Ngay lúc này đã có một cái gì đó hiện thị, đó là thế giới.
Đối với thế giới thì khoa học, theo thể cách của nó, chiếm một vị trí độc quyền như tôn giáo. Tuy nhiên có một điểm khác biệt, đó là trong khi tôn giáo, có thể nói như vậy, ra sức vặn ngược chiếc đồng hồ của đời sống tinh thần thì khoa học lại vặn cho nó đi tới.
Tấn tuồng đời diễn ra rất mực công bình để nói rằng chúng ta thấu hiểu được căn nguyên túc lý, mà đồng thời cũng chẳng hiểu gì về nó cả, bởi vì chúng ta rất có thể đã thấu hiểu căn nguyên túc lý của các hiện tượng trong đời sống, nhưng bản thân mỗi thành phần của hiện tượng đó lại đòi hỏi đến một căn nguyên túc lý khác, và cứ như thế mà suy ngược cho đến vô cùng ad infinitum. Tóm lại, mọi căn nguyên túc lý đều mang bản chất thứ yếu. Từ điểm này, khoa học lập luận như vầy :
Sự kiện hiển nhiên là chúng ta hiểu được căn nguyên túc lý trên phương diện nào đó và đến mức độ nào đó, do đó sự thấu hiểu hoàn toàn là điều có thể, mọi sự đều tùy thuộc vào lòng kiên nhẫn và các phương pháp chính xác.
Vơi tuyên bố về tính khả tri trên nguyên lý về hiện tượng trong cuộc sống, khoa học tự khoác cho mình một trách nhiệm đầy ngạo mạn là sẽ tự phác họa nên một thế giới luận từ nền tảng đó đi lên.
Tính khả tri trên nguyên lý về hiện tượng trong cuộc sống là quan điểm tham chiếu đến hiện thực vốn được ban cấp cho mọi môn khoa học mà không có ngoại lệ. Trên bất kỳ giả thuyết nào, khoa học như là khoa học không hề biện minh bất cứ điều nào về sự tồn tại của nó. Khoa học, nếu đúng theo nghĩa mà danh từ đó bao hàm, là cái cung cấp kiến thức. Kiến thức chỉ có thể được cung cấp tại những điểm mà sự vật được chứng minh và giải thích rõ ràng, và trở thành khả tri đối với giác quan. Nếu khoa học không muốn phủ bác quyền tồn tại của mình thì nó phải tiến hành trên một giả thuyết độc đoán rằng : không có gì diễn ra trong tấn tuồng thế giới mà giác quan ta lại không thể nhận biết. Và nếu như có một hiện tượng nào đó thuộc loại này thì đối với khoa học, đó chỉ là một hiện tượng đó chưa được chứng minh mà thôi, mà về sau với sự kiên nhẫn và sự cải tiến trong phương pháp thì thế nào khoa học cũng đạt đến điều này. Đó là vị trí mà khoa học chiếm lĩnh đối với tấn tuồng thế giới, là nền tảng mà toàn bộ siêu cấu trúc của nó được dựng lên. Khoa học chỉ khả thi ở những chỗ có những đối tượng có thể được cảm nhận và chứng minh, tại những nơi có những thứ mà cấu trúc của chúng có thể được phân chia, xếp loại. Tắt một lời, mọi bộ môn khoa học đều là nỗ lực muốn biến toàn bộ tấn tuồng thế giới trở thành khả tri đối với giác quan.
Để hỗ trợ cho quan điểm về nguyên lý trong khoa học, tôi xin trích dẫn đoạn văn sau đây từ tác phẩm Schule der Chemie (Trường hóa học) của W.Oswalt :
Trò : Chỉ có các thuộc tính. Tuy nhiên, điều em muốn nói là cái nằm sâu trong gốc rễ của mọi thuộc tính.
Thầy :Vậy thì điều này nên bỏ lại đàng sau, khi em đã loại bỏ tất cả các thuộc tính ra khỏi sự vật. Tốt lắm, hãy loại bỏ mọi thuộc tính ra khỏi cục đường này – màu sắc, hình dáng, độ cứng, trọng lượng, mùi vị vân vân – vậy thì còn lại gì? Chẳng còn gì sất! Chỉ nhờ thông qua các thuộc tính mà chúng ta nhận thức được rằng có một cái gì đó. Em phải thoát khỏi ý tưởng cho rằng khi tách rời các thuộc tính ta lại có thể tìm được một cái gì đó bên dưới các thuộc tính, nghĩa là một thứ cao hơn và thực hữu hơn thuộc tính.
Một khi đã phủ nhận mọi thứ bất khả tri đối với giác quan, thì điều tiếp theo là khoa học có thể không nhận thức được các căn nguyên túc lý đối với “cái đang hiện hữu”, hoặc ngay cả đối với “cái đang diễn ra”, tóm lại là đối với mọi hiện tượng của cuộc sống. Nếu đối với đức tin, tính-tất-yếu-cho-tư-duy, một loại căn nguyên túc lý, trở thành một “căn nguyên túc lý cho chính nó”, nghĩa là một cái tuyệt đối thuần túy, thì đối với khoa học, nó lại trở thành cái tương đối thuần túy. Bất cứ điều gì cũng đều là căn nguyên túc lý, nếu xét một cách thuần túy trong mối tương quan với hiện tượng khác trong cuộc sống, rồi khi xét đến nó thì lại có các hiện tượng khác làm căn nguyên túc lý cho nó. Nói tóm lại thì căn nguyên túc lý vừa là “nhân” vừa là “quả”.
Cùng với việc phủ nhận mọi thứ bất khả tri đối với giác quan, khoa học cũng phủ nhận luôn các năng lực đang hiện hữu. Bởi vì một năng lượng đang hiện hữu có thể không bao giờ được cảm nhận bởi giác quan, mà giác quan lại luôn luôn đòi hỏi vấn đề căn nguyên túc lý.
Trong một vũ trụ như được kiến tạo bởi khoa học, xung động thúc đẩy sự vận động chỉ đơn giản là những sự khác biệt về trạng thái và trương độ, vốn nhiều vô số như các tiến trình đi kèm với chúng. Tấn tuồng thế giới trong toàn thể trở thành một tiến trình bù đắp kỳ diệu, và mọi giá trị chỉ đơn giản là những giá trị trong mối tương quan. Không một vật nào mang giá trị hay ý nghĩa tự thân, mà nó chỉ nhận từ các vật khác.
Quan điểm khoa học thuần túy chỉ có thể là quan điểm duy vật, cùng với nó là thể cách lĩnh hội tấn tuồng thế giới bằng phương diện cơ học.
Lĩnh hội vạn sự bằng quan điểm cơ học thì tấn tuồng thế giới diễn ra như một sự “suy đồi”. Mọi sự suy đồi đều chứng minh sự thiếu vắng của những năng lực hiện hữu bởi sự kiện là ta có thể tiên đoán được xu thế suy đồi.
Mục đích và đối tượng của mọi môn khoa học là tiên đoán. Khả năng thực hiện được điều này nằm trong các định luật khoa học.
Chứng cứ cho rằng đi theo con đường này người ta sẽ tiến đến một học thuyết về thế giới, chứng cứ đó sẽ là một định luật tuyệt đối hợp lý một cách phổ quát.
Một định luật khoa học như thế không hề chiếm hữu. Mọi định luật, không có ngoại lệ, đều được rút ra từ kinh nghiệm, và do đó có thể bị quét sạch bởi những kinh nghiệm mới mẻ hơn. Hiện nay, khoa học hiện đại đang khẳng định một định luật phổ quát, đó là định luật bảo toàn năng lượng.
Chúng ta sẽ quay trở lại với chủ đề này ở phần sau. Ở đây chỉ đề cập phớt qua một vài điểm.
Thứ nhất, định luật bảo toàn năng lượng hoàn toàn không được đạt tới bằng con đường khoa học chân chính, nghĩa là bằng phương pháp quy nạp, mà được phát hiện bằng trực giác. Thứ hai, định luật bảo toàn năng lượng không gì khác hơn là việc : một mặt thì “đọc“ các dữ kiện nhờ vào các thỏa thuận xác định, một mặt thì nó chỉ chính xác trong một số các trường hợp giới hạn nào đó.
Sự thỏa thuận đó như sau :
Cho dù định luật bảo toàn năng lượng là một định luật thực sự được rút ra từ kinh nghiệm và chính xác tuyệt đối đi nữa, thì nó vẫn cần phải được chứng minh bởi sự chuyển hóa một hiện tượng trong cuộc sống vào trong một hiện tượng khác mà không để lại dấu vết gì; chẳng hạn như tiến trình nhiệt năng biến thành cơ năng; và khoa vật lý có quyền rút ra một kết luận về sự tương tự giữa tiến trình này với tiến trình khác. Tấn tuồng thế giới hiểu theo nghĩa là các giá trị tương quan thuần túy, tính khả tri tiềm ẩn của nó có thể được chứng minh bởi sự chuyển hóa duy nhất của nhiệt năng biến thành cơ năng và cơ năng biến thành nhiệt năng nghĩa là một tiến trình duy nhất thuận nghịch hoàn toàn.
Song ý tưởng về các tiến trình thuận nghịch chỉ có khả năng, về mặt lý thuyết và thực tế, trong các hệ thống đóng tuyệt đối. Tuy nhiên, một điều như thế không thể xảy ra trong thế giới thực. Mọi sự vật, không có ngoại lệ, đều tồn tại trong mối tương quan với sự vật khác, và các mối tương quan tương hỗ đó không cho phép toàn thể bị ngưng trệ dù chỉ trong một phút giây. Như thế, tại mọi thời điểm, ta chỉ có thể đạt được những hệ thống xấp xỉ kín và do đó chỉ có thể đạt đến những kết quả xấp xỉ đúng. Trên thực tế, mọi nỗ lực muốn chứng minh tiến trình thuận nghịch hoàn toàn đều tiến hành với sự hao hụt năng lượng tối thiểu, mà để cho chắc chắn, các nhà vật lý cho đó là sự hấp thu năng lượng, còn nhà tư tưởng thì cho đó là sự tiêu hao năng lượng. Cho dù thí nghiệm đó có được tiến hành với độ chính xác bao nhiêu đi nữa, cho dù năng lượng có ít hao hụt đến mức nào đi nữathì vẫn luôn luôn tồn tại một điều : đó là không thể có một tiến trình thuận nghịch hoàn toàn! Người ta chỉ có thể rút ra định luật bào toàn năng lượng từ các sự kiện, nếu như điều này cũng diễn ra tương tự trong tư tưởng. Về phương diện quy nạp, nếu chỉ từ các thí nghiệm không thôi thì ta không thể nào đi đến kết luận về định luật bảo toàn năng lượng, giống như đi đến khái niệm về vòng tròn từ khái niệm hình đa giác. Vòng tròn phải được đưa ra trước tiên như là một khái niệm giới hạn hay khái niệm biên (Grenzbegriff), tương tự như vậy, định luật bảo toàn năng lượng cũng phải được đưa ra trước tiên như là một khái niệm giới hạn (Grenzbegriff), nếu như các thí nghiệm đều dẫn đến điều này. Với trực giác vĩ đại của Robert Mayer thì : đó là một dữ kiện. Và trực giác này được khoa học nắm bắt và triển khai, vì ở đây nó được cấp cho một phương tiện để chứng minh, cùng với những ứng dụng khoa học, tính bất khả của động cơ vĩnh cửu[1]. Tuy nhiên, động cơ vĩnh cửu lại vi phạm định luật về căn nguyên túc lý trong lĩnh vực vật lý.
Đó là một mặt của vấn đề. Mặt khác, định luật bảo toàn năng lượng, theo bản chất nó, chỉ có giá trị trong những lĩnh vực có tiến trình thuận nghịch và không lệ thuộc vào thời gian. Còn đối với tiến trình không thuận nghịch thì điều này hoàn toàn bất khả, cho dù ta có chứng minh bằng mọi cách.
Đến đây đã hoàn toàn đủ để nêu bật bản chất của định luật bảo toàn năng lượng. Trong quan niệm về tấn tuồng thế giới tuân theo định luật này, các nhà vật lý đã hoàn toàn ngoảnh mặt đi trước các năng lượng có thực và đang hoạt động trong tấn tuồng thế giới. Họ hoàn toàn tự giới hạn mình vào những gì hiển lộ đối với giác quan, đó là các sự chuyển động; họ xem chúng chính là năng lượng, và chỉ được quyền làm thế chừng nào mà họ thấy rõ trước mắt mình một sự kiện rằng : duy nhất chỉ có việc đọc các hiện tượng mới là vấn đề, và mới có thể rút ra từ đó những gì có thể rút ra được — nghĩa là công thực hiện. Tuy nhiên, công thực hiện không phải là chính năng lượng mà là sự phản ứng từ năng lượng. Và cái mà các nhà vật lý gọi là “bức tranh thế giới của năng lượng học” thực ra lại không hề có tí năng lượng nào. Toàn bộ bức tranh thế giới của năng lượng học không phải là sự vật hiện thực theo nghĩa chính xác nhất mà là sự vật tái tạo hiện thực (re-actual) — nếu ta có thể tạo ra từ đó — mà không có tên gọi nào có thể dùng được như là thế giới luận. Tuy vậy, nếu điều đó có xảy ra đi nữa thì sẽ kéo theo nhiều hậu quả, mà chúng ta sẽ bàn tới ở phần sau.
Chừng nào mà khoa học còn tồn tại nhờ vào tính hiện thực thì nó không thể nói được gì ngoài cái điều này : mọi nỗ lực lần theo dấu vết của một hiện tượng trong đời sống đến một hiện tượng khác, nghĩa là trình bày tấn tuồng thế giới dưới hình thức của các giá trị tương quan thuần túy, nỗ lực đó trượt dài vào một chuỗi vô tận các hiện tượng; và điều giá trị nhất là mỗi phần tử trong cái chuỗi dài vô tận đó, đến lượt nó có thể là khởi điểm của một chuỗi dài vô tận khác, để khi phân tích đến cùng thì tính khả tri vô tận của các hiện tượng trong đời sống vẫn còn là một sự kiện đặt thành vấn đề thực sự cho khoa học. Và mọi bộ môn khoa học nghiêm túc nào không chỉ muốn ứng dụng vào kỹ thuật sẽ phải tìm ra lời giải đáp ngay từ khởi điểm. Sự vận động vô tận về phía trước, mà mọi khởi điểm đều phải nhường bước, liệu nó có đoạn kết hay không?
Để có thể phán đoán được điều này, chúng ta phải có một chỗ đứng vững chắc để từ đó quan sát xem thử sự phát triển vô tận đó có phải thực sự là sự phát triển hay không. Trong cuộc hành trình giữa lòng đại dương tri thức, chúng ta phải có những mốc bờ để nương theo đó mà lèo lái con tàu. Tuy nhiên, một khả năng như thế lại bị loại trừ và bị loại trừ bởi chính khoa học. Bởi vì, như đã nói, khoa học chỉ có chỗ đứng tại những điểm mà giả thuyết về tính khả tri của hiện tượng và giả thuyết về sự vắng mặt của mọi điều mang tính bất khả tri đối với giác quan đứng vững; nói một cách khác, là tại những điểm mà tấn tuồng thế giới chấp nhận bị phân giải thành các giá trị tương quan mà không để lại một chút gì. Một mốc bờ như thế, tuy nhiên, chỉ có thể là cái mà tự thân nó lại không chấp nhận bị phân giải thành các giá trị tương quan thuần túy, mà là một cái gì thường tồn bất biến, một cái thường tồn vô điều kiện. Tuy vậy, dù cho khoa học có chấp nhần một đối tượng thường tồn như thế đi nữa, thì nó ắt sẽ cắt đất chia đôi hai cõi. Như thế, toàn bộ giá trị của khoa học tập trung vào tính tương đối thuần túy của nó, cũng như giá trị của đức tin tập trung vào tính cố định của một giá trị duy nhất.
Từ những điểm này kéo theo một điều, đó là trong khoa học, ta tuyệt đối không thể tìm thấy một điều gì mà có thể dùng nó để chứng minh rằng có một sự tiến bộ thực sự trong tri thức hay không; nghĩa là liệu tất cả các xâu chuỗi vô tận đó, mà các cuộc thí nghiệm và mọi mảnh tư tưởng đã mở cửa khai thông, có dẫn đến một kết luận cuối cùng hay không. Tại giai đoạn này, mỗi một quan điểm về sự vật cũng đều có sự biện minh như quan điểm khác; một ignorabimus[2] cũng có nhiều và ít giá trị như một chủ nghĩa lạc quan khoa trương nhất. Chúng ta không thể biết được. Có thể nói rằng đây hoàn toàn là vấn đề của sở thích đối với giác quan, mà trong đó người ta chọn cách để giải thích các chuỗi vô tận đó.
Ứng hợp hài hòa hoàn toàn với điều này là giá trị mà khoa học đã có được, trong mối tương quan với đạo lý và tôn giáo.
Kẻ nào muốn đem đạo lý và tôn giáo đến cho nhân loại thì phải ban cấp chúng tại những nơi mà chúng có thể tìm được những cái giá đỡ. Đạo lý và tôn giáo, từ tận cùng sâu thẳm, không gì khác hơn là những cái giá đỡ cho con người trong cõi hoang vu vô tận. Mọi kẻ suy tư đều khát khao một cái giá đỡ như thế. Nếu không có điều này, thì đối với kẻ suy tư chân chính sẽ diễn ngay một trạng thái khó chịu là con người đánh mất hoàn toàn khả năng nhận thức được thế giới chung quanh, giống như một người vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ vùi mà đầu óc còn đang hoang mang mụ mẫm, không biết đường nào mà đi. Trong trạng thái như thế, ta chìm vào cảm giác xao xuyến của tư tưởng, một nỗi xao xuyến buộc ta phải trăn trở khắc khoải cho đến khi ta xác lập lại được cái giá đỡ tinh thần, và thiết lập lại được sự liên tục trong tư tưởng với toàn thể thế giới hiện hữu.
Nếu đức tin tạo được cái giá đỡ này theo thể cách đối nghịch với giác quan, và do đó tùy thuận theo bản chất của nó, đưa ra được một nền đạo lý và tôn giáo đối nghịch với giác quan thì toàn thể khoa học, về phần mình, cũng không gì hơn là một sự cố gắng tạo ra cho chính nó một cái giá đỡ trong các định luật. Tuy nhiên, định luật khoa học chỉ chấp nhận cái giá đỡ trong lĩnh vực nhận thức luận. Do đó, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, khoa học cũng không thể đưa ra được các giá trị đạo lý và tôn giáo. Nếu nó có thể làm được điều đó thì nó không còn là khoa học nữa, nghĩa là không còn là hình thức của đời sống tinh thần phải nắm bắt được toàn bộ tấn tuồng thế giới dưới hình thức các giá trị tương quan. Nơi nào chỉ tồn tại duy nhất các giá trị tương quan thi nơi đó không tồn tại các giá đỡ và do đó không tồn tại đạo lý và tôn giáo. Khoa học là đạo lý và tôn giáo; và người thế tục cũng như bản thân nhà khoa học phải ghi nhớ kỹ điều này trong tâm trí. Những nỗ lực trong thời đại chúng ta trong việc gò ép để các kết quả khoa học phù hợp với những mục đích tôn giáo, như học thuyết nhất nguyên luận hiện đại đang ra sức thực hiện, chỉ đưa đến việc cho thấy một lời cảnh cáo là điều cần thiết ra sao. Từ sự tương tục của cuộc sống, vốn được trình bày trong giác quan duy vật như là một tế bào, con người tìm cách suy diễn ý tưởng rằng bản thân chúng ta trong những thế hệ mai sau sẽ sống nhờ vào điều tương tự như chất phân bón sống nhờ vào cái cây mà nó đã bón phân vào. Nhưng những trò chơi của tư tưởng như thế chỉ khả thi có thể tồn tại ở những nơi diễn ra sự tách biệt hoàn toàn khỏi hiện thực, nghĩa là với khái niệm rỗng tuếch của “cuộc sống”.
Tìm cách rút ra những giá trị đạo lý và tôn giáo từ khoa học là, nó như người Ấn Độ, “vắt sữa bò bằng sừng”.
Giờ đây, cad đạo lý và tôn giáo đều có chung một khởi điểm, đó là cái đang hiện hữu : thế giới. Như vậy sẽ nảy sinh câu hỏi : “Do đâu mà khi quy chiếu vào một cái đang hiện hữu thế này, con người lại có thế đưa ra nhiều vị trí đối nghịch nhau? Làm sao có chuyện người này hiểu căn nguyên túc lý của tấn tuồng thế giới như là điều tuyệt đối thuần túy, trong khi người khác thì lại hiều như là điều tương đối thuần túy?”
Đối với điểm này,chúng ta đối mặt với tư tưởng Phật
giáo và ý nghĩa của nó trong đời sống tinh thần.
[1] Động cơ vĩnh cửu (pepertual mobile) là một thiết bị mà con người hằng mơ ước. Đó là một thiết bị cơ khí tự hoạt động vĩnh viễn mà không cần cung cấp năng lượng. Do đi ngược lại với định luật bảo toàn năng lượng nên động cơ vĩnh cửu chỉ là vấn đề không tưởng.
[2] Tiếng La tinh trong nguyên tác, có nghĩa là “ Chúng ta sẽ không biết”. Thành ngữ ignoramus et ignorabimus có nghĩa là “Chúng ta không biết và sẽ không biết” chi thái độ bi quan về những giới hạn trong kiến thức khoa học vào thế kỷ 19.
Thảo luận