Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

Chén Trà Xuân Sớm

Khái niệm rộng hay hẹp của không gian có lẽ không phải nằm ở trong các con số đo lường về nó mà nằm ở chỗ : trong không gian đó, ta có được bao nhiêu giây phút để một mình yên lặng tĩnh tâm. Có những nơi rất hẹp mà khi bước vào ta lại thấy rộng mênh mông, như am tranh của những vị ẩn tu; có những nơi rất rộng mà lại hẹp vô cùng, như cảnh náo nhiệt của chốn đô thành. Không gian rộng lớn là nhờ sự tĩnh lặng. Thiên Nhiên dù không im lặng, nhưng điều kỳ‎ diệu là tiếng nói của thiên nhiên, dù cuồng nộ, vẫn khác hẳn với tiếng huyên náo của cuộc đời. Trong tiếng thét gầm của thác nước, trong tiếng gào hú của gió ngàn, hay trong tiếng rì rào của cây lá, ta vẫn dễ dàng cảm nhận được sự bàng bạc của một cõi Tĩnh Lặng Vô Ngôn. Điều đó khiến không gian thêm bao la man mác.

Do đó, Sài Gòn ngỡ là rộng nhưng hóa ra lại hẹp, bởi trong cái không gian rộng lớn đó ta khó lòng tìm được một chỗ nào để tĩnh tâm. Phố xá quá ồn ào náo nhiệt, và công viên quá phức tạp đã đành, mà ngay những chốn ta ngỡ rằng chỉ có sự yên tĩnh là chốn tự viện cũng vẫn có một chút gì đó xô bồ, tạp nhạp. Cái xô bồ của phố thị đã tràn lan vào mọi ngóc ngách của thành phố, lan đến tận những đồng lúa ven đô. Thêm vào đó cái không khí nóng bức quanh năm của thành phố miền Nam thật khó mà khiến người ta có thể tĩnh tâm suy tưởng. Cái ồn ào xô bồ của phố thị khiến không gian như hẹp lại. Đôi khi tìm được một góc phố yên tĩnh để nhâm nhi một tách cà-fê, hoặc lai rai một vài chai bia cùng bè bạn là điều họa hoằn mới có. Đâu đâu cũng thấy thấy toàn là “âm thanh và cuồng nộ”, toàn là “The sound and the fury”! Dễ hiểu vì sao nhà văn W.Faulkner viết nên tác phẩm bất hủ đó giữa lòng nền văn minh xứ Mỹ.

 Ấy vậy mà đôi khi lại có những chốn vô cùng yên tĩnh nằm sát ngay bên những đường phố cực kỳ huyên náo. Đó quả là cái lạ. Cuộc sống vẫn luôn đem đến cho ta những khám phá nho nhỏ và bất ngờ. Có lẽ đó là quà tặng mà Thượng Đế ban cho chúng ta để giúp cõi đời bớt đi phần nào sự đơn điệu và tẻ nhạt trong cuộc sống thường ngày.

Một buổi cuối tuần, khi đang đi chơi ở Long An, tôi nhận được một cuộc gọi từ con số lạ. Một nữ độc giả, tìm được số điện thoại của tôi qua một nhà xuất bản, ngõ lời mời tôi đến trà thất của cô ở Phú Nhuận để uống trà, và nghe giáo sư Trần Văn Khê nói chuyện. Thú thực, tôi vốn không rành về trà và không thích cách uống trà theo những nghi thức nặng nề, dù trước đây, khi đọc những chương Trà Kinh của Lục Vũ, người được mệnh danh là Trà Thánh của Trung quốc vào đời Đường, tôi thấy rất hứng thú về phong vị thưởng thức trà của người xưa, nên đã dịch lại. Song có lẽ uống trà theo cung cách bài bản, với những nghi thức được nâng lên tầm một cái “Đạo” đó, có lẽ còn xa lạ với phần lớn mọi người, khi mà trong đời sống xô bồ thường ngày, người ta – cũng như tôi – chỉ quen với cái “gu phàm tục” từ những ly trà đá cùng những chai bia lạnh.

Hóa ra nữ chủ nhân chịu khó tìm tôi chỉ vì đã đọc cuốn U Mộng Ảnh của Trương Trào qua bản dịch của tôi, mà trong đó có nhiều câu bàn về trà rất thú vị. Tôi toan từ chối, nhưng lời mời đặc biệt của cô nữ độc giả đã gây cho tôi ấn tượng và gợi sự tò mò: “Rất mong anh đến, nhưng vì số ghế ngồi đã có sự sắp xếp, nên cảm phiền anh chỉ được đi một mình”! Trân trọng mời khách mà lại chỉ định trước cái sự đi thì cũng là chuyện lạ. Và hôm sau tôi đến một mình.

Trà thất – tạm gọi thế – nằm ngay đầu hẻm của một con phố lớn. Đó là một căn phòng nho nhỏ bày biện khá thanh nhã với những bộ trà cụ đủ loại và một cây đàn kiềm. Cái rèm tre nơi cửa, như tấm chắn, gạt bỏ bớt những cái ồn ào ngoài đường phố. Khách mời còn có cả một vài tu sĩ. Tôi được bố trí ngồi bên cạnh vài người quen, do chút duyên nợ văn chương, trên các chiếc ghế tre kê sát tường. Phần lớn bạn bè của chủ nhân, tăng cũng như tục, đều ngồi dưới đất theo cung cách uống trà. Đúng là chủ nhân đã sắp từng chỗ ngồi cụ thể cho từng người. Giả sử tôi có dẫn theo một người nữa thì cũng không biết sắp xếp vào đâu.

Bộ trà cụ không có gì cầu kỳ, thậm chí còn thiếu nhiều so với những gì tôi biết qua cuốn Trà Kinh của Lục Vũ, vì người xưa dùng đến 25 loại trà cụ, đủ thấy mức tinh tế khi thưởng ngoạn trà. Nhưng đối với người đầu tiên uống trà theo nghi thức thì cũng không khỏi có nhiều bỡ ngỡ, khi chủ nhân cho người bày biện trà cụ và mời mọi người tự pha trà. Tôi không rành về trà nên không quan tâm lắm với những thủ tục và cách pha chế, dù nữ chủ nhân pha trà rất khéo tay. Trải qua bao năm tháng, bộ trà cụ có lẽ không thay đổi gì nhiều, nhưng tôi cảm thấy có lẽ phong vị trà đã có nhiều đổi khác, khi mà các cục cồn khô màu trắng được dùng để đun nóng các bình nước, thay những cục than tàu gợi cảm ngày xưa.

Đầu tiên chúng tôi uống trà mạn ướp sen. Hương trà mạn chỉ thoang thoảng. Tôi chưa cảm nhận được nhiều từ hương vị trà, nhưng lại âm thầm hưởng thụ cái không khí yên tĩnh mà tôi thèm có được giữa Sài Gòn. Thêm vào đó, kiến thức uyên bác và lối nói chuyện diễn cảm của giáo sư Trần Văn Khê trong buổi trà đàm dường như cũng khiến cho chén trà đượm thêm phần hương vị. Kế đó, chủ nhân mời khách uống trà tường vi. Lần đầu tiên tôi được uống những búp tường vi nho nhỏ được dùng làm trà. Và cuối cùng là trà hoa cúc. Uống trà hoa cúc để nhớ mùa thu. Nữ chủ nhân kể ra cũng là người lãng mạn khi cố tìm chút hương vị mùa thu trong Đường thi, giữa cái thành phố xô bồ quanh năm chỉ có hai mùa mưa nắng.

Uống trà, từ ngàn xưa, vẫn là một trong những thú thưởng ngoạn cao nhã của con người. Chắc ít ai trong chúng lại có thể quên được những chén trà đầy thi vị trong Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân. Trà đã đi vào thơ ca hằng bao thế kỷ, khắp cả Đông Tây, thậm chí gắn liền với cả tôn giáo. Tương truyền sơ tổ Đạt Ma, khi ngồi thiền trên núi Tung Sơn, có một lần cảm thấy buồn ngủ, bèn cắt mi mắt vất xuống đất. Nơi đó đã này sinh ra cây trà! Từ đó, đối với người xưa, uống trà không chỉ là để thưởng ngọan mà còn là nghệ thuật tĩnh tâm. Người Nhật đi xa hơn, khi đã đem hương vị Thiền tông hòa vào chén trà để phát triển nghệ thuật uống trà thành “Trà đạo”. Đối với người Việt Nam chúng ta, cái gọi là “Trà đạo” đó có lẽ vẫn còn khá xa lạ, nhưng uống trà trong những lúc tĩnh tâm quả là một trong những cái thú trên đời.

Mấy hôm sau, tôi tặng nữ chủ nhân các trang bản thảo mà tôi dịch từ cuốn Trà Kinh của Lục Vũ, như món quà buổi sơ giao. Tôi hiểu ra rằng ta chỉ thưởng thức trọn vẹn được hương trà khi cái tâm đã tĩnh. Tâm tôi có lẽ còn quá “động” nên chưa thưởng thức được cái thanh nhã của hương trà. Nhưng những chén trà trong đêm hôm đó, có thể xem là những chén trà xuân sớm. Và trong một góc phố Sài Gòn, với tôi, mùa xuân đã lặng lẽ đến sớm trong hương thơm của những chén trà xanh.

6.2004

Thảo luận