùng cái vui của mọi người, và phải lãnh đạm với kẻ xấu ác. Đối với tất cả những đối tượng của tư tưởng xuất hiện trước mắt chúng ta cũng vậy. Nếu đó là đối tượng tốt, ta sẽ tỏ ra thân thiện với nó, nếu đối tượng của tư tưởng đó là sự việc khốn khổ thì ta phải có lòng nhân từ. Nếu đó là đối tượng tốt thì ta phải vui mừng, còn nếu đó là đối tượng xấu thì ta phải thờ ơ lãnh đạm. Những thái độ đó của tâm trí đối với các đối tượng khác nhau xuất hiện trước nó sẽ làm cho tâm trí được yên bình. Hầu hết những khốn khó ta gặp trong đời sống thường ngày là do chúng ta không thể giữ được tâm trí yên bình theo cách này. Ví dụ, nếu có một kẻ làm hại ta, lập tức ta muốn phản ứng lại ngay điều xấu xa. Mọi phản ứng dưới hình thức xấu xa cho thấy chúng ta không thể giữ kiềm chế được tâm mình, tâm phóng xuất thành những con sóng hướng về đối tượng, và chúng ta đánh mất năng lực tinh thần. Mọi phản ứng dưới hình thức hận thù hay độc ác đều gây tổn thất lớn lao cho tâm trí, và mọi ý tưởng xấu xa hay hành vi thù hận hoặc ý tưởng muốn phản ứng, nếu được chế ngự, sẽ đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích. Khi chế ngự bản thân, chúng ta đã không mất mát gì cả mà còn gặt hái được nhiều vô kể, hơn cả sự mong đợi. Mỗi khi đè nén được lòng thù hận hoặc cảm giác giận dữ thì rất nhiều năng lượng tốt được tích lũy thuận lợi cho ta, và năng lượng đó sẽ được chuyển hóa thành những năng lực cao hơn.
34
Bằng cách thở ra và nén hơi thở [tâm sẽ được bình yên].
Từ được dùng ở đây là prāna. Prāna không chính xác là hơi thở. Nó là tên gọi của năng lượng tràn ngập trong vũ trụ. Bất cứ những gì các bạn thấy trong vũ trụ, bất cứ thứ gì chuyển động hay hoạt động, hoặc có sự sống, đều là sự biểu hiện của prāna. Tổng số những năng lượng biểu hiện trong vũ trụ được gọi là prāna. Khi kết thúc một chu kỳ thì prāna ở trong trạng thái gần như bất động, và khi một chu kỳ kết tiếp bắt đầu thì nó dần dần hiển lộ tự thân. Prāna chính là cái hiển lộ như là sự chuyển động, như là sự vận động thần kinh nơi con người và loài vật, và cũng chính prāna đó đang hiển lộ như là tư tưởng v.v…. Toàn thể vũ trụ là sự kết hợp của prāna và ākāśa, thể xác con người cũng vậy. Từ ākāśa, ta có được những chất liệu khác nhau mà ta có thể cảm nhận, và nhìn thấy; và từ prāna, ta có được tất cả những lực khác nhau. Bây giờ, công việc đưa prāna ra ngoài và kiềm nó lại được gọi là prānāyāma.
Patanjali, cha đẻ của triết học Yoga, không đưa ra nhiều hướng dẫn cụ thể về prānāyāma, nhưng về sau, những hành giả yogi khác đã phát hiện nhiều điều về prānāyāma và đã biến nó thành một khoa học vĩ đại. Đối với Patanjali, nó chỉ là một trong nhiều pháp môn, nhưng ông không quá chú trọng đến nó. Ý ông cho rằng các bạn chỉ cần thở ra, hít vào và nén hơi thở trong một thời gian, tất cả chỉ có vậy thôi, và nhờ thế mà tâm trí sẽ trở nên tĩnh lặng đôi chút. Nhưng các bạn sẽ phát hiện ra rằng phương pháp này về sau đã tiến hóa thành một bộ môn khoa học đặc thù gọi là prānāyāma. Chúng ta sẽ nghiên cứu đôi chút về những gì mà hành giả yogi sau này phải nói. Một số điều trong đó đã được tôi trình bày cùng các bạn trước đây, nhưng lặp đi lặp lại chút ít cũng có tác dụng in sâu chúng vào tâm trí các bạn.
Trước hết, các bạn phải nhớ rằng prāna không phải là hơi thở. Nhưng cái gây nên sự chuyển động của hơi thở, cái tạo nên sinh lực cho hơi thở là prāna. Hơn thế nữa, từ prāna được vận dụng theo mọi nghĩa, tất cả các nghĩa đó đều được gọi là prāna, tâm trí được gọi là một prāna. Chúng ta cũng đã thấy rằng prāna là lực. Tuy vậy, chúng ta lại không thể gọi prāna là lực được, bởi vì lực chỉ sự biểu hiện của nó mà thôi. Nó là cái tự hiển lộ như là lực và muôn vật khác trong phương thức chuyển động. Chitta – hay tâm – là động cơ hút prāna từ môi trường chung quanh, và từ prāna này nó tạo ra nhiều nguồn sinh lực khác nhau – những sinh lực này bảo trì cơ thể – cùng tư tưởng, ý chí và mọi năng lực khác. Bằng quá trình hô hấp được nói ở trên, chúng ta có thể điều khiển được mọi chuyển động trong cơ thể và những dòng thần kinh khác nhau đang chu lưu trong cơ thể. Trước hết, chúng ta bắt đầu nhận thức được chúng, rồi sau đó chúng ta dần dần điều khiển được chúng.
Theo các hành giả yogi về sau thì có ba dòng prāna chính trong cơ thể con người. Họ gọi dòng thứ nhất là Iḍā, dòng thứ hai là Pingalā, và dòng thứ ba là Sushumnā. Theo họ thì Pingalā nằm bên phải của cột sống, Iḍā nằm bên trái và Sushumnā nằm giữa cột sống, đó là một rãnh rỗng. Theo các hành giả yogi đó thì Iḍā và Pingalā là những dòng thần kinh hoạt động trong tất cả mọi người, và thông qua những dòng thần kinh đó, chúng ta thực hiện được tất cả những chức năng trong đời sống. Sushumnā cũng hiện hữu nơi tất cả mọi người, nhưng nó không hoạt động, nó chỉ phát huy chức năng nơi các hành giả yogi. Các bạn phải nhớ rằng yoga làm thay đổi thể xác, khi các bạn tiếp tục luyện tập thì thể xác các bạn cũng thay đổi, nó không còn là cái thể xác mà các bạn có trước khi luyện tập nữa. Điều đó rất hợp lý, và có thể lý giải được. Bởi vì mọi tư tưởng mới mẻ mà chúng ta tiếp xúc đều phải tạo ra, có thể nói như vậy, một rãnh mới xuyên qua não bộ, và điều đó giải thích óc bảo thủ cực đoan trong bản tính con người. Bản tính con người chỉ muốn đi theo những lối mòn có sẵn, vì điều đó dễ dàng. Nếu chúng ta nghĩ rằng, chỉ để ví dụ thôi, tâm trí giống như một cây kim và não như một khối mềm trước nó thì, có thể nói như vậy, mỗi tư tưởng của chúng ta sẽ tạo nên một rãnh trong não. Rãnh này có thể khép lại, nhưng chất xám len vào và phân luồng để mở nó ra. Nếu không có chất xám thì sẽ không có trí nhớ, bởi vì nhớ có nghĩa là đi lại trên những con đường cũ, vạch lại một tư tưởng, có thể nói như vậy. Bây giờ có lẽ các bạn lưu ý thấy rằng khi một người nói về những chủ đề, mà trong đó anh ta vận dụng đôi ba ý tưởng quen thuộc với tất cả mọi người, kết hợp rồi lại tái kết hợp chúng với nhau thì rất dễ theo dõi, bởi vì những rãnh đó đã hiện hữu sẵn trong não bộ mọi người rồi, nên chỉ cần viện dẫn tới chúng là xong. Nhưng khi một chủ đề mới xuất hiện thì một rãnh mới phải được tạo ra, bởi vậy không dễ gì hiểu được ngay. Đó là lý do vì sao mà não bộ (não bộ chứ không phải chính con người) khước từ một cách vô thức những tư tưởng mới, không để chúng tác động đến. Nó phản kháng. Prāna cố tạo nên những rãnh mới, và não bộ không chấp nhận. Đó là điều bí ẩn của óc bảo thủ. Trong não càng có ít rãnh và mũi kim prāna càng ít tạo ra những thông lộ thì não càng bảo thủ và càng chống đối những tư tưởng mới. Người nào càng thích tư duy thì những rãnh trong não càng phức tạp, và người đó càng dễ tiếp thu và hiểu những tư tưởng mới. Đối với mọi tư tưởng tươi mới cũng vậy, ta tạo một ấn tượng mới trong não, tạo một rãnh mới trong não chất [brain-stuff], và đó là lý do vì sao ta thấy rằng khi thực hành yoga – có thể nói là bao hàm một tập hợp các tư tưởng và đông lực hoàn toàn mới lạ – thì cơ thể tạo ra nhiều kháng lực lúc ban đầu. Đó là lý do vì sao ta thấy rằng một phần tôn giáo đề cập đến phương diện ngoại tại của bản tính thì được đông đảo mọi người chấp thuận, trong khi phần kia, triết học hoặc tâm lý học, đề cập đến nội tâm của con người thì thường bị lãng quên.
Chúng ta phải nhớ định nghĩa này về thế giới của chúng ta : thế giới này chỉ là Tồn Tại Vô Biên được phóng chiếu vào bình diện ý thức. Một phần nhỏ bé của Tồn Tại này được phóng chiếu vào ý thức, và ta gọi đó là thế giới. Bởi vậy, còn có một Cõi Ngoài Vô Biên, và tôn giáo phải đề cập đến cả hai – cái khối bé nhỏ mà ta gọi là thế giới này cùng Cõi Ngoài Vô Biên đó. Bất kỳ tôn giáo nào chỉ đề cập đến một trong hai sẽ bị khiếm khuyết. Nó phải đề cập đến cả hai. Phần tôn giáo đề cập đến phần Vô Biên đã đi vào bình diện của ý thức và bị nắm bắt – có thể nói như vậy – trong bình diện của ý thức, trong cái khung thời gian, không gian và quan hệ nhân quả thì phần đó quen thuộc với chúng ta, bởi vì chúng ta đã ở sẵn trong cái khung đó rồi, và những ý tưởng về bình diện này đã tồn tại cùng chúng ta từ vô thủy. Còn phần tôn giáo đề cập đến Cõi Ngoài Vô Biên kia đến với chúng ta hoàn toàn xa lạ, và nỗ lực tìm hiểu chúng sẽ tạo ra những rãnh mới trong não bộ, gây xáo trộn toàn bộ hệ thống. Đó là lý do vì sao các bạn thấy rằng khi luyện tập yoga thì lúc đầu, những người bình thường bị đẩy ra ra khỏi những lối mòn. Để giảm thiểu những xáo trộn này đến mức ít nhất, đạo sư Patanjali đã đề xướng tất cả các phương pháp này. Chúng ta có thể luyện tập theo một phương pháp phù hợp nhất với mình.
35
Những hình thức chú tâm nào đem đến những nhận thức phi thường cho giác quan sẽ giúp cho tâm trí thêm kiên định.
Điều này đến một cách tự nhiên cùng với dhāranā hay sự chú tâm. Các hành giả yogi cho rằng nếu tập trung tư tưởng vào chóp mũi thì sau một vài ngày, hành giả bắt đầu ngửi thấy một mùi thơm tuyệt diệu. Nếu chú tâm vào cuống lưỡi, hành giả bắt đầu nghe được âm thanh, nếu chú tâm vào đầu lưỡi, hành giả bắt đầu nếm được mùi vị tuyệt vời; nếu chú tâm vào thân lưỡi, hành giả có cảm giác như đang tiếp xúc với một đối tượng nào đó. Nếu chú tâm vào vòm miệng, hành giả bắt đầu thấy được những điều kỳ lạ. Nếu một người tâm trí rối loạn mà muốn luyện tập pháp môn yoga này và trong lòng vẫn còn hoài nghi chân lý của chúng thì chỉ cần luyện tập chút ít, anh ta sẽ thấy sự hoài nghi lắng xuống, những sự kiện này xuất hiện và anh ta sẽ kiên trì luyện tập.
36
Hoặc [tâm sẽ an định nhờ quán tưởng đến] ánh Hào Quang Rực Rỡ nằm bên kia phiền não.
Đây là một dạng chú tâm khác. Hãy quán tưởng đến một đóa sen cánh rủ ở trái tim, và sushumnā chạy xuyên qua nó, hít một hơi thở, và khi thở hơi ra, hãy tưởng tượng những cánh sen mọc đứng lên, và bên trong hoa sen là ánh hào quang rực rỡ. Hãy quán tưởng điều đó.
37
Hoặc [bằng cách quán tưởng đến] một tâm hồn đã xả ly mọi luyến cảm với những đối tượng của giác quan.
Hãy chọn một người thánh thiện, một vĩ nhân mà các bạn tôn kính, một vị hiền triết mà các bạn biết là đã hoàn toàn vô chấp, và hãy suy tư về tâm hồn vị đó. Tâm hồn đó đã trở nên vô chấp. Hãy quán tưởng đến tâm hồn đó, nó sẽ làm tâm trí các bạn tĩnh lặng. Nếu các bạn không thể thực hiện được điều đó thì có phương pháp tiếp theo đây.
38
Hoặc [bằng cách quán tưởng đến] tri thức xuất hiện trong giấc mơ, hoặc niềm hạnh phúc đã trải qua trong giấc ngủ say.
Đôi khi một người mơ thấy thiên thần xuất hiện và nói chuyện với mình, mơ thấy mình rơi vào trạng thái xuất thần, mơ thấy tiếng nhạc vọng về từ trên thiên giới. Trong giấc mơ đó, anh ta chìm vào lạc phúc, và khi tỉnh giấc, những điều đó để lại cho anh ta một ấn tượng sâu sắc. Hãy nghĩ giấc mộng đó là có thực,và hãy quán tưởng về nó. Nếu không làm được thì các bạn hãy quán tưởng về bất kỳ sự vật linh thiêng nào mà các bạn thích.
39
Hoặc bằng cách quán tưởng đến bất cứ điều gì mà hành giả xem là tốt đẹp.
Điều này không có nghĩa là quán tưởng đến bất cứ chủ đề xấu xa nào cũng được, mà chỉ quán tưởng đến những chủ đề tốt đẹp mà các bạn thích, bất cứ nơi nào mà các bạn thích nhất, bất cứ cảnh tượng nào mà các bạn thích nhất, bất cứ tư tưởng nào mà các bạn thích nhất, bất cứ điều gì giúp tập trung tâm trí.
40
Khi quán tưởng như thế thì tâm trí của hành giả yogi trở nên vô chướng ngại, từ nguyên tử cho đến cõi vô biên.
Nhờ luyện tập như thế, tâm trí dễ dàng quán tưởng sự vật tế vi nhất, cũng như sự vật vĩ đại nhất. Vì vậy, những con sóng trong tâm trí sẽ yếu dần đi.
41
Hành giả yogi – người mà những biến trạng (vrittis) của anh ta đã trở nên bất lực như thế (nghĩa là đã bị chế ngự) – sẽ đạt được, nơi người nhận, [khí cụ] đón nhận, đối tượng được nhận (nghĩa là linh hồn, tâm trí và ngoại vật), trạng thái chú tâm và sự tương đồng, giống như một khối pha lê (trước những đối tượng nhiều màu khác nhau)
Tham thiền thường xuyên sẽ đạt được kết quả gì? Chúng ta phải nhớ trong một câu cách ngôn trước, Patanjali đã đi vào các trạng thái tham thiền như thế nào, đầu tiên là những đối tượng thô, sau đó là những đối tượng tế vi, rồi từ đó, chúng ta tiếp tục tiến đến những đối tượng còn tế vi hơn nữa. Kết quả là ta có thể quán tưởng những đối tượng tế vi cũng như những đối tượng thô. Khi quán tưởng như thế, hành giả yogi thấy có ba sự việc : chủ thể nhận, đối tượng được nhận, và khí cụ nhận, tương ứng với linh hồn, ngoại vật và tâm trí. Chúng ta có ba đối tượng quán tưởng : thứ nhất là những đối tượng thô, như thể xác, hoặc những đối tượng vật chất, thứ hai là những đối tượng tế vi như tâm trí, tâm, và thứ ba là Purusha được gán phẩm tính – không phải là chính Purusha là mà tự ngã. Bằng thực hành, hành giả yogi an lập trong tất cả những loại tham thiền này. Bất cứ khi nào tham thiền, hành giả cũng đều có thể loại bỏ tất cả những tư tưởng khác, họ hợp nhất với đối tượng được quán tưởng; khi tham thiền, họ giống như một khối pha lê trước những đóa hoa, khối pha lê hầu như hợp nhất với những đoa hoa đó. Nếu hoa màu đỏ thì khối pha lê trông như màu đỏ, nếu hoa màu xanh thì khối pha lê trông như màu xanh.
42
[Trạng thái định mà trong đó] âm thanh, ý nghĩa, và tri thức phát sinh hòa hợp nhau được gọi là hữu tầm định[22].
Âm thanh ở đây muốn nói đến dao động, ý muốn nói đến những dòng thần kinh truyền dẫn dao động, và tri thức là phản ứng. Mọi hình thức quán tưởng mà ta đã thảo luận từ trước đến nay, Patanjali gọi là savitarka, nghĩa là hữu tầm, “còn tìm cầu, tra vấn”. Sau này, ông đưa chúng ta đến những trạng thái tham thiền cao hơn. Trong những trạng thái được gọi là “hữu tầm” thì chúng ta giữ quan hệ nhị nguyên giữa năng và sở, giữa chủ thể và khách thể, quan hệ nhị nguyên này phát sinh từ sự hòa hợp giữa ngôn từ, ý nghĩa và tri thức. Trước hết là có dao động bên ngoài, tức ngôn từ; khi được truyền vào những dòng thần kinh cảm giác thì dao động này là ý nghĩa. Sau đó, xuất hiện một con sóng phản ứng trong chitta – hay tâm – là tri thức, nhưng sự hòa hợp cả ba yếu tố này mới tạo thành cái mà ta gọi là tri thức. Trong tất cả những trạng thái tham thiền, cho đến lúc này, thì đối tượng quán tưởng của chúng ta là sự hòa hợp này. Trạng thái định tiếp theo đây là trạng thái cao hơn.
43
Trạng thái định được gọi là vô tầm, “không còn tìm cầu tra vấn” [đạt được] khi ký ức đã thuần tịnh, không còn một phẩm tính nào, mà chỉ biểu đạt ý nghĩa [của đối tượng quán tưởng].
Chính nhờ thực hành quán tưởng cả ba yếu tố này, ta đạt đến một trạng thái mà trong đó cả ba không còn hòa hợp vào nhau. Ta có thể xả ly cả ba. Trước hết, ta sẽ cố gắng tìm hiểu ba yếu tố này là gì. Đây là chitta hay tâm, các bạn phải nhớ đến ẩn dụ so sánh tâm với cái hồ nước; còn dao động, ngôn từ, âm thanh giống như sóng lướt trên mặt hồ. Các bạn đã có cái hồ yên tĩnh đó trong lòng mình, và tôi phát âm một từ “con bò”. Ngay khi âm đó đi vào đôi tai các bạn thì trong tâm các bạn có một con sóng được tạo ra theo. Như vậy, con sóng đó đại diện cho ý tưởng về con bò – tức hình thức hoặc ý nghĩa mà ta gọi nó. Con bò biểu kiến mà ta biết, thực ra là con sóng trong tâm, và con sóng đó xuất hiện như là phản ứng lại những dao động âm ở ngoại giới và nội tâm. Con sóng tắt dần cùng âm thanh đó, con sóng đó không thể tồn tại nếu không có một ngôn từ. Các bạn có thể hỏi : sự thể sẽ ra sao nếu ta chỉ nghĩ đến con bò chứ không nghe âm thanh. Vào những lúc như vậy, các bạn tự mình tạo ra âm thanh đó. Các bạn đang nhủ thầm từ “con bò” trong tâm trí, và một con sóng xuất hiện cùng âm đó. Không thể có một âm nào nếu không có xung động của âm, khi âm đó không xuất phát từ bên ngoài thì nó xuất phát từ bên trong, và khi âm thanh đó tắt đi thì con sóng tắt theo. Cái gì còn lại? Kết quả của phản ứng – và đó là tri thức. Cả ba yếu tố này kết hợp với nhau trong tâm trí ta chặt chẽ đến mức ta không thể nào tách rời chúng ra. Khi âm vọng đến, các giác quan dao động, và sóng trổi dậy để đáp ứng, cả ba nối tiếp nhau chặt chẽ đến mức không sao phân biệt được cái này với cái kia; khi thực hành thiền quán trong một thời gian dài thì ký ức, – cơ quan tiếp thu mọi ấn tượng – trở nên thuần tịnh, và chúng ta có thể phân biệt rạch ròi cái này với cái kia. Trạng thái này được gọi là “nirvitarka- samādhi” hay vô tầm định.
44
Nhờ tiến trình này mà
[các định]
hữu tầm hay vô tầm với những đối tượng quán tưởng tế vi cũng được giải thích.
Một tiến trình tương tự với tiến trình ở phần trước lại được vận dụng, chỉ có điều là những đối tượng quán tưởng trong phần trước thì thô, bây giờ thì tế vi.
45
Những đối tượng tế vi kết thúc với pradhāna.
Những đối tượng thô chỉ là các nguyên tố, muôn vật được tạo ra từ chúng. Còn những đối tượng tế vi là các tanmātras, hay là những hạt cực vi. Các giác quan, tâm trí[23], tính vị kỷ, tâm (nhân của mọi sự biểu hiện), trạng thái quân bình của các chất liệu Sattva, rajas và Tamas – được gọi là pradhāna (thắng nhân, bản thể), prakrti (nguyên chất), or avyakta (phi biểu hiện), tất cả đều được bao hàm trong phạm trù những đối tượng tế vi, chỉ có Purusha (Linh Hồn) là ngoại lệ.
46
Những trạng thái định này là “hữu chủng”.
Những trạng thái định này không hủy diệt được mầm móng của quá khứ, do đó không thể đưa đến giải thoát, mà chỉ đưa hành giả yogi đến cảnh giới trong những câu cách ngôn sau đây.
47
Khi hành giả yogi đã an trú trong trạng thái định vô tầm này thì tâm trở nên kiên định.
48
Tri thức đạt được nhờ trạng thái định vô tầm được gọi là “Toàn Chân trí”[24].
Câu cách ngôn kế tiếp sẽ giải thích điều này.
49
Tri thức đạt được bằng chứng cứ và suy luận là tri thức về những sự vật thông thường. Tri thức đạt được từ trạng thái định đã nói ở trên thuộc mức độ cao hơn rất nhiều, tri thức đó có thể thấu triệt những lĩnh vực mà suy luận cùng chứng cứ không sao đến được.
Ý tưởng đó là như vầy : chúng ta thu hoạch được tri thức về những sự vật thông thường bằng nhận thức trực tiếp, bằng suy luận từ nhận thức đó, cũng như từ chứng cứ của những bậc thiện tri thức. Với thuật ngữ “thiện tri thức”, hành giả yogi luôn muốn nói đến các rishī, tức những bậc hiền triết đã thấu triệt những tư tưởng ghi chép trong kinh điển Veda. Theo họ, bằng chứng duy nhất cho những kinh điển đó là : chúng là chứng cứ của những bậc thiện tri thức; tuy nhiên, họ lại bảo kinh điển không thể đưa chúng ta đến giác ngộ. Chúng ta ai cũng có thể đọc được kinh Veda, tuy nhiên cũng sẽ không thực chứng được thứ gì; nhưng khi thực hành lời dạy trong kinh điển thì chúng ta chứng ngộ được những gì kinh điển nói, cảnh giới đó xuyên thấu được những phạm vi mà lý tính không thể vói tới, và là nơi mà chứng cứ của người khác cũng không thể giúp ích được gì. Đây là điều mà câu cách ngôn này muốn nói. Sự thực chứng mới là tôn giáo đích thực, mọi thứ còn lại chỉ là bước chuẩn bị; nghe thuyết pháp, đọc kinh điển hoặc suy luận chỉ là chuẩn bị nền tảng, nó không phải là tôn giáo. Tán đồng hoặc phản bác bằng trí năng cũng không phải là tôn giáo.
Tư tưởng cốt lõi của các hành giả yogi là : ta tiếp xúc trực tiếp với những đối tượng của giác quan như thế nào thì ta cũng có thể nhận thức được trực tiếp tôn giáo như thế ấy, trong một ý nghĩa mãnh liệt hơn nhiều. Những Chân Lý của tôn giáo, chẳng hạn như Thượng Đế hoặc Linh Hồn, không thể được nhận thức bằng giác quan bên ngoài. Tôi không thể thấy được Thượng Đế bằng mắt thịt, cũng không thể dùng tay trần để chạm vào Ngài, và ta cũng biết rằng mình không thể suy luận vượt quá giác quan. Lý tính bỏ rơi chúng ta tại một điểm hoàn toàn mơ hồ bất định, chúng ta có thể lý luận suốt đời, bởi vì thế gian này đã làm thế cả hàng ngàn năm rồi, và kết quả là chúng ta thấy mình không có đủ khả năng để tán đồng hay phản bác những sự kiện tôn giáo. Những gì nhận thức trực tiếp được thì chúng ta xem là nền tảng, và chúng ta suy luận trên nền tảng đó. Như vậy, rõ ràng là khả năng suy luận phải vận hành trong những giới hạn của nhận thức, nó không thể vượt ra ngoài. Toàn bộ cảnh giới chứng ngộ, do đó, nằm ngoài sự nhận thức của giác quan. Các hành giả yogi cho rằng con người không thể vượt ra ngoài phạm vi nhận thức trực tiếp, và không thể vượt ra ngoài lý tính. Trong mỗi người đều có khả năng, có năng lực vượt lên khỏi trí năng, và năng lực đó tồn tại trong mọi người, mọi sinh thể. Bằng cách thực hành pháp môn Yoga, năng lực đó được khơi dậy, và thế là con người vượt lên khỏi khỏi được những giới hạn thông thường của lý tính, và trực tiếp nhận thức được những sự vật nằm nên ngoài mọi phạm vi của lý tính.
50
Ấn tượng phát sinh từ trạng thái định này ngăn cản mọi ấn tượng khác.
Trong những câu cách ngôn trước, ta đã thấy rằng thiền định là con đường duy nhất để đạt đến trạng thái siêu thức, và ta cũng đã thấy rằng các Samskāras – tức những ấn tượng – trong quá khứ là cái gây chướng ngại không cho tâm trí đạt được trạng thái samādhi. Tất cả các bạn đều quan sát thấy rằng hễ khi càng cố gắng tập trung tâm trí thì tư tưởng càng lan man tán loạn. Khi các bạn đang cố suy tư về Thượng Đế thì ngay lúc đó các samskaras này xuất hiện. Vào những lúc khác, chúng không hoạt động mạnh như thế, nhưng khi các bạn không cần đến chúng thì chắc chắn chúng lại có mặt, tìm đủ mọi cách để len vào tâm trí các bạn. Vì sao lại thế? Vì sao chúng lại mạnh mẽ lên nhiều vào thời điểm tập trung? Bởi vì các bạn đang trấn áp chúng, và chúng phản ứng lại bằng tất cả sức mạnh. Vào thời điểm khác thì chúng không phản ứng. Vô số những ấn tượng quá khứ hẳn phải tiềm ẩn đâu đó trong tâm, và tất cả đều nằm chờ đợi để sẵn sàng nhảy chồm lên như bầy cọp! Lẽ ra chúng phải bị trấn áp để cho ý tưởng duy nhất mà ta ưa thích có thể trổi dậy để loại bỏ những ý tưởng khác. Nhưng thay vì thế, tất cả chúng lại nhất tề đấu tranh để đồng thời vùng lên. Đó là những năng lực khác nhau của samskāras ngăn cản không cho tâm trí tập trung. Bởi vậy trạng thái định vừa được đề cập ở trên là pháp môn tối hảo cần phải luyện tập để có năng lực trấn áp các samskāras. Trong trạng thái tập trung theo cách này thì các samskāra trổi dậy mạnh đến mức nó sẽ cản trở hoạt động của những ấn tượng khác, và khống chế chúng.
51
Bằng cách kiềm chế cả ấn tượng này (ấn tượng gây chướng ngại cho tất cả những ấn tượng khác), mà mọi tất cả mọi ấn tượng đều bị kiềm chế, và hành giả đạt đến trạng thái vô chủng định[25].
Các bạn nên nhớ rằng mục tiêu của chúng ta là nhận thức được
chính Linh Hồn. Chúng ta không thể nhận thức được Linh Hồn bởi vì nó đã hòa lẫn
với bản tính tự nhiên, với tâm trí, với thể xác. Kẻ ngu dốt nhất cho rằng thể
xác mình là Linh Hồn. Người uyên bác nhất cho rằng tâm trí mình là Linh Hồn.
Nhưng cả hai đều nhẫm lẫn. Cái gì khiến cho Linh Hồn hòa lẫn vào với tất cả
những thứ đó? Những con sóng khác nhau trổi dậy trong chitta (tâm) và che phủ
mất Linh Hồn. Ta chỉ thấy được Linh Hồn phản chiếu chút ít qua những con sóng
đó; bởi vậy, khi con sóng đó thịnh nộ thì chúng ta nghĩ rằng Linh Hồn đang giận
dữ – “Ta đang giận dữ”, chúng ta tự nhủ thế. Nếu đó là con sóng yêu
thương thì chúng ta thấy được bản thân mình phản chiếu trong con sóng đó và bảo
rằng chúng ta đang yêu thương. Nếu đó là con sóng yếu đuối và Linh Hồn được
phản chiếu trong đó thì chúng ta ngỡ rằng chúng ta bạc nhược. Những ý tưởng
khác nhau từ các ấn tượng đó – tức các samskāras – che lấp cả Linh Hồn. Ta
không thể nào liễu ngộ được Thực Tính của Linh Hồn, chừng nào trong hồ nước tâm
vẫn còn có một con sóng chưa lắng dịu; ta không thể nào liễu ngộ Thực Tính đó
chừng nào trong hồ nước tâm chưa tĩnh lặng hoàn toàn. Bởi vậy, thứ nhất,
Patanjali dạy chúng ta ý nghĩa của các con sóng đó, thứ hai là pháp môn tối hảo
để trấn áp chúng, và thứ ba là làm thế nào tạo ra được một con sóng đủ mạnh để
trấn áp tất cả các con sóng khác, như lửa nuốt lửa, có thể nói như vậy. Khi chỉ
còn lại một con sóng thì ta dễ dàng trấn áp nó, và khi trấn áp được rồi thì tiếp
theo sau đó là trạng thái vô chủng định. Trạng thái định này không còn lưu lại
gì hết, và Linh Hồn thị hiện y như thực, trong hào quang rực rỡ của Nó. Chỉ đến
lúc đó, ta mới liễu ngộ được rằng Linh Hồn không phải là là một thể hòa hợp, mà
nó là bản thể đơn nhất, vĩnh hằng duy nhất trong vũ trụ; và như thế, Nó không
thể được sinh ra, Nó không chết đi, Nó bất tử, bất hoại, là phần Tinh Túy hằng
của Trí Thông Minh.
1
Khổ hạnh, nghiên cứu, và phó mặc thành quả cùng công trình cho Thượng Đế được gọi là kriyā yoga.
Những loại samādhi – hay định – mà ta dùng để kết thúc chương cuối rất khó tựu thành, bởi vì chúng ta phải tiếp thu từ từ. Bước đầu tiên, hay bước tiên quyết, được gọi là kriyā yoga. Theo nghĩa đen, từ này có nghĩa thực hành yoga thông qua việc làm. Các giác quan là những con ngựa, tâm trí là dây cương, trí năng là người đánh xe, linh hồn là người cỡi ngựa và thể xác là cỗ xe. Nếu những con ngựa quá mạnh khỏe và không tuân theo sự điều khiển của dây cương, nếu người đánh xe không suy đoán chín chắn thì người cưỡi ngựa sẽ gặp thảm họa. Nhưng nếu như những con ngựa – tức các giác quan – được điều khiển một cách khéo léo bởi dây cương – tức tâm trí, và nếu người đánh xe suy đoán chín chắn thì người cỡi ngựa – tức linh hồn – sẽ đi đến đích.
Trong trường hợp này “khổ hạnh” có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là nắm chặt dây cương khi hướng dẫn thể xác và tâm trí, không để cho chúng làm gì tùy thích, mà chế ngự chúng một cách phù hợp.
“Nghiên cứu” có nghĩa là gì? Đó không phải là nghiên cứu tiểu thuyết hay sách truyện mà là nghiên cứu những kinh sách dạy cách giải thoát linh hồn. Hơn nữa, việc nghiên cứu này cũng hoàn toàn không phải là để tranh luận. Hành giả yogi được cho là đã kết thúc giai đoạn tranh luận. Ông ta đã tranh luận quá nhiều, và đã thấy thỏa mãn. Ông ta chỉ nghiên cứu để củng cố thêm cho lòng xác tín. Vāda và siddhānta là hai loại tri thức về kinh điển : vāda là loại tranh luận và siddhānta là loại quyết định. Khi con người hoàn toàn ngu dốt thì anh ta tiếp thu loại thứ nhất, luận chiến thuận và chống, khi đã kết thúc giai đoạn này thì anh ta tiếp thu loại siddhānta để đi đến kết luận. Nếu chỉ đi đến kết luận suông thì chưa đủ. Cần phải thực chứng được nó. Kinh sách thì vô số mà thời gian thì có hạn, do đó, bí quyết của tri thức là chỉ chọn những phần cốt yếu. Hãy chọn phần cốt yếu và sống theo nó. Truyện cổ Ấn Độ kể rằng nếu các bạn đặt một chén sữa hòa nước trước mặt một rājahasma – con ngỗng chúa – thì nó sẽ uống hết sữa và chừa nước lại. Cũng theo cách đó, chúng ta hãy chọn những phần giá trị trong tri thức và loại bỏ phần cặn bã. Những bài thể dục cho trí năng là điều cần thiết lúc ban đầu, ta không nên tin theo bất cứ điều gì một cách mù quáng. Nhưng các hành giả yogi đã vượt qua giai đoạn tranh luận, đã đi đến kết luận bất động và vững như bàn thạch. Điều duy nhất mà họ muốn làm là củng cố thêm cho kết luận đó. Đừng tranh luận, hành giả yogi bảo vậy, nếu có ai buộc các bạn phải tranh luận thì hãy im lặng. Đừng trả lời bất kỳ cuộc tranh luận nào, mà hãy lặng lẽ bỏ đi, bởi vì tranh luận chỉ làm rối loạn tâm trí. Điều duy nhất là rèn luyện trí năng. Vậy thì được gì, có ích gì khi làm tâm trí thêm rối loạn? Trí năng chỉ là một loại khí cụ yếu ớt, chỉ có thể cung cấp cho chúng ta những tri thức bị giới hạn bởi giác quan. Hành giả yogi muốn vượt ra ngoài các giác quan, bởi vậy đối với họ trí năng không có một tác dụng tối hậu nào. Họ biết chắc điều này, nên im lặng và không tranh luận. Mọi cuộc tranh luận đều ném tâm trí họ ra khỏi trạng thái cân bằng, gây rối loạn trong tâm, và sự rối loạn này là điều trở ngại. Tranh luận và lý luận chỉ là những giai đoạn sơ khởi, còn có những thứ ở bên ngoài chúng. Trọn cuộc sống không phải để dành cho những cuộc tranh đấu của thời đi học hoặc cho những xã hội ưa tranh luận
“Phó mặc thành quả cùng công trình cho Thượng Đế” có nghĩa là không cho rằng mình thực hiện được điều gì, cũng không đổ lỗi cho ai, mà cứ phó thác hết mọi sự cho Thượng Đế, và giữ lòng thanh thản.
2
[Kriyā yoga đưa đến trạng thái định] và làm nhẹ đi những chướng ngại gây đau khổ.
Phần lớn chúng ta đều như những đứa bé hư hỏng, cứ để mặc tâm trí làm gì tùy thích. Bởi vậy cần phải thường xuyên luyện tập kriya-yoga để điều khiển được tâm trí và khuất phục nó. Chướng ngại đối với pháp môn yoga là do chúng ta mất khả năng điều khiển, khiến chúng ta đau khổ. Ta có thể loại bỏ những chướng ngại đó bằng cách điều khiển tâm trí và và chế ngự nó bằng pháp môn kriya-yoga.
3
Những chướng ngại gây đau khổ là vô minh, tính ích kỷ, luyến cảm, ác cảm và lòng tham sống.
Có năm loại khổ đau, và sự ràng buộc năm lớp này khiến ta bị đọa. Tất nhiên vô minh là mẹ đẻ của tất cả những thứ còn lại. Nó là nguyên nhân duy nhất khiến ta khốn khổ. Ngoài ra còn có cái gì có thể khiến ta khốn khổ? Bản chất của Linh Hồn là Thường Lạc. Cái gì có thể khiến nó phiền não, nếu không phải là vô minh, vọng tưởng, ảo tưởng? Tất cả những khốn khổ trong Linh Hồn chỉ là ảo tưởng.
4
Vô minh là cánh đồng màu mỡ sản sinh ra tất cả những thứ đi theo nó, dù những thứ đó còn đang yên ngủ, đã bị suy yếu, bị chế phục hoặc bành trướng.
Vô minh là nguyên nhân sinh ra tính ích kỷ, luyến cảm, ác cảm và lòng tham sống. Những ấn tượng này tồn tại trong nhiều trạng thái khác nhau. Đôi khi chúng yên ngủ. Các bạn thường nghe câu nói “hồn nhiên như trẻ thơ”, thế nhưng trong đứa trẻ cũng có thể mang bản chất ma quỷ, bản chất này hé lộ từ từ. Nơi hành giả yogi, những ấn tượng này – tức những samskāra trong quá khứ – đã bị “suy yếu”, nghĩa là ở trong một trạng thái vô cùng tế vi mà ông ta có thể điều khiển được chúng, và không cho phép chúng xuất hiện. “Bị chế phục” nghĩa là tập hợp các ấn tượng bị kìm hãm trong một thời gian bởi những ấn tượng mạnh hơn, nhưng rồi chúng sẽ xuất hiện khi tác nhân áp chế không còn nữa. Trạng thái cuối cùng là “bành trướng”, đó là trạng thái khi các samskāra – nhờ môi trường trợ duyên thuận lợi – đã hoạt động tối đa, thiện cũng như ác.
5
Vô minh nghĩa là xem cái phi Chân Ngã vô thường, bất tịnh, khổ đau là Chân Ngã thường tồn, thanh tịnh, và lạc phúc.
Tất cả những ấn tượng khác nhau đó đều có chung một nguồn gốc duy nhất : vô minh. Trước tiên, chúng ta phải hiểu vô minh là gì. Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng “Ta là thể xác, không phải là Chân Ngã thuần tịnh, ngời sáng và lạc phúc ” – và đó là vô minh. Chúng ta tư duy về Chân Ngã và xem Nó như là thể xác. Đó là một đại ảo tưởng.
6
Tính ích kỷ là sự đồng nhất Chủ Thể Nhìn với công cụ dùng để nhìn.
Chủ Thể Nhìn [Seer] mới thực sự là Chân Ngã, là cái Thuần Tịnh, Vĩnh Viễn Linh Thánh, Vô Biên, Bất Tử. Đó là Chân Ngã của con người. Và cái gì là các khí cụ? Đó là Chitta hay tâm, buddhi hay năng lực nhận thức, manas hay tâm trí, và indriyas hay sáu cơ quan. Đó là những khí cụ giúp con người nhìn ra thế giới bên ngoài, và việc đồng nhất Chân Ngã với các khí cụ đó được gọi là tính ích kỷ, phát sinh từ vô minh. Chúng ta nói : “Tôi là tâm trí”, “Tôi là tư tưởng”, “Tôi đang giận dữ”, hoặc “Tôi đang hạnh phúc”. Làm sao chúng ta có thể giận dữ, và làm sao chúng ta có thể thù ghét? Chúng ta đồng nhất mình với Chân Ngã, Cái Đó không thể biến đổi. Nếu Nó không thể biến đổi thì làm sao Nó có thể lúc vui, lúc buồn? Nó vốn vô tướng, vô biên và toàn nhiên phổ hiện. Cái gì có thể làm nó biến đổi? Nó nằm ngoài mọi định luật. Vậy thì cái gì có thể ảnh hưởng đến Nó được? Không một thứ gì trong vũ trụ này có thể gây ảnh hưởng đến Nó, nhưng do vô minh, chúng ta tự đồng nhất với tâm, và ngỡ rằng mình cảm nhận được khổ đau hay hạnh phúc.
7
Luyến cảm là cái nằm trong lạc thú.
Chúng ta thấy lạc thú trong những sự vật nào đó, và tâm trí, như dòng nước, tuôn chảy về chúng và việc chạy theo trung tâm lạc thú này được gọi là, có thể nói như vậy, luyến cảm. Chúng ta không bao giờ quyến luyến với bất kỳ người nào mà ta không thích. Đôi khi, chúng ta tìm thấy lạc thú trong những sự vật vô cùng kỳ quặc, nhưng theo nguyên tắc, hễ ta thích cái gì thì mới gắn bó với cái đó được.
8
Ác cảm là cái nằm trong khổ đau.
Cái gì làm ta đau khổ thì ta lập tức tìm cách lãng tránh ngay.
9
Nỗi trôi theo bản tính [do kinh nghiệm quá khứ của cái chết] và được xác lập ngay cả với những học giả, cái đó gọi là lòng tham sống.
Lòng tham sống này, các bạn thấy hiện rõ nơi mọi loài vật, và trên nền tảng lòng tham chấp đó, con người đã nỗ lực xây dựng nên học thuyết về kiếp sau, bởi vì con người quá yêu cuộc sống của họ nên mới ước mong cuộc sống ở kiếp sau. Hiển nhiên là lập luận này cũng chẳng có giá trị gì nhiều, nhưng điều lý thú nhất trong lập luận đó là ở tại các quốc gia phương Tây, người ta cho rằng lòng tham sống chỉ áp dụng cho loài người, chứ không bao gồm loài vật. Tại Ấn Độ, lòng tham sống đó là một trong những lập luận để chứng minh kinh nghiệm và sự tồn tại trong quá khứ. Ví dụ, nếu đúng là tất cả những tri thức của chúng ta đều xuất phát từ kinh nghiệm thì chắc chắn rằng chúng ta đã không bao giờ trải nghiệm được những gì chúng ta không thể hình dung hay thấu hiểu. Con gà con vừa mới nở đã biết mổ thức ăn. Chúng ta đã nhiều lần thấy những con vịt được gà mái ấp, nhưng khi chui ra khỏi vỏ trứng là chúng đã lao xuống nước, còn gà mẹ thì lo chúng sẽ bị chết chìm. Nếu kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của tri thức thì từ đâu mà những con gà con học cách mổ thức ăn, hay những con vịt con biết rằng nước là môi trường tự nhiên của chúng? Nếu các bạn cho rằng điều đó là bản năng thì chẳng có nghĩa gì cả, đó chỉ việc gán một danh từ, chứ không phải lời giải thích. Bản năng này là gì? Trong ta có nhiều bản năng lắm. Chẳng hạn, hầu hết quý bà ở đều biết đánh đàn dương cầm, và hãy nhớ rằng lúc mới học, các bạn đã cẩn thận đặt ngón tay trên các phím đen trắng, từ phím này sang phím khác, nhưng giờ đây, sau một vài năm tập luyện, các bạn có thể vừa nói chuyện với bạn bè mà ngón tay vẫn gõ đúng trên phím đàn. Điều đó đã biến thành bản năng, trở nên tự động, nhưng theo những gì mà chúng ta được biết thì tất cả những trường hợp mà giờ đây chúng ta xem là tự động đều là lý tính bị suy thoái. Nói theo ngôn ngữ của hành giả yogi thì bản năng là lý tính bị nội trưởng. Sự phân biệt bị nội trưởng và trở thành những samskāra tự động. Bởi vậy, thật hoàn toàn hợp lý khi cho rằng tất cả những gì mà chúng ta gọi là bản năng trong thế giới này chỉ là lý tính bị nội trưởng. Bởi vì lý tính không thể phát sinh nếu không có kinh nghiệm, cho nên mọi bản năng đều là kết quả của kinh nghiệm trong quá khứ. Con gà sợ diều hâu, con vịt thích lội nước, những thứ đó đều là kinh nghiệm trong quá khứ.
Do đó, vấn đề đặt ra là kinh nghiệm đó thuộc về một linh hồn riêng biệt hay chỉ thuộc vào thể xác, kinh nghiệm của con vịt là kinh nghiệm do tổ tiên truyền lại, hay là kinh nghiệm của chính nó. Các nhà khoa học hiện đại cho rằng kinh nghiệm đó thuộc về thể xác, nhưng các hành giả yogi thì chủ trương rằng đó là kinh nghiệm của linh hồn, được truyền thừa qua thể xác. Đây là thuyết tái sinh. Ta đã thấy rằng mọi tri thức của chúng ta – dù ta có gọi là nhận thức lý tính, hay bản năng – cũng đều đến thông qua con đường kinh nghiệm, và tất cả những gì có thể gọi là kinh nghiệm đều là kết quả của kinh nghiệm trong quá khứ, bị suy thoái thành bản năng, rồi bản năng đó lại phục hồi thành lý tính. Khắp vũ trụ đều diễn ra như vậy. Và tại Ấn Độ, một trong những giáo lý trọng yếu về thuyết tái sinh được xây dựng trên quan niệm đó.
Theo thời gian, những kinh nghiệm sợ hãi cứ tái diễn đã tạo nên lòng tham sống. Đó là lý do vì sao đứa bé có tính sợ hãi bẩm sinh, bởi vì kinh nghiệm về đau khổ đã có sẵn đấy rồi. Ngay cả những người có học thức, dù biết rằng thân xác này sẽ mất đi, luôn bảo : “Đừng bận tâm. Chúng ta còn có hàng trăm thể xác nữa, Linh Hồn không thể nào chết được” – nhưng ở chính nơi họ, với tất cả niềm xác tín bằng trí năng, ta vẫn thấy lòng tham sống. Lòng tham sống này là gì? Chúng ta đã thấy nó biến thành bản năng. Theo ngôn ngữ tâm lý học của yoga thì lòng tham sống đó đã biến thành các samskāra hay ấn tượng. Những samskāra này, dù tế vi hoặc ẩn khuất, cũng đều đang yên ngủ trong tâm. Tất cả những kinh nghiệm trong quá khứ về cái chết, tất cả những gì mà chúng ta gọi là bản năng đều là kinh nghiệm đã biến thành tiềm thức. Chúng sống ở trong chitta hay tâm, nằm im lìm những hoạt động ngầm.
Những biến trạng của tâm (chitta-vrittis) – tức những con sóng trong tâm trí – vốn thô, nên ta có thể đánh giá và cảm nhận được chúng, ta có thể dễ dàng điều khiển được chúng, nhưng còn những bản năng tế vi hơn thì sao? Làm thế nào để điều khiển được chúng? Khi tôi nóng giận thì cả tâm trí tôi biến thành một con sóng giận dữ khổng lồ. Tôi cảm nhận nó, thấy nó, xử lý, có thể dễ dàng điều khiển nó, có thể chiến đấu với nó; nhưng trong trận đấu này, tôi không thể thành công hoàn toàn chừng nào tôi chưa chế ngự được nguyên nhân. Một người nào đó ăn nói quá lỗ mãng với tôi, tôi bắt đầu thấy mình nổi nóng, anh ta cứ tiếp tục cho đến khi tôi thực sự nổi nóng, tôi quên mất mình đi và đồng nhất mình với cơn giận dữ. Trước tiên, khi anh ta bắt đầu sỉ vã tôi, tôi vẫn còn suy nghĩ : “Mình sắp nổi nóng rồi đây”. Sự giận dữ là một chuyện và tôi là một chuyện khác, nhưng khi tôi đã nổi nóng thì tôi là cơn giận dữ. Những cảm xúc này phải được kiềm chế từ trong trứng nước dưới những hình thức tế vi, thậm chí trước cả khi chúng ta ý thức được rằng chúng đang tác động đến ta. Với đại đa số nhân loại thì những trạng thái cảm xúc này – những cảm xúc dần dần xuất hiện từ dưới tầng ý thức – đều chưa được biết đến. Khi bọt nước nổi lên từ đáy hồ thì ta không thấy được nó, thậm chí cả khi nó nổi lên gần đến mặt nước, chỉ khi nào nó vỡ tung ra và tạo thành gợn sóng thì ta mới hay nó có mặt ở đó. Ta chỉ sẽ thành công trong việc nắm bắt được những con sóng khi ta có thể nắm bắt được chúng trong những nguyên nhân tế vi; chừng nào chúng ta còn chưa thể nắm bắt được chúng, chưa chế ngự được chúng để chúng không biến thành dạng thô, thì không có hy vọng gì chinh phục được hoàn toàn bất kỳ một cảm xúc nào. Để kiềm chế được cảm xúc của mình, ta phải kiềm chế chúng ngay từ lúc mới manh nha, chỉ có thế ta mới có thể thiêu hủy sạch chúng tận gốc rễ. Một hạt giống bị rán chín dẫu có gieo trên đất cũng không bao giờ nảy mầm, cũng vậy, những cảm xúc này cũng không bao giờ sinh khởi.
10
Những samskāra tế vi phải được chế ngự bằng cách chuyển hóa chúng vào trạng thái nguyên nhân.
Những samskāra này là các ấn tượng tinh tế còn sót lại, ngay cả khi những con sóng tâm thức đã bị phả hủy bởi công phu quán tưởng. Những samskāra tế vi này phải được chế ngự bằng cách nào? Bằng cách chuyển hóa quả thành nhân. Khi chitta hay tâm, vốn là quả, thông qua trạng thái định được chuyển hóa thành nhân của nó, tức asmitā hay “Tự Ngã tính”[26] thì chỉ có những ấn tượng tế vi mới chết đi cùng nó.
11
Nhờ thiền quán mà những biến dị [thô] đều bị loại trừ.
Thiền quán là một trong những phương tiện hiệu quả để chế ngự sự phát sinh của những con sóng lớn. Bằng thiền quán, các bạn có thể khuất phục được những con sóng này, và nếu các bạn thực hành thiền quán trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm cho đến khi nó trở thành một thói quen tự nhiên, dù các bạn không cố ý thực hành, thì giận dữ và hận thù sẽ bị chế ngự và khuất phục.
12
“Kho chứa nghiệp” bắt nguồn từ những chướng ngại gây khổ đau, và sự trải nghiệm về những chướng ngại này nằm trong đời sống hữu hình [hiện tại] hoặc trong đời sống vô hình [ở kiếp sau].
“Kho chứa nghiệp” có nghĩa là tổng số những samskāra này. Bất cứ điều gì ta làm cũng đều ném tâm trí vào một con sóng, và khi mọi việc đã xong, ta ngỡ rằng con sóng đã đi qua. Không phải thế, con sóng chỉ trở nên tế vi hơn, và vẫn có ở đó. Khi ta cố nhớ lại sự việc đó thì nó trổi dậy, và biến thành con sóng. Cho nên nó luôn hiện hữu ở đó, nếu không thì hẳn đã không có ký ức. Cũng vậy, mọi hành động, mọi tư tưởng dầu tốt hay xấu đều đi vào phần tận cùng sâu thẳm của tâm trí, trở nên tế vi hơn và được lưu giữ nơi đó. Cả những tư tưởng hạnh phúc hay bất hạnh đều được gọi là “những chướng ngại gây khổ đau”, bởi vì theo các hành giả yogi thì về lâu dài, cả hai đều mang lại khổ đau. Mọi hạnh phúc xuất phát từ giác quan rốt cuộc đều mang lại khổ đau. Mọi sự hưởng thụ đều khiến ta càng khao khát nhiều thêm nữa, và kết quả là mang lại khổ đau. Con người vốn có lòng tham vô đáy, họ cứ tiếp tục khát khao, và đến lúc không thỏa mãn được khát vọng thì kết quả là khổ đau. Bởi vậy những hành giả yogi xem tổng số những ấn tượng, dù thiện hay ác, đều là những chướng ngại gây khổ đau, chúng cản trở Linh Hồn trên con đường giải thoát.
Các samskāra cũng vậy, những nguồn gốc tế vi của mọi hành động chúng ta nên được xem như là nhân mang lại quả trong kiếp nay hoặc kiếp sau. Trong các trường hợp ngoại lệ, khi những samskāra này quá mạnh thì chúng đem lại quả báo nhãn tiền, những hành động thiện hoặc ác ngoại lệ đem lại quả báo ngay trong kiếp này. Các hành giả yogi thậm chí còn cho rằng những người có khả năng thu hoạch được năng lực khổng lồ của những samskāra tốt thì không phải chết, mà có thể chuyển đổi xác phàm thành thân xác của chư thiên ngay trong kiếp này. Các hành giả yogi có nhắc đến một số trường hợp như thế trong kinh sách của họ. Những người đó chuyển đổi chính chất liệu trong thể xác theo cách sao cho họ không còn mắc bệnh nữa, và cái mà chúng ta gọi là cái chết không đến với họ. Vì sao điều này lại không có chứ? Về phương diện sinh lý thì ăn uống có nghĩa là đồng hóa năng lượng từ mặt trời. Trước tiên, năng lượng đó đi vào trong cây cỏ, súc vật ăn cây cỏ rồi con người lại ăn súc vật. Nói theo ngôn ngữ khoa học thì điều này có nghĩa là chúng ta nhận một khối năng lượng lớn từ mặt trời và biến chúng thành một phần năng lượng của chính mình. Nếu đã thế thì sao lại chỉ có một cách duy nhất để tiêu hóa năng lượng chứ? Cách tiêu hóa năng lượng của cây cỏ khác với cách của chúng ta, tiến trình tiêu hóa năng lượng của trái đất khác với tiến trình của chúng ta. Nhưng tất cả đều tiêu hóa năng lượng bằng cách này hay cách khác. Các hành giả yogi khẳng định rằng họ có thể tiêu hóa được năng lượng chỉ bằng cách dùng năng lực tinh thần, họ có thể thu nạp một khối năng lượng tùy thích mà không cần đến các phương pháp thông thường. Giống như con nhện giăng lưới từ chính cơ thể của nó, rồi bị mắc kẹt trong lưới, và không thể đi đâu được ngoại trừ việc di chuyển dọc theo các sợi tơ trong lưới đó; chúng ta cũng vậy, chúng ta dùng chất liệu của chính thể xác của chúng ta để phóng chiếu ra một mạng lưới gọi là hệ thần kinh, để rồi giờ đây chúng ta chỉ có thể hoạt động thông qua các kênh thần kinh này. Các hành giả yogi nói chúng ta không cần phải để cho những kênh thần kinh đó ràng buộc.
Dùng một ví dụ khác, chúng ta có thể truyền tải điện đến bất cứ nơi nào trên thế giới, nhưng chúng ta phải dùng đến phương tiện là dây dẫn. Thiên nhiên có thể truyền tải một điện lượng khổng lồ mà chẳng cần đến sợi dây dẫn nào. Vì sao ta không thể làm giống vậy? Chúng ta có thể gởi dòng điện tinh thần đến khắp mọi nơi. Cái mà chúng ta gọi là tâm trí cũng giống hệt như điện. Rõ ràng là dịch dẫn truyền thần kinh có một điện lượng nào đó, bởi vì nó bị phân cực, và mang đủ mọi đặc điểm của dòng điện. Hiện nay, chúng ta chỉ có thể gởi dòng điện của chúng ta thông qua các kênh thần kinh này. Sao ta lại không gởi dòng điện tinh thần của mình đi mà không cần đến sự trợ giúp này? Hành giả yogi bảo điều đó hoàn toàn khả thi và thực tế, và khi thực hiện được điều đó thì các bạn có thể hoạt động ở khắp cả vũ trụ này. Các bạn có thể hoạt động trong bất kỳ hình tướng nào và ở bất cứ nơi đâu, mà không cần đến sự giúp đỡ của hệ thần kinh. Khi linh hồn đang hoạt động thông qua các kênh thần kinh, chúng ta nói rằng người đó đang sống, và khi nó ngừng hoạt động thông qua người đó thì chúng ta nói rằng người đó đã chết. Nhưng khi một người có thể hoạt động với các kênh thần kinh hoặc không có các kênh thần kinh thì đối với họ, sống chết chẳng có ý nghĩa gì. Mọi thể xác trong vũ trụ này đều được cấu tạo bằng các tanmātras, có khác nhau là do sự sắp xếp khác nhau. Nếu các bạn là người sắp xếp thì các bạn có thể sắp một thể xác theo cách này hay cách khác. Ai là người tạo nên cái thể xác này ngoài bạn? Ai ăn, ai uống? Nếu có người khác ăn uống thay cho các bạn thì hẳn các bạn đâu còn sống nữa? Ai biến được thức ăn thành máu? Dĩ nhiên là các bạn. Ai thanh lọc được máu và chuyển nó vào khắp các mạch máu? Chính các bạn. Chúng ta là chủ nhân của thể xác này và đang sống trong đó. Chỉ vì chúng ta đánh mất tri thức về cách làm nó tươi trẻ lại, chúng ta trở nên máy móc, thoái hóa, chúng ta quên mất tiến trình sắp xếp các phân tử. Bởi vậy, những gì chúng ta làm một cách máy móc cần phải được điều chỉnh lại một cách thông minh. Chúng ta là chủ nhân và phải điều chỉnh lại sự sắp xếp này, khi nào làm được điều đó thì ngay lập tức chúng ta làm tươi trẻ lại bản thân mình tùy thích, rồi chúng ta sẽ chẳng còn sinh tử hay ốm đau bệnh tật gì cả.
13
Nguyên nhân ở đó, kết quả hiện ra [dưới hình thức] các loài, tuổi thọ và kinh nghiệm về khổ lạc.
Gốc rễ, nhân hay các samskāra nằm ở đó trong tâm trí, chúng tự hiển lộ và biến thành quả. Nhân dần chết đi để biến thành quả, rồi quả trở nên tế vi hơn để biến thành nhân cho quả tiếp theo. Cây sinh ra hạt, rồi hạt trở thành nhân cho cây tiếp theo, và cứ tiếp tục như thế. Tất cả những công việc của chúng ta hiện nay đều là quả của những samskāra trong quá khứ. Rồi những công việc này, lại tiếp tục biến thành samskāra để làm nhân cho những hoạt động trong kiếp sau, và chúng ta cứ tiếp tục như thế. Bởi vậy, câu cách ngôn này nói rằng khi có nhân thì quả phải hiện ra dưới hình thức các loài, kẻ thành người, kẻ thành thánh, kẻ thành thú vật, kẻ khác lại thành ma quỷ. Rồi có những nghiệp báo khác nhau trên thọ mạng, kẻ thì sống năm mươi năm, người thì sống trăm năm, lại có người chỉ sống được hai năm và không bao giờ trưởng thành, tất cả những sự khác nhau này trong đời sống đều bị chi phối bởi nghiệp trong quá khứ. Một người sinh ra, có thể nói như vậy, nếu có số sướng thì dù có tự chôn đời chốn rừng sâu, lạc thú cũng sẽ theo anh ta đến đấy. Còn một người khác có số khổ thì đi đâu cũng gặp khổ, chuyện gì cũng đem lại đau khổ cho anh ta. Tất cả đều là quả báo từ tiền kiếp. Theo triết học của hành giả yogi thì mọi hành vi đức hạnh đều mang đến lạc phúc, còn những hành vi độc ác sẽ mang đến khổ đau. Kẻ nào gieo nhân ác chắc chắn sẽ gặt quả khổ.
14
Chúng (tức những hành vi) đem lại quả lạc hay khổ tùy theo chúng là thiện hay ác.
15
Đối với những người có khả năng phân biệt thì tất cả – có thể nói như vậy – đều là khổ, bởi vì việc gì cũng mang lại khổ đau, hoặc là hậu quả, hoặc là do dự cảm sẽ mất đi hạnh phúc, hoặc do tham dục trổi dậy từ những ấn tượng về hạnh phúc, và cũng là do các guna tương phản với nhau.
Các hành giả yogi cho rằng người khả năng phân biệt, người có lương tri đều nhìn thấy thấu suốt những sự việc được gọi là khổ hay lạc, và biết rằng chúng xảy đến với mọi người, cái này tiếp nối cái kia và hòa tan vào cái kia. Họ thấy rằng con người suốt đời cứ theo đuổi những hy vọng hão huyền và không bao giơ tựu thành ước nguyện. Đức vua vĩ đại Yudhishthira[27] có lần nói rằng điều kỳ diệu nhất trên đời là lúc nào ta cũng thấy cảnh người chết quanh ta, nhưng ta lại nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ chết. Dù bị bao quanh bởi những kẻ ngu ngốc, nhưng ta cứ cho rằng mình là những ngoại lệ duy nhất, những người uyên bác duy nhất. Dù ở bất cứ nơi đâu ta cũng cảm nhận được sự vô thường phù ảo, nhưng ta cứ cho rằng tình yêu của mình là tình yêu duy nhất vững bền. Vì sao lại thế? Ngay cả tình yêu cũng mang tính ích kỷ, và hành giả yogi cho rằng cuối cùng chúng ta sẽ thấy rằng ngay cả tình yêu vợ chồng, con cái, bè bạn cũng đều dần dần suy tàn. Sự suy đồi tóm chặt lấy mọi thứ trong đời này. Chỉ khi mọi thứ, kể cả tình yêu, đều đổ vỡ thì con người mới chợt nhận ra thế gian này giống như một giấc mơ quá đổi vô thường. Rồi họ mới thoáng có ý niệm về vairāgya hay sự buông xả, mới thoáng thấy được cõi bên kia. Chỉ khi từ bỏ thế giới này thì thế giới khác mới hiển lộ với ta – đừng bao giờ bám chặt vào thế giới này. Tuy nhiên chưa từng có một linh hồn vĩ đại nào lại không từ bỏ lạc thú giác quan để đạt đến tầm vĩ đại của mình. Căn nguyên của khốn khổ là sự xung đột giữa những thế lực (guna) khác nhau của tự nhiên, mỗi thế lực lôi kéo ta theo một cách, khiến ta không thể nào hưởng được hạnh phúc.
16
Cần phải tránh nỗi khốn khổ chưa đến với ta.
Có nghiệp (karma) ta đã gây ra trong quá khứ, có nghiệp ta đang làm trong đời hiện tại, có nghiệp đang chờ sinh quả ở tương lai. Loại thứ nhất đã qua đi. Loại thứ hai ta sẽ phải thực hiện. Chỉ có loại thứ ba là ta có thể khuất phục và chế ngự, và chúng ta nên hướng tất cả sức mạnh về mục đích này. Đó là điều mà đại sư Patanjali muốn nói trong câu cách ngôn trước (câu 10) rằng cần phải chuyển hóa các samskāra thành trạng thái nhân.
17
Nhân của nỗi khốn khổ cần phải tránh, đó là sự giao tiếp giữa Chủ Thể năng quán với đối tượng sở quán.
Ai là Chủ Thể năng quán? Đó là Chân Ngã của con người, Purusha. Cái gì đối tượng sở quán? Đó là toàn thể thiên nhiên, bắt đầu từ tâm trí xuống đến vật chất thô sơ. Mọi khổ lạc đều xuất phát từ sự giao tiếp giữa Purusha này và tâm trí. Các bạn nên nhớ theo triết học này thì Purusha vốn thuần tịnh khi giao tiếp với thiên nhiên và được phản chiếu trong đó. Nó có vẻ như cảm thụ được khổ lạc.
18
Đối tượng sở quán – vốn được tạo thành từ những nguyên tố và cơ quan, và được xác định bởi sự sáng suốt, hành động và tính trì trệ – được dành cho mục đích của kinh nghiệm và sự giải thoát [của Chủ Thể năng quán].
Thiên nhiên – hay đối tượng sở quán – được tạo thành từ những nguyên tố tế vi và các cơ quan, có nghĩa là các giác quan, tâm trí v.v…. Thiên nhiên đó được xác định bởi sự sáng suốt (sattva), hành động (raja) và tính trì trệ (tama). Toàn bộ mục đích của đối tượng sở quán, hay thiên nhiên, là gì? Đó là đem lại sự trải nghiệm cho Purusha. Purusha đã quên đi, có thể nói như vậy, bản chất hùng đại như thần thánh của mình.
Có một câu chuyện kể rằng vua của các vị thần là thần Indra có lần bị biến thành một con heo dầm mình trong vũng bùn. Thần cặp kè với một con heo nái, sinh ta một bầy heo con, và lấy làm hạnh phúc. Một số vị thần khác thấy cảnh ngộ đó, bèn đến mà nói :
– Ngài là vua của chư thần, có quyền sai khiến tất cả chư thần. Sao Ngài lại ở đây?
Nhưng thần Indra đáp :
– Cứ để mặc ta. Ta thấy ở đây rất thỏa mái. Ta không còn quan tâm chi đến các đến các cõi trời, khi đã có được nàng heo nái với bầy heo con này.
Các vị thần kia túng thế, không biết phải làm sao. Sau một hồi, họ quyết định giết cả bầy heo lần lượt từng con một. Sau khi bầy heo bị giết sạch, thần Indra kêu gào khóc than. Lúc đó chư thần bèn rạch bụng con heo ra và thần Indra bước ra ngoài, thần cười ha hả khi hiểu ra rằng mình vừa trải qua một cơn ác mộng – Ngài, vua của chư thần, đã biến thành một con heo và ngỡ rằng đời sống của loài heo là đời sống duy nhất! Không những thế, Ngài còn muốn toàn thể vũ trụ này hòa nhập vào đời sống của loài heo!
Cũng như thế đó, khi đồng nhất với thiên nhiên thì Purusha quên rằng Nó vốn thuần tịnh và vô biên. Purusha không yêu thương, Nó chính là tình yêu. Purusha không tồn tại, Nó chính là sự tồn tại. Purusha không hiểu biết, Nó chính là tri thức. Thật là sai lầm khi nói rằng Linh Hồn yêu thương, tồn tại hay hiểu biết. Tình yêu, sự tồn tại, và tri thức không phải là các phẩm tính của Purusha mà là Bản Thể Tinh Yếu của nó. Khi chúng được phản chiếu trên một sự vật nào thì các bạn có thể gọi chúng là những phẩm tính của sự vật đó. Chúng không phải là những phẩm tính của Purusha mà là Bản Thể Tinh Yếu của Purusha, tức Đại Ngã, đấng Hằng Hữu Vô Biên bất sinh bất diệt, được xác lập trong hào quang chói lọi của riêng mình. Nó có vẻ như suy đồi đến mức nếu các bạn đến bảo rằng : “Ngài không phải là con heo” thì nó bắt đầu kêu eng éc và cắn bạn.
Tất cả chúng ta đều như thế trong cõi māyā, trong cái thế giới như ảo mộng này, nơi chỉ toàn là khốn khổ, đau buồn và nước mắt, có đôi quả bóng vàng lăn đi và cả thế gian đua nhau tranh cướp. Các bạn không bao giờ bị trói buộc bởi quy luật, thiên nhiên không bao giờ trói buộc các bạn. Đó là những gì các hành giả yogi nói với các bạn. Hãy kiên trì học hỏi điều đó. Và hành giả yogi chỉ ra rằng Purusha, khi giao tiếp với thiên nhiên và tự đồng nhất mình với tâm trí và thế giới, cứ ngỡ rằng nó khốn khổ. Rồi họ tiếp tục chỉ ra rằng con đường thoát ra là thông qua kinh nghiệm. Tất cả các bạn phải trải nghiệm điều này, nhưng phải nhanh chóng hoàn tất nó. Các bạn đã tự đặt mình vào trong lưới, và sẽ phải thoát ra ngoài. Chúng ta đã tự sa vào cạm bẫy, và sẽ phải tìm ra lối thoát. Như thế, hãy trải nghiệm tình yêu vợ chồng, bè bạn, con cái, các bạn sẽ an toàn trải qua chúng, nếu không bao giờ quên mất mình thực sự là ai. Đừng bao giờ quên rằng đây chỉ là trạng thái tạm thời, và các bạn phải trải nghiệm nó. Kinh nghiệm về khổ đau và hạnh phúc là người thầy vĩ đại, nhưng hãy hiểu rằng nó cũng chỉ là tạm thời. Nó sẽ từng bước đưa ta đến một trạng thái, trong đó vạn sự đều trở nên nhỏ bé, và Purusha sẽ trở nên khổng lồ đến mức cả vũ trụ này tựa hồ như một giọt nước trong đại dương, và tan mất đi vì không có. Chúng ta phải trải qua nhiều kinh nghiệm khác nhau, nhưng đừng bao giờ quên đi lý tưởng.
19
Các trạng thái của guna là cái xác định (những nguyên tố thô), cái bất định (những nguyên tố tế vi ), cái chỉ được biểu thị (trí thông minh của vũ trụ) và cái không dấu hiệu (prakriti).
Hệ thống yoga được xây dựng hoàn toàn trên triết học Sāmkhya, như tôi đã trình bày cùng các bạn trong những bài diễn thuyết trước, và một lần nữa tôi muốn nhắc các bạn về vũ trụ luận của triết học Sāmkhya. Theo Sāmkhya thì thế giới tự nhiên vừa là chất liệu vừa là nhân hữu hiệu của vũ trụ này. Trong thế giới tự nhiên có ba loại gunas hay nguyên tố, đó là : sattva, rajas và tamas. Tamas là tất cả những gì tối tăm, ngu dốt và nặng nề, còn rajas là những gì hoạt động, và sattva là sự tĩnh lặng, là ánh sáng. Trước khi sáng tạo vũ trụ, tự nhiên được gọi là avyakta, bất định và bất phân tán – đó là một trạng thái mà trong đó không có sự phân biệt giữa danh và tướng, và cả ba gunas đều được duy trì trong sự cân bằng tuyệt đối. Rồi sự cân bằng này bị phá vỡ, ba gunas này hòa hợp vào nhau theo nhiều cách thức và kết quả là sinh ra vũ trụ này.
Bất kỳ nơi người nào cũng tồn tại cả ba gunas này. Khi sattva chiếm ưu thế thì phát sinh tri thức, rajas chiếm ưu thế thì phát sinh và tamas chiếm ưu thế thì sinh ra u mê, lười nhác và trì độn. Theo triết học Sāmkhya thì biểu hiện tối cao của thế giới tự nhiên này – gồm đủ cả ba loại gunas – được gọi là mahat, tức đại trí tuệ hay trí thông minh bao trùm vũ trụ – mà trong đó trí năng của con người chỉ chiếm được một phần. Trong triết học Sāmkhya có sự phân biệt rạch ròi giữa chức năng của manas – hay tâm trí, với chức năng của bhuddhi – hay trí năng. Chức năng của manas chỉ đơn thuần là tập hợp những ấn tượng đến từ bên ngoài rồi đệ trình lên cho buddhi – tức mahat của cá nhân – để buddhi quyết định. Từ mahat này phát sinh ra ngã tưởng, rồi từ ngã tưởng phát sinh những nguyên tố tế vi. Các nguyên tố tế vi này hòa hợp với nhau thành nguyên tố thô để tạo thành vũ trụ ngoại tại. Triết học Sāmkhya tuyên bố rằng từ trí năng cho đến sỏi đá, tất cả đều được cấu tạo từ cùng một chất liệu như nhau, chỉ khác nhau ở trạng thái tồn tại tinh hay thô mà thôi. Cái gì tinh là nhân, cái gì thô là quả. Cũng theo triết học Sāmkhya thì bên ngoài vũ trụ này là Purusha, chẳng phải là chất liệu gì cả. Purusha chẳng hề giống với bất kỳ một cái gì khác, dù đó là buddhi hay tâm trí, hoặc đó là Tanmātras hay chất liệu thô. Purusha chẳng liên quan gì với thứ này, Nó hoàn toàn tách biệt, hoàn toàn khác trong bản chất, và hơn thế nữa, Purusha được cho là bất tử, vì Nó không phải là kết quả của sự hòa hợp. Cái gì không phải là kết quả của sự hòa hợp đều không thể hoại diệt. Theo triết học Sāmkhya thì Purusha là vô lượng.
Bây giờ chúng ta sẽ hiểu câu cách ngôn này khi nó nói rằng các trạng thái của guna là cái xác định, cái bất định, cái chỉ được biểu thị và cái không dấu hiệu.
“Xác định” là ý muốn nói đến những chất liệu thô, mà ta có thể cảm nhận được bằng giác quan.
“Bất định” là ý muốn nói đến những chất liệu tế vi, những tanmātras, mà một người bình thường không thể cảm nhận được. Tuy nhiên, Patanjali bảo rằng các bạn nếu thực hành yoga một thời gian thì nhận thức trở nên tinh tế đến mức cuối cùng các bạn có thể nhận ra được các tanmātras. Chẳng hạn, các bạn từng nghe nói mọi người có thể tỏa ra ánh hào quang quanh mình như thế nào, và hành giả yogi nói rằng họ có thể nhìn thấy được ánh hào quang đó. Tất cả chúng ta đều không thể thấy được nó, nhưng tất cả chúng ta đều đang phóng những tanmātras ra ngoài, giống như một đóa hoa liên tục phóng ra những tanmātras để giúp ta ngửi được nó. Mỗi ngày trong đời, chúng ta đều đang phóng ra một khối lượng thiện hoặc ác, và nơi nào ta đi tới thì bầu không khí cũng ngập tràn những chất liệu này. Đó là cách thức mà ý tưởng xây dựng đền đài, nhà thờ đã đến với tâm trí con người một cách vô thức. Vì sao con người cần phải dựng lên những đền thờ để thờ phụng Thượng Đế? Tại sao lại không thờ phụng Ngài ở khắp mọi nơi? Ngay cả khi không hiểu lý do thì con người vẫn thấy những nơi thờ phụng Thượng Đế đều ngập tràn những tanmātras tốt. Ngày nào người ta cũng đi đến đó, và họ càng đến đó thì họ càng thánh thiện hơn, và đền thờ càng trở nên linh thiêng hơn. Nếu một người không có nhiều trí thông minh (sattva) mà đến các đền thờ thì nơi này sẽ ảnh hưởng đến anh ta để khơi dậy được phẩm tính thông minh. Do đó, đây là ý nghĩa của tất cả những thánh đường thiêng liêng, nhưng các bạn phải nhớ rằng tính thiêng liêng của chúng còn tùy thuộc vào độ thánh thiện của những người tập trung nơi đó. Cái khó cho con người là họ quên mất ý nghĩa ban đầu đó, và đặt cỗ xe trước con ngựa. Chính con người dựng lên những thánh đường thiêng liêng, rồi quả lại biến thành nhân và giúp cho con người thánh thiện. Nếu chỉ có kẻ ác tìm đến thì những thánh đường thiêng liêng đó cũng trở nên tồi tệ như bao chỗ khác. Chính con người chứ không phải là tòa nhà tạo nên thánh đường, và chúng ta lại luôn quên mất điều đó. Đó là lý do vì sao những bậc hiền triết và những người thánh thiện – những người có rất nhiều phẩm tính sattva – lại có thể tỏa trí tuệ đó ra ngoài, và ngày đêm đều gây được ảnh hưởng lớn lao đến mọi người chung quanh. Một người có thể trở nên thuần tịnh đến mức ta sẽ cảm nhận được sự thanh tịnh của vị đó. Bất kỳ ai tiếp xúc với vị đó đều sẽ trở nên thuần tịnh.
Tiếp đến, “cái chỉ được biểu thị” là ý muốn nói đến buddhi hay trí năng bao trùm vũ trụ. Đó là hiển lộ đầu tiên của tự nhiên, từ đó xuất hiện tất cả những tiến trình hiển lộ khác.
Cuối cùng là “cái không dấu hiệu” hay tự nhiên. Dường như có sự khác biệt lớn lao giữa khoa học hiện đại và tôn giáo về điểm này. Mọi tôn giáo đều cho rằng vũ trụ được sinh ra từ trí thông minh. Học thuyết về Thượng Đế – sử dụng ngôn ngữ theo nghĩa tâm lý học, tách biệt với mọi khái niệm nhân thể – cho rằng trong tiến trình sáng tạo thì trí thông minh xuất hiện trước tiên, rồi từ trí thông minh đó xuất hiện tất cả những thứ mà ta gọi là chất liệu thô. Các triết gia hiện đại thì cho rằng trí thông minh xuất hiện sau cùng. Họ nói trí thông minh tiến hóa từ từ vào loài vật, rồi từ loài vật tiến hóa từ từ vào loài người. Họ khẳng định rằng thay vì muôn vật được tiến hóa từ trí thông minh thì trí thông minh tự nó xuất hiện sau cùng. Cả phát biểu của tôn giáo lẫn khoa học đều đúng, dù chúng có vẻ như hoàn toàn trái ngược nhau. Thử lấy một chuỗi vô tận các ký hiệu A – B – A – B – A – B v.v… Câu hỏi đặt ra là cái nào có trước A hay B? Nếu chọn chuỗi A – B thì các bạn cho rằng A có trước, nhưng nếu chọn chuỗi B – A thì các bạn lại cho rằng B có trước[28]. Điều đó tùy thuộc vào cách các bạn nhìn vấn đề. Trí thông minh chuyển biến thành chất liệu thô, rồi chất liệu thô lại hòa lẫn vào trí thông minh, và tiến trình cứ diễn ra như thế. Những người theo triết học Sāmkhya và những tín đồ tôn giáo khác xếp trí thông minh lên đầu tiên, và chuỗi vô tận đó là trí thông minh rồi đến chất liệu thô. Còn các nhà khoa học hiện đại thì đặt dấu ấn lên vật chất, và nói rằng vật chất trước rồi mới đến trí thông minh. Cả hai đều chỉ ra cùng một chuỗi xích. Tuy nhiên, triết học Ấn Độ lại vượt qua cả trí thông minh lẫn vật chất, và tìm ra Purusha hay Chân Ngã nằm bên ngoài trí thông minh, và trí thông minh chỉ vay mượn ánh sáng từ đó mà thôi.
20
Chủ thể năng quán chỉ là trí thông minh mà thôi, và dù thuần tịnh, vẫn được nhìn thấy xuyên qua màu sắc của trí năng.[29]
Đây lại là triết học Sāmkhya. Từ nền triết học này, chúng ta đã thấy rằng từ hình thức thấp kém nhất cho đến trí thông minh, tất cả đều là thế giới tự nhiên, vượt ra ngoài tự nhiên là Purusha vô phẩm tính. Vậy thì Purusha biểu hiện hạnh phúc hay bất hạnh như thế nào? bằng sự phản chiếu. Nếu đặt một đóa hoa màu đỏ cạnh một khối pha lê trong suốt thì khối pha lê hiện ra màu đỏ. Tương tự như vậy, Linh Hồn biểu hiện hạnh phúc hay bất hạnh chỉ bằng sự phản chiếu. Linh Hồn tự nó không có màu sắc nào. Linh Hồn tách biệt với tự nhiên, tự nhiên là một chuyện, còn Linh Hồn là một chuyện khác, vĩnh viễn tách biệt nhau. Triết học Sāmkhya cho rằng trí thông minh là một thể hòa hợp, phát triển rồi suy tàn, nó biến đổi như thể xác, bản chất của nó gần giống như thế giới tự nhiên. Móng tay đối với thể xác như thế nào thì thể xác đối với trí thông minh cũng như thế ấy. Móng tay là một phần của thể xác, nhưng nó có thể rụng đi hàng trăm lần, trong khi thể xác vần tồn tại. Tương tự như vậy, trí thông minh vẫn tồn tại qua muôn đời vạn kiếp, trong khi thể xác có thể bị hoại diệt, suy tàn. Tuy nhiên, trí thông minh không thể trường tồn bất tử, vì nó biến đổi, phát triển rồi suy tàn. Mà bất kỳ cái gì biến đổi đều không thể trường tồn bất tử. Chắc chắn trí thông minh là cái được tạo ra, nhưng chính sự kiện đó chứng minh cho ta thấy phải có một cái gì đó ở bên ngoài nó. Trí thông minh không thể tự do, tất cả những gì liên kết với vật chất đều nằm trong thế giới tự nhiên, và do đó, mãi mãi bị trói buộc. Ai được tự do? Người được tự do chắc chắn phải vượt ngoài nhân quả.
Nếu các bạn bảo rằng quan niệm tự do chỉ là một ảo tưởng thì tôi sẽ bảo rằng quan niệm trói buộc cũng chỉ là một ảo tưởng. Cả hai sự kiện cùng xuất hiện trong ý thức chúng ta, trụ vững nơi đó hoặc gắn bó với nhau. Đó là những quan niệm của chúng ta về tự do và trói buộc. Nếu ta muốn đi xuyên qua một bức tường thì ta sẽ va đầu vào tường, ta thấy mình bị giới hạn bởi bức tường đó. Đồng thời, ta sẽ thấy mình có năng lực ý chí và nghĩ rằng ta có thể hướng ý chí ta đến khắp mọi nơi. Tại mỗi bước đi, những ý tưởng mâu thuẫn này lại đến với chúng ta. Ta phải tin rằng mình tự do, nhưng lúc nào ta cũng thấy mình chẳng hề được tự do. Nếu quan niệm này là ảo tưởng thì quan niệm kia cũng là ảo tưởng nốt, vì cả hai cùng dựa trên một nền tảng chung là kinh nghiệm.
Hành giả yogi nói rằng cả hai quan niệm đều đúng – chúng ta bị trói buộc xét về phương diện trí thông minh, nhưng chúng ta lại tự do xét về phương diện Linh Hồn. Chân tính của Linh Hồn, Purusha, vượt ngoài quy luật nhân quả. Sự tự do của nó được chắt lọc qua các lớp vật chất dưới nhiều hình thức khác nhau, qua trí thông minh, tâm trí v.v…. Ánh sáng của Linh Hồn đang xuyên thấu qua tất cả. Trí thông minh tự nó không có ánh sáng. Mỗi cơ quan đều có một trung tâm riêng biệt trong não bộ. Không chỉ có một trung tâm chung cho tất cả mọi cơ quan, mà mỗi cơ quan đều tách biệt. Tại sao mọi nhận thức đều hòa hài với nhau? Do đâu mà chúng có được sự thống nhất? Nếu sự thống nhất đó nằm trong não bộ thì tất cả các cơ quan – mắt, mũi, tai v.v… – hẳn cần phải có một trung tâm điều khiển duy nhất, trong khi chúng ta biết rằng mỗi cơ quan đều có trung tâm khác nhau. Nhưng con người có thể vừa nhìn vừa nghe cùng lúc, như vậy phải có sự thống nhất ở đằng sau trí thông minh. Trí thông minh được nối kết với não bộ, nhưng đằng sau còn có Purusha thống hợp tất cả những cảm giác và nhận thức khác nhau vào chung một mối. Chính Linh Hồn là trung tâm, nơi mà mọi cơ quan khác nhau cùng hội tụ và hợp nhất. Linh Hồn tự do, và chính sự tự do của Linh Hồn nói cho các bạn biết rằng các bạn luôn được tự do trong mọi lúc, chứ không hề bị trói buộc. Nhưng các bạn lại nhầm lẫn khi đồng nhất sự tự do đó với trí thông minh và tâm trí. Các bạn cố gán thuộc tính tự do cho trí năng, và lập tức phát hiện ra rằng trí năng không tự do, các bạn gán thuộc tính tự do cho thể xác, và lập tức thiên nhiên bảo rằng các bạn lại phạm sai lầm nữa rồi. Đó là lý do vì sao có ý nghĩa kết hợp đồng thời giữa tự do và trói buộc. Hành giả yogi phân tích cả hai thứ tự do cùng trói buộc, và vô minh tan biến. Ông ta thấy rằng Purusha là tự do, là cốt tủy của loại tri thức, mà thông qua buddhi lại biến thành trí thông minh, và như thế là bị trói buộc.
21
[Sự chuyển hóa diễn ra trong] bản thể của đối tượng sở quán (nghĩa là prakriti) là dành cho Ngài (nghĩa là Purusha).
Prakriti tự nó không có năng lực. Chừng nào có Purusha cận kề thì nó mới có năng lực, nhưng đây chỉ là năng lực vay mượn, cũng như ánh sáng mặt trăng chỉ là ánh sáng vay mượn. Theo các hành giả yogi thì toàn bộ cái vũ trụ hiển lộ này xuất phát từ chính prakriti, nhưng prakriti không có mục đích nào khác ngoài mục đích giải thoát cho Purusha.
22
Mặc dù prakriti bị hoại diệt đối với người đã đạt đến mục đích, song nó lại không bị hoại diệt đối với những người khác, mà vẫn là của chung đối với họ.
Toàn bộ hoạt động của thiên nhiên là làm cho Linh Hồn biết rằng nó hoàn toàn tách biệt với thiên nhiên. Khi Linh Hồn đã biết được điều đó thì thiên nhiên không còn hấp dẫn với Nó nữa. Nhưng toàn bộ thiên nhiên chỉ biến mất đối với người đã đạt giải thoát. Còn đối với vô số người khác thì thiên nhiên vẫn tiếp tục vận hành.
23
Sự giao tiếp [giữa prakriti và Purusha] là nguyên nhân của sự thực chứng về bản chất năng lực của cả đối tượng sở quán lẫn Thượng Đế của nó.
Theo câu cách ngôn này thì năng lực của Linh Hồn và thiên nhiên (nghĩa là giữa chủ thể trải nghiệm và đối tượng được trải nghiệm) trở nên hiển lộ khi chúng (nghĩa là Linh Hồn và thiên nhiên) kết hợp với nhau. Chỉ đến khi đó thế giới hiện tượng mới hiển lộ. Vô minh là nhân của sự kết hợp này. Hàng ngày, ta thấy rằng nguyên nhân của mọi thứ hạnh phúc hay bất hạnh trong đời là do ta quyến luyến thể xác ta. Nếu tôi hoàn toàn tin chắc rằng tôi không phải là thể xác này thì tôi chẳng thèm quan tâm gì đến bất cứ chuyện nhục vinh hay khổ lạc nào nữa. Thể xác này do sự hòa hợp mà thành. Nói rằng tôi có một thể xác, bạn có một thể xác, mặt trời có một thể xác, đó chỉ là điều tưởng tượng hoang đường. Toàn thể vũ trụ nầy là một đại dương vật chất, bạn là tên gọi của một hạt vật chất nhỏ bé, tôi là tên gọi của một hạt khác, và mặt trời là tên gọi một hạt thứ ba. Chúng ta biết rằng vật chất này không ngừng biến đổi. Những thứ cấu tạo nên mặt trời đến một ngày nào đó có thể tạo thành chất liệu cho thể xác chúng ta.
24
Vô minh là nhân của nó.
Do vô minh mà chúng ta gắn bó với cái thể xác riêng biệt này, và từ đó tự dẫn mình đến cảnh khốn khổ. Quan niệm về thể xác này chỉ là sự mê tín. Chính sự mê tín đó khiến cho chúng ta hạnh phúc hay đau khổ. Chính sự mê tín do vô minh đó khiến chúng ta cảm nhận được mọi chuyện nhục vinh hay khổ lạc. Công việc của ta là phải vượt lên trên sự mê tín này, và hành giả yogi chứng minh rằng chúng ta có thể làm được điều đó. Người ta đã chứng minh được rằng, trong một số điều kiện tinh thần nào đó, con người có thể bị đốt mà vẫn không cảm thấy đau đớn. Nhưng cơn phấn khích tinh thần đột xuất này chợt đến như một cơn lốc, rồi biến mất ngay sau đó. Tuy nhiên, nếu luyện được khả năng này bằng pháp môn yoga thì chúng ta sẽ thường xuyên tách lìa được Chân Ngã ra khỏi thể xác.
25
Nơi nào vắng bóng cái đó (tức vô minh) thì sẽ không có kết hợp. Đây là sự hoại diệt của vô minh, và đây là sự tự tại của Chủ Thể Năng Quán.
Theo triết học Yoga này thì do vô minh mà Linh Hồn gắn kết với thiên nhiên. Mục đích của nó là thoát ra khỏi sự chế ngự của thiên nhiên đối với chúng ta. Đó là mục tiêu của mọi tôn giáo. Mỗi Linh Hồn đều là Thượng Đế trong tiềm năng. Mục tiêu là hiển lộ thần tính tiềm ẩn bên trong ta bằng cách chế ngự thiên nhiên bên ngoài và bản tính bên trong. Hãy làm điều này hoặc bằng công việc, hoặc bằng sùng bái, hoặc bằng sự chế ngự tâm linh, hoặc bằng triết học – bằng từng phương pháp một, hoặc bằng nhiều phương pháp hoặc bằng tất cả những phương pháp đó – và sẽ đạt tự do. Đó là toàn bộ tôn giáo. Giáo lý, nghi lễ, kinh điển, đền thờ hay hình thức thờ phụng chỉ là những chi tiết thứ yếu.
Hành giả yogi cố đặt đến mục tiêu đó bằng sự chế ngự tâm linh. Chừng nào chưa tự giải thoát mình ra khỏi thiên nhiên thì chúng ta vẫn còn là những nô lệ, nó chỉ định thế nào thì chúng ta phải làm theo thế ấy. Hành giả yogi khẳng định người nào điều khiển được tâm trí thì cũng điều khiển được vật chất. Bản tính bên trong còn tế vi hơn rất nhiều so với thiên nhiên bên ngoài, và khó nắm bắt hơn nhiều, khó chế ngự hơn nhiều. Bởi vậy người nào đã chinh phục được bản tính bên trong thì điều khiển được toàn thể vũ trụ bên ngoài, biến vũ trụ thành nô lệ cho mình. Rāja-yoga đề xướng pháp môn đạt được quyền năng điều khiển này. Cần phải khuất phục được những thế lực tế vi hơn bất kỳ một thế lực nào mà chúng ta biết được trong thiên nhiên. Thể xác này chỉ lớp vỏ thô của tâm trí. Chúng không phải là hai sự vật khác nhau, mà giống như con hàu và lớp vỏ. Chúng chỉ là hai mặt của cùng một sự vật. Bản chất bên trong của con hàu thu nhận vật chất từ bên ngoài để tạo nên lớp vỏ. Tương tự như vậy, những lực tế vi bên trong – những lực cấu thành tâm trí – thu nhận vật chất thô từ bên ngoài để tạo nên lớp vỏ bọc là thể xác. Do đó, nếu chúng ta đã điều khiển được bên trong thì rất dễ điều khiển được bên ngoài. Hơn nữa, những lực này không khác nhau. Không phải là có một số lực thuộc về thể xác, một số lực thuộc về tinh thần; mà những lực thuộc thể xác chỉ là sự biểu hiện thô của những lực tế vi, cũng như thế giới vật chất chỉ là sự biểu hiện thô của thế giới tế vi.
26
Phương tiện để phá hủy vô minh là luyên tập trí phân biệt không ngừng nghỉ.
Đây là mục tiêu thực sự để thực hành : phân biệt cái thực hữu với cái bất thực, hiểu rằng Purusha không phải là thiên nhiên, Nó không phải là vật chất mà cũng chẳng phải là tâm trí, và vì không phải là thiên nhiên nên Nó không thể biến dịch. Chỉ có thiên nhiên mới biến dịch, hợp tan, tụ tán, thay đổi không ngừng. Khi chúng ta bắt đầu biết phân biệt nhờ thường xuyên luyện tập thì vô minh sẽ tan biến, và Purusha sẽ bắt đầu tỏa sáng trong thực tính của Nó, toàn trí, toàn năng và toàn nhiên phổ hiện.
27
Tri thức người đó đạt được theo bảy giai đoạn tối thượng.
Khi tri thức đến với chúng ta thì nó sẽ đến, có thể nói như vậy, lần lượt theo bảy giai đoạn, và khi đạt được một trong bảy giai đoạn này thì chúng ta biết mình đang thu hoạch tri thức.
Giai đoạn đầu tiên sẽ khiến ta cảm nhận được rằng mình đã biết những điều cần phải biết. Tâm trí sẽ không còn bất mãn nữa. Chừng nào còn khát khao tri thức thì ta còn tìm kiếm nó khắp đó đây, hễ ở nơi nào ta nghĩ rằng sẽ tìm ra chân lý nhưng lại thất bại thì ta lại bất mãn và đi tìm theo một hướng mới. Mọi cuộc tìm kiếm đều hoài công vô ích cho đến khi nào chúng ta bắt đầu nhận ra rằng tri thức đó vốn ở trong ta, rằng không một ai có thể giúp được cho ta, mà ta phải tự giúp lấy mình. Khi ta bắt đầu phát huy được năng lực phân biệt thì dấu hiệu đầu tiên cho thấy ta đang tiếp cận với chân lý sẽ là : trạng thái bất mãn không còn nữa. Chúng ta sẽ hoàn toàn tin chắc rằng mình đã tìm ra chân lý, và nó không thể là gì khác ngoài chân lý. Rồi chúng ta có thể biết rằng mặt trời vẫn đang mọc, binh minh vẫn đang hé rạng, và chúng ta dùng lòng quả cảm để duy trì chân lý cho đến khi đạt được mục đích mới thôi.
Giai đoạn thứ hai sẽ vắng bóng hoàn toàn mọi khổ đau. Sẽ không có gì trong vũ trụ này, từ nội tâm cho đến ngoại giới, có thể gây cho chúng ta đau khổ nữa. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn đạt đến tri thức toàn mãn. Ta sẽ đạt đến toàn tri. Giai đoạn thứ tư kết thúc mọi bổn phận nhờ trí phân biệt. Kế đó là giai đoạn được gọi là tâm giải thoát. Chúng ta sẽ liễu ngộ được rằng mọi điều nan giải, mọi cuộc đấu tranh và mọi trạng thái dao động của tâm trí đều rụng rơi lả tả, giống như tảng đá lăn từ đỉnh núi xuống thung lũng, và không bao giờ quay lại được nữa. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn tâm liễu ngộ được rằng nó có thể dung hóa thành nhân bất cứ khi nào ta muốn.
Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy mình an trú trong Chân Ngã, thấy rằng Chân Ngã trong ta đã cô độc một mình trong khắp vũ trụ này, chưa từng có một thể xác hay tâm trí nào liên quan với Nó, lại càng không kết hợp với Nó. Chúng làm việc riêng của chúng, còn chúng ta, do vô minh, nên kết hợp Chân Ngã vào chúng. Nhưng chúng ta đã cô độc một mình, toàn năng và toàn nhiên phổ hiện, mãi mãi hưởng lạc phúc, Chân Ngã của chúng ta thuần tịnh và toàn hảo đến mức ta không cần đỏi hỏi một thứ gì khác nữa. Chúng ta không cần đòi hỏi bất cứ một thứ gì khác để mang lại lạc phúc, vì chúng ta chính là niềm lạc phúc đó. Chúng ta sẽ thấy rằng tri thức này không lệ thuộc vào bất cứ thứ gì bên ngoài. Khắp cả vũ trụ này, không có gì là không trở nên chói lọi sáng ngời trước tri thức đó. Đây sẽ là giai đoạn cuối cùng, hành giả yogi sẽ trở nên bình yên và tĩnh lặng, không còn cảm thấy khổ đau nữa, không bao giờ mắc ảo tưởng nữa, và không bao giờ chạm vào nỗi khốn khổ nữa. Ông ta biết mình mãi mãi hưởng lạc phúc, mãi mãi toàn hảo và toàn năng.
28
Nhờ luyện tập theo nhiều pháp môn yoga khác nhau mà những điều bất tịnh bị loại bỏ, tri thức được thắp sáng, dẫn đến trí phân biệt.
Bây giờ bàn đến những giới luật thực tiễn. Những điều chúng ta vừa bàn luận đều quá khó, vượt ngoài khả năng lĩnh hội của ta. Nhưng đó là lý tưởng. Điều cần thiết đầu tiên là phải điều khiển được thân và tâm. Rồi sự thực chứng lý tưởng sẽ trở nên kiên định. Lý tưởng thì ta đã biết rồi, vấn đề còn lại là thực hành pháp môn đạt được thực chứng.
29
Ngũ giới (yama), ngũ hạnh (niyama), tư thế (asana), kiểm soát prāna hay nguyên sinh khí (prānāyāma), kiểm soát giác quan trước các đối tượng (pratyāhāra), chú tâm (dhāranā), thiền (dhyāna) và định (samādhi) là tám chi của yoga.
30
Không sát sanh, không gian dối, không trộm cắp, không tà dâm và không thọ lãnh [lễ vật] được gọi là yama.
Muốn trở thành một hành giả yogi hoàn hảo thì cần phải từ bỏ ý tưởng về tình dục. Linh Hồn không có giới tính, vậy thì vì sao Nó lại tự làm suy đồi mình bằng ý tưởng về tình dục. Sau này ta sẽ hiểu rõ hơn vì sao cần phải từ bỏ những ý tưởng này. Tâm trí của người thọ lãnh lễ vật sẽ bị chi phối bởi tâm trí của người tặng lễ vật, bởi vậy người thọ lãnh để trở nên suy đồi. Việc thọ lãnh lễ vật có xu hướng phá hủy sự tự tại của tâm trí và biến chúng ta thành nô lệ. Bởi vậy, đừng nên nhận lễ vật.
31
Những giới cấm này – không phân biệt thời gian, không gian hay quy định của chủng cấp – là những đại nguyện phổ biến.
Những giới cấm này – bao gồm không sát sanh, không gian dối, không trộm cắp, không tà dâm và không thọ lãnh lễ vật – cần được thực hành bởi mọi hành giả yogi, không kể đó là nam hay nữ, là người lớn hay trẻ con; cần được thực hành bởi tất cả mọi người không kể đến quốc gia, xứ sở hay địa vị.
32
Giữ thanh tịnh từ trong ra ngoài, an vui, khổ hạnh, nghiên cứu và tận hiến cho Thượng Đế, đó được gọi là ngũ hạnh (niyama).
Thanh tịnh bên ngoài là giữ cho thân thể được sạch sẽ, một người bẩn thỉu không thể là hành giả yogi. Cũng cần cả thanh tịnh bên trong nội tâm nữa. Điều này đạt được là nhờ thực hành những đức hạnh ở mực I.33. Giữ thanh tịnh bên trong dĩ nhiên có giá trị hơn thanh tịnh bên ngoài nhiều, nhưng cả hai đều cần thiết, nếu chỉ giữ thanh tịnh bên ngoài mà không có thanh tịnh bên trong thì cũng vô giá trị.
33
Khi trong tâm phát sinh tư tưởng gây chướng ngại cho pháp môn yoga thì nên vận dụng tư tưởng đối trị.
Đây là cách thực hành những đức hạnh đã được đề cập. Chẳng hạn khi một con sóng lớn giận dữ khởi dậy trong tâm trí thì chế ngự nó bằng cách nào? Bằng cách khơi dậy một con sóng đối nghịch. Hãy nghĩ đến yêu thương. Đôi lúc một người mẹ quá tức giận chồng mình, nhưng trong khi đang ở trong trạng thái đó mà đứa con chạy đến thì bà ôm hôn đứa con, con sóng cũ lịm dần đi, con sóng mới trổi dậy – đó là tình yêu dành cho đứa con. Con sóng này dập tắt con sóng kia. Tình thương đối nghịch với giận dữ. Cũng tương tự như vậy, khi ý tưởng trộm cắp trổi dậy thì hãy nghĩ đến ý tưởng không trộm cắp, khi ý tưởng thọ nhận lễ vật trổi dậy thì hãy thay nó bằng một ý tưởng đối nghịch.
34
Những điều gây chướng ngại cho pháp môn yoga là sát sinh, giả dối v.v… – dù là do vô tình, ngẫu nhiên hay được thừa nhận, dù là do tham lam, giận dữ hay ngu dốt, dù nhẹ, vừa hay nặng. Chúng tạo nên vô minh vô tận và khốn khổ vô biên
Nói dối hoặc khiến người khác phải nói dối, hoặc chấp nhận điều nói dối cũng đều mang tội như nhau. Một lời nói dối thật nhẹ nhàng vẫn là sự dối trá. Mọi tư tưởng ác độc sẽ nảy bật lại, mọi tư tưởng hận thù mà các bạn ấp ủ trong lòng, dù ở trong hang động, cũng đều được tích trữ lại, và một ngày kia sẽ quật ngược lại các bạn bằng sức mạnh khủng khiếp bằng hình thức khốn khổ nào đó. Nếu các bạn phóng chiếu ra hận thù và ghen tỵ thì chúng sẽ nảy bật lại các bạn với lãi suất gấp đôi. Không một thế lực nào có thể ngăn cản được nó, một khi đã khởi động chúng là các bạn sẽ phải gánh chịu hậu quả. Ghi nhớ điều này sẽ ngăn các bạn không cho làm điều ác.
35
Khi hành giả yogi đã an định trong hạnh không sát sinh thì nơi nào người đó có mặt sẽ không còn có sự thù hằn [trong tâm kẻ khác].
Nếu một người thực hiện được lý tưởng không gây tổn hại người khác thì trước mặt người đó, thậm chí một con vật mang bản tính hung dữ cũng trở nên ngoan hiền. Con cọp và con cừu sẽ cùng nhau vui đùa trước mặt một hành giả yogi như thế, và không hại nhau. Khi đã đạt đến trạng thái đó thì chỉ các bạn mới hiểu rằng mình đã an định trong hạnh bất tổn hại.
36
Khi đã an định trong trạng thái toàn chân, hành giả yogi sẽ đạt được quyền năng đem lại thành quả cho mình và cho người khác mà không cần đến công việc.
Khi sức mạnh chân lý đã xác lập trong bạn thì dù trong giấc mơ các bạn cũng không nói điều dối trá. Các bạn sẽ trung thực trong tư tưởng, hành vi và lời nói. Bất cứ điều gì các bạn nói cũng đều là chân lý. Các bạn có thể nói một người “Hãy thọ hưởng lạc phúc” thì người đó sẽ được thọ hưởng lạc phúc. Nếu một người mắc bệnh và các bạn bảo : “Hãy lành bệnh” thì người đó sẽ lập tức lành bệnh.
37
Khi đã an định trong hạnh không trộm cắp, hành giả yogi sẽ có được mọi tài sản.
Càng chạy xa khỏi thiên nhiên thì nó càng theo đuổi các bạn, nếu các bạn chẳng thèm quan tâm gì đến nó thì nó trở thành nô lệ cho các bạn.
38
Khi đã an định trong hạnh không tà dâm, hành giả yogi sẽ đạt được năng lực.
Những người sống trinh khiết có được một năng lực khủng khiếp và một ý lực mãnh liệt. Không trinh khiết thì không thể có một sức mạnh tâm linh nào cả. Hạnh tiết dục đem lại cho loài người khả năng chế phục tuyệt diệu. Những vị lãnh đạo tinh thần đều là những người sống tiết dục, và đó là cái đem lại cho họ sức mạnh. Bởi vậy hành giả yogi phải sống tiết dục.
39
Khi đã an định trong hạnh không thọ nhận lễ vật, hành giả yogi sẽ nhớ lại được tiền kiếp.
Khi không nhận lễ vật từ người khác thì hành giả yogi không bị lệ thuộc vào họ, mà được ung dung tự tại. Tâm trí ông ta trở nên thuần tịnh. Với mỗi lễ vật nhận được, ông ta cũng có thể tiếp nhận cả điều xấu ác của người tặng. Nếu không nhận lễ vật thì tâm trí ông ta được thanh tịnh, và quyền năng đầu tiên mà hành giả yogi đó có được là nhớ lại tiền kiếp. Chỉ từ đó, hành giả yogi mới hoàn toàn kiên định theo lý tưởng của mình. Ông ta thấy mình đã đến và đi nhiều lần, và quyết tâm từ đây sẽ được giải thoát, không còn đến, chẳng còn đi, không còn làm nô lệ cho thiên nhiên nữa.
40
Khi đã an định trong tịnh hạnh thì hành giả yogi thấy ghê sợ thể xác mình, và không còn muốn chung đụng thể xác với kẻ khác.
Khi thể xác đã thực sự thanh tịnh từ trong ra ngoài thì phát sinh tư tưởng không quan tâm đến thể xác, ý tưởng giữ cho thể xác xinh đẹp không còn nữa. Gương mặt của một tuyệt thế giai nhân đối với hành giả yogi cũng chẳng khác chi gương mặt một con vật, nếu đằng sau nó không có Tâm Linh. Còn gương mặt mà thiên hạ đều cho là quá xoàng xĩnh thì hành giả yogi lại xem như gương mặt thiên thân, nếu có Tâm Linh tỏa sáng đằng sau nó. Khao khát thể xác là nguyên nhân khiến đời sống nhân loại suy đồi. Do đó, dấu hiệu đầu tiên cho thấy đạt được tịnh hạnh là các bạn không còn quan tâm chi đến việc các bạn là thể xác nữa. Chỉ khi nào đạt được tịnh hạnh, ta mới từ bỏ được ý tưởng về thân xác.
41
Cũng cần làm thanh tịnh sattva, làm tươi vui tâm trí, chú tâm, chế ngự các cơ quan, khế hợp cho sự thực chứng Chân Ngã.
Nhờ giữ gìn tịnh hạnh mà chất liệu sattva chiếm ưu thế, và tâm trí sẽ trở nên tập trung và vui vẻ. Dấu hiệu đầu tiên cho biết bạn trở thành người có đạo tâm là các bạn vui vẻ. Vẻ mặt u sầu, ảm đạm có thể là dấu hiệu của chứng đầy hơi khó tiêu, chứ không phải là dấu hiệu của đạo tâm. Cảm giác thoải mái, dễ chịu là bản chất của sattva. Mọi thứ đều thoải mái, dễ chịu đối với một sāttvika (hành giả mang bản chất sattva), và khi điều này xảy đến thì các bạn biết mình đang tiến bộ trong việc luyện yoga. Mọi đau khổ là do các tamas sinh ra, bởi vậy các bạn phải lánh xa chúng. Buồn rầu, ủ ê là một trong những hậu quả của tamas. Chỉ có những người mạnh khỏe, người rắn chắc, người trẻ tung, người mạnh khỏe, và người quả cảm mới thích hợp hợp để trở thành hành giả yogi. Đối với hành giả yogi thì mọi thứ đều là nguồn lạc phúc, mọi gương mặt đều đem lại ông ta niềm vui thú. Đó là dấu hiệu của một người có đạo hạnh. Khốn khổ là do tội lỗi mà ra, chứ chẳng phải do thứ gì khác cả. Việc gì các bạn phải mang bộ mặt chầm dầm buồn thảm? Điều đó thật là kinh khủng. Nếu các bạn mang bộ mặt chầm dầm buồn thảm thì ngày đó đừng có đi ra ngoài, mà hãy tự giam mình ở nhà. Các bạn có quyền gì mà mang bệnh tật gieo rắc khắp thế gian? Khi đã điều khiển được tâm trí thì các bạn điều khiển được thể xác; thay vì làm nô lệ cho cỗ máy này, các bạn hãy biến nó thành nô lệ cho mình. Cỗ máy này, thay vì kéo linh hồn đi xuống, sẽ là một trợ thủ đắc lực.
42
Nhờ an vui mà đạt lạc phúc tối cao.
43
Hành xác, khổ hạnh để hủy diệt những điều bất tịnh, điều đó đem đến cho họ quyền năng.
Kết quả của lối tu khổ hạnh đôi khi có thể được thấy ngay lập tức bằng những quyền năng cao siêu như khả năng nghe, thấy được từ xa v.v…
44
Nhờ niệm mật chú (mantra) mà thực chứng được Thượng Đế đã chọn[30].
Đấng mà các bạn muốn thực chứng càng cao siêu thì công phu hành đạo càng vất vả.
45
Nhờ chí tâm tận hiến cho đấng Iśvara mà đạt được samādhi (định).
Nhờ chí tâm tận hiến cho đấng Chí Tôn mà đạt được đại định.
46
Tư thế phải vững vàng và thoải mái.
Bây giờ bàn đến āsana hay tư thế. Các bạn cần phải có tư thế ngồi vững vàng, nếu không thì không thể thực hành điều tức cùng những bài tập khác. Tư thế ngồi vững vàng có nghĩa là các bạn không còn cảm thấy có thể xác nữa. Nói chung, khi mới bắt đầu ngồi được vài phút thì các bạn cảm thấy khó chịu đủ thứ. Nhưng khi đã vượt qua được ý niệm về thể xác vật chất thô này thì các bạn đánh mất toàn bộ cảm nhận về thể xác. Các bạn sẽ không còn cảm nhận khổ lạc. Và khi nhận thức lại được điều đó thì các bạn sẽ cảm thấy hoàn toàn thư thái. Đây mới là sự nghỉ ngơi duy nhất thực sự mà các bạn có thể đem lại cho thể xác. Khi đã thành công trong việc điều khiển thể xác và giữ cho nó vững vàng thì các bạn sẽ thực hành đều đặn, khi thể xác còn gây phiền toái thì thần kinh bị quấy nhiễu, và các bạn không thể nào tập trung tư tưởng được.
47
Nhờ buông lỏng xu hướng tự nhiên [muốn hoạt động, do việc đồng hóa với thể xác gây ra], nhờ quán tưởng về cõi Vô Biên [mà tư thế trở nên vững vàng và thoải mái].
Ta có thể làm cho tư thế ngồi được vững vàng và thoải mái bằng cách quán tưởng về cõi Vô Biên. Ta không thể thực sự quán tưởng đến cõi Vô Biên siêu việt, nhưng có thể quán tưởng về bầu trời vô tận.
48
Khi đã khắc phục được tư thế rồi thì những sự vật nhị nguyên không còn gây chướng ngại nữa.
Những sự vật nhị nguyên – thiện ác, nóng lạnh, cùng tất cả những sự vật đối lập – sẽ không còn gây nhiễu loạn cho các bạn nữa.
49
Điều khiển hơi thở vào ra đi theo sau điều này.
Khi đã khắc phục được tư thế rồi thì chuyển động của prāna bị phá vỡ và bị chế ngự. Ta tiếp tục đi đến giai đoạn prānāyāma – điều khiển những dòng sinh lực của cơ thể. Prāna không phải là hơi thở, mặc dù nó thường được dịch như vậy. Nó là tổng số của năng lượng vũ trụ. Nó cũng là năng lượng trong mỗi cơ thể, và chuyển động rõ ràng nhất của nó là chuyển động của phổi. Chuyển động này prāna do tạo ra khi cuốn vào hơi thở, và đó là cái mà ta tìm cách điều khiển bằng prānāyāma. Chúng ta bắt đầu bằng cách điều khiển hơi thở như là phương pháp dễ nhất để điều khiển được prāna.
50
Prānāyāma biến đổi theo ba cách, đó là : ngoài, trong và bất động, những biến đổi này được điều tiết theo vị trí, thời gian và số lượng, và xa hơn nữa là dài hoặc ngắn.
Có ba loại chuyển động trong prānāyāma : 1.hít vào, 2.thở ra, và 3.kiềm hơi thở trong phổi hoặc không cho hơi thở vào trong phổi. Những chuyển động này còn thay đổi theo nơi chốn và thời gian. “Điều tiết theo vị trí” có nghĩa là giữ prāna tại một vị trí đặc biệt nào đó trong cơ thể. “Điều tiết theo thời gian” có nghĩa là nên giữ prāna bao lâu tại vị trí đặc biệt đó, và chúng ta được chỉ dẫn cách thực hành chuyển động này bao nhiêu giây, chuyển động kia bao nhiêu giây. Kết quả luyện tập prānāyāma được gọi là udghāta, hay đánh thức được Kundalini.
51
Chuyển động thứ tư là kìm giữ prāna để hướng nó đến các đối tượng bên ngoài hoặc bên trong.
Đó là loại prānāyāma thứ tư. Có thể hướng prāna ra bên ngoài hoặc vào bên trong.
[Câu cách ngôn trên có thể được dịch và giải thích như vầy : “Prānāyāma thứ tư là cái xả bỏ cả chuyển động bên ngoài lẫn bên trong của prāna”
Khi đã loại bỏ được cách hít thở vào ra – được điều tiết theo vị trí, thời gian, số lượng v.v… theo cách mô tả trong câu cách ngôn trên – thì ta đến loại prānāyāma thứ tư. Nó bao gồm việc ngừng đều đặn trong quá trình hít thở, điểm khác nhau giữa cách mô tả trong câu cách ngôn trên với cách này là vầy : theo cách sau thì việc ngừng hít thở bị tác động bởi đối tượng, và đạt được theo từng giai đoạn. Đặc điểm của nó là vắng bóng hoàn toàn mọi chuyển động hô hấp, tiếp theo là ngưng hô hấp hoàn toàn. Thiết tưởng không cần phải nói là những bài luyện tập này, cũng như những bài tập khác trong rāja-yoga, chỉ nên thực hành dưới hướng dẫn của một chân sư].
52
Nhờ đó mà xua tan đi bức màn che phủ ánh sáng của chitta – hay tâm.
Chitta – hay tâm – tự bản chất được phú bẩm mọi tri thức. Nó được tạo bởi chất liệu sattva, nhưng lại bị rajas và tamas che phủ, và prānāyāma loại bỏ bức màn che phủ này.
53
Tâm trí trở nên khế hợp cho việc chú tâm (dhāranā).
Sai khi bức màn che phủ bị loại bỏ, chúng ta có thể tập trung tâm trí.
54
Pratyāhāra – hay kiềm chế các cơ quan – có được hiệu lực nhờ từ bỏ đối tượng của chúng và tiếp nhận, có thể nói như vậy, hình thức của tâm.
Các cơ quan nhận thức là những trạng thái khác nhau của tâm. Tôi nhìn một cuốn sách : hình thức không nằm nơi cuốn sách, mà ở trong tâm trí tôi. Một cái gì đó ở bên ngoài gợi lên hình thức cuốn sách, nhưng hình thức thực của nó lại ở trong tâm. Các cơ quan nhận thức tự đồng nhất mình với bất cứ đối tượng nào đến với chúng, và tiếp nhận hình thức đó. Nếu các bạn không để tâm tiếp nhận những hình thức đó thì tâm trí sẽ luôn tĩnh lặng. Đây được gọi là pratyāhāra.
55
Rồi ta điều khiển được hoàn toàn các cơ quan.
Khi hành giả yogi kiềm chế các cơ quan nhận thức, không để
chúng tiếp nhận những hình tướng và đối tượng bên ngoài để đồng nhất với tâm
thì người đó đã hoàn toàn điều
khiển được các cơ quan. Khi các cơ quan đã hoàn toàn bị điều khiển thì mọi cơ
bắp và hệ thần kinh cũng nằm dưới sự điều khiển, bởi vì các cơ quan là trung
tâm của mọi cảm giác và hành động. Các cơ quan được chia thành các cơ quan cảm
giác và các cơ quan hành động. Khi đã điều khiển được các cơ quan rồi, hành giả
yogi có thể điều khiển được cảm xúc và hành động, toàn bộ cơ thể đều nằm dới
quyền điều khiển của ông ta. Chỉ đến lúc đó, con người mới cảm nhận được niềm
vui được sinh ra đời. Rồi con người có thể nói một cách chân thành : “Tôi
được sinh ra đời, thật là một phúc lành”. Khi đã điều khiển được các cơ
quan thì chúng ta mới cảm nhận được thể xác này kỳ diệu biết bao.
Bây giờ chúng ta đến chương mô tả những quyền năng[31] của pháp môn yoga.
1
Dhāranā – hay chú tâm – là chuyên chú tâm trí vào một đối tượng đặc biệt nào đó.
Khi tâm trí tập trung vào một đối tượng nào đó ở bên trong hoặc bên ngoài thể xác,và giữ nguyên trạng thái đó thì đạt đến trạng thái dhāranā.
2
Dòng tri thức về đối tượng đó luân lưu vô tận, gọi là dhyāna hay thiền quán.
Khi tâm trí cố quán tưởng về một đối tượng, cố giữ chặt tại vị trí đặc biệt đó, chẳng hạn như đỉnh đầu hoặc trái tim, và chỉ thọ nhận cảm giác duy nhất qua vị trí đó, chứ không phải qua bất kỳ bộ phận nào khác thì đạt đến trạng thái dhāranā (chú tâm), và khi tâm trí tự duy trì trong trạng thái đó một thời gian thì đạt đến trạng thái dhyāna hay thiền quán.
3
Khi cái đó (tức dhyāna hay thiền quán) xả ly mọi hình tướng mà chỉ phát lộ được ý nghĩa thì đó là samādhi hay trạng thái nhập định.
Khi tham thiền sẽ đưa đến trạng thái mà mọi hình tướng hay những phần ngoại giới đều bị loại trừ. Giả sử tôi đang quán tưởng về một cuốn sách, tôi dần dần thành công trong việc tập trung tâm trí vào nó, và chỉ lĩnh hội những cảm giác nội tâm, và ý nghĩa – là những cái không thể biểu đạt được trong bất kỳ hình tướng nào. Trạng thái đó của dhyāna được gọi là samādhi hay nhập định.
4
Cả ba trạng thái này
[khi thực hành]
trên một đối tượng duy nhất sẽ tạo nên trạng thái samyama.
Khi hành giả có thể hướng tâm trí vào một đối tượng đặc biệt bất kỳ, và chú tâm vào đó trong một khoáng thời gian, tách biệt đối tượng ra khỏi phần nội tại thì đó là samyama hay tam chi tịnh hợp – nghĩa là cả ba trạng thái dhāranā (chú tâm), dhyāna (thiền) và samādhi (định) cùng nối tiếp nhau để hướng cả về một đối tượng. Hình tướng sự vật tan biến mất mà chỉ còn lại phần ý nghĩa trong tâm trí.
5
Nhờ đạt đến trạng thái samyama mà xuất hiện ánh sáng của tri thức.
Khi hành giả đạt đến trạng thái tam chi tịnh hợp (samyama) thì mọi quyền năng đều nằm dưới quyền điều khiển của vị đó. Đây là công cụ vĩ đại của một hành giả yogi. Đối tượng của tri thức là vô biên, và chúng được chia thành các loại thô, thô hơn, thô nhất, và tế vi, tế vi hơn, tế vi nhất v.v…. Trạng thái tam chi tịnh hợp này trước tiên nên được áp dụng vào những sự vật thô, và khi hành giả bắt đầu hiểu được sự vật thô thì dần dần từng bước áp dụng vào những sự vật tế vi hơn.
6
Điều đó (tức trạng thái samyama hay tam chi tịnh hợp) nên được thực hành theo từng giai đoạn.
Đây là lời cảnh báo không được cố sức luyện tập quá nhanh.
7
Cả ba mục luyện tập này mang nhiều yếu tố nội tâm hơn hơn những mục luyện tập trước đó.
Ở phần trước, chúng tôi đã mô tả các mục pratyāhāra (kiềm chế các cơ quan), prānāyāma (điều khiển nguyên sinh khí), āsana (tư thế), yama (ngũ giới) và niyama (ngũ hạnh), các mục này mang yếu tố bên ngoài hơn các mục dhāranā (chú tâm), dhyāna (thiền) và samādhi (định). Khi hành giả đạt đến ba trạng thái sau thì vị đó có thể đạt được toàn trí và toàn nhiên phổ hiện, nhưng đó vẫn không chưa là giải thoát. Chúng không làm cho tâm trí đạt được trạng thái nirvikalpa (vô phân biệt), bất biến, mà vẫn lưu lại hạt giống cho việc tái sinh. Chỉ khi nào những hạt giống này bị “sấy khô”, theo cách nói cả các hành giả yogi thì chúng mới không cón khả năng sinh ra cây nữa. Những quyền năng này không thể làm cho hạt giống đó bị sấy khô được.
8
Nhưng thậm chí các mục luyện tập này (nghĩa là dhāranā, dhyāna và samādhi) cũng nằm ngoài trạng thái vô chủng định [seedless samādhi]
So với trạng thái vô chủng định thì thậm chí cả ba mục này cũng đều là những yếu tố bên ngoài. Chúng ta vẫn chưa đạt đến trạng thái chân định, là cảnh giới tối cao, mà còn ở một mức thấp hơn, trong đó vũ trụ vẫn tồn tại y như ta đang thấy, và chứa tất cả những quyền năng được mô tả trong chương này.
9
Bằng cách chế ngự những biến động nhiễu loạn của tâm trí, và nâng cao những ấn tượng điều khiển, tâm trí kiên trụ trong trạng thái điều khiển đó được gọi là đạt được sự chuyển biến có khả năng điều khiển.
Điều đó có nghĩa là trong trạng thái đầu tiên của samādhi (định) thì những chuyển biến của tâm trí đều bị chế ngự, nhưng chưa thật hoàn toàn, bởi vì nếu được chế ngự hoàn toàn thì chúng không còn phải chuyển biến nữa. Nếu có sự chuyển biến nào thúc đẩy tâm trí tuôn ào ra qua các giác quan, và hành giả yogi cố chế ngự nó thì chính hành động chế ngự đó đã là một chuyển biến khác rồi. Một con sóng bị chế ngự bởi một con sóng khác thì đó không phải là trạng thái định thực sự, khi tất cả những con sóng đều bị khuất phục thì bản thân sự chế ngự đó cũng tồn tại như một con sóng. Tuy nhiên, trạng thái định ở dạng thấp này lại rất gần gũi với định ở dạng cao, hơn là khi tâm trí đang nhiễu loạn.
10
Dòng chảy của nó trở nên đều đặn nhờ thói quen.
Nếu kiên trì luyện tập hằng ngày thì việc liên tục điều khiển tâm trí trở nên êm xuôi đều đặn, và tâm trí đạt được khả năng tập trung thường xuyên.
11
Tiếp nhận tất cả mọi đối tượng và chỉ tập trung vào một đối tượng duy nhất, đó là hai sự chuyển biến của tâm trí. Khi cái đầu tiên bị trấn áp thì cái kia bị hiển lộ, chitta – hay tâm – đạt được sự chuyển biến gọi là samādhi (định).
Tâm trí thường tiếp nhận nhiều đối tượng khác nhau, thâm nhập vào tất cả sự vật. Đó là trạng thái thấp. Tâm trí còn có một trạng thái cao hơn là khi nó tiếp nhận chỉ đối tượng và loại trừ tất cả mọi đối tượng khác. Kết quả là trạng thái samādhi (định).
12
Sự chuyển biến này – được gọi là trạng thái nhất tâm – đạt được khi ấn tượng quá khứ và ấn tượng hiện tại tương đồng với nhau.
Làm thế nào để chúng ta biết rằng tâm trí đã bắt đầu tập trung? Ý niệm về thời gian biến mất. Thời gian trôi qua mà ta không hay biết, hễ thời gian đó càng nhiều thì chúng ta càng tập trung sâu. Trong đời sống thường ngày, chúng ta thấy rằng khi chuyên chú vào đọc sách thì chúng ta không còn để ý gì đến thời gian nữa, rồi khi rời cuốn sách, ta thường ngạc nhiên sao thời gian trôi qua nhanh quá. Thời gian luôn có xu hướng hợp nhất với cái hiện tại duy nhất. Cho nên mới có định nghiã này : khi quá khứ và hiện tại hợp nhất thành một thì ta nói tâm trí đang tập trung[32].
13
Cách này (nghĩa là ba cách chuyển biến đã nói ở trên) đã giải thích được sự chuyển hóa ba lần thành vật chất và các cơ quan, liên quan đến thời gian không gian và trạng thái.
Các câu cách ngôn 9, 11 và 12 đã giải thích sự chuyển biến ba lần trong tâm, hay chitta. Sự chuyển biến thành vật chất và thành các cơ quan cũng được giải thích tương tự. Giả sử có một cục đất. Khi được nặn thành cái lọ thì nó từ bỏ hình thức cục đất để mang hình cái lọ. Điều này được gọi là “chuyển hóa liên quan đến hình tướng”. Xét về “chuyển hóa liên quan đến thời gian” thì có ba phương diện của thời gian : quá khứ, hiện tại, và tương lai. Ta có thể nhìn cái lọ tại bất kỳ phương diện nào của thời gian. Cuối cùng, ta có thể cho rằng cái lọ đó là cũ, mới, hoặc sắp được tạo thành. Cái đó được gọi là “chuyển hóa liên quan đến trạng thái”.
Bây giờ, theo các câu cách ngôn 9, 11 và 12 thì tâm chuyển hóa thành các biến trạng (vrittis). Đây là sự chuyển hóa liên quan đến hình tướng. Tâm trải qua những thời điểm quá khứ, hiện tại và tương lai thì đó là sự chuyển hóa liên quan đến thời gian. Cuối cùng, khi những ấn tượng gây nhiễu loạn của tâm thì mạnh mẽ, còn những ấn tượng chế ngự thì bạc nhược (xem câu 9) và ngược lại thì ta có sự chuyển hóa liên quan đến trạng thái. Vì tâm trí là một cơ quan, cho nên sự chuyển hóa của các cơ quan liên quan đến thời gian, không gian và trạng thái cũng được giải thích như đã nói trong đoạn kinh văn trên. Sự chuyển hóa tương tự của vật chất cũng được giải thích ở phần trên. Những trạng thái chú tâm được dạy trong những câu cách ngôn trước đó đem lại cho hành giả yogi năng lực điều khiển sự chuyển hóa tâm trí của mình theo ý muốn, chỉ có điều đó mới giúp vị đó thực hành sayama như đã mô tả trong III.4. Nên lưu ý rằng mọi thực thể, trừ Purusha hay Chân Ngã, đều chịu sự chuyển hóa ba lần trong kinh văn này.
14
Cái bị chi phối bởi sự chuyển hóa trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai là bản thể hữu vi.
Bản thể hữu vi là ý muốn nói đến cái bản thể bị chi phối bởi thời gian và các samskāra (hành), luôn hiển lộ và biến đổi vô thường[33].
15
Biến đổi kế tục nhau là nhân của sự tiến hóa đa dạng.
16
Nhờ tu tập samyama trên ba cách chuyển hóa đó mà đạt được tri kiến về quá khứ và tương lai.
Ta không được đánh mất định nghĩa ban đầu về samyama (tam chi tịnh hợp). Tâm trí đạt đến trạng thái này là khi nó tự đồng nhất với những ấn tượng nội tại về khách thể, loại bỏ những yếu tố bên ngoài, và nhờ tu tập lâu dài mà tâm trí duy trì được trạng thái này, và tâm trí có thể nhập vào trạng thái này trong nháy mắt thì đó là samyama. Nếu một hành giả trong trạng thái đó muốn biết quá khứ và tương lai thì ông ta thi triển samyama lên những chuyển biến trong các samskāra (III. 13). Một số samskāra thì đang diễn ra trong hiện tại, một số đã diễn ra trong quá khứ, và một số khác lại đang chờ diễn ra trong tương lai, cho nên khi thi triển samyama lên các samskāra đó, hành giả yogi biết được quá khứ và tương lai.
17
Thông qua samyama trên ngôn từ, ý nghĩa và tri thức – vốn thường bị lẫn lộn – mà hành giả hiểu được ngôn ngữ loài vật.
“Ngôn từ” đại diện cho câu phát biểu bên ngoài, “ý nghĩa” đại diện cho phần dao động bên trong, ý nghĩa truyền đến bộ não thông qua các kênh indriyas, chuyển tải ấn tượng bên ngoài đến tâm trí, và “tri thức” đại diện cho phản ứng của tâm trí, nhờ đó mà có được nhận thức. Cả ba yếu tố này, khi hòa hợp với nhau, tạo nên những đối tượng của giác quan. Giả sử ta nghe một từ. Trước tiên, đó là dao động bên ngoài, kế đó là cảm giác bên trong được cơ quan thính giác truyền đến tâm trí, rồi tâm trí phản ứng lại và ta biết được từ đó. Từ mà ta biết được đó là sự hòa hợp của cả ba yếu tố : dao động, cảm giác và phản ứng. Thường thì chúng bất khả phân, nhưng một hành giả yogi có thể tách lìa chúng ra với nhau. Khi một hành giả yogi đã đạt đến cảnh giới này mà thi triển samyama lên bất kỳ một âm nào thì ông ta hiểu được ý nghĩa của âm muốn được biểu đạt, dù do con người hay bất kỳ con vật nào thực hiện.
18
Nhờ nhận thức được những ấn tượng này [mà hành giả yogi đạt được] tri kiến về tiền kiếp.
Mỗi kinh nghiệm mà ta trải qua đều xuất hiện như dạng sóng trong chitta hay tâm, nó lắng dịu đi, càng lúc càng trở nên tế vi hơn, nhưng không bao giờ mất đi. Nó vẫn nằm ở nơi đó dưới hình thức vô cùng tế vi, và nếu chúng ta có thể làm cho con sóng đó nổi dậy trở lại thì nó trở thành ký ức. Bởi vậy, nếu một hành giả yogi thi triển samyama lên những ấn tượng quá khứ trong tâm trí thì ông ta bắt đầu nhớ lại các kiếp trước.
19
Nhờ thi triển samyama lên những dấu hiệu nơi cơ thể một người [mà hành giả yogi] biết được tâm trí họ.
Người nào cũng có những dấu hiệu đặc biệt trên cơ thể mình để phân biệt mình với người khác, khi hành giả yogi thi triển samyama lên những dấu hiệu đó với bất kỳ người nào thì ông ta biết được bản chất của tâm trí người đó.
20
Nhưng đó không phải là sự an vui, không phải là mục tiêu của samyama.
Chỉ thi triển samyama lên thể xác không thôi thì hành giả yogi không bao giờ biết được sự an vui trong tâm trí. Điều đó đòi hỏi một samyama song đôi : trước tiên là thi triển samyama lên thể xác, sau đó là trên chính tâm trí. Nhờ đó hành giả yogi liễu ngộ được rằng tất cả đều do tâm tạo.
21
Do thi triển samyama lên hình tướng của thể xác, khả năng nhận thức hình tướng bị chướng ngại, và năng lực hiển lộ nơi đôi mắt bị tách lìa [khỏi hình tướng], do đó mà thể xác của hành giả yogi trở nên vô hình.
Một hành giả yogi đứng giữa căn phòng này có thể làm cho mình biến mất trước mắt mọi người. Thực ra, ông ta không hề biến đi đâu cả, nhưng sẽ không một ai nhìn thấy ông ta hết. Hình tướng và thể xác, có thể nói như vậy, đã tách lìa nhau. Các bạn phải nhớ rằng điều này chỉ có thể thực hiện được khi hành giả yogi đạt được năng lực tập trung tư tưởng đến mức hình tướng và sự vật được tạo theo hình tướng đó tách lìa nhau. Rồi ông ta thi triển samyama lên hình tướng đó khiến khả năng nhận thức nó bị cản trở, bởi vì khả năng nhận thức hình tướng xuất phát từ sự tiếp thông giữa hình tướng và sự vật được tạo theo hình tướng đó.
22
Sự biến mất hoặc ẩn dấu của ngôn từ được phát biểu, cùng những sự việc khác, cũng được giải thích theo cách này.
23
Karma (nghiệp) gồm hai loại : một loại quả báo nhãn tiền, một quả báo chậm về sau. Khi thi triển samyama lên những nghiệp quả đó, hoặc trên những thứ được gọi là arishta (điềm báo), hành giả yogi biết chính xác thời điểm mình từ bỏ thể xác.
Khi một hành giả yogi thi triển samyama lên karma của mình, trên những ấn tượng đang diễn ra trong tâm trí cùng những ấn tượng đang chờ sẽ diễn ra thì nhờ những ấn tượng đang chờ diễn ra, người đó sẽ biết chính xác thời điểm xác thân mình gục ngã. Ông ta biết chính xác khi nào mình sẽ chết – vào giờ nào, thậm chí vào phút nào. Người Ấn đánh giá rất cao tri thức hay ý thức về giây phút lâm chung, bởi vì trong kinh Gitā dạy rằng những suy nghĩ lúc sắp lìa đời có một quyền năng rất lớn trong việc quyết định kiếp sau.
24
Khi thi triển samyama lên tình bạn, lòng nhân từ v.v… [I.33], hành giả yogi đều đạt những phẩm tính vượt trội tương ứng.
25
Khi thi triển samyama lên sức mạnh của con voi, và trên những sinh vật khác, hành giả yogi đạt những sức mạnh tương ứng.
Khi một hành giả yogi đạt được samyama và cần đến sức mạnh, ông ta thi triển samyama lên sức mạnh của một con voi và đạt được sức mạnh đó. Năng lực vô tận đều có sẵn nơi mỗi người, chỉ cần người đó biết lấy thu hoạch được nó. Hành giả yogi khám phá ra khoa học thu hoạch năng lực này.
26
Do thi triển samyama lên ánh sáng rực rỡ [I.36] mà đạt tri kiến về những điều tế vi, những điều bị chướng ngại và những điều sâu xa.
Khi thi triển samyama lên ánh sáng rực rỡ nơi tim, hành giả yogi thấy được những điều sâu xa, chẳng hạn những điều xảy ra ở một nơi xa, bị núi sông cách trở, cũng như những điều vô cùng tế vi.
27
Do thi triển samyama lên mặt trời mà đạt tri kiến về thế gian.
28
Do thi triển samyama lên mặt trăng mà đạt tri kiến về tinh tú.
29
Do thi triển samyama lên sao Bắc Đẩu mà đạt tri kiến về sự chuyển động của tinh tú.
30
[Do thi triển samyama] lên cuống rốn mà đạt tri kiến về cách cấu tạo thân xác.
31
[Do thi triển samyama] lên cuống họng mà không còn đói khát.
Khi bụng đói cồn cào, nếu hành giả yogi thi triển samyama lên cuống họng thì cơn đói sẽ chấm dứt.
32
[Do thi triển samyama] lên bộ phận thần kinh được gọi là kurma mà thể xác khỏe mạnh.
Khi hành giả yogi thực hành giới luật thì thân thể không còn bị nhiễu loạn.
33
[Do thi triển samyama] lên ánh sáng xuất phát từ đỉnh đầu mà hành giả thấy được các siddha.
Siddha là những sinh thể cao hơn chư thiên đôi chút. Khi tập trung tâm trí vào đỉnh đầu thì hành giả yogi thấy được các siddha này. Từ siddha không dùng để chỉ những vị đã giải thoát, theo cách nó thường được dùng.
34
Hoặc nhờ năng lực của pratibhā (tịnh hạnh đốn ngộ) mà đạt được toàn trí.
Tất cả những trỉ kiến này có thể đến với một hành giả yogi đã đạt năng lực của pratibhā (đốn ngộ nhờ tịnh hạnh) mà vị đó không cần phải thi triển bất kỳ một samyama nào. Khi đã đạt đến cảnh giới pratibhā cao siêu đó thì hành giả yogi rực rỡ hào quang. Vạn sự đều trở nên rõ ràng đối với ngài. Hành giả đó triệt ngộ vạn sự mà không cần phải thi triển bất kỳ một samyama nào.
35
[Do thi triển samyama] lên trái tim mà hành giả thấu hiểu được tâm trí.
36
Hỷ lạc đến từ trạng thái vô phân biệt của Linh Hồn và sattva (trí tuệ), đây là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Hỷ lạc này vì Linh Hồn mà có. Có một trạng thái khác của sattva, được gọi là svārtha (trạng thái thuần tịnh). Thi triển samyama lên trạng thái này đưa đến tri kiến về Purusha.
Purusha và sattva hay buddhi – vốn là một sự chuyển biến của prakriti – hoàn toàn khác nhau. Nhưng Purusha được phản ánh trong buddhi, và tự đồng hóa Nó với những trạng thái khác nhau của buddhi, chẳng hạn như hạnh phúc hay khổ đau, rồi tự xem mình là hạnh phúc hay khổ đau. Những trải nghiệm này buddhi không phải thực hiện vì chính nó, mà vì một cái khác, đó là Linh Hồn. Nhưng còn có một trạng thái khác của buddhi, phục vụ cho chính nó. Trong trạng thái đó, nó hoàn toàn tách khỏi ý nghĩa của “tôi và của tôi”. Nhờ thanh khiết thuần tịnh, buddhi ngập tràn ánh sáng của Purusha, nó chỉ phản chiếu mỗi một Purusha thôi. Nhờ nội tỉnh, nó trở nên gắn bó với Purusha và độc lập với mọi mối quan hệ khác. Khi tập trung vào phương diện này của buddhi, hành giả đạt được tri kiến về Purusha. Lý do thi triển samyama lên buddhi được mà tịnh hóa là vì tự thân Purusha không bao giờ có thể là đối tượng của tri thức, bởi vì Nó chính là người nhận biết.
37
Từ đó mà phát sinh những thần thông siêu nhiên trong thính giác, xúc giác, thị giác, vị giác và khứu giác, đó là những thứ thuộc về pratibhā.
38
Đây là những thứ gây chướng ngại cho samādhi, nhưng chúng lại là những quyền năng trong cõi thế.
Đối với hành giả yogi, những lạc thú của thế gian xuất phát từ sự giao hội giữa Purusha và tâm trí. Nếu ông ta muốn thi triển samyama lên tri kiến rằng thiên nhiên và Chân Ngã là hai thứ khác nhau thì hành giả đó liễu ngộ được Purusha. Từ đó mà nảy sinh phân biệt trí. Khi đạt được phân biệt trí thì hành giả yogi đạt được pratibhā, ánh sáng của trí tuệ siêu việt. Tuy vậy, những quyền năng mà hành giả yogi đạt được sẽ gây chướng ngại cho việc đạt đến mục tiêu tối hậu là tri thức về Chân Ngã thuần tịnh hay giải thoát. Các quyền năng này là những thứ hành giả yogi phải gặp trên con đường tu tập, nếu từ bỏ được chúng thì hành giả yogi đạt đến quả vị cao nhất. Còn như ông ta bị lôi cuốn phải có chúng cho bằng được thì con đường tu tập bị chặn đứng, không thể tiến xa được nữa.
39
Khi căn nguyên của trói buộc được nới lỏng dần thì hành giả yogi, nhờ tri thức về các kênh hoạt động của chitta (nghĩa là của thần kinh), có thể nhập vào được thân xác người khác.
Hành giả yogi có thể nhập vào một xác chết, bắt nó đứng dậy và di động, ngay cả khi ông ta đang hoạt động trong một thể xác khác. Hoặc ông ta có thể nhập vào thể xác của một người đang sống, khống chế tâm trí cùng những cơ quan của người đó, và hành động thông qua thể xác người đó trong suốt thời gian nhập xác. Hành giả yogi thực hiện được điều này nhờ phân biệt được Purusha với thiên nhiên. Nếu hành giả yogi muốn nhập xác một người nào thì ông ta thi triển samyama lên thể xác đó, rồi nhập vào nó, bởi vì không chỉ Chân Ngã của ông ta mà cả tâm trí của ông ta cũng toàn nhiên phổ hiện, theo như pháp môn Yoga dạy. No là một mảnh nhỏ của tâm vũ trụ. Tuy nhiên, trước hết, điều này chỉ có thể hoạt động thông qua những dòng thần kinh trong chính thể xác của hành giả yogi, nhưng khi đã nới lỏng được ràng buộc của hệ thần kinh thì ông ta có thể hoạt động thông qua những thể xác khác.
40
Khi đã chế ngự được dòng thần kinh gọi là udāna, hành giả yogi không bị chìm trong nước hay chốn đầm lầy, ông ta có thể đi trên gai nhọn v.v… và có thể chết theo ý muốn.
Udāna là tên gọi của dòng thần kinh điều khiển phổi và tất cả phần trên của cơ thể, khi một hành giả yogi làm chủ được nó thì ông ta trở nên nhẹ đi. Ông ta không bị chìm trong nước, có thể dẫm trên gai nhọn, đứng trên lưỡi gươm, và có thể từ giã cuộc đời bất cứ khi nào tùy thích.
41
Nhờ chế ngự được dòng thần kinh gọi là samāna mà hành giả yogi có hào quang rực rỡ bao quanh.
Ánh hào quang tỏa sáng từ thân thể của hành giả yogi bất cứ khi nào ông ta muốn.
42
Nhờ thi triển samyama lên mối tương quan giữa đôi tai với ākāśa mà đạt được thiên nhĩ thông.
Có ākāśa, hay ê-te, và cũng có khí cụ là đôi tai. Nhờ thi triển samyama lên chúng mà hành giả yogi có được khả năng nghe siêu phàm, ông ta muốn nghe bất cứ điều gì tùy thích. Ông ta có thể nghe được âm thanh của nụ cười mĩm cách xa hàng nhiều dặm.
43
Nhờ thi triển samyama lên mối tương quan giữa ākāśa với thể xác và xem mình nhẹ như bông v.v… mà hành giả có thể đi xuyên qua bầu trời.
Ākāśa là chất liệu tạo nên thể xác, thể xác này chỉ là ākāśa dười một hình dạng nào đó. Nếu hành giả yogi thi triển samyama lên chất liệu của thể xác thì thể xác nhẹ như ākāśa và ông ta có thể du hành khắp bầu trời.
44
Nhờ thi triển samyama lên sự chuyển biến thực sự của tâm trí ở bên ngoài thể xác, được gọi là sự hủy thể vĩ đại, mà lớp màn che phủ ánh sáng biến mất.
Tâm trí, do vô minh, cứ ngỡ rằng nó đang hoạt động trong một thể xác. Vì sao tôi lại phải bị trói buộc vào một hệ thống thần kinh và tự giới hạn bản ngã tôi vào một thể xác duy nhất, nếu tâm trí tôi vốn toàn nhiên phổ hiện? Không có lý do gì để làm thế cả. Hành giả yogi muốn cảm nhận được bản ngã tại bất cứ nơi đâu ông ta muốn. Những con sóng tâm thức khởi dậy, khi vắng bóng ngã tính [egoity] trong thể xác, được gọi là “sự chuyển biến thực sự” hay “sự hủy thể vĩ đại” [great disembodiness]. Khi hành giả yogi thành công trong việc thi triển samyama lên sự chuyển biến này rồi thì tất cả những lớp màn che phủ ánh sáng đều rơi hết, mọi u muội vô minh đều tan biến. Trước mặt ông ta, vạn hữu đều xuất hiện ngập tràn trí tuệ.
45
Nhờ thi triển samyama lên những hình thức thô và tế vi của các nguyên tố, những nét cốt tủy của chúng, tính nội hữu của những guna trong chúng, cùng sự đóng góp của chúng vào sự trải nghiệm của Linh Hồn, mà hành giả yogi làm chủ được các nguyên tố.
Hành giả yogi thi triển samyama lên các nguyên tố, trước tiên là lên nguyên tố thô, sau đó mới đến nguyên tố tế vi. Samyama này được một tông phái Phật giáo vận dụng hầu như hoàn toàn. Họ lấy một cục đất, rồi thi triển samyama lên đó, và dần dần họ thấy được chất liệu tế vi cấu tạo nên nó, và khi đã thấu triệt được chất liệu tế vi trong nó rồi thì họ có được quyền năng với những nguyên tố đó. Đối với tất cả mọi nguyên tố cũng vậy. Hành giả yogi có thể chinh phục được tất cả chúng.
46
Từ đó mà có được dạng cực vi cùng tất cả những quyền năng còn lại, có được sự tôn vinh thể xác cùng tính bất khả hoại của những phẩm tính thuộc thể xác.
Điều này có nghĩa là hành giả yogi đã đạt được tám năng lực siêu nhiên. Ông ta có thể biến mình thành dạng cực vi như nguyên tử hoặc khổng lồ như quả núi, nặng như trái đất hoặc nhẹ như không khí, ông ta có thể vươn tới bất cứ nơi đâu mình muốn, có thể chinh phục và cai trị mọi thứ theo ý thích v.v… Con sư tư trở dưới chân ông trở nên ngoan hiền như con cừu, và ông ta thực hiện được tất cả những gì mình muốn.
47
“Tôn vinh thể xác” có nghĩa là vẻ đẹp, nước da, sức mạnh, và sự rắn chắc như kim cương.
Thể xác trở nên bất hoại. Không gì có thể làm tổn thương được nó. Không gì có thể hủy hoại được nó, cho đến khi nào hành giả yogi muốn thế. “Bẻ gãy cây roi thời gian, vị đó mang thể xác mình sống trong vũ trụ này”. Câu kinh văn đó trong kinh Veda viết về một người không còn bệnh tật, khổ đau và cái chết.
48
Do thi triển samyama lên sự nhận thức những đối tượng bên ngoài bằng giác quan cùng tri thức đi theo nhận thức đó, lên “Tự ngã tính” đi theo tri thức đó, lên tính nội hữu của những guna trong tất cả những điều đó cùng sự đóng góp của chúng vào sự trải nghiệm của Linh Hồn, mà hành giả yogi làm chủ được các cơ quan.
Khi nhận thức một đối tượng bên ngoài, các cơ quan lưu lại vị trí trong tâm trí và tiến về đối tượng, quá trình này được tiếp tục bởi tri thức. Tự ngã cũng hiện hữu trong quá trình này. Khi thi triển samyama lên chúng, hành giả yogi dần dần chế ngự được các cơ quan. Thử lấy bất cứ vật gì mà các bạn thấy hoặc cảm nhận được, chẳng hạn một cuốn sách, trước tiên hãy tập trung tâm trí vào nó, sau đó tập trung vào tri thức trong hình thức một cuốn sách, rồi tập trung vào tự ngã đang nhìn thấy cuốn sách đó v.v…. Luyện tập theo cách này thì tất cả các cơ quan đều sẽ bị chế ngự.
49
Từ đó mà cơ thể có khả năng di chuyển mau lẹ như tâm trí, độc lập với tâm trí và chế ngự được thế giới tự nhiên.
Khi đã chế phục được các nguyên tố rồi thì thể xác được tôn vinh, do đó những quyền năng nói trên sẽ phát sinh sau khi chế phục được các cơ quan.
50
Do thi triển samyama trên trí phân biệt giữa sattva và Purusha mà đạt được toàn năng và toàn trí.
Khi đã chế phục được thiên nhiên, và thực chứng được trí phân biệt giữa sattva và Purusha – nghĩa là liễu ngộ được rằng Purusha vốn bất hoại, thuần tịnh, toàn hảo; và thiên nhiên là cái đối lập với Nó – thì hành giả yogi được toàn năng và toàn trí.
51
Do từ bỏ tất cả những quyền năng đó mà mọi mầm móng của tội lỗi và điều xấu ác đều bị tận diệt, điều đó dẫn đến cảnh giới kaivalya (tự tại vô ngại).
Hành giả yogi đạt đến cảnh giới tự tại độc lập và được giải thoát. Khi hành giả yogi từ bỏ mọi ý niệm về quyền năng toàn năng và toàn trí thì tâm xả ly hoàn toàn mọi điều hỷ lạc, xả ly mọi sự cám dỗ của chư thiên. Khi đã thấy được tất cả những quyền năng đó mà phát tâm từ bỏ là hành giả đạt đến mục tiêu. Tất cả những quyền năng đó là gì? Chỉ đơn thuần là sự biểu hiện. Chúng chẳng hơn gì một giấc mộng. Ngay cả sự toàn năng cũng chỉ là một giấc mộng. Chừng nào còn tâm trí thì nó còn có thể toàn năng, nhưng mục tiêu lại nằm ở bên kia tâm trí.
52
Hành giả yogi không nên để bị cám dỗ hay bị phỉnh nịnh bởi chư thiên vì sợ bị đọa lại vào tội lỗi.
Cũng còn có những nguy hiểm khác : chư thiên hoặc những sinh thể khác đến cám dỗ hành giả yogi. Chư thiên không muốn một ai được giải thoát hoàn toàn. Họ cũng ghen tỵ như chúng ta, thậm chí đôi lúc còn tồi tệ hơn chúng ta nữa. Họ rất sợ mất đi ngôi vị của mình. Hành giả yogi nào không muốn đạt đến sự toàn hảo sẽ biến thành chư thiên sau khi chết, họ bỏ chính đạo, đi vào tà đạo để đạt được quyền năng. Rồi họ cũng phải tái sinh trở lại. Chỉ hành giả nào đủ sức mạnh để trụ vững trước mọi cám dỗ mới đạt đến giải thoát.
53
Do thi triển samyama trên một vi tử thời gian[34] và sự nhân bội của nó mà đạt được trí phân biệt.
Chúng ta làm thế nào để tránh né tất cả những thứ đó : chư thiên, các cõi trời và quyền năng? Bằng trí phân biệt, biết đâu là thiện đâu là ác. Do đó, samyama là phương thuốc đối trị dùng để củng cố năng lực phân biệt. Điều này được thực hiện thông qua việc thi triển samyama lên một vi tử thời gian, cùng với thời gian đi trước nó và đi sau nó.
54
Thậm chí những gì không thể phân ra theo loài, dấu hiệu và nơi chốn vẫn được phân biệt nhờ vào samyama đã bàn đến ở trên.
Chúng ta phải chịu cảnh khốn khổ là do vô minh, không phân biệt được đâu là thực đâu là giả. Tất cả chúng ta đều cho ác là thiện, lấy mộng làm thực. Chỉ có Chân Ngã là thực tại duy nhất, và chúng ta đã quên mất điều đó. Thân xác này chỉ là một giấc mộng không thực, vậy mà ai nấy trong chúng ta cũng đều ngỡ rằng mình là thân xác. Không phân biệt được, đó là căn nguyên của khốn khổ. Nó được gây ra bởi vô minh. Phân biệt xuất hiện sẽ mang lại sức mạnh. Và chỉ đến lúc đó thôi, ta mới có thể tránh được tất cả những quan niệm khác nhau về thân xác, các cõi trời và chư thiên. Sự ngu dốt này là do phân biệt theo loài, dấu hiệu và nơi chốn. Lấy con bò làm ví dụ. Xét về loài thì con bò khác với con chó. Thậm chí giữa các con bò với nhau, ta làm thế nào để phân biệt được con này với con kia? Bằng dấu hiệu. Nếu hai đối tượng hoàn toàn giống nhau thì ta có thể phân biệt được chúng nếu chúng ở tại hai vị trí khác nhau.
Nếu sự vật lẫn lộn vào nhau, đến mức ngay các điểm khác biệt vẫn không thể giúp ta được, thì năng lực đạt được nhờ tập luyện theo cách trên sẽ cho ta khả năng phân biệt được chúng. Triết lý tối cao của hành giả yogi dựa trên sự kiện này : Purusha vốn thuần tịnh, toàn hảo và là bản thể đơn giản duy nhất tồn tại trong vũ trụ này. Thể xác và tâm trí đều là những thể hòa hợp, vậy mà chúng ta cứ mãi mãi cố sức tự đồng hóa mình với chúng. Cho rằng sự khác biệt đã mất đi, đó là điều sai lầm trầm trọng. Khi đã đạt năng lực phân biệt thì hành giả thấy mọi sự trong thế gian này, dù là tinh thần hay vật chất, đều là những thể hòa hợp, và như thế chúng không thể là Purusha.
55
Tri thức giải thoát là trí phân biệt, trí này bao quát đồng thời được tất cả vạn hữu trong mọi hình tướng sai biệt của chúng.
Tri thức này được gọi là “giải thoát” vì nó đưa hành giả yogi vượt qua đại dương sinh tử. Toàn thể pratika trong mọi trạng thái của nó, dù thô hay tế vi, đều nằm trong tâm lĩnh hội của trí phân biệt này. Trong loại tri thức này không có sự tương tục của nhận thức, mà nó thấu triệt toàn thể vạn hữu trong cùng một lúc.
56
Nhờ bản chất thuần tịnh giống nhau giữa sattva và Purusha mà đạt đến trạng thái kaivalya (tự tại vô ngại).
Khi Purusha liễu ngộ được rằng Nó không còn tùy thuộc vào
bất cứ thứ gì trong vũ trụ nữa, từ chư thần cho đến hạt nguyên tử thì Nó đạt đến
trạng thái kaivalya, tức sự toàn mãn. Kaivalya là mục tiêu tối hậu. Khi đạt đến
trạng thái này, Chân Ngã liễu ngộ được rằng Nó bản lai tự tại vô ngại, và không
cần đến bất cứ thứ gì để có được lạc phúc. Chừng nào chúng ta còn cần đến một
người nào hay một sự vật gì đó để tìm thấy hạnh phúc thì chúng ta vẫn còn là nô
lệ. Khi Purusha liễu ngộ được rằng tự tính của mình là giải thoát, và không cần
đến bất cứ điều gì để đạt được sự toàn mãn, khi Nó hiểu rằng thiên nhiên chỉ là
phù du và thực sự vô nghĩa thì ngay trong phút giây đó, Purusha đạt được giải
thoát và trở nên độc lập tự tại với thiên nhiên. Trạng thái này đạt được khi có
sự hòa hợp giữa tịnh và bất tịnh – được gọi là sattva, có nghĩa là trí năng – đã
trở nên thuần tịnh như chính Purusha, rồi sattva chỉ phản chiếu bản thể tinh
yếu toàn hảo của sự thuần tịnh, tức là Purusha.
1
Những siddhi, hay quyền năng, đạt được là nhờ bẩm sinh, nhờ những phương tiện hóa học, nhờ thần chú, khổ hạnh hoặc tập trung tư tưởng.
Đôi khi có người có những quyền năng bẩm sinh, dĩ nhiên đó là do họ đã tu tập từ tiền kiếp. Kiếp này họ sinh ra và, có thể nói như vậy, hưởng những thành quả của mình. Tương truyền Kapilam, thủy tổ của triết học Sāmkhya, là một siddha bẩm sinh, có nghĩa là một người có những quyền năng siêu nhiên.
Các hành giả yogi cho rằng những quyền năng đó có thể đạt được bằng những phương tiện hóa học. Tất cả các bạn đều biết rằng hóa học nguyên thủy là khoa luyện kim, con người bắt đầu tìm kiếm hòn đá “biến sắt thành vàng” cùng những tiên dược cho đời sống v.v… Tại Ấn Độ, có những tông phái bí mật gọi là Rasāyna. Theo họ thì tất cả những giáo lý, tri thức, tâm linh và tôn giáo thâm huyền đều rất tốt, nhưng thể xác là khí cụ duy nhất được dùng để đạt được các thứ đó. Nếu thể xác phải thường xuyên kết thúc thì cần có nhiều thời gian hơn để đạt được mục tiêu. Chẳng hạn một người muốn thực hành pháp môn yoga, hoặc muốn hướng về đời sống tâm linh. Trước khi đi được một quãng đường xa thì anh ta chết. Rồi anh ta lại mang một thể xác khác để bắt đầu tu tập lại, và cứ tiếp tục như thế. Theo cách này thì mất nhiều thời gian vì phải chết đi rồi đầu thai lại nhiều lần. Nếu ta có thể làm cho thể xác cường tráng và hoàn hảo, để nó có thể thoát được khỏi vòng sinh tử thì ta có nhiều thời gian hơn để hướng về đời sống tâm linh.
Bởi vậy, những tông phái Rasāyna này bảo rằng trước hết chúng ta cần phải làm cho thể xác cường tráng. Họ khẳng định rằng có thể biến thể xác trở nên bất tử. Họ quan niệm thế này : nếu tâm trí tạo nên thể xác, và nếu đúng là mỗi tâm trí là lối ra duy nhất cho nguồn năng lượng vô tận thì không có giới hạn nào cho mỗi lối ra đó tiếp thu năng lượng từ bên ngoài. Vậy thì cớ sao lại không thể giữ cho thể xác được sống mãi mãi? Chúng ta phải tạo ra mọi thân xác mà chúng ta từng có. Khi thân xác này chết đi, ta sẽ tạo ra một thân xác mới. Nếu có thể làm được điều đó, tại sao chúng ta lại không thực hiện ngay bây giờ và tại nơi đây, mà không cần phải thoát ra khỏi các thân xác hiện tại này? Lý thuyết này hoàn toàn chính xác. Nếu chúng ta có thể sống sau khi chết và tạo ra những thân xác khác, vậy thì vì sao chúng ta lại không thể có được năng lực tái tạo đó ngay tại kiếp này, mà không cần phải để thân xác rã nát hoàn toàn – chỉ đơn giản là thay đổi nó một cách liên tục? Họ cũng cho rằng trong thủy ngân và sul-phua ẩn dấu một năng lực phi thường, và bằng một số phương pháp bào chế nào đó thì con người có thể giữ cho thân xác lâu dài tùy ý. Một số người khác lại tin rằng một số loại thuốc nào đó có thể mang lại quyền năng như bay lượn trong không. Nhiều phương thuốc thần diệu nhất mà chúng ta có được ngày nay là nhờ những người Rasāyana, đáng kể nhất là việc sử dụng kim loại làm dược liệu. Một số tông phái của các hành giả yogi lại khẳng định rằng nhiều vị đại sư của họ hiện vẫn còn sống trong thân xác cũ. Patanjali, vị đạo sư có thẩm quyền to lớn về Yoga, cũng không hề phủ nhận điều này.
Quyền năng của ngôn từ : có những linh ngữ gọi là mantra, hay mật chú, chứa quyền năng, khi được lặp đi lặp lại trong những điều kiện phù hợp thì chúng sẽ tạo ra những quyền năng kỳ diệu. Chúng ta đang sống giữa biết bao điều kỳ diệu cả ngày lẫn đêm, nhưng chúng ta không hề nghĩ gì đến chúng. Năng lực con người không hề có giới hạn : quyền năng của ngôn từ cũng như quyền năng của tâm trí.
Khổ hạnh : các bạn sẽ thấy rằng tôn giáo nào cũng đề xướng lối tu khổ hạnh như là giới luật. Trong quan điểm này thì người Ấn Độ đi đến chỗ cực đoan. Các bạn sẽ thấy có những người giơ bàn tay lên trời suốt cả đời, cho đến khi bàn tay họ khô quắt lại và chết đi. Lại có người ngủ đứng cả ngày lẫn đêm cho đến khi bàn chân họ sưng phù lên, nếu như họ sống thì đôi chân đã chết cứng trong tư thế đó đến mức họ không thể nào gập lại được nữa, mà phải giữ nguyên tư thế suốt cả đời. Tôi có lần gặp một người giơ bàn tay lên trời theo cách đó, và hỏi ông ta có cảm giác gì khi làm điều đó lần đầu tiên. Ông ta bảo đó là một cực hình. Nó gây đau đớn đến mức ông ta phải đi đến một con sông và dầm mình trong đó để cơn đau dịu đi đôi chút. Sau một tháng thì ông ta không còn thấy đau đớn nữa. Bằng những cách tu hành như thế có thể đạt đến quyền năng (siddhi).
Tập trung tư tưởng hay định : Đây là nét đặc thù của yoga, và là chủ đề chính của bộ môn khoa học này, nó là pháp môn tu tập tối cao. Những phương pháp đi trước chỉ là thứ yếu, không thể giúp chúng ta đạt đến mục tiêu. Samādhi (định) là phương tiện giúp chúng ta đạt đến mọi mục tiêu : tinh thần, đạo đức và tâm linh.
2
Việc thay đổi loài là do lấp đầy bản tính.
Đạo sư Patanjali đã tuyên bố những quyền năng này có thể đạt được do bẩm sinh, nhờ tu khổ hạnh hoặc tập trung tư tưởng. Ông cũng nói rằng ta có thể giữ cho thân xác sống một thời gian bất kỳ nào. Bây giờ ông tiếp tục tuyên bố nguyên nhân thể xác biến đổi thành loài khác. Ông bảo đó là do việc lấp đầy bản tính, sẽ được giải thích trong câu sau đây.
3
Việc làm thiện hay ác không phải là nguyên nhân trực tiếp làm thay đổi bản tính, nhưng chúng tác động như một tác nhân khai thông những chướng ngại trong quá trình tiến hóa, cũng như người nông dân khai thông những chướng ngại để dòng nước chảy thuận theo bản tính của nó.
Nước dẫn vào ruộng đã có sẵn trong các kênh mương, chỉ có điều là chúng bị các cổng nước chặn lại. Người nông dân tháo cổng ra là nước tự nhiên tuôn chảy theo định luật hấp dẫn. Cũng vậy, mọi tiến bộ và quyền năng đều có đầy đủ nơi con người. Bản tính con người vốn toàn hảo, chỉ có điều là chúng bị ngăn chận và cản trở không được chảy xuôi thuận theo dòng. Nếu có người tháo các cổng chắn ra thì thiên nhiên sẽ ào ạt tràn vào. Lúc đó con người sẽ đạt được những quyền năng vốn có sẵn của mình. Khi các chướng ngại vật đều gãy vỡ, và thiên nhiên ào ạt tràn vào thì những người mà ta gọi là ác sẽ trở nên thánh thiện. Chính thiên nhiên hướng ta tới sự toàn mãn, và cuối cùng nó sẽ đưa tất cả mọi người đến đó. Mọi công phu tu tập và mọi năng lực để thành người có đạo tâm chỉ là công việc tháo bỏ những chướng ngại đó, và mở toang những cánh cửa để đón nhận sự toàn mãn, vốn là tự tính bản lai của chúng ta.
Ngày nay, lý thuyết tiến hóa của các hành giả yogi được hiểu rõ ràng hơn dưới ánh sáng của những công trình nghiên cứu khoa học. Nhưng lý thuyết của các hành giả yogi giải thích hay hơn. Hai nguyên nhân chính của sự tiến hóa do các cách nhà khoa học hiện đại đề xướng là sự chọn lọc giới tính và thích nghi để tồn tại[35] đều không thích đáng. Giả sử tri thức nhân loại đã tiến xa đến mức nó loại bỏ được sự cạnh tranh – xem như là nhân tố trong yêu cầu sinh tồn lẫn giống đực – thì, theo các khoa học hiện đại, sự tiến bộ sẽ dừng lại và loài người sẽ tiêu vong. Hậu quả của lý thuyết này là cung cấp cho mọi kẻ áp bức một lập luận để trấn an sự cắn rứt của lương tâm. Nhân loại này đâu có thiếu những kẻ ra vẻ cao đạo như triết gia – bọn họ dĩ nhiên là những quan tòa đầy thẩm quyền – muốn giết sạch những người yếu đuối và tật nguyền để duy trì nòi giống. Nhưng nhà tiến hóa luận vĩ đại thời cổ đại Patanjali tuyên bố điều bí ẩn thực sự của thuyết tiến hóa là sự biểu hiện của sự toàn mãn vốn đã có sẵn nơi mỗi con người, sự toàn mãn đó đã bị chặn lại, và đợt thủy triều vô tận đằng sau nó đang đấu tranh để tự hiển lộ ra. Tất cả sự đấu tranh và cạnh tranh này của chúng ta chỉ là hậu quả của vô minh, bởi vì chúng ta không biết mở cổng cho đúng cách để nước tràn vào. Đợt thủy triều vô tận đằng sau nó cần phải tự hiển lộ ra, và nó là nguyên nhân của mọi sự hiển lộ. Đấu tranh sinh tồn hay thỏa mãn tình dục chỉ là những nhân tố tạm thời, không cần thiết và xa lạ, do vô minh mà có. Ngay cả khi mọi sự cạnh tranh đã kết thúc thì thiên tính toàn mãn trong ta sẽ thôi thúc chúng ta tiến tới, cho đến khi tất cả mọi người đều trở nên toàn mãn. Do đó, không có lý do gì để tin rằng sự cạnh tranh là điều kiện cần thiết để tiến bộ cả. Trong con vật là một con người đang bị trấn áp, nhưng khi cánh cửa mở toang ra thì con người xông ra ngoài. Cũng vậy, trong mỗi con người đều có một vị thần tiềm ẩn, nhưng bị khóa chặt bởi then cài, và tấm chắn của vô minh. Khi trí tuệ phá vỡ rào chắn này thì vị thần này tự nhiên hiển lộ.
4
Một hành giả yogi có thể sáng tạo nên nhiều tâm trí từ ngã tính của mình
Giáo lý về nghiệp (karma) là thế này : chúng ta phải gánh chịu hậu quả của những việc làm thiện hay ác của mình, và toàn bộ nên triết học này giúp chúng ta thực chứng được sự vinh quang của con người. Tất cả kinh điển đều ca ngợi sự vinh quang của con người, của Linh Hồn, và cũng bằng phong cách đó, kinh điển lại thuyết giảng về karma. Việc thiện thì mang lại quả báo này, việc ác thì mang lại quả báo kia. Nếu như Linh Hồn có thể bị tác động bởi hành vi thiện ác thì rốt cuộc nó cũng chỉ là con số không. Hành vi ác tạo nên rào cản không cho bản thể của Purusha hiển lộ, còn hành vi thiện gỡ bỏ rào cản đó đi, và Purusha hiện ra trong vẻ rực rỡ huy hoàng. Tự thân Purusha bản lai bất biến. Dù các bạn làm bất cứ điều gì đi chăng nữa cũng không bao giờ phá hủy được sự vinh quang của chính mình, không bao giờ phá hủy được tự tính của mình, bởi vì không có gì gây được ảnh hưởng với Linh Hồn, chỉ có một lớp màn che khuất trước Nó, dấu đi sự toàn mãn của Nó mà thôi.
Với quan niệm giũ sạch nghiệp một cách nhanh chóng, các hành giả yogi tạo ra các kāya-vyuha tức muôn nghìn thân tướng để trả hết nghiệp. Họ dùng ngã tính [egoity] của mình để tạo ra tâm trí cho tất cả những thân tướng này, và gọi đó là những “tâm trí sở tạo” để phân biệt với tâm trí uyên nguyên của mình.
5
Mặc dù hoạt động của những tâm trí sở tạo diễn ra thiên hình vạn trạng, nhưng tâm trí uyên nguyên vẫn điều khiển được hết thảy.
Những tâm trí khác nhau này, hoạt động trong những thể xác khác nhau, được gọi là “tâm trí sở tạo”, và những thể xác đó được gọi là “thể xác sở tạo”. Vật chất và tâm trí là hai cái kho vô tận. Khi nào trở thành một hành giả yogi, các bạn sẽ học được bí quyết điều khiển của họ. Bí quyết đó vẫn luôn luôn là của các bạn, nhưng các bạn đã quên mất. Khi nào trở thành một hành giả yogi, các bạn sẽ nhớ lại. Lúc đó, các bạn có thể làm bất cứ điều gì với nó, muốn xoay xở nó theo cách nào cũng được. Chất liệu dùng để tạo nên tâm trí cũng chính là chất liệu tạo nên thế giới vĩ mô. Không phải tâm trí là thứ này, còn vật chất là thứ nọ, mà chúng chỉ là hai phương diện của cùng một sự vật. Asmitā – hay ngã tính – là chất liệu, là trạng thái tồn tại tế vi dùng để cấu tạo nên các “tâm trí sở tạo” cùng “thể xác sở tạo” của hành giả yogi. Do đó, khi hành giả yogi phát hiện được điều bí ẩn của những nguồn năng lượng trong thiên nhiên thì họ có thể tạo ra một số lượng bất kỳ những thể xác hay tâm trí từ chất liệu cơ bản gọi là ngã tính.
6
Giữa vô vàn tâm trí sai biệt, tâm trí nào đạt được samādhi (định) thì vô dục.
Giữa tất cả những tâm trí khác nhau mà chúng ta thấy nơi những con người khác nhau, tâm trí nào đạt được samādhi – hay trạng thái nhập định – là tâm trí tối cao. Những người nào đạt được một số quyền năng nào đó nhờ dược liệu, nhờ mật chú hay công phu khổ hạnh cũng đều còn tham dục; chỉ có ai đạt trạng thái samādhi nhờ tập trung tư tưởng mới hoàn toàn thoát khỏi mọi tham dục.
7
Không một hành vi nào là đen hay trắng đối với hành giả yogi, còn đối với người khác thì chúng có ba loại : đen, trắng và trắng đen lẫn lộn.
Khi một hành giả yogi đã đạt đến sự toàn mãn thì mọi hành động của ông ta cùng những hậu quả của hành động đó không ràng buộc được ông, bởi vì tâm của hành giả yogi đó đã hoàn toàn vô dục. Ông hành động vô tâm. Ông hoạt động để làm điều thiện, và ông làm điều thiện, nhưng lại không quan tâm gì đến kết quả, mà kết quả cũng chẳng đến với ông. Nhưng đối với với một người bình thường chưa đạt đến trạng thái tối cao đó thì hành vi có ba loại : đen, trắng và trắng đen lẫn lộn.
8
Từ ba loại hành vi đó, chỉ những tham dục nào thích hợp với hoàn cảnh mới hiển lộ [còn những tham dục khác tạm thời chờ đợi]
Giả sử tôi đã tạo ra ba loại nghiệp : thiện, ác, vừa thiện vừa ác, rồi giả sử tôi chết đi và trở thành một vị thần trên trời. Tham dục trong thể xác một vị thần sẽ khác với tham dục trong thể xác một con người. Thể xác của vị thần không đòi hỏi ăn uống. Vậy thì phần nghiệp chưa trả xong của tôi trong quá khứ sẽ ra sao, phần nghiệp mà lẽ ra sẽ tạo nên quả báo là thèm ăn, thèm uống? Khi tôi trở thành một vị thần thì nghiệp báo đó đi về đâu? Câu trả lời là tham dục chỉ có thể hiển lộ trong những hoàn cảnh phù hợp. Chỉ những tham dục thích nghi với hoàn cảnh mới hoạt động, những tham dục còn lại sẽ nằm ở dạng dự trữ. Ở đời này, chúng ta có nhiều tham dục của chư thần, nhiều tham dục của con người, nhiều tham dục của loài vật. Nếu chúng ta mang thể xác của chư thần thì chỉ những tham dục của chư thần mới trổi dậy, vì hoàn cảnh thích hợp với chúng. Nếu chúng ta mang thể xác của loài vật thì chỉ những tham dục của loài vật sẽ trổi dậy, những tham dục của chư thần sẽ phải chờ đợi. Điều đó cho thấy gì? Nó cho thấy rằng nhờ vào hoàn cảnh chúng ta có thể kiểm soát được những tham dục này. Chỉ những tham dục thích hợp với hoàn cảnh sẽ hiển lộ. Điều đó cho thấy sức cảnh của hoàn cảnh là then chốt để điều khiển trọn nghiệp lực.
9
Các tham dục nối tiếp nhau không dứt, ngay cả khi bị cách ly bởi chủng loại, không gian và thời gian, do có sự đồng nhất giữa ký ức và ấn tượng.
Những kinh nghiệm nào trở nên tế vi sẽ biến thành ấn tượng, những ấn tượng nào phục hoạt sẽ biến thành ký ức. Từ ký ức ở đây bao hàm sự phối hợp vô thức của những kinh nghiệm quá khứ, bị giảm trừ thành những ấn tượng, với hành động có ý thức hiện tại. Trong mỗi thể xác, chỉ những nhóm ấn tượng được thu hoạch trong cùng một thể xác mới trở thành nhân của hành động trong thể xác đó. Mỗi thể xác hành động như là hậu duệ thuộc dòng dõi các thể xác loại này, do đó các tham dục nối tiếp nhau không dứt.
10
Bởi khát vọng lạc phúc thì vĩnh cửu, nên tham dục không có khởi đầu.
Đi trước mọi kinh nghiệm là khát vọng được hưởng lạc phúc. Kinh nghiệm không có khởi đầu, bởi vì mọi kinh nghiệm tươi mới đều được xây dựng trên xu hướng được phát sinh bởi kinh nghiệm quá khứ, do đó tham dục không có khởi đầu.
11
[Tham dục] được duy trì bởi nhân, quả, bởi trợ duyên và những đối tượng, nên khi không có những thứ đó thì nó cũng không hiện hữu.
Tham dục được duy trì bởi quan hệ nhân quả[36], nếu tham dục được dung dưỡng thì không bao giờ nó chết đi mà lại không sinh quả. Lại nữa, tâm là kho chứa khổng lồ, là chỗ dung nạp mọi tham dục trong quá khứ – những tham dục này đã suy giảm thành hình thức samskāra, chúng sẽ sống mãi cho đến khi nào tự thể hiện được mình. Hơn nữa, chừng nào giác quan còn thu nhận ngoại cảnh thì những tham dục mới lại sinh khởi. Nếu có thể thoát bỏ nhân, quả, trợ duyên và những đối tượng tham dục thì tham dục sẽ tan biến.
12
Quá khứ và tương lai hiện hữu trong tự tính của chúng, sự khác biệt giữa chúng chỉ là sự khác biệt về guna.
Đây là quan niệm cho rằng không thể có chuyện “vô trung sinh hữu”, tức một sự vật sinh ra từ hư không. Dù không hiện hữu dưới một hình thức hiển lộ rõ ràng, nhưng quá khứ và tương lai tồn tại trong một hình thức tế vi.
13
Dù chúng hiển lộ hay tiềm ẩn dưới dạng tế vi thì guna vẫn là bản tính nội tại thâm sâu của chúng.
Guna là ba loại bản chất : sattva, rajas và tamas, mà trạng thái thô của chúng chính là cái vũ trụ hữu hình này. Quá khứ và tương lai sinh khởi từ những thể cách hiển lộ khác nhau các guna này.
14
Tính thống nhất của sự vật xuất phát từ tính thống nhất trong biến dịch [của các guna].
Dù có ba loại bản chất hòa hợp và biến đổi, nhưng muôn vật đều hiển lộ tính thống nhất.
15
Đối với cùng một sự vật nhưng nhận thức và tham dục khác nhau, nên tâm và vật mang bản tính khác nhau.
Điều đó có nghĩa là có một thế giới khách quan tồn tại độc lập với tâm trí chúng ta. Đây là luận điểm phản bác của thuyết duy tâm Phật giáo. Cùng một sự vật nhưng nhiều người khác nhau nhìn vào lại thấy khác nhau, cho nên nó không thể là trí tưởng tượng đơn thuần của một cá nhân riêng biệt[37].
16
Sự vật được tâm trí nhận biết hoặc không, tùy thuộc vào sắc màu mà chúng đem lại cho tâm trí.
17
Các trạng thái của tâm trí luôn được nhận biết, bởi vì Purusha – vị Chúa Tể của tâm trí – bất biến.
Toàn bộ nội dung của phần giáo lý này là : vũ trụ vừa là tinh thần, vừa là vật chất. Cả vật chất lẫn tâm trí đều ở trong trạng thái tuôn chảy ào ạt. Cuốn sách này là gì? Nó là sự kết hợp của những phân tử đang biến đổi không ngừng : một số phân tử đi, một số phân tử khác đến. Nó giống như cơn lốc xoáy. Nhưng cái gì đã tạo nên sự thống nhất? Cái gì đã giúp nó luôn được là một cuốn sách? Sự biến đổi này có tiết tấu nhịp nhàng, chúng gởi các ấn tượng đến tâm trí theo một trật tự hài hòa, và những mảnh ấn tượng đó kết nối lại thành một bức tranh liên tục, mặc dù những thành phần đều đang biến đổi không ngừng. Tâm trí cũng vậy, bản thân nó biến đổi không ngừng. Tâm trí và thể xác giống như hai lớp của cùng một bản chất, chuyển động với tốc độ khác nhau. Một cái chậm hơn, một cái nhanh hơn, ta có thể phân biệt được hai chuyển động này. Ví dụ có một xe lửa đang chạy, và một cỗ xe ngựa chạy bên cạnh nó. Có thể nhận ra chuyển động của cả hai xe, ở một mức độ nào đó. Nhưng vẫn còn có một điều cần thiết nữa. Ta chỉ có thể nhận ra được sự chuyển động là khi có cái không chuyển động. Nếu cả hai hay ba vật cùng chuyển động tuyệt đối với nhau thì trước tiên ta nhận ra sự chuyển động của vật nhanh hơn, kế đó là những vật chậm hơn. Làm thế nào tâm trí có thể nhận ra được điều đó? Nó cũng đang tuôn chảy ào ạt. Từ đó, vật chuyển động chậm hơn là điều cần thiết, rồi các bạn lại nghĩ tiếp đến vật chuyển động chậm hơn nữa, cứ tiếp tục như thế cho đến vô cùng. Do đó, lý luận buộc các bạn phải dừng tại một điểm nào đó. Các bạn phải kết thúc chuỗi chuyển động này bằng cách biết rằng có một cái gì đó bất biến. Đằng sau chuỗi chuyển động không bao giờ kết thúc này là Purusha, cái bất biến, vô sắc, thuần tịnh. Tất cả những ấn tượng này chỉ phản chiếu trên Purusha, như một ngọn đèn chiếu đang chiếu những hình ảnh lên màn hình mà chẳng hề làm ố bẩn nó.
18
Tâm trí không tự tỏa sáng, vì là một đối tượng.
Năng lực khủng khiếp hiển lộ khắp nơi trong thiên nhiên nhưng nó không tự tỏa sáng, không tất yếu là thông minh. Chỉ có Purusha là tự tỏa sáng và chiếu ánh sáng của mình đến muôn vật. Chính năng lực của Purusha đang chiếu xuyến thấu qua tất cả sự vật và mọi nguồn năng lượng.
19
Do không thể nhận biết đồng thời cả hai [nên tâm trí không tự tỏa sáng được].
Nếu như tâm trí tự tỏa sáng rực rỡ thì hẳn nó có thể nhận thức được tự thân và đối tượng của nó cùng một lúc, nhưng nó không làm được điều đó. Khi tâm trí nhận thức đối tượng thì nó lại không thể tự phản chiếu trên chính mình. Do đó, chỉ Purusha là tự tỏa sáng, còn tâm trí thì không.
20
Giả sử có một tâm trí khác có thể nhận biết, vậy thì giả thiết đó cứ tiếp tục cho đến vô cùng, và kết quả là một đống hỗn độn của ký ức.
Giả sử rằng có một tâm trí khác nhận biết được một tâm trí bình thường thì phải còn có một tâm trí khác nhận biết được tâm trí ban đầu đó, và cứ thế cho đến vô cùng. Kết quả sẽ là một đống hỗn độn của ký ức, sẽ không còn kho chứa ký ức nữa.
21
Bản Thể Tinh Yếu của Tri Thức (Purusha) thì bất biến, khi tâm trí khoác lấy hình thức của Purusha thì nó biến thành ý thức.
Đạo sư Patanjali nói điều này nhằm làm sáng tỏ thêm một điều : tri thức không phải là một phẩm tính của Purusha. Khi tâm trí đến gần Purusha thì Purusha, có thể nói như vậy, được phản chiếu lên tâm trí, và tại thời điểm đó, tâm trí có khả năng nhận thức tựa như nó chính là Purusha.
22
Nhờ vào sắc màu của chủ thể năng quán và đối tượng sở quán mà tâm trí mới có thể hiểu được mọi vật.
Một mặt thì thế giới ngoại tại – tức đối tượng sở quán hay đối tượng được nhìn – đang được phản chiếu, mặt khác thì chủ thể năng quán– tức chủ thể nhìn – cũng đang được phản chiếu, nhờ vậy mà năng lực nhận thức mọi vật mới đến được với tâm trí.
23
Tâm trí, dù bị nhiễm ô bởi vô số tham dục, hoạt động thay mặt cho một cái khác (tức là Purusha), vì nó hoạt động trong sự kết hợp.
Tâm trí do nhiều thứ cấu thành, cho nên nó không thể hoạt động cho chính nó. Bất kỳ sự vật nào trong thế giới này, hễ đã là sự kết hợp thì nó đều phục vụ cho một thực thể khác – thực thể mà sự kết hợp được tạo ra vì nó. Bởi vậy sự kết hợp của tâm trí là để hướng tới Purusha.
24
Nhờ trí phân biệt mà không còn nhận tâm trí là Ātman.
Nhờ trí phân biệt mà hành giả yogi biết rằng Purusha không phải là tâm trí.
25
Nhờ kiên trì với trí phân biệt mà tâm trí đạt đến trạng thái trước cảnh giới kaivalya (tự tại vô ngại).
[Một dị bản khác : Rồi tâm trí phân biệt một cách sâu sắc và hướng về kaivalya]
Như vậy, công phu tu tập Yoga dẫn đến trí phân biệt, đến tuệ nhãn. Màn che rơi khỏi mắt, và chúng ta thấy được sự vật y như thực. Chúng ta phát hiện ra rằng thiên nhiên này là một phức thể, và nó đang phô bày toàn cảnh ra để làm hài lòng Purusha – người chứng kiến, rằng thiên nhiên này không phải là Chúa Tể, rằng toàn bộ những sự kết hợp của thiên nhiên chỉ là để phô bày hiện tượng giới ra cho Purusha – vị vua ngự trị bên trong. Khi luyện tập lâu ngày và đạt được trí phân biệt thì không còn sợ hãi, và tâm trí đạt đến cảnh giới tự tại vô ngại.
26
Những tư tưởng nảy sinh
[thỉnh thoảng]
gây chướng ngại cho những tư tưởng phát sinh từ ấn tượng.
Tất cả những ý tưởng nào nảy sinh mà bắt ta tin rằng phải cần đến một sự vật bên ngoài mới có hạnh phúc thì chúng đều là chướng ngại trên con đường dẫn đến sự toàn mãn. Purusha là lạc phúc tự bản chất. Nhưng trí tuệ đó bị che phủ bởi những ấn tượng trong quá khứ. Những ấn tượng này phải tự giải quyết lấy.
27
Sự phá hủy của chúng tựa như sự phá hủy vô minh, ngã tính v.v… như đã bàn ở phần trước (II.10).
28
Ngay cả khi đã đạt được trí phân biệt chân chính về bản thể tinh yếu, người nào từ bỏ thành quả thì chứng nhập “pháp vân định”[38].
Khi hành giả yogi đạt được trí phân biệt thì chứng được tất cả những quyền năng đã nhắc đến trong chương cuối, nhưng một hành giả yogi chân chính luôn khước từ chúng. Hành giả đó chứng đắc một trí tuệ thù thắng và một ánh sáng thù thắng gọi là dharmamegha (pháp vân) hay “đám mây pháp”. Tất cả những nhà tiên tri trên thế gian được ghi chép trong lịch sử đều chứng đắc cảnh giới này. Các vị đó đã phát hiện ra rằng toàn bộ nền tảng của tri thức vốn đầy đủ cả trong tự tâm. Chân lý đối với họ đã biến thành hiện thực. An bình, trầm lặng và thuần tịnh đã biến thành bản tính của họ, sau khi họ đã từ bỏ sự phù phiếm của quyền năng.
29
Do đó mà không còn đau khổ và tạo tác.
Khi “đám mây pháp” đến thì không còn sợ hãi gì nữa, không có gì có thể kéo hành giả yogi xuống thấp. Đối với vị đó thì không còn điều xấu ác, không còn đau khổ.
30
Nhờ bỏ được lớp màn che và những điều bất tịnh, trí tuệ trở nên vô lượng, và điều khả tri trở nên nhỏ bé.
Trí tuệ vẫn luôn hiện hữu ở đó, chỉ có lớp màn che bị mất đi. Một trong các cuốn kinh Phật giáo định nghĩa Phật – tức tên một trạng thái – là vô lượng trí, mênh mông vô tận như bầu trời. Chúa Jesus đã chứng chập cảnh giới này và trở thành đấng Christ. Tất cả các bạn đều sẽ chứng chập được cảnh giới này. Trí tuệ trở nên vô lượng, và điều khả tri trở nên nhỏ bé. Toàn thể vũ trụ này, cùng với tất cả những đối tượng khả tri, đều trở nên nhỏ bé trước Purusha. Người phàm cứ cho là mình vô cùng nhỏ bé, bởi vì đối với họ thì cái khả tri tựa hồ như bao la vô tận.
31
Như vậy không còn sự chuyển hóa liên tục của các guna, vì chúng đã đi đến chung cục.
Như vậy, tất cả sự chuyển hóa của các guna – biến đổi từ loài nấy sang loài khác – vĩnh viễn chấm dứt.
32
Những sự biến đổi – vốn tồn tại trong mối tương quan với các thoáng chốc biến dịch và được nhận ra tại một chung cục khác (nghĩa là ở cuối một chuỗi các thay đổi) – là ý nghĩa của tương tục.
Patanjali đã định nghĩa “tương tục” là những sự biến đổi tồn tại trong mối tương quan với các thoáng chốc. Khi tôi suy nghĩ thì nhiều cái thoáng chốc đã đi qua, và cùng với mỗi thoáng chốc kia là một sư thay đổi về quan niệm, nhưng tôi chỉ nhận ra được những sự thay đổi đó ở cuối một chuỗi các thay đổi. Đây được gọi là sự tương tục. Nhưng đối với một tâm trí đã thực chứng được trạng thái toàn nhiên phổ hiện thì không hề có sự tương tục. Đối với tâm trí đó thì muôn vật đều hiện tiền trong thời khắc hiện tại. Chỉ có hiện tại là hiện hữu, còn quá khứ và tương lai đều lạc mất. Thời gian trụ lại trong sự chế ngự, toàn bộ tri thức hiện hữu ra đó trong một phút giây. Muôn vật được nhận biết trong chớp nhoáng[39].
33
Sự phân giải các guna theo trật tự đảo ngược, khi chúng không còn động cơ hoạt động cho Purusha, là trạng thái kaivalya (tự tại vô ngại), hoặc kaivalya là sự thiết lập Quyền Năng của Trí Tuệ trong tự tính của Nó.
Công việc của thiên nhiên đã hoàn tất – công việc vị tha mà thiên nhiên, người bảo mẫu dịu dàng của chúng ta, đã đặt ra cho chính nó. Thiên nhiên dịu dàng cầm lấy bàn tay của linh hồn vô ngã, có thể nói như vậy, và chỉ cho nó thấy tất cả những sự trải nghiệm trong vũ trụ, tất cả những cảnh tượng hiển lộ, nâng nó lên cao dần qua nhiều thể xác khá nhau, cho đến khi vinh quang đã mất của linh hồn quay trở lại, và nó nhớ lại tự tình của mình. Rồi người mẹ hiền quay về lại, cũng trên con đường mà bà đã đến, vì những người lạc lối giữa sa mạc không lối đi của cuộc đời. Người mẹ thiên nhiên đã làm việc như thế đó, từ vô thủy đến vô chung; và như thế đó, trải qua cảnh khổ đau và hạnh phúc, tốt đẹp và xấu xa, dòng sông linh hồn vô tận vẫn mãi trôi chảy về đại dương của sự toàn mãn, của cảnh giới tự chứng.
Vinh quang thay cho những ai đã thực chứng được tự tính! Xin
họ ban phúc lành cho tất cả chúng ta!
Śvetāśvatara Upanishad
CHƯƠNG II
6
Nơi ngọn lửa bừng cháy do ma sát, nơi nguyên khí được kiểm soát, nơi rượu lễ soma chảy tràn, nơi đó một tâm trí [toàn hảo] được tạo ra.
8
Bằng cách giữ thân thể trong tư thế ngay ngắn, giữ cho ngực, cổ và đầu thẳng đứng, điều khiển cho các cơ quan và tâm trí đi vào trái tim, nhà hiền triết vượt qua mọi dòng sông sợ hãi bằng phương tiện là chiếc bè của Brahman.
9
Người tinh tấn luyện tập điều khiển được prāna (nguyên sinh khí), và khi prāna đã trở nên tĩnh lặng thì hơi thở đi qua lỗ mũi mà ra ngoài. Bậc hiền giả kiểm soát tâm trí không hề xao lãng, như người xà ích kiềm chế những con ngựa bất kham.
10
Tại những nơi [hoang vu, cô tịch] như hang núi, nơi mặt đất bằng phẳng, không có sỏi hay cát, không có ánh lửa, nơi không có tiếng người hay tiếng suối quấy nhiễu, nơi khiến tâm trí yên vui, nơi không có cảnh tượng thương tâm thì đó là nơi thực hành pháp môn yoga.
11
Khi thực hành pháp môn yoga thì những hình tượng xuất hiện đầu tiên và dần dần làm hiển lộ Brahman, đó là : bông tuyết, khói, mặt trời, gió, lửa, con đom đóm, sấm chớp, pha lê, và mặt trăng.
12
Khi khứu giác, vị giác, xúc giác, thị giác và thính giác nảy sinh từ đất, nước, không khí và ākāśa, như được mô tả trong yoga, thì pháp môn yoga bắt đầu. Hành giả nào đã làm cho thể xác được thanh khiết bằng ngọn lửa yoga thì bệnh tật không xâm phạm được, tuổi già và cái chết cũng không xâm phạm được.
13
Những dấu hiệu đầu tiên đi vào cảnh giới yoga là cơ thể nhẹ nhàng, khỏe mạnh, tâm không còn tham dục, da dẻ mịn màng, giọng nói dịu dàng, cơ thể thơm tho dễ chịu và bài tiết dễ dàng.
14
Giống như một khối vàng hay bạc bị đất phủ lem luốc, khi đem chùi rửa cẩn thận sẽ sáng rực lên, cũng vậy, khi một người bằng xương bằng thịt mà thực chứng được chân lý về Ātman, đạt đến cảnh giới Bất Nhị thì không còn phiền não và tâm luôn hỷ lạc.
Yājnavalkya, trích dẫn theo Śankara
“Sau khi thực hành các tư thế như ý muốn, đúng theo phương pháp thì này Gārgi, người nào đã điều khiển được các tư thế đó sẽ thực hành được prānāyāma.
“Ngồi thật thoải mái trên một tấm da [dê hoặc cọp] đặt trên cỏ kuśa, dùng hoa quả và kẹo mứt dâng cúng thần đầu voi Ganapati, đặt lòng bàn tay phải lên lòng bàn tay trái, giữ cổ và đầu theo một đường thẳng, môi mím chặt, quay mặt về hướng đông hoặc bắc, mắt nhìn vào chóp mũi, không ăn quá no cũng không để quá đói, khi đó các nāḍi (dây thần kinh) mới được thanh khiết, bằng không thì có tập cũng vô ích. Hãy quán tưởng chủng tự OM tại nơi tiếp giáp giữa Pingalā và Iḍā (lỗ mũi phải và lỗ mũi trái), Iḍā cần được lấp đầy bởi không khí bên ngoài trong mười hai giây; rồi hành giả yogi quán tưởng ngọn lửa cũng tại chỗ đó, cùng với chữ Rung, và trong khi quán tưởng thì đẩy nhẹ hơi thở ra ngoài qua Pingalā. Rồi lại lấp đầy không khí qua Pingalā, và lại từ từ đẩy nhẹ hơi thở ra ngoài qua Iḍā, cũng theo cách đó. Phương pháp này cần được thực hành trong vòng ba hay bốn năm hoặc ba hay bốn tháng tùy theo hướng dẫn mật truyền của vị đạo sư (một mình trong căn phòng) vào các lúc bình minh, chính ngọ, hoàng hôn và nửa đêm, [cho đến khi] các dây thần kinh đều trở nên thanh khiết. Cơ thể nhẹ nhàng, da dẻ mịn màng, ăn ngon miệng, nghe được âm OM, đó là các dấu hiệu cho biết các dây thần kinh đã thanh khiết. Tiếp theo là sự thực hành prānāyāma, bao gồm các bước rechaka (thở ra), kumbhaka (nén hơi thở) và puraka (hít vào). Kết hợp prāna với apāna, đó là prānāyāma.
“Sau khi lấp tràn cả cơ thể từ đầu đến chân trong mười sáu giây thì prāna được đẩy ra ngoài trong vòng ba mươi hai giây, nên thực hành kumbhaka (nén hơi thở) trong sáu mươi bốn giây.
“Còn có một prānāyāma khác nữa, trong đó kumbhaka được thực hiện trước, trong vòng sáu mươi bốn giây, rồi prāna được đẩy ra ngoài trong vòng mười sáu giây, tiếp theo đó cơ thể được lấp đầy trong vòng mười sáu giây.
“Nhờ prānāyāma mà được khu trừ được những điều bất tịnh của cơ thể, nhờ dhāranā mà được khu trừ được những điều bất tịnh của tâm trí, nhờ pratyāhāra mà được khu trừ được những điều bất tịnh của luyến cảm, và nhờ samādhi mà cởi bỏ được tất cả những điều che dấu vương quyền của Linh Hồn.
Triết học Śankara
Cuốn III
29
Nhờ quán tưởng thâm sâu mà Purusha đạt được tất cả những quyền năng của thiên nhiên.
30
Quán tưởng diệt được luyến cảm.
31
Quán tưởng được viên mãn do loại bỏ được các chuyển biến.
32
Quán tưởng được viên mãn do dhāranā (chú tâm), tư thế ngồi và thực hiện bổn phận của mình.
33
Thở ra và kiềm nén hơi có tác dụng với prāna.
34
Tư thế ngồi phải vững chải và thoái mái.
36
Quán tưởng cũng được viên mãn do vô luyến cảm và luyện tập.
74
Do phản chiếu trên những nguyên lý của thiên nhiên và buông xả chúng như là “không phải cái này, không phải cái này” mà trí phân biệt được viên mãn.
Cuốn IV
3
Hành giả nên thường xuyên lắng nghe lời dạy [từ kinh điển và vị đạo sư].
5
Giống như con chim ưng cảm thấy bất hạnh nếu bị lấy mất thức ăn, và thấy vui sướng nếu tự nó từ bỏ thức ăn (người nào tự nguyện từ bỏ mọi sự cũng được vui sướng như vậy).
6
Giống như con rắn vui sướng khi lột bỏ lớp da cũ (người nào tự nguyện xả ly mọi sự cũng được vui sướng như vậy).
8
Những gì không phải là phương tiện dẫn đến giải thoát đều không đáng nghĩ đến, nó trở thành nguyên nhân trói buộc, như trường hợp vua Bharata[40].
9
Giao tiếp với nhiều người tạo nên đam mê, ác cảm v.v… và điều đó gây chướng ngại cho việc quán tưởng, giống như vòng đeo bằng vỏ sò trên cổ tay cô gái[41].
10
Thậm chí với chỉ hai [người] cũng vậy.
11
Từ bỏ hy vọng là hạnh phúc, như cô kỹ nữ Pingalā[42].
13
Dù có chú tâm vào kinh điển cùng các vị đạo sư thì một tín đồ chỉ cần tiếp nhận phần tinh túy mà thôi, giống như con ong hút nhụy từ nhiều đóa hoa.
14
Người nào giữ tâm trí chuyên chú như người thợ vót tên thì không bị nhiễu loạn trong trạng thái samādhi (định) của mình.
15
Giống như khi vi phạm những quy tắc nêu trên sẽ gây nên nhiều tổn hại to lớn cho công việc thế gian, đối với việc quán tưởng cũng vậy.
19
Do tinh tấn, thành kính và chí thành với vị đạo sư mà đạt được thành quả sau một thời gian dài [như trường hợp Indra].
20
Không có quy luật đối với thời gian, như trường hợp Vāmadeva[43].
24
Hoặc [đạt được thành quả] nhờ giao tiếp với các bậc thiện tri thức.
27
Gống như nhà hiền triết Sauvari [người tu luyện yoga trong một thời gian dài] không thể làm dịu được khát khao hưởng thụ, những người khác cũng vậy.
Cuốn V
128
Giống như nhờ thuốc men mà hết bịnh, điều đó không thể phủ nhận được, thì nhờ pháp môn yoga mà đạt được quyền năng cũng vậy.
Cuốn VI
24
Bất cứ tư thế nào thoái mái và vững chải đều là một āsana, không có quy định nào khác [về một tư thế đặc biệt].
Kinh điển của Vyāsa
Chương IV, tiểu mục i
7
Có thể thực hiện nghi lễ sùng bái trong tư thế ngồi [cho nên hành giả nên ngồi khi thực hiện nghi lễ sùng bái].
8
Do quán tưởng[44].
9
Bởi vì [một người] đang quán tưởng được sánh với trái đất bất động.
10
Với bởi vì các kinh điển (Smritis) cũng nói thế.
11
Không có quy định về nơi chốn [cho việc quán tưởng tham thiền], bất cứ nơi nào có thể tập trung tư tưởng thì đó là nơi để thực hành quán tưởng.
Những câu trích dẫn trên đây cung cấp một quan niệm về những gì mà các
hệ thống triết học khác của Ấn Độ đã nói về pháp môn yoga.
[1] Trong suốt tác phẩm này, người biên tập sử dụng nhất quán danh từ Rāja-yoga (với ký tự R hoa) để chỉ hệ thống triết học Yoga nổi tiếng này, và rāja-yoga (với ký tự r thường) để chỉ phương pháp rèn luyện tâm linh thường được biết như là pháp môn yoga. Danh từ Yoga, do đó, cũng được sử dụng với ký tự Y hoa để chỉ triết học Yoga và y thường để chỉ phương pháp rèn luyện. [G.C trong nguyên tác]
[2] Giai đoạn thứ 1 và 2 là các bước chuẩn bị, āsana là giai đoạn điều thân hay điều khiển cơ thể, prānāyāma là giai đoạn điều tức hay kiểm soát hơi thở, pratyāhārā là giai đoạn điều tâm hay kiểm soát giác quan trước các đối tượng ngoại giới. Thực ra dịch prānāyāma là điều tức theo cách dịch phổ biến không được chính xác lắm. Đọc phần tiếp theo ta sẽ rõ.
[3] Khoa học Cơ Đốc giáo (Christian Science) được Mary Baker Eddy (1821–1910) phát triển vào thế kỷ 19. Năm 1866, bà bị ngã và bị liệt tạm thời, nhưng theo bà thì nhờ cảm hứng từ Kinh Thánh mà bà được chữa khỏi bệnh liệt. Tư tưởng của bà được trình bày trong tác phẩm Science and Health (Khoa học và Sức khỏe, 1875) cho rằng bệnh tật chỉ là ảo giác, và chỉ có thể được chữa lành bằng cầu nguyện.
[4] Trong suốt nửa sau thế kỷ 19, khái niệm ê-te rất phổ biến trong giới khoa học. [G.C trong nguyên tác]
[5] Humphry Davy (1778 – 1829) là một nhà vật lý và nhà hóa học người Cornwall, nước Anh. Mỗi khi có được một phát minh mới, ông thường tổ chức diễn thuyết để công bố. Năm 1799, Humphry làm thí nghiệm trên chất khí N2O (ôxit tinơ), và đã bị hôn mê. Khi tỉnh lại, ông nhớ được cảm giác đê mê, khoan khoái. Sau đó ông cho công bố hiệu quả kì diệu của N2O, nhưng phải đến 45 năm sau giới y học mới bắt đầu dùng N2O làm thuốc gây mê.
[6] Tức định luật bảo toàn năng lượng, quan niệm rằng năng lượng không thể tự nhiên sinh ra hoặc mất đi. Trong vũ trụ, tổng số năng lượng hoàn toàn không đổi. Ta không thể tạo ra năng lượng, mà chỉ có thể chuyển nó từ dạng này sang dạng khác mà thôi.
[7] Độc giả nên nhớ là bài này được viết trước khi phát minh ra vô tuyến điện báo. [G.C trong nguyên tác]
[8] Tác giả thuyết giảng vào thời kỳ đầu của nền khoa học hiện đại, nên thường dùng động cơ hơi nước để minh họa.
[9] Lời Chúa Jesus trong Tân Ước (Matthew 5:17).
[10] Thật đáng sợ khi điều này lại đang diễn ra trong thế giới ngày nay bởi các phần tử Hồi giáo IS quá khích. Đó là những kẻ cuồng tín man rợ, gần như mất cả tính người.
[11] Từ dhyāna (meditate) được dịch là tham thiền, thiền quán hoặc quán tưởng tuỳ theo ngữ cảnh.
[12] Bhagavad Gita XII, 13-20. (G.c trong nguyên tác)
[13] Dùng để chỉ những sự vật chỉ tồn tại trong ngôn ngữ chứ không hề có trong thực tế.
[14] unqualified ego. Câu văn trong phần chú giải có thể làm sáng thêm nghĩa này “Hành giả có thể tư duy về chính mình như không hề có thể xác thô, mà phải tư duy về chính mình như là thể xác tế vi“.
[15] Từ Samprajnāta (hữu tưởng, có khi được dịch là hữu trí, hữu tâm) được tạo từ : (1) sam (xuất phát từ ngữ căn samyak, có nghĩa là hoàn hảo, viên mãn), (2) pra (rõ ràng) và (3) jña (biết, liễu tri); samprajnāta có nghĩa là : thấu hiểu rốt ráo, liễu tri.
[16] Xem chú thích ở phần tiếp theo.
[17] Xem chú thích ở phần tiếp theo.
[18] Người sáng lập học phái Sāmkhya (Số luận) của Ấn Độ.
[19] Đối với trường hợp “vô sư trí” tức tri thức không cần đến thầy theo kiểu “vô sư tự ngộ” của Độc giác Phật thì các học phái Phật cho rằng tri thức đó thực ra đã được tích lũy từ tiền kiếp.
[20] word : ngôn từ; language : ngôn ngữ.
[21] Đây là mẫu tự A trong tiếng Phạn.
[22] Đọc câu cách ngôn này, chúng ta như nghe lại câu thơ “Les parfums, les couleurs et les sons se répondent” (Hương thơm, sắc màu và âm thanh cùng hòa hợp) trong bài thơ Correspondances của Beaudelaire, hoặc nghe lại nhưng câu văn trong bài Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử “…… Nhỡn tuyến đưa tới đâu, cũng gặp chói lói, cũng gặp hào quang. Nên trí tôi rất ngợp, miệng lưỡi tôi không phải bối rối nhưng tựa hồ như mới nếm xong khí vị thanh tao của muôn điệu nhạc. ….”
[23] Tâm trí [mind], hay cảm nhận thông thường, là tập hợp tất cả các giác quan [G.C. trong nguyên tác]
[24] Đại sư Vivekananda dịch là “filled with Truth”.
[25] Vô chủng định (seedless samādhi) : không còn mầm móng tạo tác nữa.
[26] Đại sư Vivekanada dịch asmitā là “I-consiouness” (Ý Thức về Tự Ngã), tự điển Oxford dịch là “I-am-ness”; một số tư liệu Phật giáo dịch là “ngã mạn”.
[27] Tên vị vua của dòng họ Pandava trong bộ sử thi Mahabharata.
[28] Đây là cách giải thích rất hay cho vấn đề con gà có trước hay trứng gà có trước? Nếu xem con gà là A và trứng gà là B thì xem như đã giải quyết được vấn đề.
[29] Nguyên văn ghi là “The Seer is intelligence only, and though pure, sees through the colouring of the intellect” tôi ngờ là sai do lỗi morass, tra theo bản trên mạng, thấy ghi là “The Seer is intelligence only, and though pure, seen through the colouring of the intellect”. Theo lời chú giải thì seen hợp lý hơn, nên tôi dịch theo cách này.
[30] Tức Thượng Đế mà tín đồ chọn làm lý tưởng của mình [G.C trong nguyên tác].
[31] Thường được hiểu là thần thông.
[32] Sự khác biệt giữa ba trạng thái chú tâm, hay tập trung tư tưởng, trong các câu 9, 11 và 12 như sau : trong trạng thái thứ nhất, những ấn tượng nhiễu loạn chỉ bị kiềm hãm nhưng vẫn chưa bị xóa bỏ hoàn toàn bởi những ấn tượng chế ngự vừa mới phát sinh; trong trạng thái thứ hai, thì trạng thái thứ nhất bị xóa bỏ hoàn toàn bởi trạng thái sau là trạng thái nổi bật lên; còn trong trạng thái thứ ba, tức trạng thái cao nhất, thì không còn vấn đề chế ngự nữa, mà chỉ có những ấn tượng tương tự nối tiếp nhau theo một dòng chảy. [G.C trong nguyên tác].
[33] Nguyên văn là “substance qualified “, tức bản thể được gán các phẩm tính, theo lời chú giải thì khái niệm này giống như khái niệm “pháp hữu vi” trong tư tưởng Phật giáo.
[34] Nguyên văn “particle of time“, chỉ đơn vị thời gian cực nhỏ.
[35] Sự chọn lọc giới tính : sexual selection, và thích nghi để tồn tại : the survival of the fittest.
[36] Nhân là “những chướng ngại gây phiền não” (II.3) và những hành vi (IV.7); còn quả là “chủng loài, thọ mạng, cùng những kinh nghiệm về khổ lạc” (II.13) [G.C. trong nguyên tác].
[37] Trong những bản in khác, chỗ này có thêm các câu :
“Không thể bảo rằng sự vật tùy thuộc vào tâm trí chúng ta. Nếu không có bằng chứng nào về sự tồn tại của nó [nghĩa là nếu tâm trí không nhận thức được nó] thì nó sẽ trở thành hư không”.
Nếu sự nhận thức một đối tượng là tiêu chuẩn duy nhất để nó tồn tại, vậy thì khi con người tập trung toàn bộ tâm trí vào một sự vật nào đó hoặc khi nhập định, thì sự vật đó sẽ không được nhận biết bởi bất kỳ một người nào khác, như vậy cũng có thể bảo sự vật đó là hư không. Đây là một kết luận không thỏa đáng. [G.c trong nguyên tác ]
[38] Nguyên tác là “the samādhi called ‘cloud of virtue‘”, lẽ ra nên dịch là “đức vân”, nhưng theo tinh thần văn bản và lời chú giải thì đây là dharmamegha tức “pháp vân” trong tư tưởng Phật giáo đại thừa, là quả vị thứ mười trong quá trình tu học của Bồ Tát để thành Phật.
[39] Đây là cảnh giới đốn ngộ của Thiền tông.
[40] Theo một câu chuyện cổ, vua Bharata lúc lâm chung cứ quyến luyến mãi với con dê yêu quý của mình, nên sau đó đầu thai thành con dê. [G.C. trong nguyên tác]
[41] Có một cô gái đeo nhiều vòng trang sức bằng vỏ sò trên cổ tay, cô ta đấm bóp cho cha mình ngủ; nhưng do vỏ sò cứ chạm nhau gây nên tiếng ồn khiến người cha không sao ngủ được. [G.C. trong nguyên tác]
[42] Cô kỹ nữ Pingalā nôn nóng chờ đợi người yêu, cô cảm thấy vô cùng đau khổ vì anh ta không đến. Đột nhiên cô không nghĩ gì về anh ta nữa, cô bèn quay về phòng và ngủ một giấc thật say. [G.C. trong nguyên tác]
[43] Theo truyền thuyết thì Vāmadeva đã thông thái từ khi còn nằm trong bụng mẹ. [G.C. trong nguyên tác]
[44] Khi nhìn thấy một người ngồi yên không nhúc nhích, ta bảo người đó đang tham thiền hay trầm tư quán tưởng. Bởi vậy, một người có thể thực hiện quán tưởng khi đang ngồi. [G.c. trong nguyên tác]
Thảo luận