TRIẾT HỌC VỀ THẦN IŚVARA
THỰC CHỨNG TÂM LINH : MỤC TIÊU CỦA BHAKTI-YOGA
CẦN CÓ MỘT BẬC ĐẠO SƯ (GURU)
PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI NHIỆT TÂM CẦU ĐẠO VÀ VỊ ĐẠO SƯ
CÁC HÓA THÂN
ÂM OM HUYỀN MẬT
SÙNG BÁI VẬT THAY THẾ HAY NGẪU TƯỢNG
PHÁP MÔN TU HỌC
TU TẬP PHÁP MÔN BHAKTI NHƯ THẾ NÀO
BƯỚC ĐẦU BUÔNG XẢ
SỰ BUÔNG XẢ CỦA HÀNH GIẢ BHAKTA PHÁT SINH TỪ YÊU THƯƠNG
BẢN CHẤT TỰ NHIÊN CỦA BHAKTI-YOGA VÀ BÍ QUYẾT CỐT YẾU
NHỮNG HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU
LÒNG BÁC ÁI
TÍNH NHẤT NHƯ GIỮA TRI THỨC TÂM TRUYỀN VÀ TÌNH YÊU TỐI THƯỢNG
TAM GIÁC TÌNH YÊU
THƯỢNG ĐẾ CỦA TÌNH THƯƠNG LÀ BẰNG CHỨNG CỦA CHÍNH NGÀI
CÁCH BIỂU HIỆN TÌNH YÊU CỦA CON NGƯỜI DÀNH CHO THƯỢNG ĐẾ
KẾT LUẬN
Bhakti-yoga là cuộc tìm cầu Thượng Đế thực sự và chân chính, một cuộc tìm cầu bắt đầu, tiếp tục và kết thúc trong tình yêu. Một phút giây cuồng điên trong tình yêu nhiệt cuồng dành cho Thượng Đế cũng đem lại cho chúng ta sự giải thoát vĩnh viễn. “Bhakti là tình yêu mãnh liệt dành cho Thượng Đế” Narāda đã nói như thế trong bản chú giải về “Cách ngôn bhakti“. “Khi một người đạt đến cảnh giới bhakti thì anh ta yêu thương muôn loài, mến thương vạn hữu, không ghét bỏ một đối tượng nào, và tâm luôn được hoan hỷ thỏa mãn”. “Tình yêu này không được quy kết thành bất kỳ lợi ích nào của thế gian”; bởi vì khi nào tâm còn mang dục vọng thế gian thì tình yêu đó sẽ không xuất hiện”. “Bhakti-yoga vĩ đại hơn karma-yoga, vĩ đại hơn jnāna-yoga; bởi vì mục tiêu của các yoga đó là nhắm đến một đối tượng, trong khi bhakti-yoga là sự tựu thành của chính nó, là phương tiện của chính nó, là cứu cánh của chính nó”.
Từ xưa đến nay, bhakti là đề tài thường xuyên cho các vị hiền triết ở đất nước chúng tôi. Không kể đến những nhà chú giải bhakti như Shāndilya hay Nārada, các nhà chú giải lỗi lạc về Vyāsa-Sutras – những người công khai ủng hộ tri thức (jnāna) – cũng viết nhiều điều mang tính rất gợi mở về tình yêu thương. Ngay cả khi các nhà chú giải này lo giải thích nhiều điểm trong kinh văn, nếu không giải thích được tất cả, để chúng tải được một loại tri thức khô khan, thì các cuốn kinh này – đặc biệt là trong những chương bàn về sự sùng bái – lại không dễ để xử lý theo cách này.
Thật ra không có quá nhiều khác biệt giữa jnāna (tri thức) và bhakti (yêu thương) như đôi khi mọi người tưởng thế. Khi tiếp tục nghiên cứu, chúng ta sẽ thấy rằng cuối cùng chúng cũng đồng quy tại cùng một điểm. Đối với rāja-yoga cũng thế, khi ta theo đuổi nó như là phương tiện đạt đến giải thoát chứ không phải là công cụ để lừa phỉnh những người vô tâm hời hợt (nhưng thật không may là nó thường bị những tay bịp bợm, buôn thần bán thánh lợi dụng theo cách này) thì nó cũng đưa ta đến cùng một đích.
Lợi thế lớn nhất của bhakti nằm ở chỗ nó là pháp môn tự nhiên nhất, dễ thực hành nhất để đạt đến cứu cánh tâm linh hoằng đại mà chúng ta nhắm đến. Còn điểm bất lợi rất lớn của nó là trong những hình thức thấp kém nhất, nó thường suy đồi thành một loại cuồng tín đáng kinh tởm. Những tín đồ cuồng tín trong Ấn giáo, Hồi giáo hay Cơ Đốc giáo từ trước đến nay đều được tuyển chọn một cách độc đoán từ đám người sùng bái bhakti ở trình độ thấp kém. Nếu không có sự quyến luyến vào một đối tượng thương yêu duy nhất (nishthā) thì tình yêu chân thực không nẩy nở, nhưng nó cũng là nguyên nhân khiến người ta phủ nhận hết thảy mọi thứ khác. Trong mọi tôn giáo và mọi quốc gia, những tâm trí yếu đuối hoặc chưa phát triển, chỉ một cách duy nhất để yêu thương lý tưởng của họ : đó là căm ghét mọi lý tưởng khác. Điều này giải thích vì sao cũng một người hết lòng yêu thương lý tưởng Thượng Đế của mình, tận tâm cống hiến cho lý tưởng tôn giáo của mình, lại biến thành một kẻ cuồng tín la gào khi nhìn thấy, hoặc nghe nói bất cứ điều gì về một lý tưởng khác. Loại tình yêu này có phần nào giống với bản năng của một con chó giữ của cho chủ khỏi bị trộm cướp; chỉ khác là bản năng của con chó bén nhạy hơn lý tính con người, bởi vì con chó không bao giờ nhầm lẫn người chủ với kẻ thù, cho dù người chủ có mặc bất kỳ bộ quần áo nào đến trước mặt nó. Còn điều này nữa, kẻ cuồng tín mất hết mọi năng lực phán đoán. Trong trường hợp của anh ta, những nhận xét cá nhân có sức hấp dẫn làm anh ta say mê đến mức tất cả những lời của một người nào đó nói ra, dù đúng hay sai thì đối với anh ta đều không thành vấn đề; điều duy nhất mà anh ta đặc biệt thận trọng muốn biết, đó là người nào nói[1]. Cũng một con người, rất tốt bụng, nhân hậu, chân thành và thân ái với những người cùng quan điểm như mình, nhưng sẽ không ngần ngại làm những việc đê tiện nhất, khi đối xử với những người nằm ngoài phạm vi tình huynh đệ của tôn giáo anh ta.
Nhưng sự nguy hiểm nay chỉ nằm trong giai đoạn gauni của bhakti, hay giai đoạn chuẩn bị. Khi bhakti đã chín muồi và đã bước vào hình thức gọi là parā, hay giai đoạn tối thượng thì không còn lo sợ những biểu hiện cuồng tín đáng ghê tởm này nữa. Khi đó linh hồn, do bị chế ngự bởi một hình thức bhakti cao hơn, quá cận kề với Thượng Đế của Yêu Thương nên không còn biến thành công cụ để cho lòng căm thù phát tán nữa.
Tất cả chúng ta không phải ai ai cũng tạo được sự hòa hài trong việc xây dựng nên những tính cách của mình trong đời sống; thế nhưng ta biết rằng tính cách nào dung hợp hài hòa được cả ba yếu tố này – tri thức, tình yêu và jnāna-yoga – thì đó là kiểu mẫu cao quý nhất. Có ba thứ cần thiết để cho con chim bay được : đôi cánh và cái đuôi dùng làm bánh lái. Tri thức (jnāna) là một cái cánh, tình yêu (bhakti) là cái cánh kia, và pháp môn jnāna-yoga là cái đuôi giữ thăng bằng. Do đó, người nào không thể theo đuổi đồng thời cả ba hình thức này một cách hài hòa thì nên chọn riêng một bhakti làm pháp môn tu tập, vì ta cần luôn nhớ rằng hình thức và lễ nghi, dù tuyệt đối cần thiết để linh hồn tiến bộ, lại không có một giá trị nào khác ngoài việc đưa ta đến trạng thái cảm nhận được tình yêu mãnh liệt nhất dành cho Thượng Đế.
Có một chút khác biệt trong quan niệm của các đạo sư về tri thức hay yêu thương, dù cả hai đều chấp nhận năng lực của bhakti. Các tín đồ jnāna xem bhakti là phương tiện giải thoát, còn các tín đồ bhakti thì xem bhakti vừa là phương tiện vừa là cứu cánh. Theo ý tôi thì đây là phân biệt chứ không khác biệt. Đúng ra thì bhakti, khi được sử dụng như một phương tiện, có nghĩa thực sự là hình thức sùng bái thấp; khi hình thức sùng bái thấp này được tu dưỡng thêm nữa thì nó không còn tách biệt với hình thức bhakti cao hơn. Mỗi giáo phái đều có vẻ như nhấn mạnh đến pháp môn sùng bái đặc thù của mình mà quên mất rằng khi yêu thương trọn vẹn thì chân trí sẽ tự nhiên xuất hiện mà không cần phải tìm kiếm, và khi đạt đến cứu cánh thì tình yêu thương trọn vẹn không thể tách biệt với chân trí.
Hãy ghi nhớ điều này, rồi chúng ta hãy thử tìm hiểu những nhà chú giải lỗi lạc về kinh điển Vedanta đã nói gì về đề tài này. Trong bản chú giải kinh điển Vedānta, Śankara nói : “Cho nên mọi người nói: ‘Người đó tận tụy thờ vua; hay ‘Người đó tận tụy thờ vị đạo sư ‘; họ nói như thế về người theo hầu một vị đạo sư, hoặc làm điều tương tự, xem việc theo hầu là cùng đích. Tương tự như vậy, họ nói : ‘Người vợ hiền dịu nghĩ đến người chồng đáng yêu của mình ở nơi đất khách quên người’; ở đây cũng có ý muốn nói đến nỗi nhớ nhung da diết, hoài hoài”. Đó là ý nghĩa của sự tận tụy theo Śankara.
“Lại nữa, trầm tưởng là sự nhất tâm quán tưởng [về đối tượng được quán tưởng], lưu chuyển không đứt đoạn như dầu rót từ bình này sang bình khác. Khi kiểu quán tưởng này đạt đến mục đích [trong mối tương quan với Thượng Đế] thì mọi ràng buộc đều đứt đoạn. Bởi vậy, kinh điển nói về sự nhất tâm quán tưởng, xem như là phương tiện để đạt đến giải thoát. Quán tưởng cũng có hình thức tương tự như nhìn thấy, vì nó cũng có ý nghĩa tương tự như trong đoạn kinh văn sau : ‘Khi nhìn thấy Ngài ở xa hoặc ở gần thì mọi trói buộc trong lòng đều đứt đoạn, mọi hoài nghi đều tiêu tan, và mọi hiệu quả của công việc đều biến mất’. Ngài ở gần thì có thể thấy được, còn Ngài ở xa thì chỉ có thể quán tưởng. Tuy nhiên, kinh lại nói rằng chúng ta phải nhìn thấy được khi Ngài ở xa cũng như khi ở gần, do đó, nó chỉ ra rằng loại quán tưởng ở trên cũng có giá trị như nhìn thấy. Quán tưởng, khi được thăng hoa cao độ, sẽ có hình thức như nhìn thấy …. Sùng bái là sự nhất tâm quán tưởng, như ta thấy trình bày trong những đoạn kinh văn quan trọng. Tri kiến, vốn là sự lễ bái lặp đi lặp lại, cũng được mô tả như là nhất tâm quán tưởng … Do đó, ký ức – khi đã đạt đến đỉnh cao của điều thiện cũng như trực thức [direct perception] – được nói đến trong Śruti như là pháp môn giải thoát. ‘Không thể đạt đến Ātman này bằng các bộ môn khoa học, cũng không thể đạt đến bằng trí năng hay bằng cách nghiên cứu các kinh Veda. Chỉ có người nào khao khát Ātman thì người đó đạt đến Ātman, Ātman tự thân hiển lộ ra cho người đó’. Ở đây, sau khi nói rằng chỉ nghe, suy tư hay quán tưởng suông đều không phải là những pháp môn đạt đến Ātman, Śruti nói tiếp : ‘Người nào khao khát Ātman thì người đó đạt đến Ātman. Cái cực kỳ yêu thương được khát khao mơ tưởng; người nào cực kỳ yêu thương Ātman thì người đó trở thành đối tượng được yêu thương nhất của Ātman. Cho nên người được yêu thương này có thể đạt đến Ātman, đấng Chúa Tể sẽ đích thân giúp đỡ’. Bởi vì đấng Chúa Tể đã nói : ‘Kẻ nào nhất tâm luyến tưởng đến Ta và sùng bái Ta bằng tình yêu thương thì ta sẽ chỉ đường cho nguyện vọng họ, để họ đến được với Ta’. Bởi vậy, kinh điển nói rằng kẻ nào thiết tha với việc nhất tâm quán tưởng – một hình thức tương tự với trực thức, bởi vì nhất tâm quán tưởng gắn bó thiết thân với đối tượng của nhận thức bằng hồi tưởng [memory-perception] – thì kẻ đó khát khao Ātman Tối Thượng, chứng đắc được Ātman Tối Thượng. Nhất tâm quán tưởng được biểu thị bằng từ bhakti”.
Bhagavān Rāmānuja, trong bản chú giải câu cách ngôn đầu tiên của các kinh Vedānta, đã nói như thế đấy.
Còn Bojha, trong bản chú giải kinh của Patanjali, “Sùng bái đấng Chí Tôn”, đã nói :
“Pranidhāna (sùng bái)[2] là một dạng của bhakti, trong đó không cần tìm cầu kết quả, chẳng hạn như những lạc thú giác quan v.v… mà mọi công việc đều được hồi hướng đến đấng Chúa Tể, vị Đạo Sư của mọi đạo sư. Bhagavān Vyāsa, khi chú giải cũng cuốn kinh này, đã định nghĩa pranidhāna là “một hình thức của bhakti, qua đó ân sũng của đấng Chí Tôn đến với hành giả yogi, và ban phúc lành cho người đó bằng cách chấp nhận những khát vọng của ông ta. Còn theo Śāndilya thì “bhakti là tình yêu mãnh liệt dành cho Thượng Đế. Tuy nhiên, định nghĩa hay nhất là của Prahlāda, vua của các tín đồ bhakti : “Cầu xin tình yêu mãnh liệt và bất tử – mà đám người vô minh dành cho những đối tượng phù du – không trượt mất khỏi tim tôi, khi tôi quán tưởng về Ngài!”
Tình yêu này dành cho ai? Cho đấng Chúa Tể Tối Cao Iśvara[3]. Tình yêu dành cho bất kỳ đối tượng nào, dù có vĩ đại đến đâu, cũng không thể là bhakti; như Rāmānuja đã nói trong tác phẩm Śhri Bhāshya của mình, khi trích dẫn một achāryā – có nghĩa là vị đại tông sư :
“Từ Brahmā cho đến cục đất, tất cả sự vật trong thế gian này đều chịu cảnh nô lệ cho vòng sinh tử luân hồi, do nghiệp (karma) gây nên; bởi vậy không có ích gì khi dùng chúng để làm đối tượng quán tưởng, vì tất cả sự vật đó đều nằm trong vô minh và biến đổi vô thường”.
Khi chú giải từ anurakti
do Śāndilya sử dụng, nhà chú giải Svapneśvara nói rằng nó có nghĩa là anu (sau) và rakti (luyến tưởng, quyến luyến); có nghĩa đây là sự quyến luyến
xuất hiện sau khi ta hiểu được bản chất và sự vinh quang của Thượng Đế; nếu
không thì sự quyến luyến mù quáng với bất kỳ một đối tượng nào, chẳng hạn như
vợ con, cũng đều không phải là bhakti. Do đó, chúng ta thấy rõ rằng bhakti là
một loạt những nỗ lực tinh thần muốn thực chứng tôn giáo bằng sự sùng bái thông
thường, và kết thúc nơi tình yêu tối thượng dành cho thần Iśvara.
Thần Iśvara là ai? “Từ Ngài mà vũ trụ được tạo dựng, tồn tại và hoại diệt.” – Ngài là thần Iśvara, “đấng Hằng Cửu, đấng Thuần Tịnh, đấng Tự Tại Giải Thoát từ Vô Thủy, đấngToàn Năng, đấng Toàn Trí, đấng Yêu Thương Muôn Loài, vị Đạo Sư của tất cả các đạo sư”. Và trên tất cả, “Ngài là đấng Chí Tôn có bản chất là lòng từ bi bất khả tư nghì”.
Đây hiển nhiên là định nghĩa về một Thượng Đế Nhân Thể. Như vậy thì có đến hai Thượng Đế – một Thượng Đế “Không phải cái này, Không phải cái này”, tức đấng Satchidānanda hay đấng Tồn-Tại–Tri-Thức–Lạc-Phúc [Existence-Knowlegde-Bliss] của các triết gia, và một Thượng Đế của Yêu Thương của những hành giả bhakta? Không, chỉ có một đấng Satchidānanda, đồng thời cũng là Thượng Đế của Yêu Thương, Thượng Đế Phi Nhân Thế và Nhân Thể là một. Người ta vẫn luôn hiểu rằng vị Thượng Đế do các hành giả bhakta sùng bái không hề tách biệt và khác biệt với Brahman. Tất cả đều là Brahman, cái Duy Nhất bất nhị; chỉ vì Brahman – tức cái Hợp Nhất hay Tuyệt Đối – quá đỗi trừu tượng nên khó lòng để tín đồ yêu thương hay sùng bái, do đó các hành giả bhakta đã chọn khía cạnh tương đối của Brahman, tức thần Iśvara, đấng Cai Trị Tối Cao. Ta hãy dùng phép ẩn dụ như vầy : Brahman cũng được tạo bằng đất sét, hoặc bằng một loại chất liệu được dùng để tạo nên muôn loài. Vì được làm bằng đất sét nên muôn loài đều là một, nhưng hình thức và cách hiển lộ làm chúng khác nhau. Trước đó, muôn vật đã tiềm tàng trong đất sét, và dĩ nhiên là chúng tương đồng về bản chất; nhưng khi đã mang một hình tướng, và chừng nào hình tướng đó còn tồn tại thì chúng tách biệt và khác biệt nhau. Con chuột bằng đất sét không bao giờ có thể biến thành con voi bằng đất sét, bởi vì khi hiển lộ thì chỉ có hình tướng mới giúp chúng được là chúng, mặc dù khi không còn tướng đất sét thì tất cả chúng đều là một. Thần Iśvara là biểu hiện tối cao của Thực Tại Tuyệt Đối, hay nói khác đi, là nhận thức tối cao của tâm trí con người về Cái Tuyệt Đối. Sự sáng tạo là vĩnh hằng, cho nên thần Iśvara cũng vĩnh hằng.
Trong phẩm (pāda) thứ tư của chương bốn của cuốn kinh mình, sau khi nói rằng khi con người đạt đến giải thoát thì nơi họ tự nhiên xuất hiện quyền năng và tri thức hầu như vô tận, Vyāsa lại dùng hình thức cách ngôn phát biểu rằng không ai có thể đạt đến quyền năng sáng tạo, cai quản và hủy diệt vũ trụ được cả, bởi vì những điều đó chỉ thuộc về quyền năng của Thượng Đế mà thôi. Khi chú giải cuốn kinh này, thật dễ dàng để các nhà phê bình theo thuyết nhị nguyên chỉ ra rằng một linh hồn lệ thuộc – một jiva – vĩnh viễn không bao giờ có được quyền năng vô hạn, cũng như không thể độc lập hoàn toàn với Thượng Đế. Madhvāchārya, nhà phê bình nhị nguyên triệt để, đề cập đến đoạn kinh văn này theo phương pháp tóm lược quen thuộc của mình bằng cách trích dẫn một câu thơ từ Varāha Purāna.
Nhà bình chú Rāmānuja, khi chú giải câu cách ngôn này, đã nói :
“Đã nảy sinh nỗi hoài nghi này, quyền năng độc nhất của đấng Chí Tôn – nghĩa là quyền năng sáng tạo, cai trị và hủy diệt vũ trụ, thậm chí là quyền thống trị muôn loài – có nằm trong phạm vi quyền năng của những đấng giải thoát hay không? Hoặc nếu không thế thì vinh quang của những đấng giải thoát có phải chỉ nằm trong trực thức về đấng Chí Tôn hay không? Và chúng ta gặp lập luận phản bác sau : ‘Đấng giải thoát đạt được quyền năng cai trị vũ trụ này là điều hợp lý, bởi vì Mundaka Upanishad (III,i,3) đã nói rằng một đấng giải thoát, hoàn toàn không còn tội lỗi, sẽ đạt đến sự tương đồng cực đỉnh, có nghĩa là hợp nhất với Tinh Thần Tối Thượng. Một đoạn kinh văn khác còn nói thêm rằng tất cả ý muốn của vị đó đều được thực hiện’. Vị đó không thể đạt đến sự tương đồng cực đỉnh và không thể thực hiện tất cả ý muốn của mình, nếu không đạt được quyền năng cai trị vũ trụ này, tức quyền năng độc nhất của Tinh Thần Tối Thượng. Do đó, để có thể thực hiện được tất cả ý muốn của mình và đạt đến sự tương đồng cực đỉnh này thì phải chấp nhận rằng đấng giải thoát đạt được quyền năng cai trị toàn thể vũ trụ này’.
“Để giải đáp vấn đề này, chúng ta trả lời rằng đấng giải thoát đạt được tất cả quyền năng, trừ quyền năng cai trị vũ trụ. Cai trị vũ trụ có nghĩa là điều khiển được hình tướng cùng đời sống và khát vọng của tất cả loài hàm thức và phi hàm thức. Những đấng giải thoát, do gột bỏ được tất cả những bức màn vô minh che lấp bản tính, nên chỉ hưởng thụ được trạng thái nhận thức Brahman một cách tự do vô ngại, chứ không đạt được quyền năng cai trị vũ trụ. Điều đó được chứng minh trong đoạn kinh văn sau : ‘Đấng mà từ đó đã sinh ra muôn loài, đấng mà nhờ đó muôn loài đã sinh được sống, đấng mà từ đó muôn loài xuất phát rồi lại quay về – hãy hỏi về đấng đó. Đó là Brahman’. Nếu cai trị vũ trụ là phẩm tính chung cho tất cả những đấng giải thoát thì đoạn kinh văn trên hẳn đã không dùng để xác định Brahman, mà Brahman được xác định như là đấng Cai Trị vũ trụ này. Thuộc tính bất thường đó chỉ xác định được một điều. Do đó, trong những đoạn kinh văn như : ‘Con trai yêu dấu của ta, người con duy nhất, lúc khai thủy, đã tồn tại đấng Duy Nhất không hai. Đấng đó nhìn và cảm nhận : “Ta sẽ sản sinh ra muôn loài”. Đấng đó bèn phóng nhiệt ra’; ‘Chỉ có Brahman thực sự tồn tại lúc khởi thủy. Đấng Duy Nhất đó tiến hóa dần. Đấng đó phóng chiếu ra các hình thức được ban lạc phúc : Kshatras – Varuna, Soma, Rudra, Parjanya, Yama, Mrityu, Ishana’; ‘Ātman thực sự tồn tại lúc khởi thủy; ngoài ra không có gì dao động; Ngài nghĩ đến việc phóng chiếu thế giới; và sau đó Ngài phóng chiếu cả thế giới’; Chỉ có Nārāyana tồn tại, chứ không phải là Brahmā hay Ishana, hay Dyāvā-Prithivi, cũng không phải là các tinh tú, sông biển, lửa, Soma hay Mặt Trời. Nhưng Ngài không thấy vui thú trong cảnh cô đơn. Sau một hồi suy nghĩ, Ngài tạo ra một người con gái, mười cơ quan v.v…’, và trong những kinh điển khác, có những câu như : ‘Người sống trên trái đất thì tách biệt với trái đất, người sống trong Ātman thì tách biệt với Ātman v.v… – các Śruti nói đến một đấng Tối Cao chủ quản việc cai trị vũ trụ … Trong những đoạn kinh văn mô tả việc cai trị vũ trụ không hề có đoạn nào đề cập đến những đấng giải thoát theo nghĩa những vị đó sẽ cai trị vũ trụ”.
Khi chú giải kinh tiếp theo, Rāmānuja nói :
“Nếu các ông (chỉ đối thủ) cho rằng không phải thế, vì rõ ràng là trong kinh Veda có những đoạn kinh văn nói ngược lại, thì những đoạn kinh văn đó đề cập đến vinh quang của những đấng giải thoát đang an trú trong cảnh giới của những thần linh thứ cấp”.
Đây cũng là giải pháp dễ dãi cho vấn nạn này. Mặc dù hệ thống triết học của Rāmānuja chấp nhận toàn thể hợp nhất, nhưng theo ông ta thì vẫn có sự sai biệt trong toàn thể tính của vạn hữu. Do đó, đối với mọi mục tiêu thực tế thì hệ thống này vẫn mang tính nhị nguyên, thật dễ dàng để Rāmānuja tách biệt rạch ròi một linh hồn nhân thể [personal soul] với một Thượng Đế Nhân Thể.
Bây giờ chúng ta hãy thử tìm hiểu triết gia Śankara – vị đại biểu vĩ đại của trường phái Advaita – phải nói gì ở điểm này. Chúng ta sẽ thấy triết học Advaita bảo lưu mọi kỳ vọng và hoài bão của triết học nhị nguyên nguyên vẹn như thế nào, đồng thời đề xuất giải pháp cho vấn đề hòa hợp với số phận cao siêu của nhân loại. Kẻ nào khao khát giữ lại bản tâm riêng biệt ngay cả khi đã giải thoát, và duy trì được sự khác biệt, kẻ đó sẽ có nhiều cơ hội để thực chứng được khát vọng của mình và hưởng thụ lạc phúc của một Brahman đầy đủ các phẩm tính. Đó là những người đã được nói đến trong Bhāgavata Purāna như vầy :
“Ôi đức vua, đó là những phẩm tính rạng rỡ của một đấng Chúa Tể, tức là những vị hiền triết đã tìm được niềm hỷ lạc độc nhất trong Tự Ngã, và đã giải thoát khỏi tất cả gông cùm trói buộc; những vị yêu thương đấng Vô Sở Bất Tại bằng một tình yêu thuần túy vì tình yêu.”
Họ là những vị mà học phái Sāmkhya đề cập đến như là những người mang bản tính hòa hợp. Sau khi giác ngộ viên mãn trong kiếp này, các vị đó tái sinh làm đấng Chúa Tể cai trị khắp cả muôn nghìn thế giới, nhưng không một ai có thể sáng ngang với đấng Iśvara. Những người nào đã đạt đến cảnh giới phi năng tạo phi sở tạo, phi năng tri phi sở tri, vô ngã vô nhân, vô chủ khách, vô quan hệ (như vậy ai là người nhìn ai người bị nhìn?) – thì những người đó đã siêu quá vạn hữu, đạt đến cảnh giới “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”[4], đó là cảnh giới mà các Śruti diễn tả là :”Không phải cái này, không phải cái này”. Nhưng đối với những người không thể hoặc không muốn đạt đến cảnh giới đó thì điều không thể tránh được là phải có hình tượng tam vị nhất thể về một đấng Brahman bất khả phân, bao gồm : thế giới tự nhiên, linh hồn và người duy trì dung hợp được cả hai – tức đấng Iśvara.
Bởi vậy, khi Prahlāda quên mất bản thân khi quán tưởng Thượng Đế, anh ta không còn thấy vũ trụ hay nguyên nhân tạo thành vũ trụ; tất cả đối với anh ta đều là một thể Như Nhất Vô Biên, không còn sự phân biệt giữa danh tướng nữa; nhưng ngay khi anh ta nhớ lại mình là Prahlāda thì cả vũ trụ hiện ra trước mặt, và cùng xuất hiện với vũ trụ là đấng Chúa Tể – “kho tàng chứa vô lượng phẩm tính đầy lạc phúc”. Đối với những nữ mục đồng Gopi được thụ hưởng lạc phúc cũng vậy. Khi họ đánh mất ý thức về bản thân thì tất cả bọn họ đều là những thần Krishna, nhưng khi họ sực nhớ Krishna là vị thần mà họ thờ phụng thì họ trở lại là những nữ mục đồng Gopi, và ngay lập tức :
“Thần Krishna xuất hiện ra với họ với nụ cười trên gương mặt như hoa sen, khoác áo hoàng bào, cổ mang những tràng hoa, hiện thân chiến thắng [trong vẻ đẹp] của thần tình yêu.” (Bhāgavata Purāna X, xxxii, 2)
Bây giờ hãy quay về với Āchārya Śhankara của chúng ta. Ông nói :
“Những ai nhờ sùng bái đấng Brahman mang phẩm tính mà hội thông được với đấng Cai Trị Tối Cao, nhưng vẫn giữ tâm trí riêng của mình, thì vinh quang của họ là vô hạn hay hữu hạn? Khi nỗi hoài nghi này nảy sinh thì các đối thủ lập luận như vầy : Vinh quang của họ là vô hạn, bởi vì kinh văn có nói : ‘Họ đạt đến Vương quốc của riêng mình’, ‘Tất cả thần linh đều phải lễ bái họ’; và ‘Những khát vọng của họ đều được thỏa mãn trong mọi cõi thế ‘. Để giải đáp cho vấn đề này, Vyāsa viết : ‘Không có được quyền năng cai trị vũ trụ. Ngoại trừ quyền năng sáng tạo, cai trị và hủy diệt vũ trụ, còn những quyền năng khác như animā (vi biến) v.v… thì những vị đã giải thoát đều đạt được. Việc cai trị vũ trụ thuộc về quyền năng của đấng Iśvara viên mãn vĩnh hằng. Vì sao? Vì tất cả kinh điển đều xem Ngài là chủ thể của việc sáng tạo, cai trị và hủy diệt vũ trụ, v.v… nên tất cả những vị đã giải thoát đều không được nhắc đến trong lĩnh vực này, dù trong bất kỳ mối liên quan nào. Chỉ có đấng Chúa Tể Tối Cao mới thực sự có quyền năng cai trị vũ trụ. Tất cả những kinh văn nói đến việc sáng tạo, cai trị và hủy diệt vũ trụ, v.v…đều chỉ đến Ngài. Ngoài ra còn có một tính từ “viên mãn vĩnh hằng”. Kinh điển cũng nói rằng các quyền năng như animā v.v… của đấng giải thoát đều xuất phát từ việc tìm cầu và sùng bái Thượng Đế. Bởi vậy những vị đó không có vị trí trong việc cai trị vũ trụ. Lại nữa, họ còn sở hữu tư tâm nên ý chí họ có thể khác nhau, khi người này muốn tạo dựng thì người kia lại muốn hủy diệt. Cách duy nhất để tránh xung đột là bắt mọi ý chí phải quy thuận một ý chí duy nhất nào đó. Do đó, kết quả là ý chí của những đấng giải thoát phải tùy thuộc vào ý chí của đấng Cai Trị Tối Cao”.
Như vậy, bhakti chỉ có thể hướng đến Brahman về phương diện
cạnh nhân thể của Ngài. “Lý tưởng của đấng Vô Hình rất khó lĩnh hội với
những ai tự đồng hóa mình với thể xác” Bhakti giúp chúng ta có thể trôi
lướt nhẹ nhàng theo dòng chảy tự nhiên. Sự thực là chúng ta không thể nào hình
dung được Brahman nếu không dựa vào khái niệm nhân hình, nhưng đối với tất cả
những gì mà ta biết thì chúng có đúng như nhau hay không? Cách đây nhiều thế
kỷ, Bhagavān Kapila – nhà tâm lý học vĩ đại mà cả thế giới đều biết – đã chứng
minh rằng ý thức con người là trong những nguyên tố cấu tạo nên mọi đối tượng
của nhận thức và khái niệm, trong thế giới ngoại tại cũng như thế giới nội tâm.
Chúng ta có thể thấy rằng, bắt đầu từ thể xác chúng ta cho đến đấng Iśvara, mọi
đối tượng của nhận thức chúng ta đều là ý thức này cộng thêm một cái gì đó
khác, bất kể là thứ gì. Và sự pha trộn không thể tránh được này thường được
chúng ta cho là thực tại. Trên thực tế thì đó là, và mãi mãi sẽ là, toàn bộ
thực tại mà tâm trí con người có thể nhận biết. Bởi vậy, nếu bảo rằng thần
Iśvara không thực hữu, vì Ngài mang hình dáng con người thì điều đó hoàn toàn
vô nghĩa. Điều đó nghe giống hệt như cuộc tranh cãi ầm ĩ trong triết học phương
Tây giữa thuyết duy tâm và thuyết duy thực, một cuộc tranh cãi trông rất đáng
sợ, mà nền tảng của nó chỉ là trò chơi chữ trên từ “thực hữu” [real].
Quan niệm về thần Iśvara bao trùm hết mọi lĩnh vực được xác định và bao bàm bởi
từ “thực hữu“; và thần
Iśvara cũng thực hữu như bất cứ thứ gì khác trong vũ trụ này. Rốt cuộc thì từ thực hữu cũng không có nghĩa gì khác
với nghĩa được nêu ra từ trước đến nay. Đó là quan niệm triết học của chúng tôi
về thần Iśvara.
Đối với các hành giả bhakta thì những chi tiết khô khan này chỉ cần thiết để củng cố thêm ý chí của họ; ngoài điều đó ra thì chúng hoàn toàn vô ích đối với họ. Bởi vì họ đang đi trên con đường thích hợp rất nhanh để dẫn họ vượt qua những lĩnh vực mù mờ và hỗn loạn của lý tính, và đạt đến cảnh giới thực chứng. Nhờ sự hộ niệm của đấng Chúa Tể, họ đạt đến cảnh giới mà lý tính gàn dỡ và bất lực bị bỏ xa lại ở đằng sau, và những bước mò mẫm của trí năng trong đêm tối phải nhường bước cho ánh sáng trực thức rực rỡ tợ triều ngày. Họ không còn lý luận hay tin tưởng, mà hầu như chỉ trực kiến. Họ không còn lý luận mà chỉ cảm nhận. Điều đó há chẳng phải là trực kiến Thượng Đế, cảm nhận Thượng Đế, và hưởng lạc phúc nơi Thượng Đế cao hơn bất cứ những thứ gì khác hay sao? Những hành giả bhakta nào cho rằng điều đó còn cao hơn cả cảnh giới moksha – giải thoát – thì họ luôn tự thấy mãn túc, đầy đủ. Đó chẳng phải là lợi ích tối cao đó hay sao? Trên thế gian này có những người – và rất nhiều người trong số đó – tin chắc rằng chỉ những gì mang lại cơm ăn áo mặc mới là có ích. Ngay cả tôn giáo, Thượng Đế, sự vĩnh cửu và linh hồn đối với họ cũng chẳng có thứ gì mang lại ích lợi, vì chúng chẳng đem lại cho họ tiền bạc hay một tiện nghi vật chất nào. Đối với loại người như thế thì tất cả những gì không làm thỏa mãn cho giác quan và không làm dịu đi lòng khao khát đều là những thứ vô dụng. Tuy nhiên, trong tâm trí của mỗi người thì tính hữu dụng lại được quy định bởi những nhu cầu đặcthù riêng biệt. Do đó, đối với những người mà tâm trí không bao giờ vượt cao hơn nhu cầu ăn uống, sinh con đẻ cái rồi chết thì cái được của họ duy nhất chỉ nằm trong phạm vi của lạc thú giác quan; và họ phải tái sinh nhiều kiếp để học cảm nhận được tính thiết yếu của một cái gì đó cao cả hơn, dù rất đỗi mơ hồ. Còn những người xem mối quan tâm trọn đời đến linh hồn là cao cả hơn rất nhiều những giá trị phù du của trần thế, những người xem sự thỏa mãn giác quan chỉ là trò chơi vô tâm của con trẻ thì đối với những người đó, Thượng Đế và tình yêu dành cho Thượng Đế tạo thành tính hữu dụng duy nhất và tối cao trong đời người. Xin cảm tạ Thượng Đế là vẫn còn những người như thế trong cái thế gian quá đỗi trần tục này.
Như đã nói, bhakti-yoga được chia thành hai giai đoạn : gauni hay giai đoạn chuẩn bị và parā hay giai đoạn chung cuộc. Khi tiếp tục nghiên cứu, chúng ta sẽ thấy rằng giai đoạn chuẩn bị là điều không thể tránh được nếu ta cần đến nhiều sự trợ giúp cụ thể trên đường tu tập. Và thực ra thì những phần thần thoại và biểu tượng trong mọi tôn giáo đều là sự phát triển tự nhiên bao trùm lấy tâm hồn mộ đạo và giúp nó hướng về Thượng Đế. Các bậc đạo sư tâm linh vĩ đại chỉ được sản sinh ra trong những hệ thống tôn giáo có thần thoại và nghi thức phát triển phong phú, điều đó cũng là một sự kiện có ý nghĩa. Những hình thức tôn giáo cuồng tín khô khan nào muốn triệt hạ tất cả những gì thơ mộng, đẹp đẽ và hùng tráng, muốn tận diệt tất cả những gì đem đến cánh tay vịn vững chắc cho những tâm trí còn non trẻ đang chập chững bước đi trên con đường hướng về Thượng Đế – những hình thức tôn giáo muốn đạp đổ cây đòn dông trên nóc nhà tâm linh; rồi trong quan niệm ngu xuẩn và mê tín về chân lý, chúng cố gắng quét sạch tất cả những gì đem lại sự sống, tất cả những gì cung cấp chất liệu cấu thành để cho cây tâm linh phát triển trong tâm hồn con người –, những tôn giáo đó sẽ sớm nhận thấy rằng cái mà chúng để lại đằng sau chỉ là một cái vỏ trống không, một cơ cấu ngôn từ rỗng tuếch không có nội dung và tính ngụy biện, có lẽ thêm có một chút màu mè của công việc dọn rác xã hội hoặc cái gọi là tinh thần cải cách.
Số lượng tín đồ đông đảo của những tôn giáo đó đều là những
người theo thuyết duy vật, dù ý thức hay vô thức. Cứu cánh và mục tiêu của họ
trong đời này và đời sau là hưởng thụ, đó thực sự là khởi thủy và chung cục của
đời người. Ishtāpurta – công việc đại loại như quét đường, hót rác nhằm đem lại
tiện ích vật chất cho cuộc sống con người – đối với họ là cùng đích của đời
người. Đám tín đồ vừa ngu dốt vừa cuồng tín đó bước ra khỏi lớp vỏ màu mè của
họ để gia nhập với đám người vô thần và duy vật – vì họ xứng đáng để làm điều
đó – càng sớm chừng nào thì thế giới này càng tốt đẹp chừng nấy. Một chút thực
hành của lòng công chính hay của sự thực chứng tâm linh còn đáng giá hơn hàng
triệu lời nói rỗng tuếch hoặc những cảm xúc nhảm nhí. Các bạn thử chỉ có chúng
tôi thấy có đấng đạo sư vĩ đại nào, chỉ một người thôi, được sinh ra từ đám bụi
khô khan của sự ngu dốt và cuồng tín này; nếu các bạn không thể làm được thì
hãy im lặng, mở rộng lòng ra trước ánh sáng chân lý rạng ngời; và hãy ngồi
xuống, như những đứa trẻ, dưới chân những người biết mình đang nói gì, đó là
những vị hiền triết xứ Ấn Độ. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe những gì họ nói.
Mọi linh hồn đều hướng đến sự hoàn hảo, và rốt cuộc mọi sinh thể đều sẽ đạt đến trạng thái hoàn hảo. Hiện tại ta đang là gì thì đó là chính là kết quả của hành vi và tư tưởng của ta trong quá khứ; và trong tương lai ta sẽ ra sao thì điều đó sẽ chính là kết quả của hành vi và tư tưởng của ta hiện tại. Nhưng điều này, nghĩa là sự định hình số phận, vẫn không ngăn ta nhận sự trợ giúp từ bên ngoài; không những thế, trong phần lớn mọi trường hợp, sự trợ giúp đó là điều tuyệt đối cần thiết. Khi sự trợ giúp đó xuất hiện, nó sẽ kích thích những năng lực và khả tính của linh hồn. Đời sống tâm linh được đánh thức, sự phát triển được thổi vào một luồng sinh khí, cuối cùng con người trở nên linh thánh và hoàn hảo.
Xung lực kích thích này không thể tìm cầu từ kinh sách. Mỗi linh hồn chỉ có thể đón nhận sự kích thích đó từ một linh hồn khác, chứ không thể từ bất kỳ một thứ gì khác. Chúng ta có thể nghiên cứu kinh sách suốt đời, có thể trở thành những nhà trí thức uyên bác, nhưng rốt cuộc chúng ta sẽ thấy mình chẳng tiến triển được chút nào trong đời sống tâm linh. Thực tế cho thấy sự phát triển tri thức ở mức độ cao không phải lúc nào đi đôi với sự phát triển tâm linh nơi một con người. Khi nghiên cứu kinh sách, đôi khi chúng ta bị lừa phỉnh bởi suy nghĩ rằng chúng ta đang nhận được sự trợ giúp tâm linh; nhưng nếu phân tích kết quả của việc tự mình đọc sách, chúng ta sẽ thấy rằng có hết mức đi nữa thì cũng chỉ phần trí năng, chứ không phải phần tâm linh sâu thẳm trong ta, mới nhận được sự trợ giúp đó. Kinh sách không phù hợp trong việc kích thích sự phát triển tâm linh, lý do là như vầy : dù hầu hết mỗi người chúng ta đều có thể nói rất tuyệt vời về những sự kiện tâm linh, nhưng khi va chạm với hoạt động và sự sống của đời sống tâm linh thực sự, chúng ta mới thấy mình còn thiếu sót khủng khiếp. Để kích thích được tâm linh thì xung lực đó phải phát khởi từ một linh hồn khác.
Người mà linh hồn phát sinh ra xung lực đó được gọi là guru hay đấng đạo sư; và người mà linh hồn đón nhận xung lực đó chuyển tới được gọi là śishya hay môn đồ. Để chuyển được xung lực như thế đến bất kỳ linh hồn nào thì trước tiên linh hồn mang xung lực đó phải có khả năng truyền đạt được nó đến một linh hồn khác, có thể nói như vậy; thứ hai là linh hồn mà xung lực đó truyền đạt tới phải phù hợp để đón nhận nó. Hạt giống phải là một hạt giống đang sống, và cánh đồng phải được cày bừa sẵn; khi cả hai điều kiện đã hoàn tất thì sự phát triển kỳ diệu cho một tôn giáo đích thực sẽ diễn ra. “Vị đạo sư chân chính phải có những quyền năng kỳ diệu, và người nghe giảng phải thông minh”. Khi cả hai đều thực sự kỳ diệu và phi thường thì sẽ diễn ra sự thức tỉnh rực rỡ trong thế giới tâm linh, không thể khác được. Chỉ như thế mới là những đạo sư chân chính, và cũng chỉ như thế mới là người môn đồ chân chính, những kẻ nhiệt tâm cầu đạo chân chính. Ngoài ra thì tất cả những kẻ khác đều chỉ đang chơi đùa với tâm linh tính. Họ chỉ đánh thức được một ít tò mò, khêu gợi được một ít khao khát của trí năng, nhưng cũng chỉ đang đứng ở mép rìa bên ngoài của chân trời tôn giáo. Hiển nhiên là ngay trong điều đó vẫn có một giá trị– như nó vẫn có thể xảy ra trong dòng thời gian, khi con người phát khởi một khát vọng tôn giáo thực sự – và đây là quy luật huyền bí của thiên nhiên : ngay khi cánh đồng đã sẵn sàng thì hạt giống phải được gieo xuống; ngay khi một linh hồn khát khao tìm đến với tôn giáo thì kẻ truyền đạt sức mạnh tôn giáo phải xuất hiện để giúp đỡ linh hồn đó. Khi năng lực hấp dẫn ánh sáng tôn giáo trong linh hồn người nhận đã tròn đầy và mạnh mẽ thì năng lực đáp ứng lại sức hấp dẫn và truyền đi trong ánh sáng đó tất nhiên cũng phải xuất hiện.
Tuy nhiên, theo phương pháp này cũng có những nguy cơ lớn. Chẳng hạn có nguy cơ đối với linh hồn đón nhận, khi nó nhầm lẫn những cảm xúc nhất thời với khát vọng tôn giáo thực sự. Chúng ta có thể tìm hiểu điều đó trong chính bản thân mình. Nhiều lần trong đời, khi những người thân của ta mất, ta như nhận phải một cú đấm, ta cảm thấy đất trời như sụp đổ, cả thế giới như chảy lọt qua kẻ tay, ta cảm thấy phải cần đến một cái gì đó bền vững hơn, cao cả hơn, và ta cần phải hướng về tôn giáo. Nhưng chỉ vài ngày sau, khi cơn sóng trong lòng đã đi qua đi thì đâu vẫn hoàn đấy, chúng ta vẫn trở lại y như trước. Tất cả chúng ta thường ngộ nhận những xúc động mãnh liệt như thế là khát vọng tôn giáo thực sự; hễ khi nào chúng ta còn ngộ nhận những cảm xúc nhất thời đó thì sự khao khát thực sự và bất tận của linh hồn hướng về tôn giáo sẽ không bao giờ đến, và chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy được vị đạo sư chân chính truyền đạt được tâm linh tính vào trong bản tâm ta. Bởi vậy, mỗi khi chúng ta muốn than vãn về cuộc sưu tầm chân lý của mình, cuộc sưu tầm mà chúng ta đang khát khao theo đuổi, và chứng minh rằng nó hoàn toàn vô ích, thì thay vì than vãn như thế, nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là hãy nhìn sâu vào tâm hồn mình, và tìm hiểu xem khát vọng đó có phải là thực hay không. Trong phần lớn các trường hợp, chúng ta đều phát hiện ra rằng mình chưa phù hợp để đón nhận chân lý, rằng mình chưa có khát vọng tâm linh thực sự.
Về phía bậc đạo sư hay guru, xét theo nghĩa là người truyền đạt năng lực, thì nguy cơ còn lớn hơn nữa. Có rất nhiều người đắm chìm trong vô minh ngu muội, nhưng trong lòng lại huênh hoang tự mãn, ngỡ rằng mình thông hiểu mọi thứ; không chỉ dừng ở đó, họ còn sẵn sàng mang kẻ khác trên vai; thế là kẻ đui dẫn gã mù, cả hai đều lăn tòm xuống hố.
“Kẻ ngu thì sống trong bóng tối, người trí thì sống trong sự ngạo mạn, vênh váo với sở tri phù phiếm; họ cứ bước đi lạng chạng loanh quanh, như kẻ đui dẫn gã mù. (Mundaka Upanishad I, ii, 8).
Thế gian này đầy những người như thế. Ai ai cũng muốn làm
thầy thiên hạ, giống như gã ăn mày muốn tặng một triệu đô-la! Những gã ăn này
đó lố bịch thế nào thì những vị thầy kia cũng lố lăng thế ấy[5].
Như vậy, làm thế nào để ta có thể nhận ra một bậc đạo sư? Mặt trời không cần đến ngọn đuốc để hiện ra cho ta thấy, ta không cần đến ánh sáng để nhìn thấy nó. Khi mặt trời mọc, chúng ta tự nhiên biết sự kiện đó theo bản năng, và khi một bậc đạo sư xuất hiện để trợ giúp chúng ta thì theo bản năng, linh hồn cũng nhận ra chân lý đã chiếu sáng chói lọi lên nó. Chân lý hiển lộ minh nhiên, nó không cần đến chứng cứ để chứng minh mình là chân thực, mà tự thân nó đã tỏa sáng rạng ngời. Nó thâm nhập vào tận những ngóc ngách sâu kín nhất trong bản tính chúng ta; và trước mặt nó, toàn thể vũ trụ đứng lên tuyên bố : “Đây là chân lý”. Những bậc đạo sư mà trí tuệ cùng chân lý tỏa sáng như ánh mặt trời là những vị đạo sư vĩ đại nhất mà thế giới từng biết đến, và một bộ phận lớn lao của nhân loại đã sùng bái họ như Thượng Đế. Nhưng chúng ta cũng có thể nhận được sự trợ giúp từ những bị đạo sư tương đối kém vĩ đại hơn; chỉ có điều là chúng ta không đủ trực giác để nhận xét đúng đắn về vị đạo sư mà ta thọ nhận giáo pháp cùng sự dìu dắt. Cần phải có những thử thách, những điều kiện nào đó để thấy thỏa mãn về các vị đạo sư, đối với môn đồ cũng vậy.
Những điều kiện cần thiết đối với môn đồ là tâm hồn thuần tịnh, sự khát khao tri thức cùng sự kiên trì. Không một linh hồn bất tịnh nào có thể có đạo tâm thực sự. Thuần tịnh trong tư tưởng, lời nói và hành vi là điều kiện tuyệt đối cần thiết cho bất kỳ ai muốn trở thành người có đạo tâm. Đối với lòng khát khao tri thức thì, theo một quy luật từ xưa, ta thu hoạch những gì mình cần. Không một ai trong chúng ta có thể tìm được thứ gì khác với cái mà tâm ta đã gắn chặt vào. Khát khao tôn giáo một cách thành tâm là điều vô cùng khó khăn, chứ hoàn toàn không dễ dàng như ta thường nghĩ. Nghe thuyết pháp hay đọc kinh sách chưa phải là bằng chứng cho thấy tâm ta thực sự cần đến tôn giáo. Cần phải phấn đấu liên tục, chiến đấu thường xuyên, tranh đấu không gián đoạn với bản tính thấp hèn trong ta, cho đến khi ta thực sự cảm nhận nhu cầu cao cả hơn, và đạt đến chiến thắng. Vấn đề không phải là ngày một ngày hai, hay năm này kiếp nọ, mà cuộc chiến đấu này có thể kéo dài cả hàng trăm kiếp. Sự thành công có thể đến ngay lập tức, nhưng ta phải sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi trong quãng thời gian tựa hồ như vô tận. Những môn đồ khởi tâm với tinh thần kiên trì như thế thì cuối cùng chắc chắn sẽ thành công và chứng ngộ.
Về phần các đạo sư, ta phải nhận thấy rằng ông ta hiểu biết phần tinh túy của kinh điển. Cả thế giới đều đọc Kinh Thánh, kinh Veda và kinh Koran; nhưng chúng cũng chỉ là văn tự, ngữ pháp, ngữ nguyên, ngữ học – nghĩa là những bộ xương khô của tôn giáo. Vị đạo sư nào tập trung quá nhiều vào ngôn từ, và để cho sức mạnh của chúng lôi kéo tâm trí mình đi thì vị đạo sư đó làm lạc mất tinh thần của kinh điển. Chỉ có tri thức về tinh thần kinh điển mới tạo nên một vị đạo sư thực thụ. Mạng lưới ngôn từ trong kinh điển giống như một khu rừng bạt ngàn, khiến tâm trí con người lạc lối trong đó và không tìm thấy đường ra. “Mạng lưới ngôn từ giống như một khu rừng rậm, khiến tâm trí cứ lang thang vì tò mò tìm hiểu”. “Những phương pháp kết hợp ngôn từ đa dạng, những phương pháp diễn thuyết đa dạng bằng những lời lẽ hoa lệ, những phương pháp giải thích đa dạng kinh điển theo kiểu tầm chương trích cú chỉ đem dùng cho những cuộc tranh luận và sự vui thú của các học giả uyên bác, chứ chúng hoàn toàn không đưa đến sự phát triển trong nhận thức tâm linh”. Những kẻ nào vận dụng phương pháp đó để truyền bá tôn giáo cho người khác chỉ muốn phô trương kiến thức để thế giới ca ngợi họ là những học giả vĩ đại. Các bạn sẽ thấy rằng không một vị đạo sư vĩ đại nào trên thế giới lại đi vào lĩnh vực giải thích kinh văn; họ không hề cố gắng “khúc giải kinh văn” [text-torturing]; không bao giờ chơi đùa mãi mãi với ý nghĩa của ngôn từ và ngữ căn của chúng. Vậy mà họ lại giảng dạy một cách cao nhã, trong khi những kẻ khác chẳng có một chút gì để dạy thì lại nhặt ra một từ nào đó, rồi đôi khi còn viết ra bộ sách dày ba tập bàn về từ nguyên của nó, bàn về người đầu tiên sử dụng từ đó, bàn về cách người đó thường ăn uống ra sao, ngủ lâu như thế nào v.v….
Tôn giả Ramakrishna hay kể cho chúng ta nghe câu chuyện về một người nọ đi vào vườn xoài, và cứ lo đếm những chiếc lá cùng những nhánh, cành – xem xét màu sắc của chúng, so sánh kích thước, và ghi chép lại hết sức cẩn thận; rồi anh ta tham gia và cuộc tranh luận uyên bác về từng chủ đề mà hiển nhiên là họ rất quan tâm. Nhưng trong số đó có một người biết điều hơn, anh ta không hề quan tâm gì đến tất cả những thứ đó; và thay vì tham gia tranh luận thì anh ta hái xoài mà ăn. Chẳng phải anh ta là người minh triết hay sao? Bởi vậy, hãy bỏ chuyện đếm lá, đếm cành cùng chuyện ghi ghép đó cho những người khác. Loại công việc này cũng có vị trí riêng của nó, nhưng không phải trong lĩnh vực tâm linh. Không bao giờ các bạn thấy một người có đời sống tâm linh mạnh mẽ ở trong đám những người “đếm lá cây” đó đâu. Tôn giáo – mục tiêu tối thượng, vinh quanh tối thượng của con người – không đòi hỏi nhiều công sức lao động kiểu đó. Nếu bạn muốn trở thành một hành giả bhakta thì bạn chẳng cần phải biết thần Krishna được sinh ra ở Mathurā hay Vraja, chẳng cần phải biết ngài làm gì và ngài giảng kinh Gitā chính xác vào thời điểm nào. Bạn chỉ cần cảm nhận được sự khát khao những bài giảng thâm diệu về bổn phận và tình yêu trong kinh Gitā là đủ. Tất cả những điểm đặc thù khác về nó và những tác giả của nó chỉ dành để mua vui cho các học giả. Cứ để cho họ có những gì họ muốn. Hãy nói “Śāntih, śāntih!” (Chúc an lành, chúc an lành!) với những cuộc tranh luận uyên bác của họ, còn phần bạn thì “cứ ăn xoài”.
Điều kiện thứ hai cần có nơi vị đạo sư là sự vô tội. Người ta thường hỏi : “Cớ sao ta lại cần phải nhìn vào nhân cách và cá tính của vị đạo sư? Chỉ cần cân nhắc, đánh giá những gì ông ta giảng, và làm theo là được rồi”. Điều này không đúng. Nếu một ai đó muốn dạy tôi chút gì về động lực học, hóa học hay vật lý thì anh ta có là thế nào đi nữa cũng không sao, bởi vì cái mà những bộ môn khoa học vật lý yêu cầu chỉ thuần là công cụ trí năng; còn trong những bộ mộn khoa học tâm linh thì hoàn toàn không thể có chuyện ánh sáng tâm linh trong linh hồn lại ô uế bất tịnh. Một người bất tịnh có thể dạy được tôn giáo gì? Điều kiện tiên quyết để thủ đắc được chân lý tâm linh cho bản thân mình, hoặc để truyền đạt nó cho người khác, là sự thuần tịnh trong tâm hồn và linh hồn. Thấy được Thượng Đế hay nhìn thấu được cõi bên kia sẽ không bao giờ xảy ra, chừng nào linh hồn còn chưa thuần tịnh. Do đó, đối với vị đạo sư tôn giáo thì trước tiên ta cần phải nhìn xem ông ta là người thế nào, sau đó mới xem đến những lời ông giảng dạy. Vị đạo sư đó phải tuyệt đối thuần tịnh, và chỉ có thế thì những lời giảng của ông ta mới có giá trị, bởi vì ông ta chỉ là người truyền đạt đúng nghĩa. Vị đạo sư đó có thể truyền đạt được gì, nếu như bản thân ông ta không có được sức mạnh tâm linh? Cần phải có dao động tâm linh đáng giá trong tâm vị đạo sư để nó có thể truyền đạt tới được tâm của môn đồ theo kiểu tâm truyền. Trên thực tế, chức năng của vị đạo sư là làm vai trò truyền đạt một cái gì đó, chứ không chỉ đơn thuần là khêu gợi trí năng hay những khả tính khác nào đang có nơi môn đồ. Một cái gì đó thực hữu và khả dụng, được xem như là ảnh hưởng xuất phát từ người thầy và truyền đến môn đồ. Bởi vậy, vị thầy phải thuần tịnh.
Điều kiện thứ ba liên quan đến động cơ truyền đạt. Người thầy không được giáo huấn vì bất kỳ động cơ vị kỷ kín đáo nào – vì tiền bạc, tiếng tăm hay danh vọng; công việc của ông ta chỉ xuất phát từ tình yêu, từ lòng thương yêu thuần túy đối với toàn thể nhân loại. Môi trường duy nhất để truyền đạt sức mạnh tâm linh đó chỉ có thể là tình yêu thương. Bất kỳ một động cơ vị kỷ nào, như mưu cầu lợi lộc hay danh tiếng, sẽ lập tức phá hủy môi trường truyền tải này. Thượng Đế là tình yêu, và chỉ có người nào nhận biết Thượng Đế như là Tình Yêu mới có thể là vị đạo sư thuyết giảng về điều thiện và là Thượng Đế đối với con người.
Khi các bạn thấy tất cả những điều kiện này có đầy đủ nơi vị thầy của mình thì các bạn yên tâm; nếu không thế mà các bạn cứ nghe theo lời giáo huấn của họ thì thật là bất ổn, bởi vì khi vị thầy đó không thể truyền đạt được điều thiện vào tâm hồn các bạn, rất có thể ông ta truyền đạt điều ác. Cần phải dùng mọi biện pháp để chống lại mối nguy hiểm này. “Người nào thông hiểu kinh điển, vô tội, vô nhiễm trước dục lạc và thấu hiểu Brahman một cách sâu xa nhất” thì đó mới là vị chân sư.
Từ những gì đã nói, thì dĩ nhiên điều tiếp theo là không một ai dạy có thể chúng ta thương yêu, đánh giá cao và đồng hóa với tôn giáo ở khắp mọi nơi. “Bài thuyết pháp nằm trong sỏi đá, kinh điển nằm trong dòng suối róc rách, điều thiện nằm trong vạn hữu” – đó là hình tượng nên thơ và hoàn toàn chân thực[6]; nhưng không có gì có thể truyền đạt được mảy may chân lý cho một người, trừ phi trong tâm người đó đã chứa sẵn hạt giống chưa nẩy mầm. Sỏi đá kia, dòng suối nọ thuyết giảng cho ai? Cho những người mà đóa sen trong chốn linh đài đã sẵn sàng khai mở. Và ánh sáng giúp cho hoa sen kia được huy hoàng phơi mở luôn xuất phát từ vị đạo sư minh tuệ và thánh thiện. Khi tâm hồn đã mở phơi ra như thế thì nó dễ dàng tiếp nhận những lời thuyết pháp từ sỏi đá hay sông suối, từ tinh tú nhật nguyệt, từ tất cả những gì hiện hữu trong vũ trụ linh thiêng của chúng ta; còn những tâm hồn ù lì khép kín thì thấy sỏi đá chỉ là sỏi đá, sông suối chỉ là sông suối. Một người mù có thể đi vào viện bảo tàng, nhưng anh ta chẳng được lợi ích gì; trước tiên anh ta phải mở được đôi mắt, và chỉ như thế anh ta mới có thể học hỏi được những điều mà những sự vật trong viện bảo tàng dạy cho mình.
Người khai nhãn cho kẻ nhiệt tâm cầu đạo theo tôn giáo là bậc đạo sư. Do đó, mối quan hệ giữa chúng ta với bậc đạo sư cũng giống như mối quan hệ giữa tổ tiên với con cháu. Nếu trong lòng ta không có sự tin tưởng, sự khiêm cung, sự phục tùng và tôn kính đối với vị đạo sư thì chúng ta không thể nào tiến bộ về phương diện tôn giáo được. Có một sự kiện đầy ý nghĩa, đó là nơi nào mà mối quan hệ này giữa thầy và trò chiếm ưu thế thì chỉ nơi đó mới sản sinh ra được những bậc vĩ nhân tâm linh; còn những quốc gia nào hờ hừng bỏ qua mối quan hệ đó thì vị đạo sư chỉ còn là người diễn thuyết – thầy giảng thì mong kiếm được một ít tiền, còn người nghe giảng thì mong lấp đầy bộ não mình bằng những lời lẽ của thầy, rồi sau đó thì ai lo chuyện người nấy. Trong những tình huống như thế, tâm linh tính hầu như biến thành một số lượng không sao biết được. Không có gì để truyền đạt, mà cũng chẳng có ai để truyền đạt nó. Đối với hạng người như thế thì tôn giáo trở thành việc kinh doanh : họ ngỡ rằng có thể thu hoạch được tôn giáo bằng những đồng đô-la của mình. Lạy Thượng Đế, mong sao tôn giáo có thể thu hoạch được dễ dàng như thế! Nhưng không may là điều đó không thể xảy ra.
Tôn giáo – vốn là tri thức tối thượng và minh triết tối
thượng – không thể mua được, cũng không thể tìm cầu được từ kinh sách. Các bạn
có thể xục xạo từng ngóc ngách của thế giới này, các bạn có thể thám hiểm những
dãy núi Himālaya, Alps và Caucasus, các bạn có thể đo lường đáy biển và do thám
từng xó xỉnh của xứ TâyTạng hay sa mạc Gobi, nhưng các bạn sẽ không bao giờ tìm
thấy nó, cho đến khi nào tâm hồn các bạn đã sẵn sàng để đón nhận nó, và vị đạo
sư của các bạn xuất hiện. Và khi vị đạo sư thiên định này xuất hiện thì hãy
phụng sự người bằng sự tin tưởng và tấm lòng hồn nhiên chân chất của tuổi thơ,
hãy mở rộng lòng ra để đón nhận ảnh hưởng của người, và hãy nhìn Thượng Đế hiển
lộ nơi người. Những ai tìm cầu chân lý bằng tinh thần yêu thương như và tôn
kính như thế vị Thượng Đế của chân lý sẽ khải thị cho họ những điều tuyệt diệu
nhất về Chân-Thiện-Mỹ.
Bất cứ nơi nào mà danh hiệu của Ngài được tuyên xưng thì nơi đó trở nên linh thánh. Thế nên người nào tuyên xưng danh hiệu của Ngài còn linh thánh hơn biết bao nhiêu, và chúng ta còn cần phải tỏ lòng tôn kính xiết bao khi tiếp cận với người mang chân lý tâm linh đến với chúng ta! Những bậc đại sư của chân lý tâm linh như thế thực ra rất hiếm hoi trên thế gian này, nhưng thế gian lại không bao giờ hoàn toàn thiếu vắng họ. Các vị đó luôn là những bông hoa tươi đẹp nhất của nhân loại – đó là một “đại dương nhân ái không vì động cơ bất kỳ nào”. Śri Krishna đã nói trong kinh Bhāgavata “Hãy biết đấng đạo sư chính là Ta”. Khi những đấng đạo sư đó bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi thế gian này thì cõi thế lập tức biến thành một địa ngục đáng kinh tởm, và lao nhanh đến sự hủy diệt.
Cao cả hơn và tôn quý hơn tất cả những vị đạo sư thông thường là một nhóm những vị đạo sư khác, đó là các Hóa Thân (Avatāra) của đấng Iśvara. Họ có thể truyền đạt tâm linh tính chỉ bằng một động tác tiếp xúc, thậm chí chỉ bằng một ý nguyện. Theo mệnh lệnh của các vị đó thì những nhân cách thấp hèn nhất, đê tiện nhất cũng có thể trở thành những vị thánh chỉ trong nháy mắt. Họ là Đạo Sư của tất cả những đạo sư, là sự hiển lộ cao cả nhất của Thượng Đế nơi con người. Chúng ta không thể nào thấy được Thượng Đế trừ phi thông qua những vị đạo sư đó. Chúng ta không thể không sùng bái họ, và thật ra thì họ mới chính là những người duy nhất mà ta phải sùng bái.
Không một ai có thể thực sự thấy được Thượng Đế trừ phi thông qua những sự hiển lộ nơi con người. Nếu ta cố thấy Thượng Đế bằng cách khác thì ta tự biến mình thành một bức biếm họa gớm guốc về Ngài, và tin rằng bức biếm họa đó chẳng kém gì nguyên bản. Có một kẻ ngu nọ, khi được yêu cầu tạo hình tượng thần Śiva, đã lao động hì hục ngày đêm chỉ để tạo ra được tượng một con khỉ. Bởi vậy, khi nào còn cố nghĩ đến Thượng Đế như là Ngài trong sự toàn bích tuyệt đối thì chúng ta luôn luôn chịu thất bại đắng cay nhất; bởi vì chừng nào còn là con người thì chúng ta không thể hình dung Ngài như là cái gì đó cao siêu hơn con người được. Sẽ đến lúc chúng ta siêu việt được bản chất người và nhận biết Ngài y như thực; nhưng chừng nào còn mang thân phận con người thì chúng ta phải sùng bái Ngài nơi con người và như là con người.
Dù có nói cho hết khả năng, dù có cố gắng hết sức mình đi nữa thì các bạn cũng chỉ có thể suy tư về Thượng Đế như một con người. Các bạn có thể dùng trí năng để diễn thuyết hùng hồn về Thượng Đế cùng mọi thứ dưới ánh mặt trời, các bạn có thể trở thành những nhà duy lý vĩ đại, và chứng minh một cách thỏa đáng rằng mọi điều mô tả về các hóa thân của Thượng Đế đều tầm ruồng vô nghĩa. Nhưng chúng ta hãy đến với lý lẽ thực tiễn thông thường trong một lúc. Có gì ở đằng sau thứ trí năng lỗi lạc ấy? Con số không, sự rỗng tuếch, chỉ toàn là bọt mép. Lần sau, khi nghe người nào dùng trí năng để diễn thuyết hùng hồn, phản đối việc sùng bái các Hóa Thân (Avatāra) của Thượng Đế thì các bạn hãy chộp lấy người đó, và hỏi quan niệm của ông ta về Thượng Đế là gì, và ông ta hiểu gì về các khái niệm “toàn năng”, ” vô sở bất tại ” cùng tất cả những thuật ngữ tương tự trong cõi “ý tại ngôn ngoại”. Ông ta thực sự không hiểu gì về các thuật ngữ đó, và không thể định hình được ý nghĩa của bất kỳ một ý tưởng nào mà lại không bị tác động bởi bản chất người của mình. Về điểm này thì ông ta cũng chẳng khá gì hơn một kẻ đi ngoài đường phố, chưa hề đọc một cuốn sách nào. Tuy nhiên, kẻ đi ngoài đường thì im lặng và không quấy rầy sự yên tĩnh của thế gian; trong khi kẻ ba hoa kia lại gây nên đủ thứ phiền toái và khốn khổ cho nhân loại. Rốt cuộc, tôn giáo là thực chứng, và chúng ta cần phải phân biệt thật rạch ròi giữa diễn thuyết suông và kinh nghiệm trực giác. Những gì ta trải nghiệm trong tận cùng sâu thẳm của linh hồn là thực chứng. Thực ra, trong vấn đề này thì không có gì bất thường cho bằng lý lẽ thông thường. Do bản chất của chúng ta hiện nay, chúng ta buộc phải nhìn thấy Thượng Đế như là một con người. Chẳng hạn nếu những con bò muốn sùng bái Thượng Đế thì chúng sẽ, do thuận theo bản tính của mình, thấy Ngài như là một con bò khổng lồ; nếu một con cá muốn sùng bái Thượng Đế thì nó sẽ hình dung Ngài như là một con cá to lớn; và con người phải suy tư về Ngài như một con người. Và những quan niệm khác nhau này không phải là do trí tưởng tượng linh hoạt không lành mạnh. Con người, con bò, con cá – tất cả đều có thể được xem như tượng trưng cho những vật chứa khác nhau, có thể nói như vậy. Tất cả những vật chứa này cùng đi đến đại dương Thượng Đế để múc đầy nước tùy theo hình dáng và dung lượng của mình; nơi con người thì nước mang hình dáng con người, nơi con bò thì nước mang hình dáng con bò, còn nơi con cá thì nước mang hình dáng con cá. Nhưng trong mỗi bình chứa đều cùng là một loại nước từ đại dương Thượng Đế như nhau. Khi con người thấy Ngài, họ sẽ thấy Ngài như một con người; và những con thú, nếu chúng hoàn toàn chẳng có quan niệm gì về Thượng Đế, hẳn sẽ thấy Ngài như một con thú – cái thấy của mỗi loài đều tùy thuộc vào lý tưởng của nó. Bởi vậy, chúng ta không thể không nhìn thấy Thượng Đế như một con người, và do đó, chúng ta buộc phải sùng bái Thượng Đế như một con người. Không còn cách nào khác.
Chỉ có hai hạng người không muốn sùng bái Thượng Đế như một con người : hạng thứ nhất là những kẻ vũ phu cục súc không có tôn giáo, hạng thứ hai là các paramahamsa, tức là những người đã vượt lên trên tất cả sự yếu đuối của nhân loại và đã siêu việt được những hạn chế trong bản chất con người. Đối với một vị paramahamsa thì toàn thể thiên nhiên đã biến thành Tự Ngã của mình. Chỉ có vị đó mới có thể sùng bái Thượng Đế y như thực. Ở điểm này, cũng như trong tất cả những trường hợp khác, hai cực đoan lại gặp nhau. Cực đoan của vô minh và cực đoan của chân trí – không một cực đoan nào đi qua các hành động sùng bái. Hạng vũ phu cục súc không sùng bái do vô minh, còn những vị jivanmukta – hay đấng giải thoát – không sùng bái vì họ đã chứng ngộ được Thượng Đế trong tâm. Nếu có bất kỳ ai đứng giữa hai thái cực của cuộc sống đó mà nói các bạn rằng anh ta không sùng bái Thượng Đế như một con người thì các bạn hãy cẩn thận với người đó bằng sự nhân ái. Anh ta, do không sử dụng được bất kỳ thuật ngữ nào cay nghiệt hơn, chỉ là một kẻ thuyết giảng vô trách nhiệm; tôn giáo của anh ta chỉ dành cho những bộ não rỗng tuếch và bệnh hoạn.
Thượng Đế hiểu được những nhược điểm của con người nên Ngài hóa thân thành người để làm điều tốt cho nhân loại.
“Nơi nào đạo đức nhường bước và sự tàn ác thắng thế thì Ta hiển lộ tự thân. Để xác lập đạo đức, hủy diệt cái ác và cứu cái thiện, ta phải hiện thân trong mỗi yuga (kiếp)”.
“Kẻ ngu cười nhạo Ta vì Ta mang hình tướng con người, mà không biết rằng chân tính của Ta là Chúa Tể của vũ trụ”.
Đó là lời tuyên bố của đức Krishna trong kinh Gitā, bàn về
các Hóa Thân. “Khi một cơn sóng thần tràn đến”, Tôn giả Śri
Ramakrishna nói, “thì tất cả con suối và khe mương đều ngập đầy đến mé mà
không cần một sự cố gắng nào hay một ý thức nào về phần chúng; cũng thế, khi
một Hóa Thân xuất hiện thì con sóng tâm linh đột nhiên tràn ngập trên khắp thế
gian, và tất cả mọi người hầu như đều cảm nhận được tâm linh tính ngay trong
không khí”.
Nhưng bây giờ chúng ta không quan tâm đến những Mahāpurusha (đại Hóa Thân), mà chỉ quan tâm đến những siddha-guru, tức những bậc chân sư đã giải thoát. Những vị chân sư này, như một quy luật, phải truyền đạt những hạt giống của trí tuệ tâm linh đến môn đồ bằng mantra, hay mật ngữ, tức những ngôn từ cần được quán tưởng. Những mật ngữ này là gì? Theo triết học Ấn Độ thì toàn bộ vũ trụ này bao gồm danh và tướng như là phương tiện để hiển lộ. Trong vũ trụ vi mô nơi con người, không một làn sóng tư tưởng nào lại không chịu sự chi phối của danh và tướng. Nếu đúng là thiên nhiên được xây dựng theo cùng một sơ đồ thì sự chi phối của danh và tướng cũng phải là sơ đồ để xây dựng nên toàn bộ vũ trụ vi mô. “Biết được một hòn đất thì biết được toàn bộ đất”, bởi vậy, tri thức về vũ trụ vi mô phải dẫn đến tri thức về vũ trụ vĩ mô. Tướng là lớp vỏ thô nhất, còn danh là phần tinh túy hay cốt lõi bên trong. Thể xác là tướng còn tâm trí – hay antahkarana – là danh; và những biểu tượng âm thanh thường được kết hợp với danh nơi tất cả những vị có năng lực thuyết pháp. Nơi mỗi cá nhân thì những làn sóng-tư tưởng – vốn sinh khởi trong cái mahat bị giới hạn, được biết đến như là chitta hay tâm chất [mind-stuff] – phải tự thân hiển lộ, trước tiên là như ngôn từ, sau đó là như những hình tướng cụ thể hơn.
Trong vũ trụ, Brahmā (Hiranyagarbha hay tâm trí vũ trụ) trước tiên hiển lộ tự thân như là danh, sau đó mới hiển lộ như là tướng, nghĩa là vũ trụ này. Toàn thể cái vũ trụ khả giác đang hiện lộ này là tướng, và đằng sau nó là cái Sphota thường hằng bất khả ngôn thuyết, tức cái hiển lộ tự thân như là Logos hay Ngôi Lời. Sphota thường hằng này – chất liệu vĩnh cữu tinh yếu của mọi ý tưởng hay danh – là năng lực mà đấng Chúa Tể dùng để sáng tạo nên vũ trụ này; hay nói cho đúng hơn thì đấng Chúa Tể bị chi phối để biến thành Sphota, rồi tự thân Ngài tiến hóa thành cái cái vũ trụ khả giác trừu tượng hơn này. Sphota này có một âm được xem như là biểu tượng khả thi duy nhất, và đó là Om. Bởi vì chúng ta không thể dùng bất kỳ phương tiện phân tích nào để tách biệt âm này ra khỏi ý tưởng đó, cho nên Om và Shopta thường hằng là bất khả phân ly; do đó, toàn bộ vũ trụ được cho là đã được tạo dựng từ âm Ohm hằng cửu này – từ linh thiêng nhất trong cả ngôn từ, mẹ của tất cả danh tướng.
Nhưng có thể nói rằng mặc dù tư tưởng và ngôn từ là bất khả
phân ly, song vẫn có nhiều biểu tượng ngôn ngữ [word-symbol] cho cùng một tư tưởng, không nhất thiết âm Om đặc dị
này phải là ngôn từ biểu trưng cho cái tư tưởng, mà từ đó vũ trụ này được hiển
lộ. Đối với những lời phản bác quan điểm này, chúng ta trả lời rằng âm Om là
biểu tượng khả thi duy nhất bao trùm toàn bộ mọi nền tảng, và không có gì giống
như nó. Sphota là chất liệu cấu tạo nên tất cả mọi thế giới, nhưng nó vẫn không
phải là một từ xác định trong trạng thái được cấu thành trọn vẹn của nó. Điều
đó có nghĩa là nếu loại bỏ tất cả những điểm đặc thù phân biệt từ này với từ
khác thì cuối cùng cái còn lại sẽ là Sphota; do đó, Sphota được gọi là Nāda-Brahman,
hay Âm Thanh của Cảnh giới Tuyệt Đối[7].
Bởi vì mọi biểu tượng ngôn ngữ – vốn có khuynh hướng biểu đạt cái Sphota bất
khả ngôn thuyết – sẽ biến Sphota thành cái đặc thù đến mức nó không còn là Sphota
nữa; và biểu tượng ngôn ngữ nào biến đổi Sphota thành cái đặc thù ở mức ít nhất,
mà đồng thời lại biểu đạt được bản chất của nó gần đúng nhất, sẽ là biểu tượng
chân thực nhất của Sphota. Đó là âm Om và chỉ duy nhất âm Om thôi, bởi vì ba
mẫu tự này – A,U,M – phát âm chung thành âm Om, và có thể là biểu tượng phổ
quát hóa của mọi âm thanh khả dĩ. Mẫu tự A là âm ít sai biệt nhất trong tất cả
các âm, bởi vậy Krishna đã nói trong Gitā : “Ta là A trong các mẫu
tự”. Lại nữa, mọi âm đọc nghe rõ ràng đều được tạo ra trong không gian của
miệng, bắt đầu từ cuống lưỡi và chấm dứt nơi môi. Âm cổ họng là A, và M là âm
cuối môi, còn U tượng trưng chính xác cho xung lực cuốn ra phía trước, bắt đầu
từ cuống lưỡi cho đến khi chấm dứt nơi đôi môi. Nếu phát âm hoàn hảo thì âm Ohm
sẽ đại diện cho toàn bộ hiện tượng tạo âm, và không một từ nào có thể làm được
điều này. Do đó, âm này là biểu tượng phù hợp nhất cho Sphota, đó là chân nghĩa
của Ohm. Và vì biểu tượng này không thể bị tách ly khỏi sự vật được biểu hiện ý
nghĩa, nên Om và Sphota là một. Hơn nữa, vì Sphota – vốn là khía cạnh tinh tế
hơn của vũ trụ hiển lộ này – gần với Thượng Đế hơn, và trên thực tế là sự hiển
lộ đầu tiên của Thánh Trí, cho nên âm Om này là biểu tượng chân thực về Thượng
Đế. Lại nữa, Brahman phi nhị nguyên – tức Akhanda-Sachchidānanda hay Tồn
Tại-Chân Trí-Lạc Phúc – chỉ được hình dung bởi những linh hồn khiếm khuyết bất
toàn từ những quan điểm đặc thù và được gắn kết với những phẩm tính đặc thù như
thế nào thì vũ trụ này – tức phần thể
xác của Nó – cũng chỉ được tư duy theo những khuynh hướng đặc thù của các tư
tưởng gia như thế ấy. Xu hướng trong tâm trí của những tín đồ sùng bái được
hướng dẫn bởi những yếu tố vượt trội của nó, hay là những thực thể (tattva).
Kết quả là cùng một Thực Tại nhưng sẽ được nhìn thấy hiển lộ theo nhiều cách
khác nhau với những phẩm tính ưu việt khác nhau, và cùng một vũ trụ nhưng lại hiển
lộ theo vô vàn thể cách. Ngay cả trong trường hợp của âm Om phổ quát nhất và ít
sai biệt nhất này, ta thấy tư tưởng và biểu tượng ngôn ngữ được gắn kết chặt
chẽ với nhau như thế nào, thì quy luật của sự gắn kết bất khả phân đó cũng áp
dụng với nhiều quan điểm sai biệt về Thượng Đế và vũ trụ như thế ấy : mỗi quan
điểm đều phải có một biểu tượng ngôn ngữ để diễn đạt nó. Những biểu tượng ngôn
ngữ này, do tiến hóa từ những nhận thức tâm linh thâm áo nhất của những vị hiền
triết – đã biểu tượng hóa và biểu đạt được, trong mức độ tối đa có thể, quan
điểm đặc thù về Thượng Đế và vũ trụ mà chúng đại diện. Cũng như âm Om tượng
trưng cho Akhanda – hay Brahman vô sai biệt – thì những biểu tượng ngôn ngữ khác
cũng tượng trưng cho Khanda hay những quan điểm khác nhau về cùng một Hằng Hữu,
và tất cả những quan điểm đó đều có ích cho việc quán tưởng về thần linh và đạt
đến chân trí.
Điểm tiếp theo mà ta cần quan tâm là tục sùng bái các pratika (vật thay thế), tức những sự vật mà ít nhiều cũng đáp ứng được việc thay thế cho Thượng Đế, và tục sùng bái các pratima (ngẫu tượng). Sùng bái Thượng Đế thông qua một pratika có nghĩa là gì? Đó có nghĩa là : “kết hợp một tâm trí mộ đạo với cái không phải là Brahman, những vẫn xem đó là Brahman”, theo lời của tôn giả Rāmānuja. Còn Śhankara thì bảo : “Sùng bái tâm trí như là Brahman – thì đó là liên quan đến vấn đề nội tâm; còn sùng bái ākāśa như là Brahman – thì đó là vấn đề liên quan đến chư thiên”. Tâm trí là một pratika nội tâm, còn ākāśa là pratika ở bên ngoài, và cả hai đều cần được sùng bái như là những vật thay thế cho Thượng Đế. Śhankara nói tiếp điều tương tự : ” ‘Mặt trời là Brahman – đây là mệnh lệnh’; ‘Kẻ sùng bái danh xưng như là Brahman’ – trong tất cả những đoạn kinh văn như thế đã nẩy sinh nỗi nghi ngờ về việc sùng bái các pratika”. Từ pratika có nghĩa là “tiến tới”, và sùng bái một pratika có nghĩa là sùng bái một cái gì đó như là vật thay thế, giống Brahman về nhiều phương diện, nhưng không phải là Brahman. Cùng với các pratika được nhắc đến trong các Śruti, còn có những pratika được tìm thấy trong các Purāna và Tantra. Sùng bái pratika theo cách này có thể bao gồm cả mọi hình thức sùng bái tổ tiên và chư thiên.
Chỉ có sùng bái đấng Iśvara mới được gọi là bhakti; còn mọi hình thức sùng bái khác – tổ tiên, chư thiên hay bất kỳ đối tượng nào – đều không phải là bhakti. Mọi hình thức sùng bái chư thiên đa dạng đều được bao hàm trong karma mang tính nghi thức, kết quả là có thể đem đến cho những kẻ sùng bái một trạng thái hỷ lạc cao siêu nào đó, nhưng không thể được nâng lên tầm bhakti hay mukti (giải thoát). Do đó, cần phải ghi nhớ điều này thật kỹ. Nếu, như đã xảy ra trong một số trường hợp, lý tưởng triết học cao siêu tức Brahman tối thượng bị nghi thức sùng bái pratika kéo xuống ngang tầm một pratika, và bản thân pratika được xem là Ātman của người sùng bái tức Antaryāmin (Thượng Đế trong nội tâm) của họ thì người sùng bái đã hoàn toàn lầm lạc; bởi vì không một pratika mà có thể thực sự là Ātman của người sùng bái. Nhưng nơi nào mà bản thân Brahman trở thành một đối tượng sùng bái, và pratika chỉ là vật thế hoặc mang tính gơi ý về Brahman, có nghĩa là Brahman toàn nhiên phổ hiện được sùng bái thông qua pratika, và bản thân pratika được lý tưởng hóa thành căn nguyên của vạn sự, tức trở thành Brahman, thì sự sùng bái đó đem lại lợi ích tích cực. Hơn thế nữa, điều đó còn tuyệt đối cần thiết cho toàn thể nhân loại cho đến khi nào nhân loại vượt quá trạng thái tâm trí thuộc giai đoạn khởi thủy và sơ khai, xét về phương diện sùng bái.
Bởi vậy, khi một vị thần bất kỳ nào đó được sùng bái thì sự sùng bái đó chỉ là karma mang tính nghi thức; và với tư cách là một vidyā – nghĩa là một bộ môn khoa học – nó chỉ đem lại cho ta kết quả thuộc về vidyā đặc thù đó. Nhưng khi một vị thần hay một đối tượng nào khác được tôn vinh và sùng bái như là Brahman, thì kết quả đạt được cũng tương tự như sùng bái đấng Iśvara.
Trong nhiều trường hợp, điều này giải thích trong các Śhruti lẫn Smriti, người ta đã chọn ra một vị thần hay một vị hiền triết hoặc một nhân vật đặc biệt nào đó rồi tôn vinh bản thân đối tượng đó, có thể nói như vậy, và lý tưởng hóa cho ngang tầm với Brahman ra sao. Một triết gia Advaita nói : “Khi bị loại bỏ hoàn toàn mọi danh tướng thì Brahman chẳng phải là vạn hữu đó sao?”. ” Chẳng phải Ngài – đấng Chúa Tể – là Tự Ngã thâm áo nhất của mỗi người đó sao?”, một người theo triết học Vedānta hạn chế (Viśistādvaitist) nói, “Ngay cả thành quả của việc sùng bái các Āditya cũng được chính đấng Brahman chấp thuận, bởi vì Ngài là đấng Cai Trị muôn loài”. Śhankara trong tác phẩm Brahma-Sutra-Bhāshya đã nói : “Ở đây, theo cách này, Brahman trở thành đối tượng sùng bái, bởi vì Ngài, với tư cách là Brahman, được thêm vào cho các pratika, cũng như thần Vishnu v.v… được thêm vào cho các ngẫu tượng”.
Quan niệm áp dụng trong việc sùng bái các pratima cũng giống
như quan niệm áp dụng trong việc sùng bái các pratika; nghĩa là, nếu ngẫu tượng
tượng trưng cho một vị thần hay một vị hiền triết thì sự sùng bái ngẫu tượng đó
không phải là kết quả của bhakti, và nó không đưa đến giải thoát, nhưng nếu nó
tượng trưng cho Thượng Đế thì sự sùng bái ngẫu tượng đó sẽ đưa đến bhakti lẫn
mukti (giải thoát). Trong số những tôn giáo chính trên thế giới, ta thấy Ấn
giáo, Phật giáo và một số chi phái của của Cơ Đốc giáo đều thoải mái sử dụng
các ngẫu tượng; chỉ có Hồi giáo và đạo Tin Lành là chối bỏ sự trợ giúp này. Tuy
nhiên tín đồ Hồi giáo lại dùng lăng mộ của các vị thánh và những người tuẫn đạo
thay cho các ngẫu tượng; còn tín đồ Tin Lành, do chối bỏ mọi sự trợ giúp cụ thể
cho tôn giáo, nên bị trôi dạt ngày càng xa khỏi tâm linh tính, cho đến ngày nay
thì khó mà có sự khác biệt giữa những tín đồ Tin Lành tân tiến với những người theo
triết học Auguste Comte hoặc những người theo thuyết bất khả tri chỉ giảng về
đạo đức. Lại nữa, trong Cơ Đốc giáo và Hồi giáo, những gì tồn tại từ việc sùng
bái ngẫu tượng đều được xếp loại ngang hàng với việc sùng bái chính các pratika
hay pratima, nhưng không phải là sự trợ giúp để thấy được Thượng Đế. Do đó, đến
hết mức thì đó cũng chỉ là bản chất của karma mang tính nghi thức, và không thể
đưa đến bhakti hay mukti (giải thoát). Dưới hình thức sùng bái ngẫu tượng này,
sự kết hợp của linh hồn được gán cho một đối tượng nào đó khác hơn là đấng
Iśvara, và do đó, việc sử dụng ngẫu tượng hay lăng mộ, điện đài đều là sự sùng
bái ngẫu tượng thực sự. Bản thân điều đó không có gì là tội lỗi hay xấu xa. Nó
chỉ là một nghi thức, một karma; còn tín đồ sùng bái thì phải nhận được và sẽ
nhận được thành quả từ điều đó.
Điều cần quan tâm tiếp theo là cái mà chúng ta gọi là Ishta-Nishthā, hay sự hồi hướng tâm ý đến “Lý tưởng tu học”.
Người nào có nhiệt tâm muốn trở thành một hành giả bhakta thì phải hiểu rằng “có bao nhiêu quan niệm là có bấy nhiêu pháp môn”. Họ phải hiểu rằng tất cả sự đa dạng của những tông phái thuộc nhiều các tôn giáo khác nhau đều là sự biểu hiện đa dạng niềm vinh quang của cùng một Thượng Đế. “Họ gọi tên Ngài bằng rất nhiều danh hiệu; họ phân chia Ngài, có thể nói như vậy, bằng vô vàn danh hiệu khác nhau, nhưng mỗi danh hiệu đều nói lên sự Toàn Năng của Ngài … Ngài đến với tín đồ thông qua tất cả những danh hiệu đó; không có một khoảng thời điểm đặc biệt nào dành cho việc sùng bái Thượng Đế, chừng nào linh hồn còn yêu thương Ngài bằng tình yêu mãnh liệt. Ngài dễ dàng tiếp cận xiết bao, thật là điều bất hạnh khi con người không thể yêu thương Ngài”. Không chỉ có thế. Một hành giả bhakta phải không được ôm lòng căm ghét, thậm chí không được phê phán những người con của ánh hào quang giác ngộ – những vị sáng lập nên những tông phái khác nhau; thậm chí anh ta không được quyền nghe những lời nói xấu về các vị đó.
Thực ra, rất ít người có ngay được sự đồng cảm sâu sắc, năng lực thẩm định cũng như tình yêu mãnh liệt đó. Chúng ta thấy rằng, như một theo quy luật, hễ những tông phái nào mang tinh thần phóng khoáng và có sự đồng cảm thì lại đánh mất tính mãnh liệt trong cảm xúc tôn giáo, và trong tay họ, tôn giáo dễ dàng suy đồi thành một tổ chức mang tính xã hội-chính trị trong đời sống. Mặt khác, những giáo hội vô cùng nhỏ, trong khi phô bày tình yêu đáng ca ngợi đối với lý tưởng của họ, lại cho ta thấy họ thu hoạch được từng chút tình yêu đó bằng sự căm ghét bất kỳ ai không có đúng quan điểm với mình. Cầu xin Thượng Đế hãy để cho thế gian này đầy những người có tình yêu thương mãnh liệt như sự đồng cảm của họ với toàn thế giới! Nhưng những người như thế lại quá đỗi hiếm hoi. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng giáo dục cho nhiều người hướng đến lý tưởng kết hợp một cách diệu kỳ giữa phạm vi và cường độ của tình yêu là điều mang tính thực tiễn; và phương pháp để thực hiện điều này là pháp môn Ishta-nishthā.
Mỗi tông phái trong mọi tôn giáo chỉ đại diện cho một lý tưởng của riêng nó đối với nhân loại; còn tôn giáo Vedānta vĩnh cửu thì mở ra cho nhân loại vô lượng pháp môn để đi sâu vào bên trong Linh Điện; và nó đặt trước nhân loại hầu như vô lượng vô biên các lý tưởng, mà mỗi lý tưởng đó đều là một dạng hiển lộ của Nhất Thể Thường Hằng. Bằng sự quan tâm ân cần nhất, triết học Vedānta chỉ ra cho những tín đồ nhiệt tâm vô số pháp môn được đẽo gọt từ tảng đá rắn của những hoàn cảnh thực tiễn trong đời sống nhân loại bởi những người con huy hoàng thông tuệ – những người con được xem là hóa thân của Thượng Đế mang thể xác con người trong quá khứ và hiện tại, đang đứng với vòng tay giang rộng để đón chào tất cả loài người, đón chào cả những người còn chưa hiện hữu trong tương lai, đến với Quê Hương Chân Lý và Đại Dương Lạc Phúc, nơi mà linh hồn con người – sau khi giải thoát khỏi mạng lưới māyā – có thể đạt đến cảnh giới tự do viên mãn và hỷ lạc vĩnh hằng.
Hành giả bhakta, do đó, đặt ra cho chúng ta một mệnh lệnh là không được căm ghét hay chối bỏ bất cứ người nào đi theo những pháp môn khác để hướng đến giải thoát. Tuy nhiên, một cây đang lớn cũng cần phải được rào chắn chung quanh để bảo vệ, cho đến khi nó trở thành một cây lớn mạnh hoàn toàn. Cây tâm linh mềm yếu sẽ chết yểu, nếu bị phơi ra quá sớm trước những quan niệm và lý tưởng biến đổi không ngừng. Ta thấy có nhiều người, nhân danh cái tạm gọi là tự do tôn giáo, nuôi lớn thói hiếu kỳ nhàn rỗi của họ bằng cách liên tục chạy theo hết lý tưởng này đến lý tưởng khác. Với những người đó, thói tò mò muốn nghe những điều mới lạ đã phát triển thành một căn bệnh : bệnh nghiện tôn giáo. Họ muốn những điều mới lạ chỉ nhằm để đón nhận được một kích thích thần kinh tạm thời, và khi hiệu quả của sự kích thích như thế đã tác động lên họ rồi thì họ lại sẵn sàng cho một kích thích thần kinh khác. Với hạng người này thì tôn giáo là một loại thuốc phiện tri thức, và chỉ có thế thôi. “Còn có một loại người khác”, Tôn giả Ramakrishna nói, “họ giống như con trai trong câu chuyện này. Con trai rời chỗ nằm của nó dưới đáy biển, trồi lên mặt nước để đón hạt mưa rơi, khi vì sao Śvati giáng thế. Nó mở rộng vỏ để trôi bồng bềnh trên mặt biển; rồi nó lặn sâu xuống đáy biển, nằm yên lặng ở đó, cho đến khi tạo ra được một viên ngọc đẹp đẽ từ hạt nước mưa kia”. Đây là cách mô tả sinh động nhất và thơ mộng nhất về pháp môn Ishta-nishthā.
Eka-nishthā, hay sự hồi hướng tâm ý đến một lý tưởng duy
nhất, là điều tuyệt đối cần thiết đối với tín đồ bắt đầu thực hành nhiệt tâm
tôn giáo. Người đó phải nói với Hanumān trong Rāmāyana : “Dù biết rằng đấng Chúa Tể Śri và đấng Chúa Tể
Jānaki[8]
đều cùng là hóa thân của một đấng Hằng Hữu Duy Nhất, nhưng toàn bộ tâm ý tôi
chỉ hướng về vị thần Rāma mắt hoa sen”. Hoặc anh ta phải nói như vị hiền
triết Tulsidās : “Hãy đón nhận sự dịu dàng của tất cả mọi người, hãy cùng
ngồi với tất cả mọi người, hãy nhân danh tất cả mọi người, nhưng hãy giữ chỗ
ngồi của người cho thật vững”. Rồi, nếu một tín đồ nhiệt tâm có thành ý
thì từ hạt giống nhỏ bé đó sẽ phát triển thành một cây đại thụ, như cây Bồ-đề Ấn
Độ; cành nhánh lần lượt tỏa ra, gốc rễ lần lượt mọc thêm về mọi hướng, cho khi nó
bao trùm tron vẹn cánh đồng tôn giáo. Vị tín đồ chân chính đó sẽ thực chứng
được rằng đấng Chúa Tể mà anh ta xem là lý tưởng của riêng mình cũng chính là
đấng được sùng bái trong mọi lý tưởng của tất cả các tông phái, dưới tất cả
những danh xưng và bằng mọi nghi thức.
Về phương pháp và phương tiện của bhakti-yoga, ta tìm đọc trong bản chú giải của Bhagavān Ramakrishna về các kinh Veda : “Đạt đến Cái Đó là nhờ vào năng lực phân biệt, kiểm soát dục vọng, công phu thực hành, thực hiện nghi thức hiến tế, tâm hồn thuần tịnh, sức mạnh và kiềm chế vui mừng thái quá “. Viveka hay phân biệt, theo Rāmānuja, là phân biệt thực phẩm thanh tịnh với thực phẩm bất tịnh. Theo ông thì có ba nguyên nhân khiến thực phẩm trở nên bất tịnh : (1) do bản chất của thực phẩm, ví dụ như hành, tỏi v.v… (2) xuất phát từ những người hung ác và đáng kinh tởm; và (3) do sự bất tịnh của vật chất như bụi bẩn, lông, tóc v.v…. Kinh Veda nói : “Khi thực phẩm thanh tịnh thì những yếu tố Sattva trở nên thanh tịnh và trí nhớ trở nên kiên định”, và Rāmānuja đã trích dẫn câu này từ Chhāndogya Upanishad.
Thực phẩm luôn là một trong những vấn đề tối quan trọng đối với các hành giả bhakta. Ngoài sự cường điệu quá mức mà một số tông phái bhakti đã mắc phải, còn có một chân lý vĩ đại nằm bên dưới vấn đề thực phẩm. Theo triết học Sāmkhya, chúng ta phải nhớ rằng cả sattva lẫn các raja và tama – mà trong trạng thái quân bình thuần nhất đã tạo nên prakriti hay cái thế giới vô sai biệt uyên nguyên sơ thủy, và trong trạng thái hỗn độn đã tạo nên cái vũ trụ này – đều là bản thể và phẩm tính của prakriti. Như thế chúng đều là chất liệu cấu tạo nên thể xác con người, và ưu thế của chất liệu sattva là điều tối quan trọng cho sự phát triển tâm linh. Những chất liệu, mà chúng ta đón nhận thông qua thực phẩm để cấu tạo nên cơ thể, có vai trò rất lớn trong việc định hình nên tâm trí; bởi vậy, chúng ta cần phải quan tâm đặc biệt đến thực phẩm mình ăn. Tuy nhiên, trong vấn đề này cũng trong vấn đề khác thì sự cuồng tín, mà các môn đồ luôn mắc phải, không cần phải được đặt trước cửa của những vị đạo sư.
Suy cho cùng thì sự phân biệt thực phẩm chỉ mang tầm quan trọng thứ yếu. Cũng chính đoạn kinh văn trích dẫn ở trên lại được triết gia Śhankara, trong tác phẩm Bhāshya luận giải về các Upanishad của ông, giải thích theo một lối khác bằng cách gán một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn cho từ āhāra, thường được dịch là thực phẩm. Theo ông thì :
“āhāra là cái được hội tụ lại. Tri thức từ những cảm giác, chẳng hạn như âm thanh v.v… được hội tụ lại trong trạng thái hỷ lạc của người hưởng thụ, tức tự ngã; sự tịnh hóa của tri thức – vốn hội tụ trong sự nhận thức của các giác quan – là quá trình tịnh hóa thực phẩm (āhāra). Tịnh hóa thực phẩm có nghĩa là thu thập tri thức từ những cảm giác, vốn vô nhiễm trước những khiếm khuyết của lòng luyến cảm, ác cảm hay vọng tưởng. Do đó, một khi tri thức như thế, hay āhāra, đã được tịnh hóa thì chất liệu sattva của cơ quan sở hữu nó – tức cơ quan nội tại – sẽ trở nên thuần tịnh; và một khi sattva đã trở nên thuần tịnh thì sẽ phát sinh một ký ức toàn mãn về đấng Vô Biên – đấng được nhận biết trong thực tính của Ngài từ kinh điển”.
Nhìn bề ngoài thì hai cách giải thích này có vẻ như xung đột với nhau, tuy nhiên cả hai đều đúng và cần thiết. Vận dụng và điều khiển cái gọi là thể xác tế vi – nghĩa là tâm trí – hiển nhiên là đòi hỏi những chức năng cao hơn việc điều khiển thể xác thô bằng xác thịt. Nhưng điều khiển thể xác thô là điều tuyệt đối cần thiết để ta có thể tiến tới việc điều khiển được thể xác tế vi. Do đó, kẻ sơ cơ phải chú tâm đặc biệt đến tất cả những quy tắc dinh dưỡng được truyền thừa từ những vị đạo sư uy tín; nhưng thói cuồng tín quá đáng và vô nghĩa – vốn đưa đẩy toàn bộ tôn giáo vào nhà bếp, như ta có thể ghi nhận trong trường hợp của các tông phái chúng ta, mà không hy vọng gì để cho chân lý cao thượng của tôn giáo đó xuất hiện được dưới ánh sáng tâm linh – là một dạng đặc thù của thuyết duy vật thuần túy và đơn giản. Nó không phải là jnana, bhakti hay karma; mà là một dạng đặc biệt của chứng loạn óc, và những kẻ gắn chặt tâm trí vào đó giống như đang đi đến nhà thương điên hơn là đi tới cảnh giới của Brahman. Vậy thì hợp lý khi cho rằng sự phân biệt trong việc chọn lựa thực phẩm là điều cần thiết để đạt đến trạng thái cấu tạo tinh thần cao hơn, một trạng thái mà chúng ta không dễ gì đạt đến nếu dùng phương pháp khác,
Điều tiếp theo mà chúng ta cần quan tâm là kiểm soát dục vọng. Kiềm chế các indriya hay các cơ quan, không cho chúng hướng tới đối tượng của các giác quan, chế ngự chúng và đặt chúng dưới sự hướng dẫn của ý chí, đó là đức hạnh trọng tâm trong công phu hành đạo. Tiếp theo là việc thực hành tinh thần tự chế và khắc kỷ. Tất cả những khả tính bao la trong việc thực chứng được Thượng Đế trong linh hồn không thể nào biến thành hiện thực, nếu không có đấu tranh và không có công phu thực hành về phía của tín đồ nhiệt tâm sùng đạo. “Tâm trí phải luôn luôn nghĩ đến Thượng Đế”. Lúc ban đầu rất khó mà bắt tâm trí phải luôn luôn nghĩ đến Thượng Đế, nhưng với từng nỗ lực mới thì năng lực để quán tưởng như thế dần lớn mạnh trong ta. “Nhờ thực hành, này con trai của Kunti, và nhờ vô luyến cảm mà đạt được yoga”, Śri Krishna đã nói thế trong Gitā[9]. Về công việc hiến tế thì chúng ta phải hiểu là “năm nghi lễ hiến tế lớn” cần phải được thực hành như thường lệ[10].
Thanh tịnh phải là công việc cơ bản tuyệt đối, là hòn đá tảng dùng để kiểm tra toàn bộ tòa nhà bhakti đặt trên đó. Tẩy uế thể xác và phân biệt thực phẩm, cả hai đều là điều dễ làm, nhưng nếu không có việc tẩy uế và thanh tịnh trong nội tâm thì việc tuân thủ những giới luật bên ngoài đó cũng chẳng có chút giá trị nào. Trong danh mục những phẩm tính trợ duyên cho sự thuần tịnh, do Rāmānuja đề xướng, có những thứ được liệt kê như sau :
Trong danh mục những phẩm tính này, có một ý tưởng đáng được quan tâm đặc biệt, đó là ahimsā hay bất hại, không gây tổn thương cho bất kỳ ai. Có thể nói nhiệm vụ bất hại này mang tính chất bắt buộc trong mối quan hệ của chúng ta với tất cả chúng sinh. Nó không phải chỉ có nghĩa là, như đối với một số người, không gây tổn hại cho con người nhưng lại tàn ác với những loài vật thấp kém; nó cũng không phải là, như đối với một số người khác, bảo vệ chó mèo, hoặc nuôi kiến bằng đường, nhưng lại tự do tàn hại những người anh em bằng đủ mọi thủ đoạn kinh tởm[11]. Điều đáng lưu ý là phần lớn các ý tưởng tốt đẹp đó trên thế giới có thể bị đẩy đến một cực đoan đáng ghê sợ. Một tập quán tốt, khi được tiến hành đến mức cực đoan và hoạt động hợp với từng câu chữ của luật pháp, sẽ biến thành một tội ác tích cực. Những thầy tu hôi hám của một vài tông phái không dám tắm vì sợ làm chết chấy rận trên người mình, họ không bao giờ nghĩ đến sự khó chịu và bệnh tật mà họ mang đến cho đồng loại. Tuy nhiên, họ không thuộc về tôn giáo của kinh điển Veda.
Điều kiểm chứng cho phẩm tính ahimsā là không có lòng ghen tỵ. Một người bất kỳ có thể làm điều tốt hoặc trao một tặng phẩm giá trị trong lúc ngẫu hứng bốc đồng, hoặc do áp lực của lòng mê tín hay của giới tăng lữ, nhưng kẻ thực sự yêu thương nhân loại là người không có tâm ganh tỵ với bất kỳ một ai. Ta thấy những người được gọi là vĩ nhân của nhân loại vẫn có thể trở nên ganh tỵ với nhau vì một chút hư danh, vì một chút lợi lộc. Chừng nào mà thói ganh tỵ này còn tồn tại trong tâm thì chúng ta còn cách xa sự toàn thiện của ahimsā muôn trùng diệu vợi. Con bò không ăn thịt, con cừu cũng vậy. Vậy chúng có phải là những nhà yogi vĩ đại, những hành giả ahimsā vĩ đại hay không? Bất kỳ kẻ ngốc nào cũng có thể từ bỏ việc ăn thịt này nọ, nhưng chắc chắn điều đó cũng không tạo thêm sự khác biệt bao nhiêu giữa họ với loại thú ăn thịt. Kẻ đối xử tàn bạo với cô nhi quả phụ, vì tiền mà làm những điều tàn độc nhất thì còn tồi tệ hơn cả bất kỳ loại súc vật nào, cho dù hắn ta có thể sống toàn bằng rau cỏ. Người mà trong lòng không mang tư tưởng hại người, hân hoan vui mừng trước sự thành đạt của ngay cả kẻ thù không đội trời chung thì đó là một hành giả bhakta. Người đó là một yogi, là bậc đạo sư (guru) của tất cả mọi người, cho dù người đó có thể hàng ngày sống bằng thịt heo.
Bởi vậy, chúng ta phai luôn luôn nhớ rằng việc trì giới bên ngoài chỉ có giá trị trợ giúp cho sự phát triển của tâm thuần tịnh bên trong. Khi trên thực tế không thể quan tâm tỷ mỷ đến việc trì giới bên ngoài thì tốt hơn là chỉ nên gìn giữ sự thuần tịnh bên trong. Nhưng thật khốn khổ cho người nào và cũng thật khốn khổ cho quốc gia nào quên mất những yếu tố tâm linh trọng yếu và chân thực bên trong của tôn giáo, mà cứ lo bám chết cứng một cách máy móc vào những hình thức giới luật bên ngoài, không bao giờ chịu buông ra. Những hình thức giới luật đó chỉ có giá trị chừng nào chúng biểu hiện được đời sống nội tâm. Nếu chúng không còn biểu hiện được sức sống thì hãy đập vỡ chúng đi đừng thương tiếc.
Phương tiện kế tiếp để đạt đến bhakti-yoga là sức mạnh, hay anavasāda. Kinh điển nói “Ātman này không thể đạt được bởi những kẻ yêu đuối bạc nhược”. Bạc nhược ở đây muốn chỉ đến sự bạc nhược về thể xác lẫn tinh thần. “Chỉ có những kẻ mạnh khỏe, những kẻ gan dạ” mới là hành giả thích hợp. Những kẻ hom hem lụ khụ, nhỏ bé, yếu đuối thì có thể làm được gì? Họ sẽ vỡ tan ra thành từng mảnh bất cứ khi nào những sức mạnh huyền bí của thể xác và tâm trí bị đánh thức nhẹ do thực hành một yoga nào đó. Chỉ những “người trai trẻ, người khỏe mạnh và người tráng kiện” mới có thể thành công. Sức mạnh thể xác, do đó, là điều tuyệt đối cần thiết. Chỉ có những thể xác cường tráng mới có thể chịu đựng được chấn đóng của phản lực phát sinh từ nỗ lực kiểm soát các cơ quan cảm giác. Người nào muốn trở thành một hành giả bhakta thì phải cường tráng, phải khỏe mạnh. Khi những kẻ bạc nhược thảm thương mà cố thực hành bất kỳ một pháp môn yoga nào thì rất có thể họ sẽ mắc phải một căn bệnh nan y hoặc suy nhược tinh thần. Tự nguyện làm cho thể xác suy nhược thực ra không phải cách dẫn đến giác ngộ tâm linh.
Những kẻ bạc nhược tinh thần cũng không thể thành công trong việc đạt đến Ātman. Kẻ nào khao khát muốn trở thành một hành giả bhakta phải là người vui tính. Trong thế giới phương Tây, quan niệm về một người có đạo tâm phải là người không bao giờ cười, lúc nào cũng như có mây đen bao phủ trên khuôn mặt chảy dài của y với hai gò má hầu như lõm sâu xuống. Những người gầy gò hốc hác và khuôn mặt chảy dài chỉ thích hợp làm bệnh nhân cho các thầy thuốc, họ không phải là những hành giả yogi. Chỉ những tâm trí vui tươi mới kiên tâm bền chí. Chỉ những tinh thần tráng kiện mới khai mở được con đường đi băng qua muôn ngàn gian khó. Và việc này, việc gian khó nhất là cắt lìa con đường ta đi ra khỏi mạng lưới của māyā, công việc đó chỉ dành cho những người có ý chí vĩ đại.
Nhưng đồng thời cần nên tránh mừng vui thái quá độ, tức anuddharsha. Mừng vui thái quá khiến ta không còn thích hợp với tư duy nghiêm túc. Nó cũng làm hao mòn năng lực tinh thần một cách vô ích. Hễ ý chí càng mạnh thì càng ít thuận theo dao động của những cảm xúc. Hân hoan quá độ hoàn toàn cũng đáng chê trách như nghiêm trang rầu rĩ quá mức, mọi sự thực chứng tôn giáo chỉ có thể đạt được khi tâm trí ở trong tình trạng mạnh mẽ, yên tĩnh của sự quân bình hòa hài.
Như thế là chúng ta có thể bắt đầu học cách yêu thương
Thượng Đế.
Chúng ta vừa tìm hiểu xong cái có thể gọi là bhakti sơ đẳng, và đang đi vào lĩnh vực nghiên cứu parā-bhakti hay lòng sùng đạo tối cao. Chúng ta đã nói đến việc chuẩn bị thực hành cho parā-bhakti này. Mọi sự chuẩn bị như thế cốt chỉ để giúp linh hồn trở nên thuần tịnh. Việc trì tụng các danh hiệu, việc thực hiện các nghi thức, hình thức và những biểu tượng được lặp đi lặp lại – tất cả những thứ đó cũng chỉ nhằm mục đích giúp linh hồn trở nên thuần tịnh.
Nhưng trong tất cả những điều đó thì pháp môn tịnh hóa vĩ đại nhất – mà thiếu nó thì không một ai có thể đi vào cảnh giới parā-bhakti được – đó là buông xả. Điều này làm cho nhiều người kinh hãi, thế nhưng không có nó thì không thể có bất kỳ sự phát triển tâm linh nào. Trong tất cả những pháp môn yoga của chúng tôi, sự buông xả này là điều cần thiết. Đây là bàn đạp để bước lên cao, là trung tâm thực sự và trái tim thực sự của mọi sư tu tập tâm linh – sự buông xả. Đây là tôn giáo – sự buông xả. Khi linh hồn con người rút lui khỏi thế sự và cố gắng đi sâu hơn nữa vào lòng sự vật; khi con người – tức Tinh Thần đã được cụ thể hóa và vật chất hóa bằng cách nào đó ở nơi đây – hiểu rằng mình bị sắp bị hủy diệt và bị biến thành hầu như chỉ thuần là vật chất, và ngoảnh mặt khỏi vật chất thì lúc đó họ mới bắt đầu buông xả, rồi bắt đầu phát triển thực sự về tâm linh.
Sự buông xả của hành giả karma-yogi chỉ nằm trong hình thức từ bỏ mọi thành quả của hành động mình; anh ta không chấp trước vào kết quả của công lao mình, anh ta không quan tâm gì đến chuyện được đền bù trong kiếp này hay kiếp sau. Hành giả rāja-yogi biết rằng toàn bộ thế giới tự nhiên có mục đích là được dùng làm phương tiện để linh hồn thu thập kinh nghiệm, và kết quả của tất cả những kinh nghiệm đó là linh hồn liễu ngộ được sự cách ly vĩnh viễn giữa nó với thiên nhiên. Linh hồn con người phải liễu ngộ và thực chứng được rằng nó đã là Tinh Thần chứ không phải là vật chất, suốt từ vô chung vô thủy; và sự kết hợp giữa nó với vật chất chỉ là sự kết hợp tạm thời. Hành giả rāja-yogi học được bài học buông xả nhờ vào kinh nghiệm về thiên nhiên của mình. Hành giả jnāna-yogi phải trải qua sự buông xả khắc nghiệt nhất trong tất cả sự buông xả, khi ngay từ ban đầu anh ta phải thực chứng được rằng toàn bộ cái thế giới thoạt nhìn tưởng chừng như vững chắc này chỉ là ảo ảnh. Anh ta phải liễu ngộ được rằng bất cứ hình thức hiển lộ năng lực nào trong thiên nhiên cũng đều thuộc về linh hồn, chứ không phải thuộc về thiên nhiên. Anh ta phải liễu ngộ được, ngay từ ban đầu, rằng mọi tri thức và kinh nghiệm đều ở trong linh hồn, chứ không phải ở trong thiên nhiên; do đó, bằng sức mạnh thuần túy của niềm tin hợp lý, anh ta lập tức phải cắt đứt mình ra khỏi mọi sự ràng buộc của thiên nhiên. Anh ta để mặc cho thiên nhiên và những gì thuộc về nó cứ tự nhiên vận động, ông cứ để mặc chúng tan biến và cố gắng đứng vững một mình.
Trong mọi hình thức buông xả thì có thể nói sự buông xả của hành giả bhakti-yogi là tự nhiên nhất. Tại đây, không hề có sự cưỡng bức nào, không có gì để từ bỏ cũng chẳng có gì để cắt đứt ra khởi bản thân chúng ta, có thể nói như vậy. Sự buông xả của hành giả bhakti-yogi dễ dàng, êm ái, trôi chảy và tự nhiên như sự vật quanh ta. Ít nhiều thì chúng ta cũng nhìn thấy sự buông xả loại này dưới dạng biếm họa, diễn ra hàng ngày quanh ta. Một người đàn ông bắt đầu yêu một phụ nữ; sau một thời gian anh ta đi yêu một người khác và bỏ rơi người phụ nữ đầu tiên. Người phụ nữ đó dần dần biến mất khỏi tâm trí anh ta một cách êm ái, nhẹ nhàng, mà anh ta không có cảm giác thiếu vắng cô ta một chút nào. Một người phụ nữ yêu một người đàn ông; sau đó cô ta lại đi yêu một người khác và hình ảnh người đàn ông đầu tiên biến mất khỏi tâm trí cô ta một cách hoàn toàn tự nhiên. Một người yêu thành phố của mình; sau đó anh ta bắt đầu yêu đất nước của mình, và tình yêu mãnh liệt đối với thành phố nhỏ bé ngày xưa dần dần tan biến một cách êm ái, tự nhiên. Lại nữa, một người học cách yêu thương cả thế gian thì tình yêu anh ta dành cho đất nước, lòng ái quốc mãnh liệt và cuồng nhiệt đó dần dần tan biến mà không làm tổn hại gì đến anh ta cả, và không có dấu hiệu gượng gạo, miễn cưỡng nào. Một người vô văn hóa rất ham thích khoái lạc của giác quan; và khi trở nên người có văn hóa thì anh ta bắt đầu yêu thích những lạc thú tinh thần, và sự hưởng thụ khoái lạc giác quan của anh ta ngày càng giảm dần đi. Không ai có thể thưởng thức bữa ăn bằng sự khoái trá hay thích thú như con chó hay con sói; nhưng những lạc thú mà con người nhận được từ sự trải nghiệm tinh thần thì con chó không bao giờ hưởng được.
Trước hết, khoái lạc được kết hợp với giác quan thấp kém hơn; nhưng khi con vật đạt đến một mức độ tồn tại cao hơn thì những thứ khoái lạc thấp kém giảm dần sự mãnh liệt. Trong xã hội loài người, hễ con người càng gần với loài vật thì khoái lạc giác quan của họ càng mạnh mẽ, còn khi con người có văn hóa càng cao thì lạc thú trong lĩnh vực tinh thần và những hoạt động tao nhã của họ càng lớn. Do đó, thậm chí khi một người vươn lên cao hơn bình diện trí năng, cao hơn bình diện tư tưởng thuần túy, khi người đó đi vào cảnh giới tâm linh và linh cảm thì anh ta sẽ tìm thấy ở đó một niềm lạc phúc, mà đem so với nó thì tất cả những lạc thú giác quan, thậm chí cả lạc thú tinh thần, đều chẳng là gì cả. Khi vầng trăng tỏa sáng thì muôn vì tinh tú đều mờ đi, khi mặt trời tỏa sáng thì đến mặt trăng cũng phải lu mờ. Sự buông xả cần thiết để đạt được bhakti không thể có được bằng cách giết đi bất cứ một điều gì, mà nó đến rất tự nhiên, giống như trước sự hiện diện của làn ánh sáng mỗi lúc mỗi sáng dần lên thì những làn ánh sáng khác yếu hơn phải lu mờ dần đi, cho đến khi chúng biến mất hoàn toàn.
Cũng thế, sự yêu thích mọi lạc thú giác quan và lạc thú tinh
thần đều bị lu mờ dần, và bị ném vào trong bóng tối trước Tình Yêu dành cho
chính Thượng Đế. Tình yêu đó dành cho Thượng Đế phát triển lớn mạnh và mang một
hình thức được gọi là parā-bhakti hay lòng sùng đạo tối cao. Hình thức tiêu
tan, nghi thức biến mất, kinh sách bị phế bỏ; bao nhiêu ngẫu tượng, điện thờ,
thành đường, tôn giáo, và tông phái, quốc gia và quốc tịch – tất cả những giới
hạn nhỏ nhoi, tất cả những ràng buộc tủn mủn đó, do bởi chính bản chất của
chúng, đều rơi rớt sạch khỏi vị hành giả nào đã biết đến tình yêu dành cho
Thượng Đế. Không còn gì có thể trói buộc hoặc câu thúc sự tự do của người đó được
nữa. Một con tàu đột ngột đến gần một một tảng nam châm, bao nhiêu bu-lông, ốc
vít, thanh sắt đều bị hút lấy và văng ra ngoài, những tấm ván đóng tàu sẽ rớt
rời ra và trôi bồng bềnh tự do trên mặt nước. Cũng thế đó, ân sũng thiêng liêng
cũng tháo rời những bu-lông, ốc vít, thanh sắt của linh hồn ta và nó trở nên tự
do, giải thoát. Bởi vậy, trong sự buông xả này, vốn là pháp môn trợ duyên cho
lòng sùng đạo, không hề có sự khắc nghiệt, sự lạnh lùng, không có sự đấu tranh,
ức chế hay loại bỏ. Hành giả bhakta không loại bỏ bất kỳ một cảm xúc nào của
mình, anh ta chỉ cố làm cho chúng mãnh liệt hơn và hướng chúng về Thượng Đế.
Chúng ta thấy tình yêu hiện diện khắp nơi trong thiên nhiên. Bất cứ điều gì tốt đẹp, vĩ đại và siêu tuyệt trong xã hội đều là kết quả của tình yêu đó; còn những điều gì xấu xa, nói đúng hơn là hiểm ác, quỷ quyệt cũng đều là kết quả của tình yêu đó, nhưng đi chệch hướng. Cũng chính một cảm xúc đó, cái cảm xúc đem lại cho ta một tình yêu thuần khiết và gắn bó thiêng liêng giữa vợ chồng, thì đồng thời nó cũng đem lại một loại tình yêu tìm thỏa mãn trong nhục dục thấp hèn. Cảm xúc thì giống nhau, nhưng sự biểu hiện của nó khác nhau trong những trường hợp khác nhau. Cũng là một tình yêu, nhưng chỉ do đi đúng hướng hay đi chệch hướng, mà nó thúc đẩy người này làm việc thiện và bố thí tất cả tài sản của mình cho người nghèo, hoặc buộc người kia phải cắt cổ người anh em để cướp sạch tiền bạc, của cải. Người trước thì yêu thương người khác cũng mạnh như kẻ sau yêu bản thân. Trong trường hợp kẻ sau thì hướng đi thì lòng yêu thương bị dẫn dắt sai đường, nhưng nó lại đúng và thích hợp trong trường hợp khác. Cũng một ngọn lửa, nó nấu chín bữa ăn nhưng cũng có thể đốt cháy một đứa bé; điều đó không phải là lỗi nơi ngọn lửa nếu nó làm thế; sự khác biệt nằm ở cách thức nó được sử dụng. Do đó, tình yêu – niềm khát khao chát bỏng được giao tiếp, sự ham muốn mãnh liệt của cả hai bên muốn được kết hợp thành một và sau hết có thể là sự ham muốn mãnh liệt của tất cả mọi người muốn hòa hợp thành một – hiển lộ khắp mọi nơi dưới những hình thức cao siêu hay thấp kém tùy theo trường hợp.
Bhakti-yoga là khoa học về tình yêu cao cả hơn; nó chỉ cho ta cách hướng dẫn nó; nó chỉ cho ta cách kiểm soát nó, điều khiển nó, vận dụng nó, hướng nó đến mục tiêu mới ra làm sao, có thể nói như vậy, và từ nó ta thu thập được những kết quả vinh quang nhất và cao siêu nhất như thế nào; nghĩa là làm thế nào để nó đưa ta đến niềm lạc phúc tâm linh. Bhakti-yoga không nói “Hãy từ bỏ”; mà nó chỉ nói “Hãy yêu thương, hãy yêu thương đấng Tối Cao” Và tất cả những thứ thấp hèn nhỏ mọn tự nhiên tách lìa khỏi hành giả bhakti, đối tượng yêu thương của người đó chỉ là đấng Tối Cao.
“Tôi không thể nói gì về Người cả, ngoài một điều duy nhất : Người là Tình yêu của tôi. Người thật là đẹp đẽ, ôi, người thật là tươi đẹp! Người chính là Cái Đẹp”. Rốt cuộc, điều thật sự đòi hỏi chúng ta trong pháp môn này là : lòng khát khao mà ta hướng đến cái đẹp phải được hướng đến Thượng Đế. Vẻ đẹp trên gương mặt con người, trên bầu trời, trong muôn vì sao, trong vầng trăng là gì? Đó chỉ là một sự lãnh hội một phần Vẻ Đẹp Thiêng Liêng chân thực và bao trùm vạn hữu. “Nhờ Ngài tỏa sáng nên muôn vật được tỏa sáng. Chính nhờ ánh sáng của Ngài mà muôn vật đều tỏa sáng. Hãy giữ lấy vị trí cao cả đó của một hành giả bhakta, vị trí giúp các bạn quên ngay lập tức tất cả những cá tính nhỏ bé của mình. Hãy lánh xa những tham chấp ích kỷ nhỏ nhen của thế gian. Đừng xem nhân loại là trung tâm của mọi lợi ích cao cả và mang bản chất người nơi bạn. Hãy trụ vững như một nhân chứng, quan sát và nghiên cứu hiện tượng tự nhiên. Hãy giữ tâm vô luyến cảm với con người, và hãy xem thử cảm xúc thương yêu mãnh liệt đó tự nó hoạt động như thế nào trong thế giới này. Đôi khi có sự va chạm nhỏ, song đó chỉ là điều xảy ra trong quá trình đấu tranh để đạt đến một tình yêu chân thực và cao cả hơn. Đôi khi có một cuộc chiến nhỏ, hoặc một sự sụp đổ nho nhỏ, nhưng tất cả chỉ là chuyện ngẫu nhiên. Hãy qua một bên, và cứ để mặc những va chạm đó tự do diễn ra. Các bạn chỉ cảm nhận được sự va chạm đó khi các bạn trôi theo dòng chảy cua thế giới; nhưng khi đứng qua một bên để ngắm nhìn nó như một nhân chứng và như một nhà nghiên cứu, có thể các bạn sẽ nhìn thấy được hàng triệu triệu phương thức mà Thượng Đế dùng để hiển lộ Ngài như là tình yêu.
“Bất cứ nơi nào có niềm lạc phúc, dù trong những sự vật mang tính nhục cảm nhất, nơi đó vẫn loé lên một tia lửa của niềm Lạc Phúc Vĩnh Hằng, đó chính là đấng Chúa Tể”. Ngay cả trong những cảm xúc hấp dẫn thấp hèn nhất vẫn có mầm móng của tình yêu thiêng liêng. Một trong những danh xưng của Thượng Đế trong tiếng Sankrit là Hari, và từ đó có nghĩa là “Người cuốn hút tất cả vạn vật về với mình”. Trên thực tế, Ngài là lực hấp dẫn duy nhất được cảm nhận bởi tâm hồn con người. Ai có thể thực sự lôi cuốn được một linh hồn? Chỉ có Ngài! Các bạn nghĩ rằng vật chất chết có thể thực sự lôi cuốn được linh hồn sao? Đã không bao giờ có, và sẽ không bao giờ có. Khi các bạn thấy một người đàn ông chạy theo một khuôn mặt khả ái, các bạn có nghĩ rằng một nhúm các phân tử vật chất được sắp xếp thành gương mặt đó đã thực sự lôi cuốn người đàn ông chăng? Hoàn toàn không. Đằng sau những phân tử vật chất được sắp xếp đó phải là vở diễn của ảnh hưởng thần thánh và tình yêu thần thánh. Kẻ ngu không biết được điều này, tuy nhiên dù vô thức hay có ý thức, họ vẫn bị nó, và chỉ có nó thôi, lôi cuốn. Như thế đó, ngay cả những hình thức hấp dẫn thấp kém nhất cũng lấy năng lượng của chúng từ nơi Thượng Đế. “Không một ai, này người yêu dấu, yêu người chồng chỉ vì đó là người chồng; chính Ātman, đấng Chúa Tể bên trong mới khiến cho người chồng được yêu thương”. Những người vợ yêu thương chồng có thể biết hoặc không biết điều này, nhưng tất cả đều giống như nhau. “Không một ai, này người yêu dấu, yêu người vợ chỉ vì đó là người chồng, mà chính Ātman, Tự Ngã bên trong của người vợ được yêu thương”. Tương tự như vậy, không một ai yêu thương đứa trẻ hay một thứ bất kỳ nào khác trên thế gian này mà không vì Thượng Đế ở bên trong đó. Thượng Đế là khối nam châm vĩ đại, còn chúng ta giống như những mạt sắt; chúng ta thường xuyên bị hút về phía Ngài, và chúng ta đang đấu tranh để đến được với Ngài. Tất cả sự đấu tranh của chúng ta trong thế gian này chắc chắn không nhắm đến những mục tiêu vị kỷ. Những kẻ khờ khạo không biết mình đang làm gì, công việc của họ trong đời, rốt cuộc lại, cũng chỉ để tiếp cận với khối nam châm vĩ đại kia. Tất cả mọi cuộc đấu tranh và chiến đấu khủng khiếp trong đời sống cũng chỉ cốt để chúng ta tiến về với Ngài lúc chung cuộc, và hợp nhất với Ngài.
Một hành giả bhakti-yoga, tuy nhiên, biết ý nghĩa của những cuộc đấu tranh trong đời sống; anh ta hiểu được nó. Anh ta trải qua một chuỗi dài những cuộc đấu tranh này và biết chúng có ý nghĩa gì, và khát khao thoát ra khỏi sự va chạm với chúng. Anh ta muốn tránh sự xung đột, và đi thẳng vào trung tâm của mọi lực hấp dẫn – đó là đấng Hari vĩ đại. Đây là sự buông xả của một hành giả bhakta : lực hút mãnh liệt hướng về Thượng Đế đã khiến cho mọi lực hút khác đối với anh ta đều tan biến hết; tình yêu mãnh liệt vô biên dành cho Thượng Đế đã ăn sâu vào tâm hồn anh ta, và không còn chỗ cho tình yêu nào khác ỏ nơi đó. Làm sao có thể khác hơn được chứ? Bhakti làm tràn ngập tâm hồn anh ta bằng những dòng nước thiêng liêng của Đại Dương Yêu Thương – đại dương đó chính là Thượng Đế; không còn chỗ cho những tình yêu vặt vãnh. Điều đó muốn nói rằng : sự buông xả của hành giả bhakta là vairāgya, là tâm vô luyến cảm đối với tất cả những sự vật không phải là Thượng Đế, nó là kết quả từ anurāga hay sự gắn bó cao cả với Thượng Đế.
Đây là bước chuẩn bị lý tưởng để đạt đến bhakti tối thượng.
Khi sự buông xả này đến thì cánh cổng sẽ mở rộng để linh hồn đi qua và đạt đến
những cảnh giới cao chót vót của lòng sùng đạo tối cao, hay parā-bhakti. Đến
lúc này, chúng ta mới bắt đầu hiểu được parā-bhakti là gì; và chỉ người nào đã
đi vào tận bên trong sâu thẳm của điện thờ parā-bhakti mới có quyền nói rằng
mọi hình thức và mọi biểu tượng đối với anh ta đều vô ích, chúng chỉ là những
pháp trợ đạo để giúp anh ta chứng ngộ mà thôi. Chỉ người ấy mới đạt đến trạng
thái yêu thương tối thượng, thường được gọi là tình huynh đệ của con người;
những người còn lại chỉ nói suông. Người đó không còn thấy các tướng sai biệt;
Đại Dương Tình Yêu hùng vĩ đã nhập vào tâm hồn người đó, và anh ta không còn
thấy con người nơi con người, mà chỉ thấy đấng Thân Yêu của mình hiện diện khắp
nơi. Trên mỗi gương mặt, anh ta đều thấy hình ảnh Hari tỏa sáng rực rỡ. Ánh
sáng mặt trời hay ánh sáng mặt trăng đều là sự hiển lộ của Ngài. Bất cứ nơi nào
có vẻ đẹp hay sự hùng vĩ uy nghiêm thì đối với người đó, tất cả đều là Ngài.
Các hành giả bhakta như thế vẫn còn đang sống; thế giới này chưa bao giờ thiếu
vắng họ. Dù bị rắn độc cắn, họ cũng chỉ bảo rằng một sứ giả đã đến với họ từ đấng
Thân Yêu. Chỉ có những người đó mới có quyền nói đến tình huynh đệ đại đồng. Họ
không có cảm giác phẫn hận, tâm trí họ không bao giờ phản ứng bằng hình thức
hận thù hay ghen tỵ. Thế giới ngoại tại, thế giới của giác quan đã vĩnh viễn
biến mất với họ. Làm sao họ có thể giận dữ khi mà họ luôn luôn, bằng tình yêu
thương, có thể nhìn thấy được Thực Tại đàng sau những cảnh tượng kia?
“Những người nhất tâm sùng bái Ngài trong từng niệm, so với những người sùng bái đấng Vô Sai Biệt, đấng Tuyệt Đối thì ai là nhà yogi vĩ đại hơn?”. Arjuna đã hỏi thần Śri Krishna như thế. Câu trả lời là : “Đó là những người nhất tâm sùng bái Ta trong từng niệm, và được phú bẩm một đức tin tối thượng – họ là những tín đồ sùng bái ưu tú nhất của Ta, họ là những hành giả yogi vĩ đại nhất. Chỉ những kẻ nào sùng bái đấng Tuyệt Đối, đấng Bất Khả Ngữ Giải, đấng Vô Sai Biệt, đấng Vô Sở Bất Tại, đấng Bất Khả Tư Nghì, đấng Toàn Tri, đấng Bất Động, đấng Thường Tại Vĩnh Hằng bằng cách chế ngự giác quan và quán chiếu thấy vạn vật đều bình đẳng vô sai biệt thì những kẻ đó, nhờ làm việc thiện cho chúng sinh, mới đến được với Ta. Còn những kẻ nào tận hiến tâm trí cho đấng Tuyệt Đối vô hình tướng thì con đường tu tập rất đỗi gian nan; bởi vì trên thực tế, bất cứ chúng sinh hữu hình nào đi theo con đường của đấng Tuyệt Đối vô hình tướng cũng đều gặp vô vàn gian khó. Còn những kẻ nào hiến dâng trọn vẹn sự nghiệp cho Ta, tuyệt đối tin tưởng nơi Ta, những kẻ đó nhất tâm nhất niệm quán tưởng Ta, sùng bái Ta, không quyến luyến đến một thứ bất kỳ nào khác – thì Ta sẽ nhanh chóng giải thoát họ ra khỏi đại dương sinh tử luân hồi bất tận, vì họ toàn tâm toàn ý hướng về Ta”.
Cả hai pháp môn jnāna-yoga và bhakti-yoga đều được nhắc đến ở đây. Có thể nói cả hai đều được định nghĩa trong đoạn kinh văn trên. Jnāna-yoga thật vĩ đại, nó là triết học cao xa và hầu hết mọi người đều nghiêm túc cho rằng mình chắc chắn có thể làm theo được mọi yêu cầu của triết học đó. Nhưng thực ra rất khó mà sống cuộc đời của một hành giả jnāni chân chính. Chúng ta chắc chắn sa vào những mối nguy hiểm to lớn khi cố gắng dùng triết học đó để định hướng đời mình. Có thể nói rằng thế giới này được phân chia ra làm hai; một bên những người mang bản chất quỷ quái cho rằng chăm sóc thể xác là mục đích tối hậu, là cứu cánh của cuộc sống; một bên là những người mang bản chất lương thiện, hiểu rằng thể xác chỉ là phương tiện để đạt đến cứu cánh, là công cụ dùng để trau dồi linh hồn. Ma quỷ có thể, và thực sự đã làm, trích dẫn kinh điển và mục đích riêng của chúng; và do đó, phương cách mà kiến thức được dùng để biện minh cho những hành vi của kẻ xấu cũng có sức thuyết phục như hành vi của người tốt. Đó là mối nguy hiểm to lớn trong pháp môn jnāna-yoga. Còn pháp môn bhakti-yoga thì tự nhiên, dịu dàng và nhẹ nhàng; một hành giả bhakta không bay bổng như một hành giả jnāna-yogi, do đó, họ chắc chắn không bị rơi quá nặng. Chừng nào những trói buộc linh hồn chưa bị mất đi thì không thể nào có tự do, cho dù một kẻ có đạo tâm tu tập theo bất kỳ pháp môn nào.
Đây là câu kinh văn chỉ ra cho ta thấy, trong trường hợp của các cô gái chăn bò gopi, tất cả những thứ trói buộc linh hồn như vinh và nhục, ưu điểm và khuyết điểm, đều đứt đoạn. “Trạng thái hỷ lạc mãnh liệt khi trầm tư về Thượng Đế đã dứt bỏ những điều trói buộc do hành vi thiện hảo của nàng. Và nỗi khốn khổ mãnh liệt trong linh hồn – do không đến được với Ngài – cũng đã gột rửa sạch mọi thiên hướng tội lỗi trong nàng, và nàng được giải thoát”.
Trong pháp môn bhakti-yoga,
do đó, bí quyết cốt yếu là phải biết rằng những dục vọng, những cảm nhận và xúc
động khác nhau trong tâm hồn con người tự bản thân chúng không có gì là sai lệch
cả, chỉ có điều là cần phải thận trọng chế ngự chúng để đưa theo định hướng
ngày càng cao thượng hơn, cho đến khi chúng đạt đến trạng thái viên mãn tối
cao. Định hướng tối cao là định hướng đưa chúng ta đến với Thượng Đế; mọi định
hướng khác đều thấp kém hơn. Chúng ta thấy rằng khoái lạc và khổ đau là những
cảm xúc quen thuộc, cứ thường xuyên diễn ra trong đời sống. Khi một người cảm thấy
khổ đau vì không được giàu có hoặc không có những thứ của cải thế gian thì anh
ta đang để cảm xúc đi theo hướng sai lệch. Khổ đau vẫn có công dụng của nó. Hãy
để cho một người khổ đau vì không đạt được đến với đấng Tối Cao, không đạt được
đến với Thượng Đế thì sự khổ đau đó sẽ dẫn anh ta đến giải thoát. Khi các bạn
vui mừng vì có được một nắm tiền thì các bạn cũng đang để khả năng cảm thụ niềm
vui đi theo định hướng sai lệch, khả năng đó nên được đưa theo định hướng cao
thượng hơn, nó cần phải được dùng để phụng sự cho Lý Tưởng Tối Cao. Lạc thú
trong loại lý tưởng đó chắc chắn phải là trạng thái hỷ lạc cao nhất của chúng
ta. Đối với tất cả những cảm xúc khác của chúng ta cũng diễn ra điều tương tự
như vậy. Một hành giả bhakta nói rằng không một cảm xúc nào là sai lầm, anh ta
nắm bắt tất cả những cảm xúc đó, và nhất tâm hướng chúng về Thượng Đế.
Sau đây là một vài hình thức biểu hiện của thương yêu. Trước tiên là lòng tôn kính. Vì sao dân chúng phải tỏ lòng tôn kính đối với các điện thờ và thánh địa? Bởi vì đó là những nơi tôn thờ Thượng Đế, và bởi vì sự hiện diện của Ngài gắn liền với những nơi đó. Vì sao dân chúng ở mọi quốc gia đều phải tỏ lòng tôn kính đối với các bậc đạo sư? Tâm hồn nhân loại làm thế là điều rất đỗi tự nhiên, bởi vì những bậc đạo sư đó thuyết giảng về Thượng Đế. Từ nền tảng, lòng tôn kính phát triển từ thương yêu; chúng ta không thể tôn kính người mà ta không thương yêu. Kế đó là priti, hay niềm hỷ lạc nơi Thượng Đế. Con người tìm thấy lạc thú vô biên biết là ngần nào trong các đối tượng của giác quan! Họ chạy đôn đáo khắp nơi, băng qua bất kỳ sự nguy hiểm nào để tìm cho bằng được thứ mà họ yêu thích, thứ mà giác quan họ ưa chuộng. Điều cần thiết nơi một hành giả bhakta là tất cả lòng thương yêu mãnh liệt đó đều phải hướng về Thượng Đế. Rồi có những nỗi đau ngọt ngào nhất, gọi là viraha, tức nỗi khốn khổ sâu sắc do thiếu vắng người thân yêu. Khi một người cảm nhận được nỗi khốn khổ sâu sắc vì không đạt tới Thượng Đế, vì không biết được cái duy nhất cần phải biết, do đó cảm thấy vô cùng bất mãn và hầu như trở nên điên loạn – thì đó là viraha; và trạng thái tinh thần đó khiến cho anh ta cảm thấy bối rối trước sự hiện diện của bất kỳ sự vật nào không phải là đấng Thân Yêu. Trong tình yêu thế tục, ta cũng thường thấy viraha này xảy ra như thế nào. Lại nữa, khi người đàn ông thực sự thương yêu mãnh liệt một phụ nữ, hay ngược lại, thì họ cảm nhận được sự phiền toái tự nhiên trước sự hiện diện của những người họ không yêu thích. Điều này giống hệt như tâm trạng bồn chồn nôn nóng đối với những thứ không ưa thích, khi para-bhakti ngự trị trong lòng họ; ngay cả việc nói về những điều không phải là Thượng Đế cũng làm họ bức mình khó chịu. “Hãy nghĩ đến Ngài, chỉ nghĩ đến Ngài thôi, và từ bỏ tất cả những lời viễn vông vô ích khác”. Những ai chỉ nói về Thượng Đế thôi thì hành giả bhakta thấy thân thiết với người đó; còn những người nói về những điều khác thì hành giả bhakta không có thiện cảm với họ.
Ta sẽ đạt đến một mức độ thương yêu cao hơn khi bản thân đời
sống được duy trì vì Lý Tưởng của Tinh Yêu, khi bản thân đời sống chỉ được xem
là tươi đẹp và đáng sống vì Tình Yêu đó. Không có Tình Yêu đó thì một cuộc sống
như vậy sẽ không được duy trì, dù chỉ trong một phút giây. Cuộc sống sở dĩ ngọt
ngào là vì nó nghĩ đến đấng Thân Yêu. Tadiyatā –hay niềm tin rằng tất cả đều
thuộc về Thượng Đế – sẽ đến, khi hành giả trở nên toàn thiện nhờ bhakti; nghĩa
là khi người đó hưởng được lạc phúc, đến được với Thượng Đế, sờ được bàn chân
Ngài, có thể nói như vậy. Lúc ấy, toàn bộ bản chất người đó sẽ trở nên thuần
tịnh và thay đổi hoàn toàn. Mọi sở nguyện trong đời đều được thành tựu. Có
nhiều hành giả bhakta như thế, sống chỉ để sùng bái Thượng Đế. Đó là lạc phúc,
là trạng thái hỷ lạc trong đời mà họ sẽ không bao giờ từ bỏ. “Ôi, đức vua,
chính sự thụ hưởng lạc phúc từ đấng Hari khiến họ thấy mãn nguyện với ChânNgã, mọi
vướng mắc trong tâm hồn đều đứt đoạn; họ thương yêu Thượng Đế chỉ thuần vì thương
yêu” – đấng Chúa Tể “mà tất cả chư thần, tất cả những kẻ mong cầu
giải thoát, cũ nhưng tất cả người kẻ biết được đấng Brahman đều tôn thờ sùng
bái”. Đó là sức mạnh của thương yêu. Khi một người hoàn toàn quên mất tự
ngã, và không còn cảm thấy một thứ gì thuộc về mình nữa thì người đó đạt đến
trạng thái Tadiyatā. Mọi thứ đối với anh ta đều trở nên thiêng liêng vì chúng
đều thuộc về đấng Thân Yêu. Ngay cả trong tình yêu thế tục, một kẻ đang yêu
cũng cảm thấy tất cả những gì thuộc về người mình yêu đều thiêng liêng và thân
thiết với mình. Người đó thậm chí có thể yêu cả một mảnh vải của người mình yêu
dấu. Cũng tương tự vậy đó, khi một người thương yêu Thượng Đế thì sẽ thấy toàn
thể vũ trụ trở nên thân thiết với mình vì tất cả đều là Ngài.
Làm thế nào chúng ta có thể thương yêu vyashti – cái đặc thù hay biệt tướng –mà thoạt tiên lại không thương yêu samashti –cái phổ quát hay tổng tướng? Thượng Đế là samashti, là cái toàn thể phổ quát trừu tượng được khái quát hóa[12]; và cái vũ trụ mà chúng ta nhìn thấy đây là vyashti, tức sự vật được đặc thù hóa. Ta chỉ có thể thương yêu toàn thể vũ trụ bằng cách thương yêu samashti hay cái phổ quát, tức là – có thể nói như vậy – chỉnh thể thuần nhất trong đó hàm chứa vô số những chỉnh thể nhỏ hơn. Các triết gia Ấn Độ không dừng lại tại những cái đặc thù; họ nhìn lướt vội qua những cái đặc thù, và ngay lập tức phát hiện ra những hình thức được khái quát hóa bao hàm tất cả những cái đặc thù. Cuộc tìm kiếm cái phổ quát là cuộc tìm kiếm duy nhất trong triết học và tôn giáo Ấn Độ. Hành giả jnāni nhắm đến tính toàn vẹn của sự vật, đến một Hằng Hữu tuyệt đối được khái quát hóa, mà khi biết được Hằng Hữu đó thì họ biết được toàn thể sự vật. Hành giả bhakta mong muốn thực chứng được Đấng trừu tượng được khái quát hóa, mà khi thương yêu đấng đó thì họ thương yêu cả muôn loài. Hành giả yogi mong muốn sở hữu được hình thức năng lực được khái quát hóa, mà khi chế ngự được năng lực đó thì họ chế ngự được cả vũ trụ. Tâm trí người Ấn, xuyên suốt qua lịch sử của họ, đã hướng về việc tìm kiếm cái phổ quát trong mọi sự – trong khoa học, trong tâm lý học, trong tình yêu, trong triết học. Bởi vậy, hành giả bhakta đi đến kết luận rằng nếu chỉ thương yêu hết người này đến người khác thì các bạn có thể tiếp tục thương yêu họ trong khoảng thời gian vô tận, nhưng hoàn toàn không thể thương yêu được trọn vẹn cả thế gian này. Tuy nhiên đến lúc cuối cùng, khi ta đạt đến ý tưởng trọng tâm rằng tổng số của mọi tình yêu là Thượng Đế, rằng tổng số những khát vọng của mọi linh hồn trong vũ trụ này – dù là đã tự do hay bị ràng buộc, hoặc đang đấu tranh để hướng đến giải thoát – đều là Thượng Đế, thì chỉ đến khi đó một người bất kỳ mới có thể đề xướng lòng bác ái được.
Thượng Đế là samashti, và cái vũ trụ hữu hình này là Thượng Đế bị sai biệt hóa và làm cho hiển lộ. Nếu chúng ta thương yêu tổng số này thì chúng ta thương yêu muôn vật. Thương yêu thế gian và làm điều điều tốt đẹp cho thế gian, tất cả những thứ đó sẽ đến rất dễ dàng. Chúng ta phải thủ đắc được năng lực này chỉ bằng cách thương yêu Thượng Đế trước tiên; nếu không thì làm điều tốt đẹp cho thế gian không phải là chuyện dễ dàng. “Tất cả đều thuộc về Người và Người là đấng Thân Yêu của tôi; tôi thương yêu Người”, một hành giả bhakta nói vậy. Bằng cách này thì tất cả mọi thứ đều trở nên thiêng liêng với hành giả bhakta, vì tất cả đều thuộc về Ngài. Tất cả đều là con cái của Ngài, là thể xác của Ngài, là sự hiển lộ của Ngài. Vậy thì làm sao chúng ta có thể làm tổn thương bất kỳ một ai? Tình yêu dành cho Thượng Đế sẽ dẫn đến tình yêu dành cho mọi người trong vũ trụ, như một hiệu quả chắc chắn. Càng đến gần Thượng Đế, chúng ta càng bắt đầu thấy rằng muôn vật đều ở cả nơi Ngài.
Khi linh hồn thành công trong việc giành được lạc phúc của tình yêu tối thượng này thì nó cũng bắt đầu thấy Ngài hiện hữu trong muôn vật. Lúc đó tâm hồn chúng ta sẽ trở thành nguồn suối thương yêu vĩnh viễn. Và khi chúng ta đạt đến trạng thái còn cao hơn nữa trong tình thương yêu này thì tất cả những khác biệt vụn vặt giữa sự vật trong thế gian biến mất hoàn toàn. Con người không còn được nhìn như một con người nữa, mà như làThượng Đế; con vật không còn được nhìn như một con vật nữa, mà như là Thượng Đế; thậm chí con cọp cũng không còn là con cọp nữa, mà là sự hiển lộ của Thượng Đế. Do đó, trong trạng thái bhakti mãnh liệt này, sự sùng bái được hiến dâng lên cho tất cả mọi người, cho tất cả mọi sự sống, và mọi chúng sinh.
“Hãy biết rằng Hari, đấng Chúa Tể, hiện hữu trong muôn loài, bậc trí giả, do đó, biểu hiện tình yêu không đổi của mình đối với tất cả chúng sinh”. Từ tình yêu mãnh liệt này – loại tình yêu có sức hấp thu tất cả – sẽ dẫn đến việc cảm nhận trạng thái tùy thuận trọn vẹn, tin chắc rằng không có gì đối nghịch lại ta. Khi đó, nếu gặp nỗi thống khổ thì một linh hồn tràn ngập thương yêu có thể nói : “Xin chào nỗi thống khổ”. Nếu gặp cảnh khốn cùng thì nó cũng nói : “Xin chào cảnh khốn cùng, mi cũng đến với ta từ đấng Thân Yêu”. Nếu đối diện với cái chết thì một hành giả bhakta như thế cũng sẽ bảo : “Thật hạnh phúc cho tôi khi tất cả những điều đó đều đến với tôi; tôi xin hân hon đón chào tất cả”. Một hành giả bhakta trong trạng thái buông xả toàn vẹn đó – trạng thái phát sinh từ tình thương yêu mãnh liệt dành cho Thượng Đế và cho tất cả những gì thuộc về Ngài – không còn phân biệt giữa vui buồn, sướng khổ trong mức độ chúng còn tác động đến mình. Anh ta không hề biết chuyện thở than nỗi thống khổ hay cùng khốn là gì; và tâm tùy thuận tuyệt đối theo ý chí Thượng Đế này – đấng hiện thân của tình yêu – thực sự là phần thu thập đáng giá hơn mọi niềm vinh quang của những thành tích vĩ đại và anh dũng.
Đối với phần lớn nhân loại, thể xác là tất cả. Thể xác là toàn thể vũ trụ đối với họ; hưởng thụ lạc thú xác thân là cùng đích, là tất cả đối với họ. Con quỷ tôn thờ thể xác và những gì thuộc về thể xác đã nhập vào trong tất cả chúng ta. Chúng ta có thể sa đà vào những lời nói tràng giang đại hải hoặc bay bổng lên tận chín tầng mây, nhưng tất cả chúng ta cũng chẳng khác gì loài chim kên kên, tâm trí chúng ta cứ hướng xuống miếng thịt thối ở bên dưới. Vậy thì việc gì chúng ta lại cần phải thoát khỏi miệng cọp? Vì sao chúng ta lại không tặng thể xác này cho nó luôn đi? Nếu được vậy thì con cọp sẽ rất hài lòng, và điều dó cũng chẳng khác việc hy sinh và sùng bái là mấy.
Các bạn có thể đạt đến một cảnh giới tư tưởng, trong đó mọi thọ nhận về thể xác đều hoàn toàn biến mất? Đó là chóp đỉnh cao chót vót trong tôn giáo của tình yêu khiến ta phải choáng váng mặt mày; trong đời này ít người có thể leo lên đến đỉnh đó; nhưng chừng nào còn chưa leo lên đến được chóp đỉnh cao nhất của lòng hy sinh luôn sẵn sàng và tự nguyện thì ta vẫn chưa phải là một hành giả bhakta hoàn hảo. Tất cả chúng ta ít nhiều đều có thể chăm sóc để thể xác được thỏa mãn trong một khoảng thời gian ngắn hoặc dài. Tuy nhiên, thể xác chúng ta rồi cũng phải ra đi, chúng chẳng có gì là bền vững cả. Hạnh phúc thay cho những người để thể xác bị hủy hoại vì chăm lo phục vụ người khác. “Tài sản và ngay cả sự sống, nhà hiền triết luôn sẵn sàng đem chúng ra để phục vụ chúng sinh. Trong thế giới này, có một điều chắc chắn, đó là cái chết; cho nên thể xác này chết vì một lý do chính đáng sẽ tốt hơn nhiều so với những lý do tồi tệ”. Chúng ta có thể kéo lê cuộc sống trong vòng năm mươi năm hay một trăm năm, nhưng rồi sau đó, điều gì sẽ xảy đến? Tất cả những gì do hòa hợp mà thành đều phải tan rã và hủy hoại. Phải đến và sẽ đến một thời điểm chúng phải bị phân rã. Chúa Jesus, đức Phật, và Mohammed, tất cả đều phải chết; tất cả những nhà tiên tri vĩ đại, những vị đạo sư vĩ đại của thế gian cũng đều phải chết. “Trong cái thế gian vô thường này, nơi mà tất cả đều đang phân rã ra từng mảnh, chúng ta phải biết tận dụng một cách tối cao thời gian mà ta có được”, hành giả bhakta nói như thế, và cách tận dụng một cách tối cao cuộc sống này là dùng nó để phụng sự chúng sinh.
Chính quan niệm đáng ghê sợ về thể xác đã làm phát sinh mọi thói ích kỷ trong thế gian này; khi cho rằng toàn bộ chúng ta là cái thể xác mà ta đang có, và chúng ta phải cố tìm đủ mọi cách để gìn giữ nó và làm nó cho nó được sung sướng, thì đó chỉ là một vọng tưởng. Nếu các bạn biết rõ ràng là các bạn khác với thể xác thì các bạn không cần phải chiến đấu hay đấu tranh chống lại bất kỳ một thứ gì; các bạn đã chết đi với mọi ý tưởng vị kỷ. Bởi vậy, hành giả bhakta tuyên bố rằng ta phải chế ngự bản thân như nó hoàn toàn đã chết đi với mọi sự trên thế gian; và đó là mới thực sự là buông xả. Hãy để mặc cho mọi chuyện xảy đến tùy chúng. Đó là ý nghĩa của câu “Ý Cha được nên”[13] – không phải bắt đầu chiến đấu hay đấu tranh gì nữa; và suốt thời gian đó hãy nghĩ rằng mọi sự yếu đuối và những tham vọng trần tục của chúng ta đều do thiên định. Có thể những cuộc đấu tranh vị kỷ của chúng ta mang lại điều tốt đẹp; tuy nhiên, đó là sự giám thị của Thượng Đế. Quan điểm của một hành giả bhakta hoàn hảo phải là : không bao giờ thể hiện ý chí hay làm việc vì bản thân mình. “Hỡi Thượng Đế, họ xây điện thờ tráng lệ nhân danh Người; họ bố thí hào phóng nhân danh Người; tôi nghèo khó, tôi chẳng có thứ gì, nên tôi xin đem thân xác tôi đây đặt dưới chân Người. Hỡi Thượng Đế, xin Người đừng bỏ rơi tôi”, đó là lời cầu nguyện phát xuất từ tận cùng sâu thẳm trong tâm hồn hành giả bhakta.
Đối với những người đã trải nghiệm điều này thì việc hiến
dâng vĩnh viễn tự ngã cho đấng Chúa Tể Thân Yêu còn cao viễn hơn việc hiến dâng
tài sản và quyền lực, thậm chí còn hơn cả những tư tưởng cao xa về danh tiếng
và hỷ lạc. Trạng thái bình yên trong sự buông xả tĩnh lặng của hành giả bhakta
là sự bình yên kinh qua mọi tri kiến, và nó vô giá. Sự buông xả của hành giả
bhakta là trạng thái trong lòng không còn một mối quan tâm vị kỷ nào, và biết
rằng không có gì đối kháng lại nó. Trong trạng thái buông xả cao nhã siêu phàm
đó, mọi hình thức luyến cảm đều hoàn toàn tan biến; chỉ còn lại một tình thương
yêu thu hút muôn vật, tình thương yêu đó hướng về Ngài, đấng mà trong đó muôn
loài được sống, di động và tồn tại. Sự gắn bó với tình yêu dành cho Thượng Đế
thực ra là sự gắn bó không trói buộc linh hồn, mà nó còn bẻ gãy mọi trói buộc
một cách hữu hiệu.
Các Upanishad phân biệt giữa tri thức tâm truyền với tri thức công truyền; còn đối với một hành giả bhakta thì không hề có sự khác biệt thực sự nào giữa tri thức tâm truyền với tình yêu tối thượng (parā-bhakti) cả. Kinh Mundaka Upanishad nói : “Những bậc liễu ngộ được Brahman tuyên bố rằng có hai loại tri thức đáng để biết đến, đó là tri thức tâm truyền (parā) với tri thức công truyền (aparā). Về tri thức công truyền được chứa trong các kinh Rig-Veda, Yajur-Veda, Sāma-Veda, Atharva-Veda, śikshā (ngữ âm học), kalpa (nghi thức hiến tế), ngữ pháp, nirukta (từ nguyên học và ngữ nghĩa học), âm luật học, và thiên văn học; còn tri thức tâm truyền là cái giúp ta liễu ngộ được cái Thường Hằng Bất Biến”. Tri thức tâm truyền, do đó, đã được chứng minh rõ ràng là tri thức về Brahman; và Devi-Bhāgavata cho chúng ta một định nghĩa về tình yêu tối thượng (parā-bhakti) : “Khi được rót từ bình này sang bình khác thì dầu tạo thành một dòng chảy liên tục, cũng vậy, khi tâm trí nhất tâm quán tưởng về Thượng Đế không một niệm dừng thì chúng ta có cái gọi là parā-bhakti hay tình thương yêu tối thượng”.
Khi tâm trí và con tim hướng về Thượng Đế một cách bền vững và trầm tĩnh, một niệm không lìa thì đó thực sự là sự biểu hiện tối cao của tình yêu mà con người dành cho Thượng Đế. Mọi hình thức khác của bhakti chỉ là sự chuẩn bị để đạt đến chóp đỉnh tối cao của tình yêu đó, tức parā-bhakti – còn được gọi là rāgānugā, hay tình yêu xuất phát từ sự gắn bó đó. Khi tình yêu tối thượng đến với tâm hồn con người thì tâm trí họ sẽ luôn nghĩ về Thượng Đế và không tưởng nhớ đến thứ chi khác. Trong tư tưởng họ không còn chỗ cho điều gì khác ngoài Thượng Đế, linh hồn họ sẽ trở nên thuần tịnh tuyệt đối, chỉ có họ mới bẻ gãy được những gông cùm trói buộc của tâm trí cùng vật chất, và trở nên tự do một cách trầm tịnh. Chỉ có người đó mới có thể sùng bái Thượng Đế trong tâm hồn mình; đối với họ thì tất cả hình thức, biểu tượng, kinh sách và giáo lý đều không cần thiết, và chúng không thể chứng tỏ là khả dụng theo bất cứ cách nào.
Thương yêu Thượng Đế như thế không phải là chuyện dễ dàng. Ta
thấy tình yêu bình thường của con người chỉ phát triển tại những nơi mà nó được
đáp lại; nơi nào mà tình yêu không được đáp lại bằng tình yêu thì sự hững hờ
lạnh nhạt sẽ là kết quả tất nhiên. Tuy nhiên, ta cũng có thể thấy trong một số
trường hợp hiếm hoi, tình yêu tự nó biểu hiện mà không cần được đáp lại bằng
tình yêu. Để minh họa, ta có thể so sánh tình yêu loại này với sự yêu thích của
con thiêu thân dành cho ngọn lửa; loài côn trùng đó yêu thích lửa, lao vào đó
và chết. Thực ra, bản chất của loài côn trùng này khiến chúng phải yêu thích
như thế. Thương yêu chỉ vì bản chất của thương yêu là thương yêu, điều đó hiển
nhiên là sự biểu hiện cao cả nhất và vị tha nhất của tình yêu mà ta có thể
chứng kiến trên thế gian này. Thương yêu như thế, tự bản thân nó khi phát triển
trên bình diện tâm linh, tất yếu sẽ dẫn đến sự thành tựu parā-bhakti.
Chúng ta có thể trình bày tình yêu như một hình tam giác, mỗi góc tương ứng với một đặc tính không thể tách rời của nó. Không thể có hình tam giác mà không có đủ cả ba góc; và cũng không thể có thương yêu chân chính, nếu không có ba đặc tính sau đây. Góc thứ nhất trong tam giác tình yêu của chúng ta là thương yêu mà không hề so đo mặc cả. Bất cứ nơi nào còn tìm kiếm thương yêu đáp trả thì không thể có được thương yêu chân chính; nó chỉ còn là việc mua bán đơn thuần. Chừng nào trong lòng ta còn một ý tưởng bất kỳ nào về việc nhận ân huệ này hay ân huệ nọ từ Thượng Đế để đền đáp lòng tôn kính và phục tòng của ta đối với Ngài thì không một tình yêu chân thật nào có thể nảy nở được trong lòng ta. Những người nào sùng bái Thượng Đế chỉ vì cầu mong ân huệ thì chắc chắn là sẽ không còn sùng bái Ngài nữa, nếu như những ân huệ đó không đến. Hành giả bhakta thương yêu Thượng Đế chỉ vì Ngài đáng để thương yêu; chứ không hề có một động cơ nào khác làm phát sinh hay hướng dẫn tình thương yêu thiêng liêng đó của một người sùng đạo chân thành.
Chúng ta từng nghe câu chuyện vê một vị đại hoàng đế. Một ngày nọ ông đi vào rừng và gặp một nhà hiền triết. Ông trao đổi vài câu với nhà hiền triết, và thấy vô cùng hài lòng về sự thanh khiết và trí huệ của vị này. Nhà vua muốn nhà hiền triết gia ân cho mình bằng cách nhận một lễ vật của ông. Nhà hiền triết từ chối, và nói :
– Trái cây trong rừng đủ để tôi ăn, suối nước trong chảy từ núi xuống đủ để tôi uống; vỏ cây đủ để tôi che thân, và những hang động kia là nhà của tôi. Vì sao tôi lại cần phải nhận quà tặng của ngài hay của bất kỳ một ai khác chứ?.
Nhà vua bảo :
– Xin ngài hãy nhận một chút lễ mọn từ tay ta, và hãy vui lòng theo ta về hoàng cung chỉ để ban cho ta một ân huệ.
Sau nhiều lần thuyết phục, nhà hiền triết chấp nhận chiều theo ý nhà vua và đi theo ngài về hoàng cung.
Trước khi dâng lễ vật lên cho nhà hiền triết, nhà vua cầu nguyện Thượng Đế, lặp lại lặp lại những lời sau : “Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy ban cho con nhiều con cái hơn nữa; xin Ngài hãy ban cho con nhiều của cải hơn nữa; xin Ngài hãy ban cho con nhiều đất đai hơn nữa; xin Ngài hãy phù hộ cho thân thể con được khỏe mạnh hơn nữa” – và những điều đại loại như vậy.
Trước khi nhà vua kết thúc lời cầu nguyện, nhà hiền triết đã đứng lên và lặng lẽ đi ra khỏi phòng. Nhà vua bối rối, bèn chạy theo kêu lớn :
– Này ngài, sao ngài lại bỏ đi, ngài vẫn chưa nhận lễ vật của ta mà.
Nhà hiền triết quay lại, nói :
– Tôi không xin ăn nơi những kẻ ăn mày. Ngài chỉ là một kẻ ăn mày, chứ không là gì khác cả; làm sao ngài có thể cho được tôi vật gì chứ? Tôi không phải là kẻ ngốc mà nghĩ đến chuyện sẽ nhận được một thứ gì đó từ một kẻ ăn mày như ngài. Hãy cút đi. Đừng có theo tôi nữa.
Có sự phân biệt rạch ròi giữa những kẻ thuần là ăn mày với những người thương yêu Thượng Đế thực sự. Cầu xin không phải là ngôn ngữ của thương yêu. Thậm chí sùng bái Thượng Đế để cầu mong giải thoát hay để nhận được một phần thưởng nào khác thì cũng suy đồi như nhau. Thương yêu không hề biết đến phần thưởng. Thương yêu luôn luôn chỉ vì thương yêu mà thôi. Hành giả bhakta thương yêu chỉ vì họ không thể không thương yêu. Khi các bạn nhìn thấy một phong cảnh đẹp và yêu thích nó thì các bạn có đòi hỏi ân huệ nào từ nó đâu, mà nó cũng không yêu cầu điều gì nơi các bạn cả. Tuy vậy, cảnh vật đó vẫn đem lại cho các bạn niềm lạc phúc tinh thần; nó làm cho tâm hồn các bạn dịu lại, và hầu như đưa bạn, ngay trong hiện tại, vượt lên trên bản chất của con người thế tục, và đưa bạn vào trạng thái xuất thần ngây ngất rất đỗi thiêng liêng. Bản chất của tình yêu chân thực là góc thứ nhất trong tam giác của chúng ta. Đừng có yêu cầu sự đáp đền gì cho tình thương yêu của bạn cả; hãy luôn luôn giữ cương vị của một người ban phát; hãy trao tình yêu của bạn cho Thượng Đế, và đừng đòi hỏi bất cứ thứ gì báo đáp từ Ngài.
Góc thứ hai của tam giác tình yêu là : tình yêu không hề biết đến sợ hãi. Những người thương yêu Thượng Đế vì sợ hãi là những kẻ hèn kém nhất trong nhân loại, những kẻ đó chưa được phát triển hoàn toàn như một con người. Họ sùng bái Thượng Đế vì sợ bị trừng phạt. Đối với họ, Ngài là một đấng vĩ đại, một tay cầm roi, một tay cầm quyền trượng; nếu không vâng theo lời Ngài thì họ lo sợ sẽ bị đòn roi. Sùng bái Thượng Đế vì sợ bị trừng phạt là sự suy đồi; sự sùng bái như thế, nếu có thể gọi đó là sự sùng bái, là hình thức thô thiển nhất của sự sùng bái bằng tình yêu. Chừng nào mà trong tâm còn sợ hãi thì làm sao có được tình yêu? Tình yêu chiến thắng được mọi nỗi sợ hãi một cách tự nhiên. Thử nghĩ đến một bà mẹ trẻ trên đường phố đang bị một con chó sủa; bà ta kinh hoảng và lao vào căn nhà nào gần nhất. Nhưng giả sử qua hôm sau, bà đi ngoài phố với một đứa con, và một sư tử nhảy xồ vào chụp lấy đứa trẻ. Vị trí của người mẹ lúc này sẽ ở đâu? Dĩ nhiên là ở ngay trước miệng con sư tử để bảo vệ con mình. Tình yêu chiến thắng được tất cả những nỗi sợ hãi. Sự sợ hãi xuất phát từ quan điểm vị kỷ tách mình ra khỏi vũ trụ. Hễ tôi càng làm cho tôi nhỏ bé và càng ích kỷ bao nhiêu thì tôi càng sợ hãi bấy nhiêu. Nếu một người cứ nghĩ rằng mình chẳng là gì cả thì sự sợ hãi chắc chắn sẽ bủa vây lấy anh ta. Nếu các bạn càng ít nghĩ về mình như là một nhân vật tầm thường vô nghĩa thì sự sợ hãi sẽ càng ít hơn đối với các bạn. Chừng nào trong lòng bạn vẫn còn một chút sợ hãi như đốm lửa tí hon thì không thể có thương yêu. Thương yêu và sợ hãi không tương thích với nhau; những người thương yêu Thượng Đế không bao giờ sợ hãi Ngài. Lời răn : “Đừng nhân danh hiệu của đấng Chúa Tể là Thượng Đế của ngươi một cách vô ích”, những người thực sự thương yêu Thượng Đế sẽ phá lên cười vì điều này. Làm sao có thể có sự báng bổ nào trong tôn giáo của tình yêu? Càng nhân danh Thượng Đế bao nhiêu thì càng tốt cho các bạn bấy nhiêu, cho dù các bạn có làm theo cách nào đi nữa. Các bạn lặp đi lặp lại danh hiệu Thượng Đế chỉ vì các bạn thương yêu Ngài.
Góc thứ ba của tam giác tình yêu là : tình yêu không hề biết đến đối thủ cạnh tranh, bởi vì trong nó luôn thể hiện lý tưởng tối cao của người thương yêu. Tình yêu chân thực sẽ không bao giờ đến, chừng nào đối tượng thương yêu của chúng ta chưa trở thành lý tưởng tối cao cho chúng ta. Trong nhiều trường hợp, có thể tình thương yêu bị lệch hướng hoặc bị đặt nhầm chỗ, nhưng đối với người đang thương yêu thì đối tượng mà họ thương yêu vẫn luôn là lý tưởng tối cao. Một người có thể thấy lý tưởng của mình trong một sinh thể đê tiện nhất, người khác thì thấy lý tưởng đó trong một sinh thể cao siêu nhất; tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào thì chỉ lý tưởng đó mới thực sự được thương yêu một cách nồng nàn. Lý tưởng tối cao của mọi người được gọi là Thượng Đế. Dù là kẻ dốt nát hay thông thái, nhà hiền triết hay kẻ tội lỗi, dù là nam hay nữ, có học hay vô học, có văn hóa hay man rợ thì đối với tất cả mọi người, lý tưởng tối cao vẫn là Thượng Đế. Sự tổng hợp tất cả những lý tưởng tối cao về cái đẹp, về sự trác việt và quyền lực đem lại cho chúng ta một quan niệm hoàn chỉnh nhất về một Thượng Đế luôn thương yêu và đáng được thương yêu. Những lý tưởng này tồn tại một cách tự nhiên trong tâm trí của mọi người, dưới hình thức này hay hình thức khác; chúng tạo nên một phần tâm trí của tất cả chúng ta. Mọi biểu hiện linh hoạt của bản chất loài người là đều sự đấu tranh của những lý tưởng này để trở thành hiện thực trong đời sống thực tế. Tất cả những biến động khác nhau trong xã hội, mà chúng ta thấy quanh mình, đều được tạo ra bởi những lý tưởng khác nhau trong những linh hồn khác nhau đang cố gắng hiển lộ và trở nên cụ thể hóa; những thứ bên trong đang chen lấn xô đẩy nhau để xuất lộ ra ngoài. Ảnh hưởng luôn vượt trội của lý tưởng này là sức mạnh duy nhất, là nguyên động lực duy nhất mà ta có thể thấy đang hoạt động không ngừng trong nhân loại.
Có thể là sau hàng trăm kiếp sống nữa, sau những cuộc đấu
tranh xuyên suốt hàng ngàn năm nữa, con người mới nhận ra rằng thật là hoài
công vô ích khi cố làm cho lý tưởng nội tâm hoàn toàn ăn khớp với những điều
kiện ngoại giới, và điều chỉnh cho chúng thật tương thích với nhau. Sau khi
thấu hiểu được điều này thì con người không còn cố gắng phóng chiếu lý tưởng
của mình ra thế giới bên ngoài nữa, mà sùng bái bản thân lý tưởng như là lý
tưởng, từ quan điểm tình yêu tối thượng. Cái lý tưởng hoàn hảo một cách lý
tưởng[14]
này bao trùm mọi lý tưởng thấp kém hơn. Mọi người đều công nhận chân lý của câu
nói : một người đang yêu nhìn thấy sắc đẹp của nàng Helene trên đôi chân mày
của cô gái xứ Ethiopia[15].
Kẻ đứng nhìn như một khách bàng quan thì thấy tình yêu kia đặt không đúng chỗ,
nhưng kẻ đang yêu kia vẫn cứ thấy người đẹp Helene của mình như thường, mà
chẳng thấy cô gái xứ Ethiopia nào cả. Dù là nàng Helene hay cô gái xứ Ethiopia
thì những đối tượng mà chúng ta thương yêu thực sự trở thành tâm điểm, và những
lý tưởng của chúng ta đều kết tinh chung quanh nó. Cái được sùng bái phổ biến
trong thế gian này là gì? Chắc chắn không phải là cái lý tưởng hoàn hảo một
cách lý tưởng và bao trùm được hết mọi thứ của một kẻ sùng đạo chí thành, hay
của một kẻ tình nhân chí tình. Lý tưởng đó – cái mà cả nam lẫn nữ đều thường
sùng bái – chính là cái bên trong họ; mỗi người đều phóng chiếu lý tưởng của
mình ra thế giới bên ngoài và quỳ gối trước nó. Đó là lý do vì sao chúng ta
thấy những kẻ hung tợn và khát máu hình dung ra một Thượng Đế khát máu, bởi vì
họ chỉ thương yêu lý tưởng tối cao của họ mà thôi. Đó cũng là lý do vì sao
chúng ta thấy những người thiện có một lý tưởng rất cao nhã về Thượng Đế, và lý
tưởng của họ thực sự khác xa với lý tưởng của những kẻ khác.
Đối với kẻ thương yêu đã hoàn toàn vượt qua ý tưởng ích kỷ, mặc cả so đo, và không biết đến sợ hãi thì lý tưởng của họ là gì? Thậm chí đối với Thượng Đế vĩ đại thì một người như thế cũng sẽ nói : “Con xin dâng cho Người tất cả những gì con có, và con chẳng mong cầu điều gì từ Người. Thực ra cũng chẳng có thứ gì để con có thể gọi là của mình”. Khi một người đã đạt đến một niềm xác tín như vậy thì lý tưởng của anh ta biến thành một tình yêu toàn mãn, một tình thương yêu hoàn toàn vô úy. Lý tưởng tối cao của một tín đồ như thế sẽ không còn mang tính hạn hẹp của cái riêng biệt đặc thù; đó là lòng bác ái, tình thương yêu bao la tự tại, đó là tự thân của tình yêu tuyệt đối. Lý tưởng cao cả của tôn giáo của tình yêu này được sùng bái và thương yêu một cách tuyệt đối, mà không cần đến trợ giúp của bất kỳ biểu tượng hay sự gợi ý nào. Đây là hình thức tối cao của parā-bhakti – tức sự sùng bái một lý tưởng toàn dung [all-comprehending ideal] như là lý tưởng; tất cả những hình thức khác của bhakti đều chỉ là những giai đoạn trên lộ trình tiến đến nó mà thôi. Mọi thất bại và thành công của chúng ta trong việc theo tôn giáo của tình yêu này đều nằm trên con đường dẫn đến sự thực chứng của lý tưởng duy nhất đó. Hết đối tượng này đến đối tượng khác được xét đến, lý tưởng nội tâm không ngừng phóng chiếu lên tất cả những đối tượng đó; và tất cả những đối tượng ngoại giới nào không tương xứng là những sự vật thuyết minh của lý tưởng nội tâm không ngừng bành trướng thì tự nhiên sẽ bị lần lượt loại bỏ. Cuối cùng, kẻ nhiệt tâm cầu đạo bắt đầu suy nghĩ rằng nỗ lực tìm được sự thực chứng nơi những sự vật ngoại giới là điều vô ích, rằng tất cả những sự vật ngoại giới chẳng là gì cả khi so với chính lý tưởng đó. Và theo thời gian, kẻ đó đạt đến năng lực thực chứng một cách viên mãn lý tưởng tối cao đó; lý tưởng trừu tượng mang tính khái quát cao nhất đó là một ý tưởng trừu tượng, nhưng đối với anh ta thì nó hoàn toàn sinh động và thực hữu.
Khi một tín đồ đạt đến cảnh giới đó thì anh ta không còn bị thôi thúc phải đặt câu hỏi liệu có thể chứng minh được sự tồn tại của Thượng Đế hay không, liệu Thượng Đế có toàn năng và toàn trí hay không. Đối với anh ta thì Ngài chỉ là một Thượng Đế của Thương Yêu; Ngài là lý tưởng tối thượng của thương yêu, và đối với anh ta thì điều đó quá đủ cho mọi mục đích của mình. Thượng Đế, hiểu theo nghĩa là Thương Yêu, tự nhiên hiển lộ; không đòi hỏi phải có bằng chứng để chứng minh sự tồn tại của đấng được thương yêu đối với kẻ thương yêu. Một Thượng Đế-quan tòa, dưới hình thức khác trong tôn giáo, có thể đòi hỏi rất nhiều bằng chứng để chứng minh; nhưng một hành giả bhakta hoàn toàn không thể tư duy về một Thượng Đế như thế. Đối với họ, Thượng Đế toàn nhiên tồn tại như là Tình Yêu. “Hỡi người thương, không một ai thương yêu chồng vì bản thân người chồng đó, mà chính nhờ Chân Ngã bên trong người chồng nên người chồng mới được thương yêu. Hỡi người thương, không một ai thương yêu vợ vì bản thân người vợ đó, mà chính nhờ Chân Ngã bên trong người vợ nên người vợ mới được thương yêu”.
Một đôi người cho rằng thói ích kỷ là nguyên động lực duy nhất đứng đằng sau mọi hoạt động của con người. Đó cũng là thương yêu, mặc dù tình yêu đó đã bị hạ thấp giá trị do bị biến thành cái đặc thù riêng biệt. Khi tôi nghĩ đến bản thân tôi bao trùm cả cái Phổ Quát thì chắc chắn sẽ không còn tính ích kỷ trong tôi; còn khi tôi, do sai lầm, nghĩ rằng mình là cái gì đó nhỏ nhoi bé bỏng thì tình yêu của tôi bị biến thành cái đặc thù riêng biệt và bị thu hẹp lại. Sai lầm này nằm ở chỗ nó khiến cho phạm vi Thương Yêu bị thu hẹp và co rút lại. Tất cả sự vật trong vũ trụ này đều có nguồn gốc linh thiêng và đáng được thương yêu. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng tình yêu dành cho cái toàn thể luôn bao hàm tình yêu dành cho các thành phần.
Cái toàn thể này là Thượng Đế của những hành giả bhakta. Mọi
Thần Linh hay Tổ Tiên khác trên các Cõi Trời, mọi đấng Cai Trị hay đấng Sáng
Tạo khác, mọi giáo lý, lý thuyết cùng kinh điển chẳng có mục đích hay ý nghĩa
nào đối với họ, bởi vì họ đã vượt lên trên tất cả những thứ đó bằng tình yêu
tối thượng và lòng sùng đạo. Khi tâm hồn đã trở nên thuần tịnh, thanh khiết và
ngập tràn nước cam lộ của tình yêu thì mọi quan niệm khác về Thượng Đế đều trở
nên phù phiếm trẻ con và bị chối bỏ, vì không còn tương thích hoặc xứng đáng.
Đó mới thực sự là năng lực của parā-bhakti hay tình yêu tối thượng. Một hành
giả bhakta hoàn hảo không cần phải đi tìm Thượng Đế tại miếu điện hay nhà thờ,
vì hiểu rằng không có một nơi nào mà anh ta lại không tìm thấy Ngài. Anh ta tìm
thấy Ngài ở bên trong đền thờ cũng như bên ngoài đền thờ. Anh ta tìm thấy Ngài trong
phẩm chất linh thánh của nhà hiền triết cũng như trong sự tàn bạo của một kẻ
hung ác; bởi vì trong tâm hồn anh ta, Ngài đã an trú tại đó trong vinh quang
chói lọi, như là đấng toàn năng duy nhất, là ánh sáng của tình yêu bất diệt,
mãi mãi tỏa sáng và vĩnh viễn hiện tiền.
Không thể diễn đạt bản chất của lý tưởng tối cao và tuyệt đối của tình thương yêu bằng ngôn ngữ loài người. Dù trí tưởng tưởng của con người có bay bổng đến vô cùng thì vẫn không thể nào lãnh hội được lý tưởng đó trong tất cả sự toàn mỹ và vẻ đẹp vô biên của nó. Tuy nhiên, tất cả những tín đồ của tôn giáo tình yêu, trong hình thức cao nhã hay thấp hèn và tại mọi quốc gia, đều phải dùng thứ ngôn ngữ bất tương xứng của loài người để lãnh hội và định nghĩa lý tưởng riêng của họ về tình yêu đó. Nói cho đúng hơn thì chính tình yêu của loài người, trong tất cả những hình thức khác nhau của nó, đã được tạo ra để làm khuôn mẫu cho tình yêu bất khả diễn đạt dành cho Thượng Đế. Con người chỉ có thể nghĩ đến những sự vật linh thiêng theo cách thức riêng biệt mang bản chất con người; đối với chúng ta thì cái Tuyệt Đối chỉ có thể được diễn tả bằng ngôn ngữ tương đối của chúng ta. Toàn thể vũ trụ, đối với chúng ta, là một văn bản viết về cái Vô Tận Vô Biên bằng loại ngôn ngữ hữu hạn. Do đó, trong mối quan hệ với Thượng Đế và trong sự sùng bái Ngài bằng tình yêu, các hành giả bhakta đã vận dụng tất cả những thuật ngữ thông thường được gắn kết với tình yêu thông thường của nhân loại.
Có một số tác gia lỗi lạc khi viết về parā-bhakti đã cố tìm hiểu và trải nghiệm thứ tình yêu thiêng liêng này theo nhiều cách khác nhau. Hình thức biểu hiện thấp nhất của tình yêu này là cái mà họ gọi là trạng thái yên tĩnh – śānta. Khi một tín đồ sùng bái Thượng Đế mà không có ngọn lửa thương yêu bừng cháy trong tâm hồn, không có sự cuồng dại trong trí não, khi tình yêu của anh ta chỉ là một thứ tình yêu lặng lẽ bình thường, chỉ cao hơn chút đỉnh so với những thứ hình thức, nghi lễ và biểu tượng, chứ hoàn toàn không mang chút đặc điểm cuồng dại nào của thứ tình yêu năng động mãnh liệt thì nó được gọi là śānta. Chúng ta thấy có những người trong thế giới này thích di chuyển chậm chạp, còn những người khác thì đi đi lai lại nhanh như gió cuốn. Các hành giả śānta-bhakta là những người trầm tịnh và dịu dàng.
Mẫu tiếp theo của tình yêu này là dāsya hay phục dịch. Dạng thương yêu này xuất hiện khi con người nghĩ rằng mình là tôi tớ của Thượng Đế. Sự quyến luyến của một kẻ tôi tớ trung thành đối với chủ nhân là lý tưởng của họ.
Mẫu tiếp theo của tình yêu này là sakhya hay tình bằng hữu – “Ngài là người bạn thân thiết của chúng ta”. Giống như khi một người mở rộng trái tim ra với bạn bè và hiểu rằng không một người bạn nào quở trách khi anh ta phạm sai lầm, mà trái lại còn luôn luôn giúp anh ta, hay giống như giữa anh ta và bè bạn luôn có quan niệm về bình đẳng, thì giữa người tín đồ sùng bái với Thượng Đế thân thương cũng luôn có dòng suối tình yêu bình đẳng trôi chảy luân lưu như thế. Do đó, Thượng Đế trở thành bạn của chúng ta, người bạn rất đỗi thiết thân, một người bạn mà ta có thể tự do tâm sự đủ mọi chuyện trong đời; trước mặt Người, chúng ta có thể trình bày tất cả những điều bí ẩn trong tận cùng sâu kín của tâm hồn với sự đảm bảo vững chắc nhất về mức độ an toàn và sự trợ giúp. Ngài là người bạn mà tín đồ chấp nhận như là người ngang hàng với mình. Ở đây, Thượng Đế được xem như là người bạn cùng chơi đùa với chúng ta.
Cũng có thể nói rằng tất cả chúng ta đều đang chơi đùa trong vũ trụ. Giống như đưa bé đang chơi trò chơi của nó, giống như những ông vua và hoàng đế vinh quang nhất đang chơi trò chơi riêng của họ thì bản thân đấng Thượng Đế thân yêu cũng đang chơi đùa trong vũ trụ như vậy đó. Ngài là đấng toàn mãn. Ngài không cần đến bất cứ một thứ gì. Vậy thì tại sao Ngài lại cần phải sáng tạo? Chúng ta luôn luôn hoạt động nhằm để hoàn tất một điều thiếu thốn nào đó, mà điều thiếu thốn thì luôn luôn giả định sự bất toàn. Thượng Đế là đấng toàn mãn. Ngài không cần đến bất cứ một thứ gì. Vậy thì tại sao Ngài lại cần phải tiếp tục công việc sáng tạo không ngừng nghỉ này? Mục đích của Ngài là gì? Những câu chuyện Thượng Đế sáng tạo vũ trụ vì mục đích này hay mục đích khác, do chúng ta tưởng tượng ra, đều tốt đẹp theo nghĩa chỉ là những câu chuyện, ngoài ra chẳng có chi khác. Tất cả đều đang chơi đùa, vũ trụ này chỉ là vở kịch của Ngài. Rốt cuộc thì toàn bộ vũ trụ này hẳn phải làm vui lòng Ngài ghê lắm. Nếu các bạn nghèo khó thì cứ hưởng thụ sự nghèo khó đó như là trò vui, nếu các bạn giàu có thì cứ hưởng thụ niềm vui là có được nhiều tiền của, nếu họa có đến thì đó là một trò vui lý thú, nếu phúc đến thì đó cũng là một trò vui còn lý thú hơn nữa. Thế giới này chỉ là một sân chơi, chúng ta đang nô đùa vui vẻ ở đó, chúng ta đang có những trò chơi; và Thượng Đế vẫn luôn vui đùa với chúng ta, và chúng ta vui đùa cùng Ngài. Thượng Đế là một người bạn chơi vĩnh viễn. Ngài chơi đùa thật đẹp biết là ngần nào! Trò chơi chấm dứt khi kết thúc một chu kỳ. Có một khoảng thời gian giải lao ngắn hoặc dài, rồi sau đó tất cả tiếp tục chơi đùa.
Chỉ khi nào các bạn quên rằng tất cả chỉ là một trò chơi, và quên rằng các bạn cũng đang tham gia trong trò chơi đó thì chỉ lúc đó thôi mọi khốn khổ và muộn phiền mới đến với các bạn, tâm hồn các bạn trở nên nặng nề, và thế giới đè nặng lên cuộc đời các bạn với một uy lực khủng khiếp. Nhưng ngay khi các bạn từ bỏ niềm tin nghiêm trọng về thực tại tính của những biến cố thay đổi vô thường trong cuộc sống phù du ngắn ngủi này, và biết rằng cuộc sống chỉ là sân khấu để chúng ta diễn tuồng, để giúp Thượng Đế chơi đùa, thì lập tức mọi khốn khổ sẽ chấm dứt ngay đối với các bạn. Ngài đang chơi đùa trong từng nguyên tử; Ngài đang chơi đùa khi xây dựng nên những trái đất, những mặt trời, mặt trăng; Ngài đang chơi đùa với tâm hồn con người, với cỏ cây muông thú. Chúng ta là những quân cờ của Ngài; Ngài đặt chúng trên bàn cờ và di chuyển chúng. Đầu tiên, Ngài đặt chúng ta theo cách này, rồi kế đó lại theo cách khác, dù vô tình hay hữu ý thì chúng ta đang giúp Thượng Đế trong cuộc chơi của Ngài. Ôi lành thay! Chúng ta là những bạn chơi của Ngài.
Mẫu tiếp theo của tình yêu này vātsalya, là thương yêu Thượng Đế không phải như cha mà như con của chúng ta. Điều này có vẻ lạ lùng, nhưng đó là giới luật tu tập giúp chúng ta có thể tách lìa mọi ý tưởng về quyền năng ra khỏi khái niệm Thượng Đế. Ý tưởng về quyền năng mang đến sợ hãi. Không hề có sợ hãi trong tình yêu. Những ý tưởng về sự tôn kính và phục tòng cần thiết để định hình nên tính cách, nhưng khi tính cách đã được định hình rồi, khi kẻ thương yêu đã nếm được hương vị trầm lặng và yên tĩnh của tình yêu rồi, và nếm được đôi chút sự si cuồng mãnh liệt trong tình yêu rồi thì người đó không còn cần phải nói đến đạo đức và giới luật nữa. Hình dung Thượng Đế như một đấng đầy quyền năng, tôn nghiêm và vinh quang chói lọi, như đấng Chúa Tể của vũ trụ, hay như Thần của chư thần, tín đồ của tình yêu bảo rằng họ không cần quan tâm đến điều đó. Họ sùng bái Thượng Đế như con mình chính là để tránh kết hợp Thượng Đế với cảm giác uy quyền gây sợ hãi. Cha và mẹ không bị xúc động bởi nỗi sợ hãi trong mối quan hệ với con mình, họ không thể có bất kỳ sự tôn kính nào đối với người con. Họ cũng không thể nghĩ đến chuyện cầu xin bất kỳ ân huệ nào từ người con. Thân phận của người con luôn là kẻ đón nhận, và vì tình thương yêu dành cho con, cha mẹ sẵn sàng từ bỏ thể xác này hàng trăm lần. Họ sẵn sàng hy sinh cả ngàn cuộc đời vì một đứa con duy nhất của mình; và vì thế, Thượng Đế được thương yêu như một người con.
Quan niệm thương yêu Thượng Đế như con mình hình thành và phát triển một cách tự nhiên trong những giáo phái tin vào hóa thân của Thượng Đế. Đối với tín đồ Hồi giáo thì không thể nào có được quan niệm thương yêu Thượng Đế như con, họ sẽ thấy kinh tởm mà chùn bước trước quan niệm đó. Những tín đồ Cơ Đốc giáo và Ấn giáo lại có thể thực hiện điều đó một cách dễ dàng, bởi vì họ đã có cậu bé Jesus và cậu bé Krishna. Phụ nữ Ấn Độ thường tự xem mình là mẹ của thần Krishna; còn các bà mẹ Cơ Đốc giáo cũng có thể tiếp nhận ý tưởng họ là mẹ của Chúa Jesus; và điều đó sẽ mang lại cho phương Tây sự hiểu biết về Thánh Mẫu của Thượng Đế mà họ đang rất cần. Những điều mê tín về sợ hãi và tôn kính trong mối quan hệ với Thượng Đế đã ăn sâu thâm căn cố đế trong tận thâm tâm chúng ta, và phải cần đến nhiều năm để nhấn chìm những quan niệm về lòng tôn kính, nỗi sợ hãi, vẻ tôn nghiêm và vinh quang dành cho Thượng Đế trong tình yêu trọn vẹn.
Còn có một biểu hiện mang nhiều bản chất con người hơn nữa về tình thương yêu lý tưởng dành cho Thượng Đế. Nó được gọi là madhura, có nghĩa là dịu ngọt, và là biểu hiện thương yêu cao nhất trong tất cả những biểu hiện kia. Thực ra, nó dựa trên sự biểu hiện cao nhất của tình yêu trên thế gian này, và cũng là tình yêu mãnh liệt nhất mà con người từng biết đến. Có tình yêu nào làm rung chuyển toàn bộ bản chất con người, có tình yêu nào lan truyền qua từng nguyên tử trong thể xác, khiến cho con người trở nên si cuồng điên dại quên mất bản tính mình, biến họ thành thiên thần hoặc ác quỷ cho bằng tình yêu nam nữ? Trong sự biểu hiện dịu dàng của tình yêu dành cho Thượng Đế này có sự hiện hữu của chồng ta. Tất cả chúng ta đều là phụ nữ, không hề có một người đàn ông nào trên thế gian này; chỉ có một người Đàn Ông duy nhất, đó là Ngài, là đấng Thân Yêu của chúng ta. Trong biểu hiện thương yêu này, tất cả tình yêu mà người nam dành cho người nữ, hoặc người nữ dành cho người nam, đều được hiến dâng trọn vẹn cho Thượng Đế.
Mọi biểu hiện khác nhau của tình yêu mà chúng ta thấy trong thế gian này, và chúng ta ít nhiều cũng chơi đùa với nó, đều nhắm đến mục tiêu là Thượng Đế; nhưng thật không may là con người không hề biết đến cái đại dương vô tận, nơi mà dòng sông tình yêu cuồn cuộn đang không ngớt chảy vào; và thật là điên rồ khi con người cứ thường cố gắng hướng cho dòng sông đó chảy vào những con búp bê tý hon là con người.
Tình yêu mãnh liệt dành cho đứa bé – vốn nằm trong bản tính con người – không phải dành cho con búp bê tý hon là đứa bé; nếu các bạn ban phát tình yêu đó một cách mù quáng và chỉ dành riêng cho đứa bé thì hậu quả là các bạn sẽ chịu khổ đau; nhưng chính nhờ khổ đau như thế mà chắc chắn các bạn sẽ phát hiện ra rằng tình yêu trong tâm hồn các bạn, nếu chỉ dành cho một người bất kỳ nào đó thì sớm muộn gì cũng sẽ mang đến đớn đau và phiền muộn. Tình yêu đó, do vậy, phải hướng về đấng Tối Cao bất tử và bất biến, hướng tới đấng mà trong đại dương tình yêu của Ngài không hề có những đợt thủy triều dao động xuống lên. Tình yêu phải đi đến đúng mục tiêu; nó phải đi đến với Ngài – đấng thực sự là Đại Dương Tình Yêu bao la vô tận. Tất cả những dòng sông đều trôi về biển. Thậm chí từng giọt nước rơi xuống từ triền núi cũng không thể ngừng hành trình của nó sau khi đến được với một con suối hoặc một dòng sông, cho dù con suối hoặc dòng sông đó có lớn đến đâu chăng nữa; rốt cuộc thì giọt nước đó thế nào cũng tìm được con đường để đến với đại dương.
Thượng Đế là mục tiêu duy nhất cho mọi đam mê và cảm xúc của chúng ta. Nếu các bạn muốn giận dữ thì hãy giận dữ với Ngài. Các bạn hãy trách móc đấng Thân Yêu của mình, hãy trách móc Người Bạn của mình. Còn có người nào khác để các bạn có thể trách móc mà vẫn an toàn? Con người bình thường sẽ không kiên nhẫn để chịu đựng sự nóng giận của các bạn, mà họ sẽ phản ứng lại. Nếu các bạn giận dữ với tôi, chắc chắn tôi sẽ phản ứng lại ngay, bởi vì tôi không đủ kiên nhẫn để chịu đựng sự nóng giận của các bạn. Hãy nói với đấng Thân Yêu : “Vì sao Người không đến cùng tôi, vì sao Người bỏ tôi lẻ loi một mình như thế này?”. Ở đâu mà có được sự hỷ lạc, trừ phi ở nơi Ngài? Làm gì có sự hỷ lạc nhỏ nhoi nào trong cục đất nhỏ nhoi này? Yếu tính được kết tinh của trạng thái hỷ lạc vô bờ bến chính là cái mà chúng ta phải đi tìm – và yếu tính đó ở hiện hữu nơi Thượng Đế. Hãy để cho những đam mê và cảm xúc của chúng ta hướng thượng để đến với Ngài. Chúng được để dành cho Thượng Đế, vì nếu đi trệch mục tiêu và sa đọa thì chúng trở nên đồi bại. Còn khi chúng thẳng đường đi đến mục tiêu, hướng về Thượng Đế thì ngay cả những đam mê và cảm xúc thấp hèn nhất cũng biến chuyển; mọi năng lượng của thể xác và tinh thần, cho dù chúng có biểu hiện bằng cách nào đi nữa, cũng đều có mục tiêu duy nhất là Thượng Đế. Mọi thương yêu và đam mê trong tâm hồn con người đều phải hướng về Thượng Đế. Ngài là đấng Thân Yêu. Ngoài Ngài ra thì tâm hồn còn có thể thương yêu được ai khác? Ngài là đấng đẹp đẽ nhất, đấng tuyệt vời nhất. Ngài là tự thân của vẻ đẹp, của sự tuyệt vời. Ai trong vũ trụ này có thể đẹp hơn Ngài? Ai trong vũ trụ này xứng đáng làm chồng hơn Ngài? Ai trong vũ trụ này xứng đáng được thương yêu hơn Ngài? Vậy thì hãy để Ngài làm chồng, làm người Thân Yêu.
Thường thì những kẻ thương yêu Thượng Đế – những người hát ca về tình yêu linh thiêng đó – chấp nhận dùng ngôn ngữ của tình yêu nhân loại trong mọi khía cạnh thích hợp để mô tả nó. Kẻ ngu không hiểu được điều này, họ sẽ không bao giờ hiểu được. Họ chỉ nhìn tình yêu đó bằng đôi mắt thịt. Họ không hiểu được những cơn đau cuồng điên của tình yêu trong cõi tâm linh. Họ làm sao mà hiểu nỗi? “Ôi, chỉ xin một nụ hôn thôi từ đôi môi Người, hỡi đấng Thân Yêu! Kẻ nào được Người hôn sẽ càng ngày càng thêm khát khao đến Người, mọi phiền não tiêu tan, người đó lãng quên hết mọi sự, chỉ còn tưởng nhớ đến Người thôi”. Lòng khát khao nụ hôn của đấng Thân Yêu, được tiếp xúc với đôi môi Ngài, điều đó khiến cho một hành giả bhakta trở nên điên cuồng và biến một người bình thường trở thành thần thánh. Đối với kẻ được ban phước lành với một nụ hôn như thế thì toàn thể thiên nhiên đều biến đổi, thế giới tan biến, nhật nguyệt lặn chìm, ngay cả vũ trụ cũng tan chảy vào đại dương thương yêu bao la vô tận. Đó là sự toàn mãn trong tình yêu si cuồng.
Nhưng một tín đồ thương yêu Thượng Đế thực thụ không ngừng ở đó. Các hành giả bhakta chấp nhận cả ý tưởng về tình yêu bất hợp pháp, bởi vì nó quá mãnh liệt. Họ không quan tâm chút nào đến tính không chánh đáng của tình yêu này. Bản chất của nó mãnh liệt đến mức hễ càng có nhiều trở ngại thì nó càng nhiệt tình say đắm. Tình cảm giữa vợ chồng êm đềm quá, không hề có trở ngại. Bởi vậy, các hành giả bhakta muốn hình dung tình yêu này bằng tình yêu của một cô gái đang thương yêu say đắm một người nào đó mà bị cha nẹ hoặc chồng cô ta phản đối. Mọi người càng phản đối thì tình yêu của cô càng trở nên mãnh liệt. Ngôn ngữ loài người không đủ sức diễn tả thần Krishna đã được yêu điên cuồng như thế nào bên những bụi cây Vrindā, và không thể diễn tả được cảnh những cô gái chăn bò Gopi luôn được hưởng lạc phúc ùa tới để gặp ngài ra sao, khi nghe được giọng nói của ngài; họ quên hết mọi thứ trên đời, quên cả thế gian cùng bao lụy phiền ràng buộc, quên hết bao bổn phận cùng những nỗi vui buồn trong cõi đời này.
Này con người, các bạn nói về tình yêu thiêng liêng dành cho
Thượng Đế mà đồng thời lại có thể tham dự vào những trò hư ảo của thế gian, vậy
thì các bạn có chân thành không? “Nơi nào đấng Rama hiện hữu thì nơi đó
không còn chỗ cho tham dục; nơi nào có tham dục thì nơi đó không còn chỗ cho
thần Rama – cả hai không bao giờ cùng tồn tại, cũng như ánh sáng và bóng tối
không bao giờ hiện hữu cùng nhau”.
Khi đạt đến lý tưởng của tình yêu tối thượng này thì triết học bị vất bỏ. Lúc đó ai sẽ quan tâm đến nó? Tự do, giải thoát, Niết Bàn – tất cả đều bị vất bỏ. Ai còn quan tâm chi đến tự do, giải thoát khi đang thụ hưởng sự hỷ lạc của tình yêu linh thánh? “Hỡi Thượng Đế, tôi không cần chi đến tài sản, bạn bè, sắc đẹp, kiến thức, không cần đến cả tự do; hãy để cho tôi được tái sinh mãi mãi và xin Người hãy mãi mãi là Tình Yêu của tôi. Xin Người hãy mãi mãi và mãi mãi là Tình Yêu của tôi”. “Ai quan tâm chi đến chuyện biến thành đường?”, hành giả bhakta nói, “Tôi chỉ muốn nếm mùi vị của đường mà thôi”. Vậy thì ai lại quan tâm chi đến chuyện giải thoát và hợp nhất cùng Thượng Đế? “Tôi có thể biết tôi là Ngài, thế nhưng tôi lại tách biệt khỏi Ngài và trở nên khác biệt với Ngài, để có thể vui hưởng đấng Thân Yêu”. Đó là những gì một hành giả bhakta nói. Thương yêu chỉ vì thương yêu, đó là trạng thái hỷ lạc cao siêu nhất của anh ta. Có ai lại không muốn bị trói buộc chân tay hàng trăm ngàn lần để vui hưởng đấng Thân Yêu?
Không một hành giả bhakta nào lại quan tâm đến bất kỳ thứ gì ngoài tình yêu – ngoài chuyện thương yêu và được thương yêu. Tình yêu không mục đích của anh ta giống như thủy triều tràn lên bờ sông. Kẻ thương yêu này đi ngược con nước để lên đến thượng nguồn. Thế gian gọi anh ta là kẻ cuồng si. Tôi biết có một người bị người đời gọi là kẻ cuồng si, và đây là câu trả lời của anh ta : “Này các bạn, cả thế gian nầy là một nhà thương điên. Kẻ thì điên vì tình yêu thế tục, kẻ thì điên vì danh vọng, kẻ thì điên vì tiền bạc, kẻ thì điên vì mong được cứu rỗi để lên thiên đàng. Trong cái nhà thương điên vĩ đại này, tôi cũng là một người điên – nhưng tôi điên vì Thượng Đế. Các bạn điên, tôi cũng vậy. Tôi nghĩ dầu sao thì sự điên cuồng của tôi cũng tốt đẹp hơn hết thảy”.
Tình thương yêu của một hành giả bhakta đích thực là thứ tình yêu cháy bỏng này, trước tình yêu đó thì mọi thứ đều tan biến đối với anh ta. Toàn thể vũ trụ này đối với anh ta tràn ngập tình yêu và chỉ có tình yêu; vũ trụ xuất hiện như thế đó đối kẻ đang thương yêu. Cho nên khi một người mang tình yêu này trong tâm hồn thì anh ta mãi mãi được hưởng lạc phúc, vĩnh viễn được hưởng hạnh phúc. An ta đang đến với Thượng Đế, anh ta vất bỏ mọi tham vọng hão huyền ngập tràn trong tâm hồn trước đó. Thói ích kỷ của anh ta cũng biến mất theo những khát vọng đó. Chỉ có sự cuồng si đầy lạc phúc trong tình yêu dành cho Thượng Đế mới có thể chữa lành vĩnh viễn căn bệnh thế gian này trong ta.
Tất cả chúng ta đều phải khởi đầu như những nhà nhị nguyên luận trong tôn giáo của tình yêu. Đối với chúng ta thì Thượng Đế là một Hằng Hữu khác biệt, và bản thân chúng ta cũng cảm nhận được mình là những hữu thể khác biệt nhau. Thế rồi tình yêu chen vào giữa, và con người bắt đầu đến gần với Thượng Đế hơn, và Thượng Đế cũng ngày càng đến gần với con người hơn. Con người tiếp nhận nhiều mối quan hệ khác nhau trong đời sống – như cha mẹ, con cái, bạn bè, chủ nhân, người yêu – rồi phóng chiếu chúng lên trên lý tưởng tình yêu của mình, lên trên Thượng Đế của mình. Đối với họ, Thượng Đế tồn tại như là tất cả những mối quan hệ này. Và con người chỉ đạt đến điểm tiến bộ cuối cùng khi cảm nhận được họ đã hoàn toàn hòa tan trong đối tượng mà mình sùng bái.
Tất cả chúng ta đều bắt đầu bằng tình yêu bản thân, và những
đòi hỏi không chính đáng của cái tự ngã nhỏ bé này đã khiến cho tình yêu đó trở
nên vị kỷ. Tuy nhiên, sau cùng thì ánh sáng phát dương trọn vẹn, trong ánh sáng
đó ta thấy tự ngã nhỏ bé này hợp nhất với cái Vô Biên. Chính con người được
chuyển hóa trong luồng ánh sáng thương yêu này, và cuối cùng họ thể ngộ được
cái chân lý đẹp đẽ đầy gợi hứng, đó là : tình yêu, người yêu và người được yêu
hợp nhất thành một.
[1] Đây là điểm phân biệt giữa mê muội và trí tuệ. Kẻ trí chưa hẳn lúc nào cũng nói đúng, kẻ bất tiếu chưa hẳn lúc nào cũng nói sai.
[2] Kinh điển Phật giáo thường dịch là “bổn nguyện”.
[3] Tự tại thiên.
[4] Nguyên văn “where words cannot go nor mind” nghĩa là “nơi mà ngôn ngữ và tâm trí không sao đạt tới”; đây cũng chính là khái niệm “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” của Phật giáo.
[5] Mạnh Tử cũng đã nói đến điều này : “Nhân chi hoạn, tại hiếu vi nhân sư 人 之 患 在 好 為 人 師”, (cái bệnh của con người là cứ thích làm thầy đời). Chúng ta thấy loại người này đầy dẫy trong đời, cứ luôn muốn làm thầy thiên hạ bằng cái biết tạp nham hổ lốn kiểu “đạo thính đồ thuyết”, biết một nói ngàn. Loài người này ở quy mô nhỏ thì hại mình, ở quy mô lớn thì hại đời.
[6] Một học giả đến hỏi một vị thiền sư đường vào cõi đạo. Vị thiền sư bèn dẫn ông này đi dạo bên bờ suối và hỏi: “Ngài có nghe tiếng suối róc rách chăng?” Ông này đáp: “Có!” Vị thiền sư mỉm cười: “Đó là đường vào cõi đạo.”
[7] Nāda là âm thanh, âm nhạc. Người Ấn cổ đại vẫn tin rằng Thượng Đế là hoá thân của thiên nhạc, từ đó phát sinh ra tất cả âm nhạc thế gian.
[8] Tức thần Vishnu và thần Rāma. [G.C trong nguyên tác]
[9] Đây là lời của thần Krishna nói với Arjuna, con trai của Kunti, trong Gitā.
[10] Chủ hộ nào cũng đều phạm phải tội sát sinh năm cấp, không sao tránh được, phát sinh từ việc dùng cối chày, cối xay, lò bếp, lọ nước và chổi. Họ được gột sạch tội lỗi này bằng cách thực hành năm bổn phận bắt buộc được gọi là yajna, hay lễ hiến tế. Năm lễ hiến tế đó gồm : (1) devayajna (dâng lễ vật lên chư thần); (2) brahmanyajna (dạy và trích dẫn kinh điển) (3) pitriyajna (dâng rượu lễ lên tổ tiên) (4) nriyajna (nuôi người đói rét) và (5) bhutayajna (nuôi những con vật thấp hèn). Việc thực hành năm nghi thức này hàng ngày sẽ giúp cho cuộc sống mang chất tâm linh, và tạo nên sự hòa thuận và hòa hài giữa người sốngvà người đã khuất, cũng như giữa cõi thế tục và thế giới siêu nhiên. Nếp sống vị kỷ sẽ chuyển biến thành nếp sống vị tha. Cá nhân sẽ ý thức được mối quan hệ hỗ tương giữa tất cả chúng sinh.
[11] Ở các quốc gia Tây phương, có nhiều đạo luật bảo vệ súc vật, nhưng thật là mỉa mai khi người da đen ở nhiều nơi vẫn còn bị kỳ thị khinh bỉ, bị đối xử kém cả loài vật trong các đạo luật ”nhân đạo” đó.
[12] the generalised and abstract universal whole.
[13] Thy will be done có nghĩa là “Vâng ý Chúa” hay “Thuận theo ý Chúa”. Trong Thiên Chúa giáo, đây là quan niệm tùy thuận hoàn toàn vào ý chí của Thượng Đế; trong pháp môn Tịnh Độ của Phật giáo đây cũng chính là cảnh giới vô sai biệt tuyệt đối của một tín đồ đã phó thác toàn bộ sinh mệnh vào Đại Ý Chí của Phật A Di Đà.
[14] ideally perfect ideal
[15] Helene là một mỹ nhân tuyệt đại của Hy Lap thời cổ, nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến 10 năm giữa người Hy Lạp với thành Troy; còn cô gái Ethiopia là dân da đen, ở Phi Châu.
Thảo luận