Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

U Mộng Ảnh : Tập thượng

1.Kinh sách nên đọc vào mùa đông, vì tinh thần chuyên nhất; sử nên đọc vào mùa hè, vì ngày dài; chư tử nên đọc vào mùa thu, vì tư tưởng khác biệt; sách các nhà khác nên đọc vào mùa xuân, vì khí trời thoải mái.

讀 經 宜 冬, 其 神 專 也 ; 讀 史 宜 夏, 其 時 久 也 ; 讀 諸 子 宜 秋, 其 致 別 也 ; 讀 諸 集 宜 春 其 機 暢 也。

Độc kinh nghi đông, kỳ thần chuyên dã; độc sử nghi hạ, kỳ thời cửu dã; độc chư tử nghi thu, kỳ trí biệt dã; độc chư tập nghi xuân, kỳ cơ sướng dã.

2.Kinh truyện[1] nên đọc một mình, mà sử giám[2] nên đọc cùng bạn.

經 傳 宜 獨 坐 讀,史 鑑 宜 與 友 共 讀。

Kinh truyện nghi độc tọa độc; sử giám nghi dữ hữu cộng độc.

3.Không thiện không ác là bậc thánh, nhiều thiện ít ác là bậc hiền, ít thiện nhiều ác là hạng người tầm thường, có ác không thiện là hạng tiểu nhân, có thiện không ác là hàng Tiên, Phật.

無 善 無 惡 是 聖 人, 善 多 惡 少 是 賢 者, 善 少 惡 多 是 庸 人, 有 惡 無 善 是 小 人, 有 善 無 惡 是 仙 佛。

Vô thiện vô ác thị thánh nhân; thiện đa ác thiểu thị hiền giả; thiện thiểu ác đa thị dung nhân; hữu ác vô thiện thị tiểu nhân; hữu thiện vô ác thị Tiên Phật.

4.Trong thiên hạ có được một người tri kỷ, thì có thể không còn ân hận gì nữa. Đâu phải chỉ có con người mới thế, mà cả vật cũng vậy. Như cúc lấy Uyên Minh[3] làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh[4] làm tri kỷ, trúc lấy Tử Do[5] làm tri kỷ, sen lấy Liêm Khê[6] làm tri kỷ, đào lấy những người trốn vua Tần làm tri kỷ[7], hạnh lấy Đổng Phụng[8] làm tri kỷ, đá lấy Mễ Điên[9] làm tri kỷ, trái vải lấy Thái Chân[10] làm tri kỷ, trà lấy Lư Đồng[11], Lục Vũ[12] làm tri kỷ, cỏ thơm lấy Linh Quân[13] làm tri kỷ, thuần lư lấy Quý Ưng[14] làm tri kỷ, chuối lấy Hoài Tố[15] làm tri kỷ, dưa lấy Thiệu Bình[16] làm tri kỷ, gà lấy Xử Tông[17] làm tri kỷ, ngỗng lấy Hữu Quân[18] làm tri kỷ, trống lấy Nễ Hành[19] làm tri kỷ, tỳ bà lấy Minh Phi[20] làm tri kỷ, … Một khi đã gắn bó thì ngàn thu không đổi. Còn thông đối với Tần Thủy[21], hạc đối với Vệ Ý[22] thì đúng là không có duyên vậy.

天 下 有 一 人 知 己, 可 以 不 恨。不 獨 人 也, 物 亦 有 之。如 菊 以 淵 明 為 知 己; 梅 以 和 靖 為 知 己; 竹 以 子 猷 為 知 己; 蓮 以 濂 溪 為 知 己; 桃 以 避 秦 人 為 知 己; 杏 以 董 奉 為 知 己; 石 以 米 顛 為 知 己; 荔 枝 以 太 真 為 知 己; 茶 以 盧 仝, 陸 羽 為 知 己; 香 草 以 靈 均 為 知 己; 莼 鱸 以 季 鷹 為 知 己; 蕉以懷素為知己; 瓜 以 邵 平 為 知 己; 雞 以 處 宗 為 知 己; 鵝 以 右 軍 為 知 己; 鼓 以 祢 衡 為 知 己; 琵 琶 以 明 妃 為 知 己 … … 一 與 之 訂, 千 秋 不 移。若 松 之 於 秦 始; 鶴 之 於 衛 懿; 正 所 謂 不 可 與 作 緣 者 也。

Thiên hạ hữu nhất nhân tri kỷ, khả dĩ bất hận. Bất độc nhân dã, vật diệc hữu chi. Như cúc dĩ Uyên Minh vi tri kỷ; mai dĩ Hòa Tĩnh vi tri kỷ; trúc dĩ Tử Do vi tri kỷ; liên dĩ Liêm Khê vi tri kỷ; đào dĩ tỵ Tần nhân vi tri kỷ; hạnh dĩ Đổng Phụng vi tri kỷ; thạch dĩ Mễ Điên vi tri kỷ; lệ chi dĩ Thái Chân vi tri kỷ; trà dĩ Lô Đồng, Lục Vũ vi tri kỷ; hương thảo dĩ Linh Quân vi tri kỷ; thuần lư dĩ Quý Ưng vi tri kỷ; tiêu dĩ Hoài Tố vi tri kỷ; qua dĩ Thiệu Bình vi tri kỷ; kê dĩ Xử Tông vi tri kỷ; nga dĩ Hữu Quân vi tri kỷ; cổ dĩ Nễ Hoành vi tri kỷ; tỳ bà dĩ Minh Phi vi tri kỷ … … nhất dữ chi đính, thiên thu bất di. Nhược tùng chi ư Tần Thủy; hạc chi ư Vệ Ý; chính sở vị bất khả dữ tác duyên giả dã.

5.Vì trăng mà lo mây, vì sách mà lo mối mọt, vì hoa mà lo gió mưa, vì tài tử giai nhân mà lo mệnh bạc, đó thực là tấm lòng Bồ Tát vậy.

為 月 憂 雲, 為 書 憂 蠹, 為 花 憂 風 雨, 為 才 子 佳 人 憂 命 薄, 真 是 菩 薩 心 腸。

Vị nguyệt ưu vân; vị thư ưu đố; vị hoa ưu phong vũ; vị tài tử giai nhân ưu mệnh bạc; chân thị Bồ Tát tâm trường.

6.Hoa không thể không có bướm, núi không thể không có suối, nước không thể không có rong, cây cao không thể không có dây leo, và người ta không thể không nghiện một thứ gì.

花 不 可 以 無 蝶 , 山 不 可 以 無 泉 , 石 不 可 以 無 苔, 水 不 可 以 無 藻, 喬 木 不 可 以 無 藤 蘿, 人 不 可 以 無 癖。

Hoa bất khả dĩ vô điệp; sơn bất khả dĩ vô tuyền; thạch bất khả dĩ vô đài; thủy bất khả dĩ vô tảo; kiều mộc bất khả dĩ vô đằng la; nhân bất khả dĩ vô tích.

7.Mùa xuân nghe tiếng chim hót, mùa hè nghe tiếng ve ngâm, mùa thu nghe tiếng côn trùng rả rích, mùa đông nghe tiếng tuyết rơi, ban ngày nghe tiếng đánh cờ, dưới trăng nghe tiếng tiêu réo rắt, trong núi nghe tiếng gió thổi ngàn thông, bên nước nghe tiếng sóng vỗ, mới không sống uổng phí một đời. Còn như nghe tiếng con trẻ hung dữ làm nhục, hay tiếng vợ quá quắt chửi mắng, cứ xem như tai điếc còn hơn.

春 聽 鳥 聲, 夏 聽 蟬 聲, 秋 聽 蟲 聲, 冬 聽 雪 聲 ; 白 晝 聽 棋 聲, 月 下 聽 簫 聲 ; 山 中 聽 松 聲, 水 際 聽 欸 乃 聲, 方 不 虛 生 此 耳。 若 惡 少 斥 辱, 悍 妻 詬 誶, 真 不 若 耳 聾 也。

 Xuân thính điểu thanh; hạ thính thiền thanh; thu thính trùng thanh; đông thính tuyết thanh; bạch trú thính kỳ thanh; nguyệt hạ thính tiêu thanh; sơn trung thính tùng phong thanh; thủy tế thính nội nãi thanh; phương bất khư sinh thử nhĩ. Nhược ác thiếu xích nhục, hãn thê cấu tối, chân bất nhược nhĩ lung dã.

8.Tiết Thượng Nguyên nên uống rượu với bạn hào sảng, tiết Đoan Ngọ nên uống rượu với bạn xinh đẹp, tiết Thất Tịch nên uống rượu với bạn phong vận, tiết Trung Thu nên uống rượu với bạn giản dị, tiết Trùng Cửu nên uống rượu với bạn phóng khoáng.

上 元 須 酌 豪 友, 端 午 須 酌 麗 友, 七 夕 須 酌 友, 中 秋 須 酌 淡 友, 重 九 須 酌 逸 友。

Thượng Nguyên tu chước hào hữu; Đoan Ngọ tu chước lệ hữu; Thất Tịch tu chước vận hữu; Trung Thu tu chước đạm hữu; Trùng Cửu tu chước dật hữu.

9.Cá vàng trong loài có vảy, én tía trong loài có cánh, có thể nói đó là thần tiên trong loài vật, giống như Đông Phương Sóc[23] lánh đời, kẻ chốn triều đình không ai làm hại được.

鱗 蟲 中 金 魚, 羽 蟲 中 紫 燕, 可 云 物 類 神 仙。 正 如 東 方 曼 倩 避 世, 金 馬 門 人 不 得 而 害 之。

Lân trùng trung kim ngư; vũ trùng trung tử yến; khả vân vật loại thần tiên, chính như Đông Phương Mạn Thiến tỵ thế kim mã môn, nhân bất đắc nhi hại chi.

10. Nhập thế thì nên học Đông Phương Sóc[24], xuất thế thì nên học Phật Ấn Liễu Nguyên[25].

入 世, 須 學 東 方 曼 倩 ; 出 世, 須 學 佛 印 了 元。

Nhập thế tu học Đông Phương Mạn Thiến; xuất thế tu học Phật Ấn Liễu Nguyên.

11. Thưởng hoa nên ngồi với giai nhân, uống rượu ngắm trăng nên ngồi với người phong vận, thưởng tuyết nên ngồi với người cao nhã.

賞 花 宜 對 佳 人, 醉 月 宜 對 韻 人, 映 雪 宜 對 高 人。

Thưởng hoa nghi đối giai nhân; túy nguyệt nghi đối vận nhân; ánh tuyết nghi đối cao nhân.

12. Nói chuyện với bạn uyên bác như đọc sách lạ, nói chuyện với bạn phong nhã như đọc văn thơ của danh nhân, nói chuyện với bạn nghiêm cẩn như đọc kinh truyện của thánh hiền, nó chuyện với bạn hoạt kê như đọc tiểu thuyết truyền kỳ.

對 淵 博 友, 如 讀 異 書 ; 對 風 雅 友, 如 讀 名 人 詩 文 ; 對 謹 飭 友, 如 讀 聖 賢 經 傳 ; 對 滑 稽 友, 如 閱 傳 奇 小 說。

Đối uyên bác hữu, như độc dị thư; đối phong nhã hữu, như độc danh nhân thi văn; đối cẩn sức hữu, như độc thánh hiền kinh truyện; đối hoạt kê hữu, như duyệt truyền kỳ tiểu thuyết.

13. Khải thư nên viết như văn nhân, thảo thư nên viết như danh tướng. Hành thư ở vào khoảng giữa hai loại đó, như Dương Thúc Tử mang đai chùng, mặc áo cừu mỏng[26], chính đó là vẻ đẹp.

楷 書 須 如 文 人, 草 書 須 如 名 將, 行 書 介 乎 二 者 之 間。 如 羊 叔 子 緩 帶 輕 裘, 正 是 佳 處。

Khải thư tu như văn nhân; thảo thư tu như danh tướng. Hành thư giới hồ nhị giả chi gian, như Dương Thúc Tử hoãn đới khinh cừu, chính thị giai xứ.

14. Làm người nên cầu được vào thơ, làm vật nên cầu được vào tranh vẽ.

人 須 求 可 入 詩,物 須 求 可 入 畫。

Nhân tu cầu khả nhập thi; vật tu cầu khả nhập họa.

15. Kẻ thiếu niên nên có kiến thức của bậc lão thành, mà bậc lão thành nên có hoài bão của kẻ thiếu niên.

少 年 人 須 有 老 成 之 識 見, 老 成 人 須 有 少 年 之 襟 懷。

Thiếu niên nhân tu hữu lão thành chi thức kiến; lão thành nhân tu hữu thiếu niên chi khâm hoài.

16. Xuân là tấm lòng vốn có của trời, thu là tiết điệu khác của trời[27].

春 者 天 之 本 懷, 秋 者 天 之 別 調。

 Xuân giả thiên chi bản hoài, thu giả thiên chi biệt điệu.

17. Người xưa nói :”Nếu không có trăng, hoa, mỹ nhân thì chẳng muốn sinh ra ở thế giới này”. Tôi xin thêm một câu :”Nếu không bút, mực, cờ, rượu thì cũng không nên làm thân người nữa”.

昔 人 云 : 「 若 無 花 月 美 人, 不 願 生 此 世 界。 」 予 益 一 語 云 : 「 若 無 翰 墨 棋 酒, 不 必 定 作 人 身。」

Tích nhân vân :”Nhược vô hoa, nguyệt, mỹ nhân, bất nguyện sinh thử thế giới”. Dư ích nhất ngữ vân: ”Nhược vô hàn, mặc, kỳ, tửu, bất tất định tác nhân thân”.

18. Nguyện được làm cây sư trong loài cây, nguyện được làm cỏ thi trong loài cỏ, nguyện được làm chim âu trong loài chim, nguyện được làm hươu nai trong loài thú, nguyện được làm con bướm trong loài sâu, nguyện được làm cá côn trong loài cá[28].

願 在 木 而 為 樗, 願 在 草 而 為 蓍, 願 在 鳥 而 為 鷗, 願 在 獸 而 為 廌, 願 在 蟲 而 為 蝶, 願 在 魚 而 為 鯤。

Nguyện tác mộc nhi vi sư; nguyện tại thảo nhi vithi; nguyện tại điểu nhi vi âu; nguyện tại thú nhi vi lộc; nguyện tại trùng nhi vi điệp; nguyện tại ngư nhi vi côn.

19. Hoàng Cửu Yên tiên sinh bảo :”Xưa nay làm người tất phải có lứa đôi. Từ ngàn xưa không có lứa đôi, có lẽ chỉ có Bàn Cổ chăng?”. Tôi nói :”Bàn Cổ chưa hẳn là không có lứa đôi, chỉ có điều bọn chúng ta không kịp nhìn thấy đó thôi. Ai là người không có lứa đôi? Đó là người cuối cùng còn sống sót sau kỳ tận thế!“.

黃 九 煙 先 生 云 : 「 古 今 人 必 有 其 偶 雙。 千 古 而 無 偶 者, 其 惟 盤 古 乎 ? 」 予 謂 : 「 盤 古 亦 未 嘗 無 偶, 但 我 輩 不 及 見 耳。 其 人 為 誰 ? 即 此 劫 盡 時 最 後 一 人 是 也。」

Hoàng Cửu Uyên tiên sinh vân :”Cổ kim nhân tất hưu kỳ ngẫu song. Thiên cổ nhi vô ngẫu giả, kỳ duy Bàn Cổ hồ?”. Dư vị :”Bàn Cổ diệc vị thường vô ngẫu, đán ngô bối bất cập kiến nhĩ. Kỳ nhân vi thùy? Tức thử kiếp tận thời tối hậu nhất nhân thị dã”.

20. Cổ nhân cho mùa đông là ba tháng dư, tôi bảo nên cho ba tháng mùa hè là dư mới phải : sáng dậy sớm là cái dư của đêm, tối ngồi chơi là cái dư của ngày, ngủ trưa là cái dư của sự thù ứng xã giao. Thơ người xưa có nói”Ta yêu ngày hè dài”, lời nói quả không sai.

古 人 以 冬 為 三 餘。 予 謂 當 以 夏 為 三 餘 : 晨 起 者, 夜 之 餘 ; 夜 坐 者, 晝 之 餘 ; 午 睡 者, 應 酬 人 事 之 餘。 古 人 詩 曰 : 「 我 愛 夏 日 長 」, 洵 不 誣 也。

 Cổ nhân dĩ đông vi tam dư. Dư vị đương dĩ hạ vi tam dư : Thần khởi giả, dạ chi dư; dạ tọa giả, trú chi dư; ngọ thụy giả, ứng thù nhân sự chi dư. Cổ nhân thi vân ”Ngã ái hạ nhật trường.” Tuân bất vu dã.

21. Trang Chu mộng thấy mình hóa thành bướm[29], đó là cái may mắn của Trang Chu; bướm nếu mộng thấy mình hóa thành Trang Chu, thì đó là cái bất hạnh của bướm.

莊 周 夢 為 蝴 蝶, 莊 周 之 幸 也 ; 蝴 蝶 夢 為 莊 周, 蝴 蝶 之 不 幸 也。

Trang Chu mộng vi hồ điệp, Trang Chu chi hạnh dã; hồ điệp mộng vi Trang Chu, hồ điệp chi bất hạnh dã.

22. Gầy hoa để gọi bướm, chất đá để mời mây, trồng thông để đón gió, chứa nước để mời bèo; xây đài cao để mời trăng, trông chuối để đón mưa, trồng liễu để gọi ve.

藝 花 可 以 邀 蝶, 纍 石 可 以 邀 雲, 栽 松 可 以 邀 風, 貯 水 可 以 邀 萍, 築 臺 可 以 邀 月, 種 蕉 可 以 邀 雨, 植 柳 可 以 邀 蟬。

Nghệ hoa khả dĩ khiêu điệp; lũy thạch khả dĩ khiêu vân; tài tùng khả dĩ khiêu phong; trữ thủy khả dĩ khiêu bình; trúc đài khả dĩ khiêu nguyệt; chủng tiêu khả dĩ khiêu vũ; trí liễu khả dĩ khiêu thiền.

23. Có cảnh nói ra thì cực kỳ u tĩnh, nhưng thực ra rất tiêu điều, đó là cảnh khói mưa; có cảnh nói ra thì cực kỳ thanh nhã, nhưng thực ra rất khó chịu, đó là cảnh ốm đau bệnh tật; có cảnh nói ra thì cực kỳ phong vận, nhưng thực ra rất thô bỉ, đó là tiếng rao bán hoa.

景 有 言 之 極 幽, 而 實 蕭 索 者, 煙 雨 也 ; 境 有 言 之 極 雅, 而 實 難 堪 者, 貧 病 也 ; 聲 有 言 之 極 韻, 而 實 粗 鄙 者, 賣 花 聲 也。

Cảnh hữu ngôn chi cực u, nhi thực tiêu sái giả, yên vũ dã; cảnh hữu ngôn chi cực nhã, nhi thực nan kham giả, bần bệnh dã; thanh hữu ngôn chi cực vận, nhi thực thô bỉ giả, mại hoa thanh dã.

24. Tài tử mà được phú quý, nhất định phải do phước huệ song tu mới có được.

才 子 而 富 貴,定 從 福 慧 雙 修 得 來。

 Tài tử nhi phú quý, định tòng phúc huệ song tu đắc lai.

25. Trăng non hận về nỗi mau lặn mà trăng khuyết lại hận về nỗi lâu lên.

新 月 恨 其 易 沈, 缺 月 恨 其 遲 上。

 Tân nguyệt hận kỳ dị trầm, khuyết nguyệt hận kỳ trì thượng.

26. Cày cấy ta không làm được, thôi thì học tưới vườn cho xong; đốn củi ta không làm được, thôi thì học làm cỏ cho xong.

躬 耕, 吾 所 不 能, 學 灌 園 而 已 矣 ; 樵 薪, 吾 所 不 能, 學 薙 草 而 已 矣。

Cung canh ngô sở bất năng, học quán viên nhi dĩ hỹ; tiều tân ngô sở bất năng, học thế thảo nhi dĩ hỹ.

27. Một là hận sách dễ bị mối mọt, hai là hận đêm hè có muỗi, ba là hận đài ngắm trăng dễ bị thấm nước, bốn là hận lá cúc thường héo, năm là hận thông có nhiều kiến lớn, sáu là hận trúc rụng lá nhiều, bảy là hận quế và sen mau héo úa, tám là hận trong cỏ tiết thường có rắn, chín là hận hoa trên mắt cáo có gai, mười là hận cá nóc có độc.

一 恨 書 囊 易 蛀, 二 恨 夏 夜 有 蚊, 三 恨 月 臺 易 漏, 四 恨 菊 葉 多 焦, 五 恨 松 多 大 蟻, 六 恨 竹 多 落 葉, 七 恨 桂 、 荷 易 謝, 八 恨 薜 、 蘿 藏 虺, 九 恨 架 花 生 刺, 十 恨 河 豚 多 毒。

Nhất hận thư nang dị chú; nhị hận hạ dạ hữu văn; tam hận nguyệt đài dị lậu; tứ hận cúc diệp đa tiêu; ngũ hận tùng đa đại nghị; lục hận trúc đa lạc diệp; thất hận quế hạ dị tạ; bát hận tiết la tàng xà; cửu hận giá hoa sinh thích; thập hận hà đồn hữu độc.

28. Đứng trên lầu ngắm núi, đứng đầu thành ngắm tuyết, ngồi trước đèn ngắm hoa, ngồi trong thuyền ngắm ráng chiều, dưới trăng ngắm mỹ nhân, mỗi cảnh đều có tình riêng.

樓 上 看 山, 城 頭 看 雪, 燈 前 看 月, 舟 中 看 霞, 月 下 看 美 人, 另 是 一 番 情 境。

Lâu thượng khán sơn, thành đầu khán tuyết, đăng tiền khán hoa, chu trung khán hà, nguyệt hạ khán mỹ nhân, lánh thị nhất phiên tình cảnh.

29. Ánh nắng của núi, tiếng chảy của nước, màu sắc của trăng, hương thơm của hoa, vẻ nho nhã của văn nhân, dáng yêu kiều của mỹ nhân đều là những thứ không thể dùng tên gọi mà hình dung ra được, không thể nào nắm bắt được, quả đủ để làm ngơ ngẩn mộng hồn, đảo điên thần tứ!

山 之 光, 水 之 聲, 月 之 色, 花 之 香, 文 人 之 韻 致, 美 人 之 姿 態, 皆 無 可 名 狀, 無 可 執 著。 真 足 以 攝 召 魂 夢, 顛 倒 情 思。

Sơn chi quang, thủy chi thanh, nguyệt chi sắc, hoa chi hương, văn nhân chi vận trí, mỹ nhân chi tư thái, giai vô khả danh trạng, vô khả chấp trước. Chân túc dĩ nhiếp chiêu hồn mộng, điên đảo tình tứ!

30. Giá như trong giấc mộng mà có thể tự chủ được thì dù chốn xa ngàn dặm cũng có thể đến không khó khăn gì, mà không cần đến cây gậy rút đất của Trường Phòng[30]; có thể gặp gỡ người đã khuất, mà không cần đến thuật chiêu hồn của Thiếu Quân[31]; có thể rong chơi Ngũ nhạc bằng trí tưởng mà không cần chờ đến khi chuyện gia đình ổn định.

假 使 夢 能 自 主, 雖 千 里 無 難 命 駕, 可 不 羨 長 房 之 縮 地 ; 死 者 可 以 晤 對, 可 不 需 少 君 之 招 魂 ; 五 嶽 可 以 臥 遊, 可 不 俟 婚 嫁 之 盡 畢。

Giả sử mộng năng tự chủ, tuy thiên lý vô nan mệnh giá, khả bất tiển Trường Phòng chi súc địa; tử giả khả dĩ ngộ đối, khả bất nhu Thiếu Quân chi chiêu hồn; ngũ nhạc khả dĩ ngọa du, khả bất sĩ hôn giá chi tận tất.

31. Chiêu Quân[32] do cuộc hòa thân mà được nổi tiếng, Lưu Phần[33] vì đi thi hỏng mà được lưu truyền, có thể cho đó là điều bất hạnh, nhưng không thể xem là chuyện thịêt thòi được.

昭 君 以 和 親 而 顯, 劉 蕡 以 下 第 而 傳 ; 可 謂 之 不 幸, 不 可 為 之 缺 陷。

Chiêu Quân dĩ hòa thân nhi hiển, Lưu Phần dĩ hạ đệ nhi truyền; khả vị chi bất hạnh, bất khả vi chi khuyết hãm.

32. Lấy lòng yêu hoa mà yêu người đẹp, tất cảm nhận được cái thú vị dạt dào; lấy lòng yêu người đẹp mà yêu hoa, tất trong cái thâm tình còn tăng thêm lòng chở che mến tiếc.

以 愛 花 之 心 愛 美 人, 則 領 略 自 饒 別 趣 ; 以 愛 美 人 之 心 愛 花, 則 護 惜 倍 有 深 情。

Dĩ ái hoa chi tâm ái mỹ nhân, tắc lĩnh lược tự nhiêu biệt xúc; dĩ ái mỹ nhân chi tâm ái hoa, tắc hộ tích bội hữu thâm tình.

33. Mỹ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói, hoa hơn mỹ nhân ở điểm tỏa hương. Nếu không thể chọn được cả hai thì bỏ cái tỏa hương mà chọn cái biết nói vậy.

美 人 之 勝 於 花 者, 解 語 也 ; 花 之 勝 於 美 人 者, 生 香 也。 二 者 不 可 得 兼, 舍 生 香 而 解 語 者 也。

Mỹ nhân chi thắng ư hoa giả, giải ngữ dã; hoa chi thắng ư mỹ nhân giả, sinh hương dã. Nhị giả bất khả đắc kiêm, xả sinh hương nhi thủ giải ngữ giả dã.

34. Người ở bên trong song cửa viết chữ lên song cửa, ta đứng ở ngoài thấy tuyệt đẹp.

窗 內 人 於 窗 紙 上 作 字, 吾 於 窗 外 觀 之, 極 佳。

Song nội nhân ư chỉ song thượng tác tự, ngô ư song ngoại quán chi, cực giai.

35. Thiếu niên đọc sách như nhòm trăng qua khe hở, trung niên đọc sách như đứng giữa sân ngắm trăng, lão niên đọc sách như lên đài cao thưởng trăng, đều do kinh nghiệm lịch duyệt nông sâu khác nhau mà sở đắc cũng nông sâu khác nhau.

少 年 讀 書, 如 隙 中 窺 月 ; 中 年 讀 書, 如 庭 中 望 月 ; 老 年 讀 書, 如 臺 上 玩 月。 皆 以 閱 歷 之 淺 深, 為 所 得 之 淺 深 耳。

Thiếu niên độc thư như khích trung khuy nguyệt; trung niên độc thư như đình trung vọng nguyệt; lão niên độc thư như đài thượng ngoạn nguyệt; giai dĩ duyệt lịch chi thiển thâm, vi sở đắc chi thiển thâm nhĩ.

36. Tôi muốn gởi thư cho Thần Mưa mà nói rằng: mùa xuân nên cho mưa ở sau tiết Thượng Nguyên[34], mưa trong vòng mười ngày trước tiết Thanh Minh[35], rồi mưa cho đến tiết Cốc Vũ[36]; mùa hè nên cho mưa trước ngày thượng huyền và sau ngày hạ huyền[37]; mùa thu nên cho mưa trong vòng hai tuần trước và sau giai đoạn mạnh thu[38]; còn ba tháng mùa đông bất tất phải mưa nữa.

吾 欲 致 書 雨 師 : 春 雨, 宜 始 於 上 元 g 節 g 後, 至 清 明 十 日 前 之 內, 及 穀 雨 節 中 ; 夏 雨, 宜 于 每 月 上 弦 之 前, 及 下 弦 之 後 ; 秋 雨, 宜 于 孟 秋 、 季 秋 之 上 下 二 旬 ; 至 若 三 冬,正 可 不 必 雨 也。

Ngô dục trí thư vũ sư : xuân vũ, nghi thủy ư Thượng Nguyên tiết hậu, chí Thanh Minh thập nhật tiền chi nội, cập Cốc Vũ tiết trung; hạ vũ, nghi ư mỗi nguyệt thượng huyền chi tiền, cập hạ huyền chi hậu; thu vũ, nghi ư mạnh thu chi thượng hạ nhị tuần; chí nhược tam đông, chính khả bất tất vũ dã.

37. Giàu mà ô trọc không bằng nghèo mà thanh cao, sống mà khổ sở không bằng chết mà sung sướng.

為 濁 富 不 若 為 清 貧 ; 以 憂 生 不 若 以 樂 死。

Vi trọc phú bất nhược vi thanh bần, dĩ ưu sinh bất nhược dĩ lạc tử.

38. Trong thiên hạ chỉ có ma quỷ là có phúc lớn nhất : lúc còn sống không một xu dính túi, nhưng sau khi chết mỗi khi cúng thì đều có tiền giấy; trong thiên hạ chỉ có ma quỷ là được coi trọng nhất : lúc còn sống có thể bị khinh dễ làm nhục, nhưng sai khi chết lại có lắm người quỳ lạy lễ bái.

天 下 唯 鬼 最 富 : 生 前 囊 無 一 文, 死 k 後 每 饒 楮 鏹 ; 天 下 唯 鬼 最 尊, 生 前 或 受 欺 凌,死 後 必 多 跪 拜。

Thiên hạ duy quỷ tối phúc, sinh tiền nang vô nhất văn, tử hậu mỗi nhiêu chử cường; thiên hạ duy quỷ tối tôn, sinh tiền hoặc thụ khi lăng, tử hậu tất đa quỵ bái.

39. Bướm là hóa thân của tài tử, hoa là biệt hiệu của mỹ nhân.

蝶 為 才 子 之 化 身, 花 乃 美 人 之 別 號。

 Điệp vi tài tử chi hóa thân, hoa nãi mỹ nhân chi biệt hiệu.

40. Nhân tuyết mà nhớ tới cao sĩ, nhân hoa mà nhớ tới mỹ nhân, nhân rượu mà nhớ tới hiệp khách, nhân trăng mà nhớ tới bạn hiền, nhân sơn thủy mà nhớ tới thơ văn đắc ý.

因 雪 想 高 士, 因 花 想 美 人, 因 酒 想 h 俠 h 客, 因 月 想 好 友, 因 山 水 想 得 意 詩 文。

Nhân tuyết tưởng cao sĩ; nhân hoa tưởng mỹ nhân; nhân tửu tưởng hiệp khách; nhân nguyệt tưởng hảo hữu; nhân sơn thủy tưởng đắc ý thi văn.

41. Nghe tiếng ngỗng kêu mà ngỡ ở Nam Kinh[39], nghe tiếng chèo ghe mà ngỡ ở Tam Ngô[40], nghe tiếng thác chảy mà ngỡ ở Triết Giang[41], nghe tiếng nhạc ngựa mệt mỏi mà ngỡ đang đường tới chốn Trường An[42].

聞 鵝 聲, 如 在 白 門 ; 聞 櫓 聲, 如 在 三 吳 ; 聞 灘 聲, 如 在 浙 江 ; 聞 羸 馬 項 下 鈴 鐸 聲, 如 在 長 安 道 上。

Văn nga thanh như tại Bạch Môn; văn lỗ thanh như tại Tam Ngô; văn than thanh như tại Triết Giang; văn luy mã hạng hạ linh đạc thanh, như tại Trường An đạo thượng.

42. Tiết trong năm thì Thượng Nguyên là nhất, kế đến là Trung Thu, rồi mới đến Đoan Ngọ và Trùng Cửu.

一 歲 諸 節, 以 上 元 為 第 一, 中 秋 次 之, 五 日 、 九 日 又 次 之。

Nhất tuế chi tiết, dĩ Thượng Nguyên vi đệ nhất, Trung Thu thứ chi, Ngũ nhật, Cửu nhật hựu thứ chi.

43. Mưa có thể làm cho ngày ngắn đêm dài.

雨 之 為 物, 能 令 晝 短, 能 令 夜 長。

 Vũ chi vi vật, năng linh trú đoản, năng linh dạ trường.

44. Những môn ngày xưa không còn truyền đến nay : thổi tiêu, kiếm thuật, đánh cờ và đá cầu.

古 之 不 傳 於 今 者, 嘯 也,、 劍 術 也, 彈 棋 也,、 打 球 也。

 Cổ chi bất truyền ư kim giả, tiêu giả, kiếm thuật dã, đàn kỳ dã, đả cầu dã.

45. Thầy tăng mà làm thơ, nhiều khi có, còn đạo sĩ mà biết làm thơ là điều hiếm hoi ít thấy[43], vì sao vậy?

詩 僧 時 復 有 之, 若 道 士 之 能 詩, 不 啻 空 谷 足 音, 何 也 ?

Thi tăng thời phục hữu chi, nhược đạo sĩ chi năng thi giả, bất xí không cốc tú âm, hà dã?

46. Nên làm cỏ huyên trong loài hoa chứ không làm đổ quyên trong loài chim[44].

當 為 花 中 之 萱 草, 毋 為 鳥 中 之 杜 鵑。

Đương vi hoa trung chi huyên thảo, vô vi điểu trung chi đỗ quyên.

47. Con gái từ tuổi mười bốn đến hai mươi bốn, trong khoảng ấy, bất kể là Yên, Tần, Ngô, Việt, phần lớn giọng nói đều ngọt ngào yểu điệu làm cảm động được lòng người. Mới gặp mặt mà lòng yêu ghét đã phân rõ ràng. Tai nghe không bằng mắt thấy, càng tin thêm điều này.

女 子 自 十 四 、 五 歲, 至 二 十 四 、 五 n g 歲, 此 十 年 中, 無 論 燕 、 秦 、 吳 、 越, 其 音 大 都 嬌 媚 動 人 ; 一 賭 其 貌, 則 美 惡 判 然 矣。 耳 聞 不 如 目 見,於 此 益 信。

Nữ tử tự thập tứ ngũ tuế chí nhị thập tứ ngũ tuế, thử thập niên trung, vô luận Yên, Tần, Ngô, Việt, kỳ âm đại đô kiều mị động nhân. Nhất đỗ kỳ mạo, tắc mỹ ố phán nhiên hỹ. Nhĩ văn bất như mục kiến, ư thử ích tín.

48. Tìm cảnh an lạc thì nên học tiên, lánh chốn khổ đau thì nên học Phật. Phật gia có”thế giới Cực lạc”, là nói đến chỗ mà mọi khổ não đều không đến được.

尋 樂 境 乃 學 仙, 避 苦 趣 乃 學 佛。 佛 家 所 謂 「 極 樂 世 界 」 者, 蓋 謂 眾 苦 之 所 不 到 也。

Tầm lạc cảnh nãi học Tiên, tỵ khổ xúc nãi học Phật. Phật gia sở vị ”Cực lạc thế giới” giả, cái vị chúng khổ chi sở bất đáo dã.

49. Giàu sang mà vất vả, không bằng nghèo hèn mà thanh nhàn; nghèo hèn mà kiêu ngạo, không bằng giàu sang mà khiêm cung.

富 貴 而 勞 悴, 不 若 安 閒 之 貧 賤 ; 貧 賤 而 驕 傲, 不 若 謙 恭 之 富 貴。

Phú quý nhi lao tụy, bất nhược an nhàn chi bần tiện; bần tiện nhi kiêu ngạo, bất nhược khiêm cung chi phú quý.

50. Mắt không tự thấy, mũi không tự ngửi, lưỡi không tự nếm, tay không tự sờ, chỉ có tai tự nghe được tiếng mình.

目 不 能 自 見, 鼻 不 能 自 嗅, 舌 不 能 自 舐, 手 不 能 自 握, 惟 耳 能 自 聞 其 聲。

Mục bất năng tự kiến, tỵ bất năng tự khứu, thiệt bất năng tự thỉ, thủ bất năng tự ác, duy nhĩ năng tự văn kỳ thanh.

51. Âm thanh nên nghe từ xa, riêng tiếng đàn cầm nghe xa gần đều được.

凡 聲 皆 宜 遠 聽, 惟 聽 琴 則 遠 近 皆 宜。

 Phàm thanh giai nghi viễn thính, duy thính cầm viễn cận giai nghi.

52. Mắt không đọc được chữ, còn buồn hơn cả bị mù; tay không cầm được bút, còn khổ hơn cả bị câm.

目 不 能 識 字, 其 悶 尤 過 於 盲 ; 手 不 能 執 管, 其 苦 更 甚 於 啞。

Mục bất năng thức tự, kỳ muộn vưu quá ư manh; thủ bất năng chấp quản, kỳ khổ cánh thậm ư á.

53. Chụm đầu họa thơ, bá cổ luận văn, trong cung ứng thí, đi sứ chư hầu, đó đều là những việc cực khoái trong nhân gian.

並 頭 聯 句 、 交 頸 論 文 、 宮 中 應 制 、 歷 使 屬 國, 皆 極 人 間 樂 事。

Tính đầu liên cú, giao cảnh luận văn, cung trung ứng chế, lịch sứ thuộc quốc, giai cực nhân gian lạc sự.

54. Trong truyện Thủy hử, Võ Tòng hỏi Tưởng Môn Thần :”Sao không phải là họ Lý?”. Lời đó tuyệt diệu lạ thường. Họ người thì có họ đẹp họ xấu, như các họ Hoa, họ Liễu, họ Vân, họ Tô, họ Kiều đều cực kỳ phong vận. Còn các họ như họ Mao, họ Lại, họ Tiêu, họ Lại đều như bụi bay trước mắt, gai chọc vào tai mà thôi.

《 水 滸 傳 》, 武 松 詰 蔣 門 神 云 : 「 為 何 不 姓 李 ? 」 此 語 殊 妙。 蓋 姓 實 有 佳 有 劣, 如 華 、 如 柳 、 如 雲 、 如 蘇 、 如 喬, 皆 極 風 韻。 若 夫 毛 也 、 賴 也 、 焦 也 、 牛 也, 則 皆 塵 於 目 而 棘 於 耳 者 也。

 “ Thủy hử truyện” Võ Tòng cật Tưởng Môn Thần vân :”Vi hà bất tính Lý?”.Thử ngữ thù diệu. Cái tính thực hữu giai hữu liệt, như Hoa, như Liễu, như Vân, như Tô, như Kiều, giai cực phong vận; nhược phu mao dã, lại dã, tiêu dã, ngưu dã, tắc giai trần ư mục nhi cức ư nhĩ dã.

55. Hoa đẹp đáng xem, mà lại có mùi thơm là : mai, cúc, lan, thủy tiên, chu lan, mộc hương, mai côi, lạp mai; còn các loại hoa khác chỉ đáng xem mà thôi.

花 之 宜 於 目, 而 復 宜 於 鼻 者 : 梅 也 、 菊 也 、 蘭 也 、 水 仙 也 、 珠 蘭 也 、 木 d 香 d 也 、 玫 瑰 也 、 蠟 梅 也, 餘 則 皆 宜 於 目 者 也。

Hoa chi nghi ư mục, nhi phục nghi ư tỵ giả : mai dã, cúc dã, lan dã, thủy tiên dã, châu lan mộc hương dã, mai côi dã, lạp mai dã; dư tắc giai nghi ư mục giả dã.

56. Hoa và lá đều đáng xem : trước hết là thu hải đường, kế đó là sen, rồi mới đến hải đường, đồ kiềm, ngu mỹ nhân. Lá đẹp hơn hoa, chỉ có nhạn lai hồng, mỹ nhân tiêu mà thôi. Hoa và lá đều chẳng đáng xem: đó là tử vi và tân di.

花 與 葉 俱 可 觀 者 : 秋 海 棠 為 最, 荷 次 之, 海 棠 、 酴 醾 、 虞 美 人 、 水 仙 又 t 次 t 之。 葉 勝 於 花 者, 止 雁 來 紅 、 美 人 t 蕉 t 而 t 已。 花 與 葉 俱 不 足 觀 者 : 紫 薇 也 、 辛 夷 也。

Hoa dữ diệp câu khả quán giả, thu hải đường vi tối; hà thứ chi; hải đường, đồ kiềm, ngu mỹ nhân, thủy tiên, hựu thứ chi. Diệp thắng ư hoa giả, chỉ nhạn lai hồng, mỹ nhân tiêu nhi dĩ. Hoa dữ diệp câu bất túc quán giả : tử vi dã, tân di dã.

57. Kẻ có lời nói cao kỳ chốn núi rừng thì không thể khéo bàn chuyện phố thị được; lấy đó mà xét thì các loại sách như ”Sử ký” và ”Hán Thư” đều nên bỏ đi đừng đọc, vì chúng cũng chỉ bàn đến chuyện phố thị thời xưa.

高 語 山 林 者, 輒 不 善 談 市 朝 事。 審 若 此, 則 當 並 廢 《 史 》 、 《 漢 》 諸 書 而 不 讀 矣。 蓋 諸 書 所 載 者, 皆 古 之 市 朝 也。

Cao ngữ sơn lâm giả, triếp bất hỷ đàm thị triều sự. Thẩm nhược thử, tắc đương tính phế ”Sử” “Hán” chư thư nhi bất độc hỹ. Cái chư thư sở tải giả, giai cổ chi thị triều dã.

58. Mây là vật biến hóa : hoặc cao chót vót như núi, hoặc mênh mông như nước, hoặc giống như người như thú, hoặc gióng như lông chim vảy cá. Cho nên mọi thứ trong thiên hạ đều có thể vẽ được, duy mây thì không. Cái gọi là vẽ mây, chỉ là cách nói gượng mà thôi.

雲 之 為 物 : 或 崔 巍 如 山, 或 瀲 灩 如 水, 或 如 人, 或 如 獸, 或 如 鳥 毳, 或 如 魚 鱗。 故 天 下 萬 物 皆 可 入 畫, 惟 雲 不 能 畫。 世 所 畫 雲, 亦 強 名 耳。

Vân chi vi vật, hoặc thôi nguy như sơn; hoặc liễm diễm như thủy; hoặc như nhân; hoặc như thú; hoặc như điểu thúy; hoặc như ngư lân; cố thiên hạ vạn vật giai khả họa, duy vân bất năng họa, thế sở họa vân diệc cưỡng danh nhĩ.

59. Sống ở thời thái bình, sinh ra ở chốn hồ núi, quan địa phương thanh liêm, gia đình êm ấm, con cái thông minh, đời người được như thế có thể gọi là toàn phúc.

值 太 平 世, 生 湖 山 郡, 官 長 廉 靜, 家 道 優 裕, 娶 婦 賢 淑, 生 子 聰 慧。 人 生 如 此, 可 云 全 福。

Trị thái bình thế, sinh hồ sơn quận, quan trường liêm tĩnh, gia đạo ưu dụ, thú phụ hiền thục, sinh tử thông tuệ. Nhân sinh như thử, khả vân toàn phúc.

60. Những vật để thưởng ngoạn trong thiên hạ, làm thì ngày càng tốn nhiều công sức, mà giá trị thì ngày càng thấp, không ảnh hưởng đến cái nghèo của người dân.

天 下 器 玩 之 類, 其 製 日 工, 其 價 日 n 賤, 毋 惑 乎 民 之 貧 也。

Thiên hạ khí ngoạn chi loại, kỳ chế nhật công, kỳ giá nhật tiện, vô hoặc hồ dân chi bần dã

61. Nuôi hoa trong bình, thì các vẻ cao thấp nhỏ lớn của bình nên cùng hoa tương xứng, nhưng màu sắc đậm nhạt thì nên cùng hoa tương phản.

養 花 膽 瓶, 其 式 之 高 低 大 小, 須 與 花 相 稱。 而 色 之 淺 深 濃 淡, 又 須 與 花 相 反。

Dưỡng hoa đảm bình, kỳ thức chi cao đê đại tiểu, tu dữ hoa tương xứng. Nhi sắc chi thiển thâm nùng đạm, hựu tu dữ hoa tương phản.

62. Mưa xuân như chiếu vua ban ân huệ, mưa hè như chiếu vua xá tội, mưa thu như lời hát điếu người chết.

春 雨 如 恩 詔, 夏 雨 如 赦 書, 秋 雨 如 輓 歌。

Xuân vũ như ân chiếu, hạ vũ như xá thư, thu vũ như vãn ca.

63. Mười tuổi làm thần đồng, hai mươi ba mươi làm tài tử, năm mươi làm danh thần, sáu mươi làm thần tiên, có thể nói đó là người hoàn toàn vậy.

十 歲 為 神 童, 二 十 、 三 十 為 才 子, 四 十 、 五 十 為 名 臣, 六 十 為 神 仙, 可 謂 全 人 矣。

Thập tuế vi thần đồng, nhị thập tam thập vi tài tử, tứ thập ngũ thập vi danh thần, lục thập vi thần tiên, khả vị toàn nhân hỹ.

64. Người học võ không đánh bừa, đó là văn trong võ; người viết văn không cố chấp, đó là võ trong văn.

武 人 不 苟 戰, 是 為 武 中 之 文 ; 文 人 不 迂 腐, 是 為 文 中 之 武。

Võ nhân bất cẩu chiến, thị vi võ trung chi văn; văn nhân bất vu hủ, thị vi văn trung chi võ.

65. Văn nhân giảng chuyện quân, phần lớn là nói suông, võ tướng luận văn chương, quá nửa là nghe lóm.

文 人 講 武 事, 大 都 紙 上 談 兵 ; 武 將 論 文 章, 半 屬 道 聽 途 說。

Văn nhân giảng võ sự, đại đô chỉ thượng đàm binh; võ tương luận văn chương, bán thuộc đạo thính đồ thuyết.

66. Các bức thư pháp treo tường cần phải có ba thứ : thơ văn phải hay, đề mục phải mới, hình thức phải tinh kỳ.

「斗方」止三種可取:佳詩文,一也; 新 題 目, 二 也 ; 精 款 式, 三 也。

 “Đấu phương” chỉ tam chủng khả thủ : giai thi văn, nhất dã, tân đề mục, nhị dã, tinh khoản thức, tam dã.

67. Tình phải gần đến mức si mê thì mới chân thực, tài phải gồm cả niềm hứng thú thì mới biến hóa.

情 必 近 於 癡 而 始 真 ; 才 必 兼 乎 趣 而 始 化。

Tình tất cận ư si nhi thủy chân, tài tất kiêm hồ xúc nhi thủy hóa.

68. Phàm hoa đẹp thì phần lớn hương không ngào ngạt, cánh ngàn tầng thì không kết trái. Được hoàn toàn thực khó thay! Kiêm được cả hai, chỉ có sen chăng?

凡 花 色 之 嬌 媚 者, 多 不 甚 香 ; 瓣 之 千 層 者, 多 不 結 實 ; 甚 矣 全 才 之 難 也。 兼 之 者,其 惟 蓮 乎?

Phàm hoa sắc chi kiều mị giả, đa bất thậm hương, biện chi thiên tằng giả, đa bất kết thực. Thậm hỹ toàn tài chi nan dã. Kiêm chi giả, kỳ duy liên hồ?

69. Viết được một cuốn sách mới, đó là sự nghiệp thiên thu; chú giải được một bộ cổ văn, đó là công lao vạn đại.

著 得 一 部 新 書, 便 是 千 秋 大 業 ; 注 得 一 部 古 書, 允 為 萬 世 宏 功。

Trước đắc nhất bộ tân thư, tiện thị thiên thu đại nghiệp; chú đắc nhất bộ cổ thư, doãn vi vạn thế hoằng công.

70. Mời danh sư về để dạy cho con em, vào chốn danh sơn để luyện cử nghiệp, cầu danh sĩ để làm bài hộ, cả ba điều đó đều là việc sai lầm.

延 名 師 訓 子 弟, 入 名 山 習 舉 業, 丐 名 士 代 捉 刀, 三 者 都 無 是 處。

Diên danh sư huấn tử đệ, nhập danh sơn tập cử nghiệp, cái danh sĩ đại tróc đao, tam giả đô vô thị xứ.

71. Mây phản chiếu ánh sáng mặt trời mà thành ráng, suối treo vào bờ đá mà thành thác. Cũng là một vật nhưng nương vào vật khác thì tên gọi cũng nhân đó mà khác đi. Đạo bạn bè sở dĩ quý là vì vậy.

雲 映 日 而 成 霞, 泉 挂 岩 而 成 瀑。 所 托 者 異, 而 名 亦 因 之。 此 友 道 之 所 以 可 貴 也。

Vân ánh nhật nhi thành hà, tuyền quải nham nhi thành bộc. Sở thác giả dị, nhi danh diệc nhân chi. Thử hữu đạo chi sở dĩ khả quý dã.

72. Văn chương của đại gia, tôi yêu và hâm mộ, nguyện học theo; văn chương của danh gia, tôi yêu và hâm mộ, nhưng không dám học theo. Học theo đại gia mà không được, kêu bằng khắc con ngỗng không thành cũng còn ra dáng con cò; còn học danh gia mà không được, đó là họa hổ không thành, ắt sẽ biến thành con chó.

大 家 之 文, 吾 愛 之 慕 之, 吾 願 學 之 ; 名 家 之 文, 吾 愛 之 慕 之, 吾 不 敢 學 之。 學 大 家 而 不 得, 所 謂 「 刻 鵠 不 成 尚 類 鶩 」 也, 學 名 家 而 不 得, 則 是 「 畫 虎 不 成 反 類 狗 」 矣。

Đại gia chi văn, ngô ái chi, mộ chi, ngô nguyện học chi; danh gia chi văn, ngô ái chi, mộ chi, ngô bất cảm học chi. Học đại gia nhi bất đắc, sở vị ”khắc cốc bất thành, thượng loại vụ” dã, học danh gia nhi bất đắc, tắc thị ”họa hổ bất thành, phản loại cẩu” hỹ.

73. Do giới mà được định, do định mà được huệ[45], gượng gần được với tự nhiên; luyện tinh để hóa khí, luyện khí để hóa thần[46], thanh hư toàn đồ cặn bã.

由戒得定,由定得慧,勉強漸近自然, 鍊 精 化 氣, 鍊 氣 化 神, 清 虛 有 何 渣 滓 ?

 Do giới đắc định, do định đắc huệ, miễn cưỡng tiệm cận tự nhiên, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, thanh hư hữu hà tra trử?

74. Nam Bắc ĐôngTây đều có vị trí nhất định; còn trước sau phải trái thì bất định.

南 北 東 西, 一 定 之 位 也 ; 前 後 左 右, 無 定 之 位 也。

Nam Bắc Đông Tây, nhất định chi vị dã, tiền hậu tả hữu, vô định chi vị dã.

75. Tuy không giỏi viết lách, nhưng bút nghiên không thể không sạch; tuy không theo nghề y nhưng những phương thuốc linh nghiệm không thể không có, tuy không giỏi đánh cờ nhưng bàn cờ không thể không đầy đủ.

雖 不 善 書, 而 筆 硯 不 可 不 精 ; 雖 不 業 醫, 而 驗 方 不 可 不 存 ; 雖 不 工 弈, 而 楸 枰 不 可 不 備。

Tuy bất thiện thư nhi bút nghiễn bất khả bất tinh, tuy bất nghiệp y nhi nghiệm phương bất khả bất tồn, tuy bất công dịch nhi thu bình bất khả bất bị.

76. Kẻ tiêu dao ngoài đời bất tất phải giới tửu, nhưng phải giới tục[47]; khách quần hồng bất tất phải giỏi văn nhưng phải biết cảm nhận cái hay.

方 外 不 必 戒 酒, 但 須 戒 俗 ; 紅 裙 不 必 通 文, 但 須 得 趣。

Phương ngoại bất tất giới tửu, đãn tu giới tục; hồng quần bất tất thông văn, đãn tu đắc thú.

77. Đá đặt bên gốc mai nên cổ kính, đá đặt dưới gốc thông nên thô, đá đặt bên gốc trúc nên gầy, đá đặt trong bồn nên tinh xảo.

梅邊之石,宜古; 松下之石,宜拙; 竹 傍 之 石, 宜 瘦 ; 盆 內 之 石, 宜 巧。

 Mai biên chi thạch nghi cổ, tùng hạ chi thạch nghi chuyết, trúc bạng chi thạch nghi sấu, bồn nội chi thạch nghi xảo.

78. Răn mình nên khắt khe như cái khí mùa thu, mà xử thế thì nên như ôn hòa như cái khí mùa xuân.

律 己 宜 帶 秋 氣, 處 事 宜 帶 春 氣。

 Luật kỷ nghi đới thu khí, xử thế nghi đới xuân khí.

79. Nếu chán nghe lời thúc thuế, cần phải sớm nộp thuế tô; muốn nghe sư cụ đàm thiền, cần phải thường xuyên bố thí.

厭 催 租 之 敗 意, 亟 宜 早 早 完 糧 ; 喜 老 衲 之 談 禪,難 免 常 常 布 施。

Yếm thôi tô chi bại ý, cức nghi tảo tảo hoàn lương; hỷ lão nạp chi đàm thiền, nan vấn thường thường bố thí.

80. Dưới thông nghe tiếng đàn cầm, dưới trăng nghe tiếng tiêu, bên khe nghe tiếng thác đổ, trong núi nghe tiếng tụng kinh, tai nghe ra mỗi tiếng đều có ý vị riêng.

松 下 聽 琴, 月 下 聽 簫, 澗 邊 聽 瀑 布, 山 中 聽 梵 唄, 覺 耳 中 別 有 不 同。

Tùng hạ thính cầm, nguyệt hạ thính tiêu, giản biên thính bộc bố, sơn trung thính phạn bối, giác nhĩ trung biệt hữu bất đồng.

81. Dưới trăng bàn thiền, thú vị càng man mác; dưới trăng luận kiếm, can đảm càng bồng bột; dưới trăng bàn thơ, phong thái càng u nhã; dưới trăng ngắm mỹ nhân, tình ý càng nồng thắm.

月 下 聽 禪, 旨 趣 益 遠 ; 月 下 說 劍, 肝 膽 益 真 ; 月 下 論 詩, 風 致 益 幽 ; 月 下 對 美 人, 情 意 益 篤。

Nguyệt hạ đàm thiền, chỉ xúc ích viễn; nguyệt hạ thuyết kiếm, can đảm ích chân; nguyệt hạ luận thi, phong trí ích u; nguyệt hạ đối mỹ nhân, tình ý ích đốc.

82. Có cảnh sơn thủy trên đất, có cảnh sơn thủy trên tranh, có cảnh sơn thủy trong mộng, có cảnh sơn thủy trong lòng. Cảnh sơn thủy trên đất đẹp ở gò hang u tịch, cảnh sơn thủy trên tranh đẹp ở bút mực lâm ly, cảnh sơn thủy trong mộng đẹp ở cảnh tượng biến ảo, cảnh sơn thủy trong lòng đẹp ở vị trí tự nhiên.

有 地 上 之 山 水, 有 畫 上 之 山 水, 有 c 夢 c 中 之 山 水, 有 胸 中 之 山 水。 地 上 者, 妙 c c 在 邱 壑 深 邃 ; 畫 上 者, 妙 在 筆 墨 淋 漓 ; 夢 中 者, 妙 在 景 象 變 幻 ; 胸 中 者, 妙 在 位 置 自 如。

Hữu địa thượng chi sơn thủy, hữu họa thượng chi sơn thủy, hữu mộng trung chi sơn thủy, hữu hung trung chi sơn thủy. Địa thượng giả diệu tại khưu hác thâm thúy, họa thượng giả diệu tại bút mặc lâm ly, mộng trung giả diệu tại cảnh tượng biến ảo, hung trung giả diệu tại vị trí tự như.

83. Tính kế một ngày thì trồng chuối; tính kế một năm thì trồng trúc; tính kế mười năm thì trồng liễu, tính kế trăm năm thì trồng thông.

一 日 之 計, 種 蕉 ; 一 歲 之 計, 種 竹 ; 十 年 之 計, 種 柳 ; 百 年 之 計,種 松。

Nhất nhật chi kế chủng tiêu, nhất tuế chi kê chủng trúc, thập niên chi kế chủng liễu, bá niên chi kế chủng tùng.

84. Lúc mưa xuân nên đọc sách, lúc mưa hè nên đánh cờ, lúc mưa thu nên lục soạn đồ cất dấu, lúc mưa đông nên uống rượu.

春雨宜讀書,夏雨宜弈棋,秋雨宜檢藏, 冬 雨 宜 飲 酒。

 Xuân vũ nghi độc thư, hạ vũ nghi dịch kỳ, thu vũ nghi kiểm tàng, đông vũ nghi ẩm tửu.

85. Thơ văn được cái khí mùa thu thì hay, từ khúc được cái khí mùa xuân thì hay.

詩 文 之 體, 得 秋 氣 為 佳 ; 詞 曲 之 體, 得 春 氣 為 佳。

Thi văn chi thể, đắc thu khí vi giai; từ khúc chi thể, đắc xuân khí vi giai.

86. Bút mực dùng để viết, không cần phải quá tốt, nhưng dùng để viết trên lụa thì không thể không cần bút tốt; sách dùng để đọc, không cần phải quá hoàn bị, nhưng dùng để tra cứu thì không thể không cần sách hoàn bị; cảnh sơn thủy khi du ngoạn không cần phải quá đẹp, nhưng nếu chọn đất làm nhà, không thể không cần đất đẹp.

抄 寫 之 筆 墨, 不 必 過 求 其 佳, 若 施 之 g g 縑 素, 則 不 可 不 求 其 佳 ; 誦 讀 之 書 籍, 不 必 過 求 其 備, 若 以 供 稽 考, 則 不 可 不 g 求 g 其 備 ; 遊 歷 之 山 水, 不 必 過 求 其 妙, 若 因 之 卜 居,則 不 可 不 求 其 妙。

Sao tả chi bút mặc, bất tất quá cầu kỳ giai, nhược thi chi kiêm tố, tắc bất khả bất cầu kỳ giai; tụng độc chi thư tịch, bất tất quá cầu kỳ bị, nhược dĩ cung kê khảo, tắc bất khả bất cầu kỳ bị; du lịch chi sơn thủy, bất tất quá cầu kỳ diệu, nhược nhân chi bốc cư, tắc bất khả bất cầu kỳ diệu.

87. Người ta mà không có bậc thánh hiền, làm sao có thể biết hết mọi điều? Biết được một, nhưng lại lo rằng không chỉ có một, mà phải tìm tòi để biết cho được hai, đó là bậc trên; biết được một, nhân người ta nói mới biết thêm được hai, đó là bậc thứ; biết được một, người ta nói tới hai mà chẳng chịu tin, còn kém một bậc; biết được một, nghe người ta nói đến hai lại khó chịu, thì còn kém nữa.

人 非 聖 賢, 安 能 無 所 不 知 ? 祇 知 其 一, 惟 恐 不 止 其 一, 復 求 知 其 二 者, 上 也 ; 止 知 其 一, 因 人 言 始 知 有 其 二 者, 次 也 ; 止 知 其 一, 人 言 有 其 二 而 莫 之 信 者, 又 其 次 也 ; 止 知 其 一, 惡 人 言 有 其 二 者, 斯 下 之 下矣。

Nhân phi thánh hiền, an năng vô sở bất tri. Chỉ tri kỳ nhất, duy khủng bất chỉ kỳ nhất, phục cầu tri kỳ nhị giả, thượng dã; chỉ tri kỳ nhất, nhân nhân ngôn, thủy tri hữu kỳ nhị giả, thứ dã; chỉ tri kỳ nhất, nhân ngôn hữu kỳ nhị nhi mạc chi tín giả, hựu kỳ thứ dã; chỉ tri kỳ nhất, ố nhân ngôn hữu kỳ nhị giả, tư hạ chi hạ hỹ.

88. Điều sử quan ghi chép, là thế giới thẳng; điều mà quan lại ghi chép là thế giới ngang.

史 官 所 紀 者, 直 世 界 也 ; 職 方 所 載 者, 橫 世 界 也。

Sử quan sở ký giả, trực thế giới dã; chức hương sở tải giả, hoành thế giới dã.

89. Tiên thiên bát quái là để nhìn thẳng, hậu thiên bát quái là để nhìn ngang[48].

先 天 八 卦, 豎 看 者 也 ; 後 天 八 卦, 橫 看 者 也。

Tiên thiên bát quái thụ khan giả dã, hậu thiên bát quái hoành khan giả dã.

90. Chứa sách không khó, xem sách mới là khó; xem sách không khó, đọc sách mới là khó; đọc sách không khó, ứng dụng được mới là khó; ứng dụng được cũng không khó, nhớ được mới là khó.

藏 書 不 難, 能 看 為 難 ; 看 書 不 難, 能 讀 為 難 ; 讀 書 不 難, 能 用 為 難 ; 能 用 不 難, 能 記 為 難。

Tàng thư bất nan, năng khán vi nan, khán thư bất nan, năng độc vi nan, độc thư bất nan, năng dụng vi nan, năng dụng bất nan, năng ký vi nan.

91. Tìm tri kỷ nơi bạn bè, dễ; tìm tri kỷ nơi thê thiếp, khó; tìm tri kỷ nơi vua tôi càng khó khăn hơn nữa.

求 知 己 於 朋 友, 易 ; 求 知 己 於 妻 妾, 難 ; 求 知 己 於 君 臣, 則 尤 難 之 難。

Cầu tri kỷ ư bằng hữu, dị; cầu tri kỷ ư thê thiếp, nan; cầu tri kỷ ư quân thần, tắc vưu nan chi nan.

92. Thế nào là người tốt? Không làm hại đời là người tốt. Thế là người xấu? Làm hại cho đời là người xấu.

何 謂 善 人 ? 無 損 於 世 者, 則 謂 之 善 人。 何 謂 惡 人 ? 有 害 于 世 者, 則 謂 之 惡 人。

Hà vị thiện nhân? Vô tổn ư thế giả, tắc vị chi thiện nhân. Hà vị ác nhân? Hữu hại ư thế giả, tắc vị chi ác nhân.

93. Có công phu đọc sách, đó là phúc; có tiền của giúp người, đó là phúc; có học vấn để trứ thuật, đó là phúc; chuyện thị phi không làm bận đến tai, đó là phúc; có những người bạn uyên bác, ngay thẳng, đó là phúc.

有 工 夫 讀 書, 謂 之 福 ; 有 力 量 濟 人, 謂 之 福 ; 有 學 問 著 述, 謂 之 福 ; 無 是 非 到 耳, 謂 之 福 ; 有 多 聞 、 直 、 諒 之 友, 謂 之 福。

Hữu công phu độc thư vị chi phúc, hữu lực lượng tế nhân vị chi phúc, hữu học vấn trước thuật vị chi phúc, vô thị phi đáo nhĩ vị chi phúc, hữu đa văn trực lượng chi hữu vị chi phúc.

94. Con người không gì vui cho bằng nhàn. Nhàn đâu phải là không có gì để làm. Có nhàn mới đọc được sách, có nhàn mới du ngoạn được danh lam thắng cảnh, có nhàn mới giao du được với những bạn có ích, có nhàn mới uống được rượu, có nhàn mới viết được sách. Niềm vui trong thiên hạ, còn có gì lớn hơn nó nữa?

人 莫 樂 於 閒, 非 無 所 事 事 之 謂 也。 閒 則 能 讀 書, 閒 則 能 遊 名 勝, 閒 則 能 交 益 友, 閒 則 能 飲 酒, 閒 則 能 著 書。 天 下 之 樂, 孰 大 於 是?

Nhân mạc lạc ư nhàn, phi vô sở sự sự chi vị dã. Nhàn tắc năng độc thư, nhàn tắc năng du danh thắng, nhàn tắc năng giao ích hữu, nhàn tắc năng ẩm tửu, nhàn tắc năng trước thư. Thiên hạ chi lạc, thục đại ư thị?

95. Văn chương là sơn thủy trên án thư, sơn thủy là văn chương trên mặt đất.

文 章 是 案 頭 之 山 水, 山 水 是 地 上 之 文 章。

Văn chương thị án đầu chi sơn thủy, sơn thủy thị địa thượng chi văn chương.

96. Bốn vần bình, thượng, khứ, nhập : đó là cái lý nhất định. Nhưng chữ đọc theo thanh nhập thì ít, không thể nói được rằng phàm là chữ thì có bốn vần. Người đời điều chỉnh vần bằng vần trắc, đối với những chữ không có thanh nhập, bèn lấy những vần không tương hợp để vào phía dưới làm chữ phụ thuộc. Các chữ phụ thuộc nếu không có ba thanh bình, thượng, khứ thì cũng giống như phụ nữ góa chồng gán cho đàn ông góa vợ, cũng còn tạm được. Nếu chữ phụ thuộc có đủ ba âm thanh bình, thượng, khứ mà gượng bắt phải theo ta tất giống như quan hệ với phụ nữ đã có chồng, làm sao được?

平 、 上 、 去 、 入 , 乃 一 定 之 至 理。 然 入 聲 之 為 字 也 少 , 不 得 謂 凡 字 有 四 聲 也。 世 之 調 平 仄 者 , 于 入 聲 之 無 其 字 者 , 往 往 以 不 相 合 之 音 隸 於 其 下。 為 所 隸 者 , 苟 無 平 、 上 、 去 之 三 聲, 則 是 以 寡 婦 配 鰥 夫, 猶 之 可 也。 若 所 隸 之 字, 自 有 其 平 、 上 、 去 三 聲, 而 欲 強 以 從 我, 則 是 干 有 夫 之 婦 矣, 其 可 乎?

Bình, thượng, khứ, nhập, nãi nhất định chi chí lý. Nhiên nhập thanh chi vi tự dã thiểu, bất đắc vị phàm tự hữu tứ thanh dã. Thế chi điệu bình trắc giả, vu nhập thanh chi vô kỳ tự giả, vãng vãng dĩ bất tương hiệp chi âm lệ ư kỳ hạ. Vi sở lệ giả, cẩu vô bình, thượng, khứ chi tam thanh, tắc thị dĩ quả phụ phối quan phù, do chi khả dã. Nhược sở lệ chi tự, tự hữu kỳ bình, thượng, khứ tam thanh, nhi dục cưỡng dĩ tòng ngã, tắc thị can hữu phu chi phụ hỹ, kỳ khả hồ?

97. Thủy hử là bộ sách tả cảnh giận dữ, Tây du ký là bộ sách tả cảnh giác ngộ, Kim bình mai là bộ sách tả cảnh ai oán buồn rầu.

《水 滸 傳》是 一 部 怒 書,《西 遊 記》是一 部 悟 書,《金 瓶 梅》是 一 部 哀 書。

Thủy hử truyện thị nhất bộ nộ thư, Tây du ký thị nhất bộ ngộ thư, Kim bình mai thị nhất bộ ai thư.

98. Đọc sách mà sướng nhất ắt đọc sách sử, vì vui ít mà giận nhiều. Ngẫm cho cùng thì chỗ giận cũng chính là chỗ vui vậy.

讀 書 最 樂, 若 讀 史 書, 則 喜 少 怒 多。 究 之, 怒 處 亦 樂 處 也。

Độc thư tối lạc, nhược độc sử thư, tắc hỷ thiểu nộ đa; cứu chi nộ xứ diệc lạc xứ dã.

99. Nói trước được những điều người khác chưa bàn tới mới là sách lạ, nói được những điều khó nói về vợ con mới là bạn thiết.

發 前 人 未 發 之 論, 方 是 奇 書 ; 言 妻 子 難 言 之 情,乃 為 密 友。

Phát tiền nhân vị phát chi luận, phương thị kỳ thư, ngôn thê tử nan ngôn chi tình, nãi vi mật hữu.

100. Là kẻ sĩ ắt phải có bạn thân. Bạn thân không cần phải là người sống chết có nhau. Đại khái đó là người dù ở cách xa ngàn dặm mà vẫn tin nhau, không bị những lời phù phiếm làm cho dao động; nghe người ta nói xấu về bạn, tức cho đó là lời dèm pha mà thôi; việc đáng làm việc đáng ngưng đều có thể thay bạn mà quyết đoán; hoặc lúc lâm vào cảnh lợi hại, thì giúp đỡ mà không cần để cho bạn biết, và cũng chẳng hề lo bạn có phụ bạc mình không, cứ việc ra sức gánh vác. Được vậy mới gọi là bạn thân.

一 介 之 士, 必 有 密 友, 密 友, 不 必 定 是 刎 頸 之 交。 大 率 雖 千 里 之 遙, 皆 可 相 信, 而 不 為 浮 言 所 動 ; 聞 有 謗 之 者, 即 多 方 為 之 辯 析 而 後 已 ; 事 之 宜 行 宜 止 者, 代 為 籌 畫 決 斷 ; 或 事 當 利 害 關 頭, 有 所 需 而 後 濟 者, 即 不 必 與 聞, 亦 不 慮 其 負 我 與 否, 竟 為 力 承 其 事。 此 皆 所 謂 密 友 也。

Nhất giới chi sĩ, tất hữu mật hữu, mật hữu, bất tất định thị vẫn cảnh chi giao. Đại suất tuy thiên lý chi diêu, giai khả tướng tín, nhi bất vị phù ngôn sở động, văn hữu báng chi giả, tức đa phương vị chi biện tích nhi hậu dĩ, sự chi nghi hành nghi chỉ giả, đại vị trù hoạch quyết đoán, hoặc sự đương lợi hại quan đầu, hữu sở nhu nhi hậu tế giả, tức bất tất dữ văn, diệc bất lự kỳ phụ ngã dữ phủ, cánh vi lực thừa kỳ sự. Thử giai sở vị mật hữu dã.

[1][1] Kinh truyện:Kinh chỉ những tác phẩm kinh điển, truyện thường dùng để lời chú thích và giảng nghĩa những tác phẩm kinh điển ấy.

[1][2] Sử và giám chỉ chung những tác phẩm lịch sử soạn theo lối kinh truyện hoặc theo lối biên niên, nhằm ghi lại những bài học lịch sử cho đời sau.

[1][3] Tức Đào Tiềm, hiệu Uyên Minh, nhà thơ lớn đời Đông Tấn, trả áo từ quan về vui cảnh điền viên. Có bài Quy khứ lai từ rất nổi tiếng. Ông sống thanh cao, và rất yêu hoa cúc, làm nhiều bài thơ về hoa cúc. Trong hai mươi bài thơ “Ẩm tửu” có câu “Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn” 採菊東籬下,悠然見南山 (hái cúc bờ rào phía đông, xa xa thấy núi Nam)

[1][4] Tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được gọi là”Tây Hồ ẩn sĩ”. Ống một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.

[1][5] Tức Vương Huy Chi, con trai nhà thư pháp Vương Hy Chi, tự Tử Do, người đời Đông Tấn. Theo Thế thuyết tân ngữ, Vương Huy Chi có lần đến ở trọ nhà người, bảo trồng trúc. Có người hỏi : “Ở tạm, vậy có phiền gì chăng?”. Vương chỉ cây trúc, bảo: “Hà khả nhất nhật vô thử quân? 何可一日 無 此 君!(Làm sao có thể một ngày thiếu người này được?).

[1][6] Tức Chu Đôn Di, nhà lý học đời Nam Tống, yêu hoa sen, có bài “Ái liên thuyết” nổi tiếng ở đời.

[1][7] Theo Đào hoa viên ký của Đào Tiềm có người nhặt cánh hoa đào trên suối, bèn lần theo con suối đi ngược về nguồn thì gặp một làng trông toàn đào sống thanh bình như cảnh thần tiên. Hỏi ra mới biết tổ tiên họ là những người trốn chính sách tàn bạo của nhà Tần lánh đến đây sống.

[1][8] Danh y thời Tam Quốc, tự Quân Dị. Mõi khi chữa bệnh cho người, không lấy thù lao mà chỉ yêu cầu trồng hạnh. được hơn mười vạn gốc hạnh. Khi hạnh ra trái, ông đem đổi gạo để giúp người nghèo.

[1][9] Tức Mễ Phí đời Nam Tống, yêu đá đến độ si cuồng, có lần khăn áo chỉnh tề ra lạy viên đá gọi là ”ông nhạc” nên bị đời gọi là Mễ Điên.

[1][10] Tứ Dương Quý Phi, rất thích ăn trái vải (lệ chi) của đất Bắc Việt Nam. Đến mùa vải. Đường Minh Hoàng phải cho ngựa trạm mang vải từ miền Bắc Việt Nam đến kinh đô Trường An cho Dương Quý Phi.

[1][11] Nhà thơ đời Đường, hiệu Ngọc Xuyên Tử, rất mê trà, có bài thơ Trà Ca.

[1][12] Tác gia đời Đường có cuốn Trà Kinh, được xem là cuốn kinh điển về trà.

[1][13] Tức Khuất Nguyên, nhà thơ lớn đời Chiến Quốc, có tập Sở Từ nổi tiếng. Trong thơ, ông nói đến cỏ thơm để ví với lòng trung của người quân tử.

[1][14] Trương Hàn, tự Quý Ưng, đời Tấn làm quan ở Lạc Dương, nghe gió thu nổi lên, bỗng nhớ món canh rau rút cá rô (thuần lư) ở quê nhà, bèn từ quan về quê; về sau từ “thuần lư” được dùng để chỉ lòng nhớ quê.

[1][15] Tăng nhân đời Đường, đệ tử của Huyền Trang. Tục tính là Tiền, tự Tàng Chân. Tương truyền ông trồng hàng vạn gốc chuối, dùng lá chuối để viết thay cho giấy.

[1][16] Làm đến tước Đông Lăng hầu đời Tần. Nhà Tần mất, nhà lâm vào cảnh nghèo túng, phải trồng dưa ở phía đông thành Trường An để bán. Dưa lớn trái thơm ngon, người đời gọi là Đông Lăng qua (dưa của Đông Lăng hầu).

[1][17] Theo Văn nghệ loại tụ thì Tống Xử Tông là Thứ sử đời Tấn, có lần mua được một con gà trống có tiếng gáy rất dài, thương yêu rất mực. Con gà học được tiếng người thường cùng Tông nói chuyện suốt ngày, tỏ ra rất thông minh. Xử Tông nhờ đấy mà ăn nói giỏi giang thêm.

[1][18] Hữu Quân tức Vương Hy Chi, nhà thư pháp lỗi lạc của Trung Quốc, chữ của ông rất quý. Tính ông rất thích ngỗng, có lần viết hai chương trong cuốn “Đạo đức kinh” để đem chữ đổi lấy một bầy ngỗng.

[1][19] Cuồng sĩ đời Hậu Hán, được tiến cử lên vua Hán Hiến đế. Tào Tháo, lúc đó là Thừa tướng, sai người triệu Nễ Hành tới. Hành rất hận Tào Tháo lấn át quyền vua nên lúc đối đáp, Nễ Hành chê bai tất cả các văn quan võ tướng của Tào Tháo. Tháo muốn làm nhục, cho Hành làm chức Cổ lại để sớm tối đánh trống hầu những buổi thiết triều hạ. Hành không từ chối. Hôm sau, Tào Tháo mở yến tiệc để thết tân khách, rồi sai Nễ Hành ra đánh trống. Tên đánh trống cũ bảo Hành phải mặc áo mới. Hành không thèm nghe, cứ mặc áo cũ mà vào, xắn tay đánh ba hồi trống , âm tiết tuyệt diệu, nghe văng vẳng như có tiếng đá, tiếng vàng ngân theo ai oán. Cử tọa ngồi nghe đều bùi ngùi sa lệ.  

[1][20] Tức Chiêu Quân, cung phi đời Hán Nguyên Đế (49-33 BC), một trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc. Bị triều đình nhà Hán đem cống cho vua Hung Nô để cầu hòa, Chiêu Quân mang theo cây tỳ bà về phương Bắc để dùng tiếng đàn thổ lộ hết nỗi niềm sầu hận. Sự tích”Chiêu Quân cống hồ” với hình ảnh người con gái dung nhan tuyệt đại mặc áo choàng đỏ, ôm cây tỳ bà cười con ngụa trắng giữa vùng thảo dã mênh mông đã là đề tài cho thi nhân Trung Quốc rất nhiều thế hệ.

[1][21] Tức Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên tiêu diệt các nước chư hầu để thống nhất Trung Quốc. Thủy Hoàng có lần lên núi Thái sơn nghỉ dưới gốc thông, bèn phong cho cây thông chức Ngũ đại phu. Sau nhà Tần bị Hạng Vũ diệt.

[1][22] Vua nước Vệ thời Xuân Thu Chiến Quốc, rất mê hạc. Mỗi khi Vệ Ý-Công đi chơi đâu trên các cỗ xe loan, chim hạc đậu bao quanh, gọi là Hạc tướng quân. Vì thế mà bị rợ Địch phương Bắc cướp nước.

[1][23] Nhân vật đời Hán Vũ Đế, cực kỳ uyên bát rất họat kê, sống trong triều mà không bao giờ màng chuyện chính trị. Đời sau cho là ông muốn lánh đời chốn triều đình. Cá vàng bơi trong bể nước không ai ăn thịt, chim én tía làm tổ dưới mái nhà không bị ai quấy phá, chúng cứ an nhiên tự tại, quả là cuộc sống thần tiên.

[1][24] Tuy Đông Phương Sóc cận kề vua, nhưng không chấp thái quá, tránh được họa sát thân. Nên nhập thế mà vẫn như là xuất thế.

[1][25] Một cao tăng đời Nam Tống. Dù là thiền sư nhưng ông vẫn thường giao du với giới quan lại, cùng Tô Đông Pha để lại nhiều giai thọai. Nên xuất thế mà vẫn như là nhập thế.

[1][26] Tên là Hựu, tự Thúc Tử (211-278), danh thần đời Tây Tấn. Cuối đời Tam Quốc, sau khi Tư Mã Viêm diệt được nhà Ngụy, cùng Dương Thúc Tử bàn kế họach diệt Ngô. Ông ra trấn nhậm thành Tương Dương, làm đô đốc Kinh Châu, khai khẩn đồn điền, tích trữ lương thảo, chuẩn bị kế hoạch diệt Ngô. Nhưng ngày thường ông vẫn mang đai chùng ặc áo cừu mỏng, không mặc áo giáp, cùng tướng Ngô là Lục Kháng cho sứ cầm cờ tiết đi lại, nhằm để thu phục nhân tâm người nước Ngô vùng Giang Hán.

[1][27] Mùa xuân sinh cơ thịnh vượng, khí tượng mới mẻ, đó là đặc sắc của tự nhiên. Mùa thu khắp chốn quạnh hiu, trời cao mây nhạt, là tiết điệu khác của tự nhiên.

[1][28] Cây sư tức cây thung, tuy to lớn nhưng gỗ không dùng được vào việc gì nên không bị đốn chặt, cũng như người nhờ bất tài mà hưởng trọn được tuổi trời; cỏ thi là loại cỏ dùng để bói toán thời cổ đại, để tiên đoán sự việc; chim âu vốn ung dung tự tại; hươu nai là loại thú tương truyền biết phân biệt được thị phi; bướm là loại trùng thanh khiết xinh đẹp, được Trương Trào xem là hóa thân của tài tử; côn là loài cá, cùng với chim bằng, được dùng Trang Tử dùng làm hình tượng tiêu dao trong Nam hoa kinh.

[1][29] Thiên Tề vật luận (luận về sự bình đẳng của vạn vật) trong Nam hoa kinh chép rằng Trang Chu nằm mơ thấy mình hóa thành bướm, tỉnh dậy không biết là mình hóa ra bướm hay bướm hóa ra mình.

[1][29] Xem chú thích số 12.

[1][30] Tức Phí Trường Phòng, tên một vị phương sĩ đời Đông Hán có thuật rút đất.

[1][31] Tức Lý Thiếu Quân, tên một vị phương sĩ có thuật gọi hồn người chết.

[1][32] Xem chú thích 18

[1][33] Lưu Phần (?- 842) người đất Xương Thị, đời Đường. Năm Thái hòa thứ hai, triều đình nhà Đường mở khoa thi để tuyển chọn quan lại. Trong bài thi của mình, Lưu Phần đả kích kịch liệt hiện tượng chuyên quyền của bọn hoạn quan đương thời, tự tiện phế lập Hoàng đế, tham dự triều chính, gây hại cho thiên hạ, và yêu cầu Hoàng đế giết sạch bọn chúng. Ban giám khảo cực lưc tán thưởng bài văn của Lưu Phần nhưng lại sợ uy quyền của bọn hoạn quan, nên không dám để Lưu Phần đỗ. Việc này gây nên tiếng vang lớn lúc bấy giờ.

[1][34] Vì lúc này lễ thả đèn đã chấm dứt.

[1][35] Vì mưa tạnh thì đào nở.

[1][36] Tiết khí thức 6 trong 24 khí tiết theo trong âm lịch, khoảng 20 tháng 4 Dương lịch

[1][37] Để khỏi ảnh hưởng đến trăng.

[1][38] Vì tháng tám là tháng ngắm trăng tuyệt nhất.

[1][39] Bạch Môn là tên gọi của Nam Kinh.

[1][40] Tam Ngô là Tô Châu (Đông Ngô), Nhuận Châu (Trung Ngô), Hồ Châu (Tây Ngô) là những vùng có cảnh sông nước đẹp ở Trung Quốc.

[1][41] Tên một tỉnh ở Trung Quốc, có ngọn Lô sơn nổi tiếng nhiều cảnh thác đẹp.

[1][42] Tên gọi kinh đô của Trung Quốc thời xưa .

[1][43] Nguyên văn là ”không cốc túc âm”, có nghĩa là nơi hang vắng mà nghe tiếng chân đi, dùng để chỉ sự việc hay lời nói lạ lùng, hiếm khi nghe thấy.

[1][44] Cỏ huyên còn gọi là vong ưu thảo (cỏ quên buồn). Tương truyền Thục Đế mất nước long sầu hận không nguôi nên hóa làm chim đổ quyên để kêu suốt đêm, nghe rất ai oán. Ý nói nên giúp người ta quên ưu phiền chứ không nên khiến người ta thêm sầu muộn.

[1][45] Giới luật, thiền định và trí huệ là ba pháp môn tu hành của đạo Phật. gọi là Tam học. Giữ giới luật thì tâm được định, và nhờ định mà phát sinh trí huệ.

[1][46] Tinh là chất dinh dưỡng hấp thụ từ tinh hoa thức ăn, khí là sức hoạt động của nội tạng, thần là phần linh hoạt biểu hiện sức sống. Quan hệ giữa tinh, khí, thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Sinh mạng con người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Tinh, khí, thần là ba khái niệm cơ bản trong phép tu tiên của đạo gia, được gọi là Tam bửu.

[1][47] Đừng để trở nên thô tục

[1][48] Tiên thiên bát quái tương truyền được vua Phục Hy phỏng theo Hà Đồ mà vạch ra, hàm chứa những nội dung cơ bản của học thuyết Âm Dương. Còn hậu thiên bát quái do Văn Vương dựa theo Lạc Thư mà vạch ra , hàm chứa cái dụng của Bát Quái trong sự biến dịch của Âm Dương. Tiên thiên bát quái được xem như là Thể, còn hậu thiên bát quái được xem như là Dụng.


Thảo luận