Cùng với Kim Dung và Ngọa Long Sinh, Cổ Long là một trong những tác giả võ hiệp gây được ấn tượng sâu sắc đối với độc giả Việt Nam. Có điểm khác biệt là nếu Kim Dung và Ngọa Long Sinh được mọi giới đón đọc, thì tác phẩm Cổ Long dường như chỉ phổ biến trong giới trẻ. Đặc biệt là ở miền Nam trước 1975.
Chưa cần bàn về nội dung, chúng ta có thể thấy rằng tác phẩm Kim Dung dễ dàng đến với độc giả một phần là nhờ những bản dịch tuyệt vời của cố dịch giả Hàn Giang Nhạn. Cứ thử đối chiếu nguyên tác của Kim Dung với bản dịch, bạn đọc sẽ dễ dàng nhận thấy văn phong trôi chảy và ngôn ngữ đầy sáng tạo của dịch giả tài hoa này, đặc biệt là trong cách xưng hô giữa các nhân vật. Hàn Giang Nhạn đã tạo nên một văn phong riêng biệt trong ngôn ngữ dịch, nghe ra rất mực “giang hồ”! Chính điều đó đã lột tả được cái “thần” của nguyên tác. Dịch báo ngày theo kiểu feuilleton mà đạt đến trình hạn đó, tôi cho là ngòi bút Hàn Giang Nhạn đã gần đạt đến chỗ “lô hỏa thuần thanh”.
Cổ Long có lẽ không có được may mắn đó. Trước 1975, không có một Hàn Giang Nhạn thứ hai để có thể đưa Cổ Long đến với đông đảo bạn đọc miền Nam. Khi đọc lại Cổ Long trong nguyên tác, ta dễ dàng nhận thấy nhiều bản dịch tác phẩm Cổ Long trước 1975, sau này được các bạn trẻ tải lên mạng InterNet, là những bản dịch hết sức tùy tiện. Một câu có khi được “chế” thành cả một đọan đối thoại, có lẽ để nhằm mục đích câu trang. Thậm chí có những đoạn do dịch giả tự thêm vào và xuyên tạc hoàn toàn nội dung văn bản, hầu để gây yếu tố “giật gân”. Không rõ sự khác biệt này có phải là do chính Cổ Long hiệu đính lại trong nguyên tác khi in tác phẩm thành tập, như Kim Dung, hay không. Có lẽ chính lối dịch tùy tiện đó đã khiến Cổ Long mất đi rất nhiều độc giả ở miền Nam. Từ nhỏ, lần đầu tiên đọc Cổ Long, tôi bị “dị ứng” ngay với tác phẩm, có lẽ do lúc đó tôi chưa cảm nỗi ngôn ngữ dịch hoặc chưa cảm nỗi văn phong Cổ Long, nên đành bỏ dở không đọc.
Nếu người đọc mê Kim Dung như là bậc thầy hướng dẫn nhập môn vào nền văn hóa Trung Quốc, bởi kiến văn bác đại tinh thâm của ông, thì đối với Cổ Long thì điều này hoàn toàn không có. Bởi một lý do rất đơn giản là dường như những sở đắc của Cổ Long về văn hóa phương Đông không đủ sâu sắc để có thể thâm nhập vào lãnh điạ này.
Trước đây, khi đọc lời phê bình của nhà văn Trung Quốc Vương Sóc đề cao Cổ Long và phê phán gần như mang tính nhục mạ đối với Kim Dung, tôi hết sức ngạc nhiên. Sau này được đọc một tác phẩm khác của Vương Sóc, tôi chợt hiểu. Vương Sóc là một nhà văn Trung Quốc hiện đại khá nổi tiếng lại tự nhận không biết đến Lão Tử là ai! Với một nền tảng về văn hóa Trung Quốc như thế, thì tác giả làm gì cảm nhận được nội hàm văn hóa trong tác phẩm Kim Dung, cho nên việc phê phán kiểu đó cũng là điều dễ hiểu, nếu không nói là tất yếu!
Trong tác phẩm Cổ Long, ta thường gặp cách tả các trận giao đấu rất thô gọn, kiểu như “chỉ trong nháy mắt, y đã tung ra bảy quyền, tám cước. Và đối phương đánh trả lại mười chưởng”…(!). Sự ngọan mục trong giao đấu, và nội hàm văn hóa trong võ học, cái nội hàm mà qua đó người đọc có thể tiếp cận với tinh thần phương Đông, như trong tác phẩm của Kim Dung, không còn nữa. Trong hầu hết các trận giao đấu, diễn biến đều bị lướt qua hoặc được mô tả rất sơ sài, mà chỉ còn lại kết quả.
Cảnh tượng một con chim én bay lạc bị đánh bật ra khỏi vùng sát khí vô hình bàng bạc giữa hai cao thủ đang tương trì giữa hai thế “tĩnh“ và “động”, trong trận đấu giữa Hoa Vô Khuyết và Tiểu Ngư Nhi trong Tuyệt Đại Song Kiêu, là một trong những đoạn văn đẹp và hiếm hoi, và do đó khá lạc lõng, trong tác phẩm Cổ Long. Dù nó làm cho độc giả thấp thoáng thấy lại cảnh chiến đấu, bằng nội lực cao thâm, giữa tiếng tiêu réo rắt của Hoàng Dược Sư và tiếng đàn tranh gay gắt của Âu Dương Phong, trong một đêm trăng thanh trên mặt biển, trong tác phẩm Xạ điêu anh hùng truyện của Kim Dung!
Tác phẩm võ hiệp của Cổ Long, yếu tố “võ” khá mờ nhạt, chỉ còn lại “hiệp”. Bố cục câu chuyện cũng không được coi trọng. Lắm khi đó chỉ là tác phẩm của những sự kiện rời rạc được chắp nối ngẫu hứng, và được gán “mác” võ hiệp, như Tiêu Thập Nhị Lang và Hỏa Tính Tiêu Thập Nhị Lang. Có thể đây là một điểm cách tân của Cổ Long, khi nhìn từ góc độ tiểu thuyết võ hiệp truyền thống?
Nếu trong tác phẩm Kim Dung, nguồn gốc và bản thân của võ học, thậm chí cả tên gọi, là một trong những điểm hấp dẫn độc giả, dầu đó hầu hết đều là võ bịa, thì trong tác phẩm Cổ Long, điều này hầu như vắng bóng. Do đó, trong tác phẩm Cổ Long cũng vắng bóng, hoặc chỉ được mô tả sơ sài, quá trình luyện tập võ công. Hầu hết các nhân vật chính, khi xuất hiện, đều đã mang một thân võ học. Cho nên trong tác phẩm Cổ Long, hiếm khi ta gặp những bậc kỳ nhân dị sĩ ẩn cư nơi hang cùng núi thẳm để truyền tuyệt học lại cho nhân vật hữu duyên. Các đại môn phái có thực trong lịch sử võ học truyền thống Trung Quốc như Thiếu Lâm và Võ Đang, vốn được coi là Thái Sơn − Bắc Đẩu trong tác phẩm Kim Dung, cũng không được Cổ Long đánh giá cao.
Có thể đó là quan điểm của Cổ Long về võ học, hoặc có thể Cổ Long cố tình né tránh điểm này, để khỏi phải nấp dưới cái bóng quá lớn của người đàn anh Kim Dung.
Nhà soạn nhạc nhà Pháp là Berlioz, khi so sánh âm nhạc của Schubert với Beethoven, đã nói: “Con bướm xinh đẹp đã bay trùng với đường bay của con chim ưng, nhưng nó đã khôn khéo né tránh, để khỏi bị đôi cánh khổng lồ kia làm cho dập nát”. Ta có thể lấy lời phê bình này để so sánh cánh bướm màu sặc sỡ Cổ Long và con chim ưng Kim Dung, trong phạm vi bàn về võ học. Chúng ta có cảm tưởng nếu Cổ Long bàn về võ học theo kiểu Kim Dung thì chắc chắn ông sẽ thất bại, như văn hào Lev Tolstoi đã từng thất bại khi bàn về lịch sử, trong phần cuối của kiệt tác “Chiến tranh và Hòa bình”!
Có một bản dịch tiếng Việt khác khá hấp dẫn được gán cho Cổ Long, mà tôi đọc cách đây khá lâu, với tựa đề “Ân Thù Kiếm Lục”, không rõ dịch giả là ai. Trong tác phẩm này, cảnh giao đấu giữa các cao thủ trong cảnh giới võ học thượng thừa được mô tả với bút lực khá thâm hậu. Nhân vật bạch y khách bí ẩn đến từ Đông Doanh như là hiện thân của kiếm đạo. Y tìm đến các cao thủ tuyệt đỉnh ở Trung Nguyên để giao đấu, không phải vì thói sính cường háo thắng, mà chỉ nhằm ấn chứng võ công và đi tìm sự tận diệu của võ học. Trong tác phẩm này lại bàng bạc không khí Thiền Tông ở giai đoạn “Nhập triền thùy thủ” (Thỏng tay vào chợ), khi nhân vật bạch y khách lui về Đông Doanh, sống một đời bình thường với thế nhân để nghiên cứu kiếm đạo. Đây thường được xem là cảnh giới tối cao trong võ học, theo truyền thống phương Đông, chứng tỏ tác giả có những sở đắc nhất định về Phật học.
Song rất tiếc, chúng ta không thể tìm thấy tên tác phẩm này trong danh mục tác phẩm của Cổ Long, và cũng không biết được có phải đây là dịch phẩm từ một nguyên tác nào đó của Cổ Long hay không, nên khó lòng khẳng định. Bạn đọc có thể tham khảo danh mục nguyên tác các tác phẩm Cổ Long từ trang Web www.millionbook.net/wx/g/gulong/index.html để đối chiếu. Nếu Ân Thù Kiếm Lục đúng là tác phẩm của Cổ Long thì đây quả là bước chuyển lạ lùng trong tư tưởng của tác giả này, một điều chúng ta khó lòng tưởng tượng, sau khi đã đọc một vài tác phẩm chính của ông, trong đó quan điểm về võ học được trình bày quá đổi hời hợt.
Nhưng về việc mô tả nhan sắc và tâm lý phụ nữ thì Cổ Long có nhiều đoạn văn thật đầy ấn tượng. Có những trang sách như ngời sáng lên bởi nhan sắc của những người đẹp mà ông mô tả. Dường như ông bị ám ảnh và mang một nỗi mặc cảm nào đó đối với những người phụ nữ xinh đẹp có thật ngoài đời, trong chính cuộc sống của ông. Bởi vậy, nỗi căm hận lẫn cảm giác ngưỡng mộ và thậm chí khinh thường cứ hòa quyện nhau trong những câu văn xuất thần đó.
Điều dí dỏm nhất trong những tác phẩm của Cổ Long, là có những cô gái võ công tuyệt cao, từng là nỗi kinh hoàng cho không biết bao nhiêu lũ ma đầu giết người chẳng gớm tay, như Tiểu Tiên Nữ trong Tuyệt Đại Song Kiêu, thế mà nhiều khi xuất thủ lại được mô tả như một cô gái đang chơi nhảy dây! Dường như Cổ Long ít quan tâm đến võ công của những nhân vật nữ được ông gán cho bản lĩnh siêu phàm, mà chỉ quan tâm đến trạng thái tâm lý và “thói con gái” của họ. Về điểm này, Cổ Long có những nhận định rất sâu sắc, có thể gây thích thú cho nhiều bạn trẻ.
Các nhân vật chính của Cổ Long khá giống nhau ở điểm: cờ bạc, rượu và đàn bà, cùng những tâm sự trĩu nặng! Đó dường như là bản sao của chính tác giả, để ký thác tâm sự dưới vài góc độ. Vì bản thân Cổ Long cũng là một đại tửu đồ, và ông đã chết vì rượu cùng với những nỗi buồn ở tuổi 48. Chính điều này khiến Cổ Long dễ dàng lặp lại chính mình, chỉ sau một vài tác phẩm.
Tên gọi nhân vật và tiêu đề tác phẩm lắm khi cũng là một đặc điểm của Cổ Long: hoa hòe và cường điệu, nên dễ đi vào chỗ sáo rỗng. Một tác phẩm giá trị thực sự không cần đến những ngôn ngữ phù hoa. Bởi vậy, Truyện Kiều muôn đời vẫn làm lay động hồn người hơn là Chinh Phụ Ngâm Khúc và Cung Óan Ngâm Khúc, dù ngôn ngữ trong hai tác phẩm sau nhiều khi lại bóng bẫy và hoa mỹ hơn.
Ta gặp trong tác phẩm Cổ Long nào là Hoa Vô Khuyết nào là Vô Tình Kiếm Khách Đa Tình Kiếm … Đó là những điểm ta hiếm khi gặp ở Kim Dung. Trong Thiên Long Bát Bộ, đối với một nhân vật dung nhan tuyệt tục là Vương Ngữ Yên, thì Đoàn Dự chỉ thầm tiếc sao cái tên của nàng lại hay quá, cao sang quá. Giá như nó tầm thường một chút thì nàng đã là con người toàn bích!
Trên đây là một vài cảm nhận nhỏ ban đầu của tôi, khi gần đây đọc lại Cổ Long, với mong muốn tìm được ở tác giả này một điểm gì đó, để cùng bạn đọc tiếp tục “Lai rai chén rượu giang hồ”.
Thảo luận