Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

Cảm nhận về phần hồn tiếng Việt

Con ngựa : móng có thể dày sương, tuyết; lông : có thể chống gió, rét; gặm cỏ, uống nước, ghếch cẳng mà ở cạn; đó là chân tính của ngựa. Dù có đền cao cung đẹp, nó có cần dùng chi? Kịp khi Bá Nhạc nói : “Tôi giỏi trị ngựa lắm”. Rồi đốt lông nó; cắt bờm nó; gạt móng nó; ràng đầu nó; buộc nó vào yên, cương; giam nó vào tàu, chuồng; thế là ngựa mười phần chết đến hai ba rồi. Bắt nó đói, bắt nó khát; bắt nó quần; bắt nó chạy; bắt nó chỉnh tề; đằng trước có cái nạn giàm, thiếc; mà đàng sau có cái oai roi, vọt. Thế là ngựa chết đã quá nửa rồi.[1]

Đây là một đoạn trong phần ngoại thiên của Nam hoa kinh, mà Trang Tử dùng để công kích những triết gia phái hữu vi muốn áp đặt một cách khiên cưỡng các quy luật trái tự nhiên trong việc “trị thiên hạ”. Tôi nghĩ thân phận tiếng Việt trong nhà trường hiện nay không khác gì con ngựa của Trang Tử. Bộ môn ngữ pháp tiếng Việt đã gây tranh cãi quá nhiều trên báo chí. Tiếng nói của bao nhiêu học giả có tâm huyết đều như muối bỏ biển. Và phần hồn tiếng Việt ngày càng tan biến, do mạch ngầm nội tại của nó đã bị khô cạn dần trong sa mạc của những quy luật và khái niệm ngữ học xa lạ, lạnh lùng. Các “Bá Nhạc chuyên ngành ngôn ngữ học” đã vô tình biến “con ngựa tiếng Việt” thành con vật què quặt trong các cuốn sách giáo khoa.

Phạm Quỳnh, dù nói gì đi nữa, vẫn là người đủ thông tuệ và nhạy cảm để khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Vì sao những vần thơ trong truyện Kiều hơn mấy trăm năm, hay ca dao hơn mấy ngàn năm, vẫn còn làm chúng ta say mê đến vậy? Nếu chỉ là văn chương thì dù chúng có du dương đến mấy, ngẫm cho cùng vẫn là phương tiện, và do đó vẫn mang ít nhiều tính chất phù phiếm, thì làm sao có được sức quyến rũ mãnh liệt và đằm thắm nhường kia? Chúng hấp dẫn ta vì trong đó ta bắt gặp tiếng nói, và qua đó, tâm hồn của bao thế hệ cha ông. Đó là thứ tiếng mà ta đã được nghe khi mới chào đời bằng lời ru của mẹ và là thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã vui buồn, khóc cười cùng với non nước. “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, mẹ hiền ru những câu xa vời; tiếng nước tôi bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo vận nước nổi trôi” (Phạm Duy). Đó là những gì ta dễ dàng bắt gặp đằng sau nội dung chuyển tải của Truyện Kiều và của ca dao.

Vì sao cha ông chúng ta hoàn toàn không biết đến “ngữ pháp tiếng Việt hiện đại” mà vẫn sử dụng tiếng Việt một cách trong sáng nhuần nhuyễn, đáng để chúng ta học tập? Lý do rất dễ hiểu là họ không hề nghiên cứu các quy luật ngữ học để viết văn, mà họ thực sự “sống” với tiếng Việt, dù họ được đạo tào một cách chính quy bài bản bằng tiếng Hán hoặc tiếng Pháp, là những ngôn ngữ khác hẳn tiếng mẹ đẻ. Khi đã sống trọn vẹn với tiếng mẹ đẻ bằng cả tâm hồn, để nó để thực sự trở thành máu thịt, thành tình cảm buồn vui của chính mình thì việc dùng văn tự để diễn tả chỉ còn là vấn đề của tài hoa và kỹ xảo. Chính phần hồn của tiếng Việt, chứ không phải là những khái niệm ngữ học rối rắm và cứng nhắc như hiện nay, mới thực sự là tố chất nuôi dưỡng và nối kết linh hồn bao nhiêu thế hệ của dân tộc hòa trong một nhịp đập chung.

Một khi đã đánh mất phần hồn, thì những nỗ lực “làm trong sáng tiếng Việt” chỉ có thể tạo ra loại tiếng Việt ấm ớ dầy dẫy trên các phương tiện đại chúng và trong các bản dịch văn học được xem là nghiêm túc. Thời bao cấp, chúng ta đã từng nghe các cụm từ “quầy rau tươi phụ nữ”, hoặc “tem phiếu bán thịt giáo viên” … thì giờ đây những câu hoặc những cụm từ đại loại như “rất xin lỗi”, “đường bóng chuyền là rất không chính xác”,”căn nhà là rất đẹp”, “nàng nhìn bầu trời một cách lặng lẽ”, “cứng hóa đường nông thôn” … vẫn cứ hồn nhiên tồn tại. Chúng không sai nhưng nghe ngô nghê và ngớ ngẩn như trẻ con tập nói, hoặc như người nước ngoài đang học tiếng Việt. Điều đó tố cáo một sự kiện rất đỗi đau lòng : do thói quen dùng những ngôn ngữ một cách tùy tiện và rập khuôn nhưng rỗng tuếch nội dung, chúng ta đang có nguy cơ bị đẩy xa dần khỏi phần hồn tiếng Việt mà hoàn toàn không hay biết.

Môn tiếng Việt trong nhà trường lẽ ra là phương tiện giúp các em tìm về với suối nguồn tiếng Việt thì tiếc thay, lại trở thành vật chướng ngại không cho các em tiếp xúc được với mạch ngầm nội tại của nó nữa. Chương trình ngữ pháp trong sách giáo khoa cứ vô tình bắt các em phải loay hoay mãi với các khái niệm, các quy luật, (lẽ ra chỉ dành cho các nhà nghiên cứu), mà lơ là với các áng thơ văn thực sự có giá trị. Vẻ đẹp của văn chương đã không tác động được đến tâm hồn các em, không gây được những cảm xúc sâu sắc trong tâm hồn các em thì làm sao các em có thể yêu tiếng mẹ đẻ? Chúng ta dạy các em học tiếng mẹ đẻ mà cứ như dạy người nước ngoài học tiếng Việt ! Chính sự rối rắm không đáng có của ngữ pháp đang làm tiếng Việt trở nên nghèo nàn và xơ cứng. Phần hồn tiếng Việt đã bị chết dần bởi những quy luật mang tính áp đặt trong các bộ sách giáo khoa.

Khi lắp các phụ kiện vào một cỗ máy, nếu ta dùng phụ kiện và dụng cụ đúng chủng loại và quy cách thì việc lắp ráp sẽ dễ dàng. Nếu khác đi thì chỉ tổ làm hỏng phụ kiện lẫn cỗ máy. Bao năm qua, nhằm để “chuẩn hóa” tiếng Việt cho “ngang tầm thời đại”, các nhà nghiên cứu và các người biên soạn sách giáo khoa đã mang bao loại “phụ tùng” (hàng ngoại hẳn hoi!) hì hục lắp vào cỗ máy tiếng Việt, và hậu quả là chúng ta đã vô tình biến cỗ máy tinh tế đó thành một khối sắt ù lì vô cảm trong các cuốn sách giáo khoa. Để được ích lợi gì khi ta buộc các em học sinh phải học thuộc một đống các khái niệm vô bổ trong môn ngữ pháp tiếng Việt, một việc chỉ dành cho các nhà nghiên cứu? Để làm gì với các khái niệm ngữ học rối rắm và xa lạ với tiếng Việt (cho thầy lẫn trò), khi mà các em chỉ biết học vẹt để đối phó nên chưa thực sự được “sống” với tiếng Việt, và do đó, không thể có được vốn từ cần thiết? Tiếng Việt đã bị môn ngữ pháp nhà trường phổ thông tước đi phần hồn và chỉ còn lại cái xác rỗng tuênh. Thử đọc những bài văn trong các kỳ thi học kỳ ở nhà trường phổ thông, không ai có thể nén được tiếng thở dài, sau những tiếng cười đau xót. Các em viết tiếng mẹ đẻ mà cứ như người nước ngoài đang tập viết tiếng Việt ở mức độ non kém nhất, đến mức chúng ta đọc cũng không hiểu các em muốn viết gì và không hiểu các em có phải là người Việt hay không! Có lẽ cả người dạy cũng bị sa vào cái mê hồn trận ngữ pháp tiếng Việt đó nên không còn dùng từ chuẩn xác nữa. Do đó mới có chuyện bi hài là trong đề thi môn tiếng Việt ở một tỉnh miền Tây, học sinh phải tìm từ phản nghĩa vời từ “bà ngoại”. Và hội đồng ra đề đã liều lĩnh, sau những lần chống chế, đưa ra từ … “ông nội”!!!

Những người soạn thảo chương trình ngữ pháp tiếng Việt dường như đã bê nguyên cái khuôn ngữ pháp dành cho các nhà nghiên cứu, mà họ tiếp thu từ nước ngoài, để áp đặt vào tiếng Việt một cách máy móc. Các khái niệm và quy luật về ngữ pháp tiếng Việt chỉ có thể được rút ra từ sự vận động nội tại của chính nó, chứ không phải đóng khung nó theo những khuôn ngữ pháp xa lạ. Mà đúng ra việc nghiên cứu ngữ pháp là việc của các nhà chuyên môn. Họ phải biết biến những kiến thức về ngôn ngữ học thành những món ăn tinh thần lý thú và bổ ích cho các em, thay vì bắt các em phải học vẹt lại các khái niệm và quy luật về ngôn ngữ -mà bản thân những khái niệm và quy luật đó lại quá lạ lẫm với tiếng Việt. Là nhà sư phạm, họ có được trứng, đường, bột thì phải biết cách cung cấp cho các em những chiếc bánh thơm tho để các em tưởng thức, chứ đâu phải bắt các em học lại công thức hóa học của bột và đường! Đó mới là phương pháp sư phạm chân chính: giúp các em đam mê một môn học một cách tự nhiên mà không biết là vì đâu. Như một người đi trong đêm, sương rơi thấm áo mà không hề hay biết. Nhưng do bị ép vào một cái khung ngữ pháp xa lạ và vô lý, chương trình dạy tiếng Việt ở nhà trường phổ thông lâu nay buộc phải mang tính áp đặt và nhồi nhét, thay vì khêu gợi cho các em thấy được vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ. Các em toàn học vẹt để đối phó, do đó khi cái áp lực đó không còn nữa thì mọi thứ đều bị bung ra cả, hầu như không còn lại chút gì. Đánh mất những kiến thức về ngữ pháp được tiếp thu từ nhà trường cũng không hề gì, thậm chí còn tốt cho các em, nhưng điều đáng nói là các em dễ đánh mất luôn những cảm tình sâu đậm với tiếng mẹ đẻ, mà lẽ ra phải lắng đọng lại mãi trong tâm hồn, thông qua môn văn.

Với đặc thù của tiếng Việt, thay vì dạy ngữ pháp ta nên dạy các em những áng thơ văn có giá trị. Khi được tiếp xúc trực tiếp với vẻ đẹp chân thực của văn chương, mà không hề bị vướng bởi cái rào chắn vô lý của ngữ pháp, tự nhiên các em sẽ yêu thêm tiếng Việt, và qua đó lòng yêu nước chân chính -thay vì lòng yêu nước kiểu “lên gân”- sẽ được củng cố, mà tác dụng chắc chắn sẽ vượt xa những bài giáo khoa lê thê và thiếu trọng tâm về lịch sử. Một người có thể yêu nước một cách tự nhiên và chân chính được không, khi trong tận sâu thẳm của tâm hồn, họ chưa bắt gặp linh hồn và tiếng nói của cha ông?

Mỗi ngôn ngữ đều có một linh hồn, mà những ai yêu nó và sống thực với nó đều dễ dàng cảm nhận, nhất là đối với một ngôn ngữ tinh tế như tiếng Việt. Chỉ có những ai không cảm nhận được, và không cảm nhận nỗi sự tinh tế đó mới có thể thản nhiên mổ xẻ nó bằng những lưỡi dao ngữ pháp được mài giũa ở nước ngoài. Chúng ta đã bóp chết phần hồn tiếng Việt trong gọng kiềm ngữ pháp mà không hề đau xót, con em chúng ta sẽ nghĩ gì về tiếng Việt hôm nay? Bàn về việc dùng sai và hiểu sai những thuật ngữ triết học Hy Lạp cổ đại trong lịch sử triết học phương Tây, triết gia Heidegger bảo : “Chỉ trong từ, trong ngôn ngữ mà sự vật trở thành và hiện hữu. Cũng vì lẽ đó mà sự lạm dụng ngôn ngữ trong cuộc ba hoa thuyết thoại thuần tuý và trong các khẩu hiệu về ngữ cú đã khiến ta đánh mất đi mối tương quan chân thực với sự vật[2]. Chúng ta bên cạnh việc dùng sai, còn áp đặt cái khuôn ngữ pháp xa lạ vào tiếng Việt, thì e rằng trong tương lai, không những chúng ta đang dần “đánh mất đi mối tương quan chân thực với sự vật” mà còn đánh mất phần hồn tiếng Việt, là sợi dây nối kết tâm hồn chúng ta qua biết bao thế hệ.


[1] Trang Tử, Nam Hoa kinh, Nhượng Tống dịch, NXB Tân Việt, 1962, tr.169

[2] C’est seulement dans la mot, dans la langue, que les choses deviennent et sont. C’est pourquoi aussi le mauvais usage de la langue dans la simple bavardage, dans les slogans de la phrasésologie, nous fait perdre la relation authentique aux choses (Heidegger, Introduction à la Métaphysique, Epiméthé, traduit par G.Kahn, 1958, p.22)

Thảo luận