Đối với câu hỏi : “Tôi từ đâu đến?”, thì đức tin sẽ đáp : “Từ Thượng Đế”, còn khoa học sẽ đáp : “Từ cha mẹ”. Đức tin gọi con người là con cái của Đức Cha trên cõi Trời; còn khoa học thì gọi con người là con cái của đấng sinh thành.
Câu trả lời của khoa học dù có vẻ chính xác một cách hiển nhiên, song lại không làm người ta thỏa mãn. Tôi chào đời từ cha mẹ, điều đó thì không một người hiểu biết nào nghi ngờ cả; và nếu một tín đồ nói rằng con người sinh ra từ Thượng Đế thì y chỉ có thể muốn nói điều này theo một khía cạnh nào đó.
Đối với những sự kiện hiển nhiên liên quan đến sự sinh thành mà ai ai cũng thấy đó, thì những lời giải thích sẽ dựa trên cơ sở nào?
Vạn hữu có thể được chia thành hai nhóm chính : một nhóm gồm cho phép chúng ta khái quát hóa, và nhóm kia thì không. Chỉ có nhóm thứ nhất mới nằm trong tầm với của khoa học, bởi vì khoa học chỉ có thể diễn ra ở nơi nào cho phép sự so sánh và lặp lại, sự so sánh sẽ mang tính khái quát hóa đối với những gì được trình bày đồng thời, còn sự lặp lại sẽ mang tính khái quát hóa đối với những gì được trình bày tuần tự. Các sinh thể lại không cho phép so sánh hay lặp lại, do đó không thể trở thành đối tượng của khoa học.
Trong một khía cánh đặc biệt, thì đúng là các sinh thể có thể được xem như mở ngỏ cho sự so sánh hay lặp lại, song như đã được trình bày, đối với một sinh thể thì điều này chỉ liên quan với những gì chấp nhận sự so sánh hay lặp lại, nghĩa là phần tái tạo hiện thực trong tôi, chứ không phải đối với chủ thể phát ngôn “Tôi là”[1]. Với tư cách là sinh thể thuộc nhóm sau, thì tôi không thể bị so sánh hay lặp lại. Với tư cách là một loài hữu tình có ý thức, thì tôi là cái gì đó đặc thù độc nhất, một thể thống nhất, hay đúng hơn là cái phi-nhị-nguyên. Và ở đây, ta có thể thấy được vì sao câu trả lời của khoa học không bao giờ và không thể nào làm thỏa mãn chúng ta. Tính di truyền đòi hỏi sự truy nguyên lần lượt từ người này đến người khác theo một nhánh duy nhất. Tôi không áp dụng lý thuyết di truyền cho một ngọn lửa khi mà, một mặt, tôi truy ngược lần hồi đến thanh củi mồi, và mặt khác tôi lại truy ngược lần hồi đến ô-xi trong không khí. Câu trả lời của khoa học, tuy nhiên, muốn rằng tôi — một thể thống nhất, phát sinh từ hai thể thống nhất khác— là bố và mẹ, mà mỗi người đến lượt họ lại phát sinh từ hai thể thống nhất khác, rồi cứ tiếp tục như thế theo cấp số nhân; do vậy, sự truy nguyên theo một nhánh duy nhất lại dẫn đến vô vàn các phân nhánh khác. Từ đó, cho thấy câu trả lời của khoa học sẽ không đầy đủ đối với những đòi hỏi của một nhà tư tưởng. Tôi là cái đặc thù độc nhất được xác định. Tuy nhiên, nếu tôi chỉ là sản phẩm được sinh ra từ sự kết hợp của tinh trùng với noãn thì chắc hẳn đã không có một cái gì hiện hữu buộc tôi phải sinh ra từ tinh trùng này và cái noãn này. Tôi cũng có thể được sinh ra từ những chất liệu như người anh tôi đã sinh ra; trong khi, về phần mình, anh ta vẫn có thể sinh ra từ những chất liệu mà con người tôi giờ đây đã sinh ra. Cái đặc thù duy nhất đã bị phớt lờ đi. Nhưng cái mà Tôi đang là bây giờ cũng có thể là một cái Tôi khác, sự kiện đó có vẻ như là điều phi lý hiển nhiên. Không phải chỉ có chất liệu trong các tế bào tạo nên được con người tôi. Chất liệu tế bào đó chỉ là những chất liệu hoạt động theo một thể cách riêng biệt, và khiến cho một cái gì đó xuất hiện trên sân khấu, nếu không thì “con người Tôi” không thể nào xuất hiện. Suy nghĩ để tìm cách giải thích tôi bằng chất liệu duy nhất của tế bào thì cũng giống như suy nghĩ để giải thích ngọn lửa chỉ bằng thanh củi mồi và ôxi trong không khí.
Nói như Humholt thì không phải nhà vật lý, mà nhà sinh học mới có tội đối với quan niệm về chất liệu theo kiểu của người Hebrew. Thể cách ông ta xử lý vấn đề di truyền là thể cách của người Hebrew, theo nghĩa rộng nhất của từ này, và được rập khuôn kỹ đến nỗi nó bị chính nặng của chính mình đè ngã nhào trên đất. Do giả định trước sự tương đồng giữa “sự sống” và “tế bào”, người ta đã nổ lực tìm cách giải đáp điều bí ẩn của sự sống chỉ bằng phương pháp miêu tả đơn thuần, giải thích cách thức truyền chất liệu của một thế hệ đến một sinh thể mới, một sinh thể được hoạch định với độ chính xác ngày càng tăng, cho đến khi chuỗi dài sự kế tục đó rốt cuộc lại bị cắt đứt đoạn sờ sờ ngay trước mắt ta. Đến lúc đó, thật ra mà nói thì cách tiện nhất là quên đi rằng sự liên tục biểu hiện bề ngoài đó chỉ là sự nối tiếp của những các hình ảnh nh rời rạc trong những khoảnh khắc thời gian. Tôi ít có khả năng giả lập những khoảng khắc hiện thực sinh động từ một chuỗi các hình nổi ngần nào, dù để cho từng bức ảnh tồn tại trong thời gian cực ngắn, thì tiến trình của thế hệ bằng sự mô tả đơn thuần cũng được lĩnh hội ít như thế, cho dù nó đem đến trước chúng ta một chuỗi vô tận các giai đoạn phát triển. Tôi có thể tự ru ngủ mình với ảo tưởng rằng với phương pháp này tôi đang tiến đến gần mục tiêu hơn, và sự cứu rỗi chỉ đơn giản nằm trong độ nhạy của các thấu kính, sự tinh tế và khéo léo của các cách tô màu, và sự kiên nhẫn. Nhưng để giải đáp được ẩn ngữ của cuộc sống thì phải đến những những năng lực khác nữa. Bởi vì theo hướng nghiên cứu này thì người ta cứ luôn luôn quan tâm đến các phản ứng. Đối với các khám phá đã được thực hiện như thế, các chứng minh mơi mẻ đã được cung cấp như thế, hãy xem như chúng chưa bao giờ tân kỳ và hấp dẫn đến vậy, thì chúng cũng vẫn chỉ là những phản ứng, và không cho chúng ta biết được điều gì ngoài sự kiện rằng các nguồn năng lượng hẳn đang hiện hữu, chứ chúng không nói được gì về bản thân những nguồn năng lượng này cả.
Đây không phải là chỗ để đi vào những chi tiết mà bộ môn sinh lý học và phôi học, với sự chính xác ngày càng cao, đã chứng minh trong quá trình sinh sản. Cần phải chỉ ra rằng tất cả những kết quả đó đều có liên quan đến các phản ứng, và tuyệt đối không nói được gì về bản chất tinh yếu của hiện tượng diễn ra — một sự kiện chỉ ra đầy đủ giá trị của chúng. Làm thế nào mà một người, một sinh thể, lại có thể chào đời từ một tế bào, câu hỏi đó thậm chí vẫn không đề cập đến chuỗi dài tìm tòi tra vấn này. Ở đây, câu hỏi liên quan đến những nguồn năng lượng hiện thực đã bị gác qua một bên một cách vô tình, giống như trong thế giới luận cơ giới của các nhà vật lý, nó đã bị loại bỏ một cách cố ý.
Việc đọc, mà tư tưởng đạo Phật đã cung cấp cho vấn đề này, như trình bày ở phần trước[2] đã được phác họa đầy đủ và chỉ cần trình bày vắn tắt ở đây, như sau :
— Toàn bộ bài toán nan giải về vấn đề di truyền, giống như bài toán về va chạm và bài toán về thực dưỡng, chỉ phát khởi thông qua việc tác động với những khối lượng cố định, với những thể đồng nhất. Trong lĩnh vực vật lý, khi người ta hỏi : “Làm thế nào mà hai cố thể va chạm vào nhau?” là đã đặt ra một câu hỏi mà đáp án đã bị loại trừ cùng với câu hỏi, bởi vì trong ý nghĩa vật lý thì không có cái gọi là “cố thể”. Giống như trong lĩnh vực sinh lý học, người ta thực hiện điều tương tự khi hỏi : “Làm thế nào mà một sinh vật có thể đồng hóa được thức ăn thành chính bản thân mình?” trong khi hoàn toàn không có một cái gì tương tự như thế, mà nó có thể được đồng hóa thành chính nó; thì cũng thế, đối với sự sinh sản, câu hỏi được đặt ra : “Là thế nào từ hai thực thể lại sinh có thể ra một thực thể khác?”. Song hoàn toàn không phải là một thực thể mới được sinh ra trong quá trình sinh sản này; điều đó thực sự có nghĩa là làm phép toán một cộng một vào hiện thực. Không hề có gì xảy ra hiện thực ngoài trừ sự kiện chất liệu của một cá thể đặc thù, trong một giai đoạn dài hơn hoặc ngắn hơn, bị lệ thuộc vào dòng dõi mới của một cá thể đặc thù khác, và mang xu hướng mới từ dòng dõi đó. Và chính xu hướng mới này, xung động mới này, được xem như là nghiệp từ tiền kiếp, giờ đây lại nằm quyền. Nó nắm quyền tại nơi nó nắm được quyền chỉ vì nó phải nắm quyền ở đó; bởi vì nơi đó đáp ứng được cho nó — một cá thể đặc thù duy nhất trong vũ trụ; và tất cả những gì nó làm ở đây chỉ là kích thích và phát triển những gì đã được định hình sẵn trong chất liệu đến mức độ thành cái riêng biệt nhất. Nếu như chất liệu không phải là cái mang tính cá biệt đặc thù thì chắc chắn không có nguồn năng lượng nào có thể nắm bắt được nó. Nhưng chỉ vì có chất liệu cá biệt nên nó kêu gọi đến năng lượng cá biệt. Bởi vì nguồn năng lượng mang tính cá biệt đặc thù nên nó lại kêu gọi đến chất liệu cá biệt đặc thù, và chỉ ở nơi đây chứ không ở nơi đâu khác, nó mới có thể nắm được quyền. Câu hỏi làm thế nào mà tôi có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm thụ, v.v.. lại trôi ngược vào vô thủy, vào một câu hỏi nhị trùng— một mặt liên quan đến sự nối tiếp của Nghiệp trong chuỗi vô tận của thời gian, một mặt liên quan đến chất liệu trong chuỗi vô tận của không gian. Tôi học cách nhìn, nghe v.v.. như ngọn lửa học cách cháy vậy. Nếu như tôi học hỏi điều này theo nghĩa thông tục nhất của danh từ thì không bao giờ tôi có thể lĩnh hội được nó trong cuộc sống. Xét như là một tiến trình thực dưỡng thuần túy thì tôi không có những khả năng này; tôi là chính cái năng lực tiềm ẩn đó. Tôi không sở hữu các chức năng, mà tôi tự thực hiện các chức năng như là một tiến trình tự tác động thực sự, một tiến trình đốt cháy nhờ vào nguồn năng lượng thực sự chỉ hiển lộ tự thân trong ý thức.
Khi khoa học dạy rằng tôi ra đời hoàn toàn là từ cha mẹ, thì nó dạy rằng tiến-trình-Tự-ngã không hề bị đốt cháy mà chỉ tự đẩy mình ra khỏi cha mẹ, khỏi ông bà tổ tiên v..v… Tiến trình đó không đốt cháy mà chỉ trôi lăn thôi — do đó cần phải đặt câu hỏi về điểm xuất phát đầu tiên của chuyển động này; bởi vì mọi thứ chuyển động — tóm lại là mọi phản ứng — đều phải có điểm xuất phát đầu tiên.
Khác với khoa học, đức tin lại dạy rằng cha mẹ chỉ tạo ra chất liệu, còn Chúa mới ban cấp cho ta một linh hồn bất tử — đó là một ý tưởng đòi hỏi đến đức tin.
Đức Phật dạy rằng : cha mẹ cung cấp chất liệu nền, và năng-lực-Tự-ngã của tiến-trình-Tự-ngã-đang-hủy-thể đáp ứng được những tiềm năng này và bùng cháy. Ở đây, tôi sinh ra từ cha mẹ giống như con suối bắt nguồn tự ngọn đồi. Con suối chảy ra từ ngọn đồi là điều quá hiển nhiên không có gì phải tranh cãi, thế nhưng nó cũng giống như một người khách lạ.
Trong ba quan điểm này, chỉ có quan điểm của đức Phật là mang tính hiện thực. Đó là quan điểm duy nhất đi cùng với toàn bộ phép lạ về sự truyền giống diễn ra trong những biến cố trần gian, phù hợp với các định luật của những hiện tượng diễn ra trong đời. Về phần đức tin, phép lạ truyền giống nằm bên ngoài sự thực thi của những hiện tượng này, còn về phần khoa học thì thực ra nó có nằm bên trong sự thực thi của những hiện tượng này, song chỉ như một năng lực khô cằn.
Chính ở nơi mà nhà tư tưởng đang mò mẫm dò đường đi, tôi muốn đối mặt ông ta với câu “Sta viator!”[3]. Bởi vì sự kiện tôi đang hiện hữu ở đây, trong từng sát na độc nhất của “cái Tôi”, sự kiện đó chịu khuất phục trước toàn bộ vũ trụ luận của đức Phật. Mỗi sát-na-của-cái-Tôi chỉ khả hữu, chỉ có thể được nghĩ bàn như là giao điểm giữa hai con đường : Nghiệp và chất liệu; từ đó đã phát sinh ra hình thức của một thế giới không có định luật, mà bản thân nó chính là định luật. Tôi hiện hữu ở đây có nghĩa là tôi hiện hữu như là chính ý thức. Tôi hiện hữu như là chính ý thức, có nghĩa là tôi được xác định như cái duy nhất đặc thù. Tôi được xác định như cái duy nhất đặc thù, có nghĩa là chất liệu kép của sự khai sinh phải được đúc kết thành một, thông qua một nguồn năng lượng nào đó. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là tôi hiện hữu không có điểm khởi đầu.
Ý tưởng này, hiểu như là một giả thuyết hữu hiệu, dùng để làm gì?
Đáp án là như vầy : Chỉ có nó mới giúp ta đọc được “thức” hay “ý thức ”, điều đó có nghĩa là việc đọc tự thân tôi, như đã trình bày, không bao giờ có thể là phương pháp quy nạp mà chỉ thuộc về bản chất quy nạp mà thôi. Trong thể cách nắm bắt được thức một cách lạ thường đối với khoa học, cái gán cho những vấn đề di truyền một sức nặng đến nỗi nó ngã quỵ dưới sức nặng của chính mình, là sự kiện : trong sự nắm bắt vấn đề đó, ý thức được tính đến như là thành phần của cái đem lại sự chứng minh.
Từ quan điểm mà các nhà sinh lý học mô phỏng, ý thức cư lưu trong chất nền, trong chất liệu tế bào; do đó vấn đề chỉ còn là việc đưa được điều chứng minh vào trong chất nền đó.
Như là con bài chủ đối nghịch lại chiếc cánh bay khoa học theo quan điểm duy vật luận hoặc cơ giới luận, chiếc cánh theo quan điểm mục đích luận và duy tâm phát biểu như vầy : “ ý thức, tư tưởng, năng lực tâm lý hoặc bất cứ thứ gì tùy người ta muốn gọi, không chấp nhận để giải thích bằng hình ảnh của chuyển động, do đó chỉ có thể giải thích được bằng quan điểm cơ giới.” Và triết học duy vật nhường bước cho quan điểm này bằng cái nghiến răng, mà đằng sau đó còn che dấu một loại tự mãn ngầm muốn nói như vầy : “Những gì bạn nói ở đó đều hoàn toàn đúng. Chúng tôi có thể giải thích được mọi thứ, ngoại trừ một điểm nhỏ còn sót lại, đó là ý thức. Trình độ chúng tôi đã phô bày trong sự bất lực của mình; nhưng rồi sẽ có ngày cái thành Ilion[4] thiêng liêng này, cái đồn lũy của giới tự nhiên cùng những bí mật của nó, — tức ý thức— sẽ sụp đổ tan tành dưới những cú đấm như trời giáng của chúng tôi.”
Với sự mô phỏng như thế, khoa học bỗng thấy mình ở vào một tình thế khó khăn khi giải thích ý thức từ những điều kiện tiên khởi. Những điều kiện tiên khởi này có thể được dõi theo bằng hai hướng nghiên cứu: một hướng theo những điều kiện giải phẫu học và sinh lý học; hướng khác theo những điều kiện chức năng, những khả năng nhận thức trong các mức độ khác nhau— hai nhiệm vụ mà bộ môn sinh lý học và tâm lý học chia sẻ giữa chúng.
Chúng ta mắc nợ nhiệm vụ thứ nhất về sự tồn tại của ngành sinh lý học giác quan — một trong các ngành học tuyệt hảo nhất của khoa học sinh lý. Người ta có thể nói rằng hướng nghiên cứu này phát lộ một cách đầy ấn tượng cảnh khốn cùng của khoa học, thay vì tụ hội lại để tiến gần hơn đến mục tiêu tìm kiếm thì lại đánh mất mình đi trong sự bao la vô bờ bến.
Cái mà ngành sinh lý học giác quan nhắm đến là khiến cho hoạt động chức năng — cùng với cái mà ta có thể gọi sự cưỡng bức gợi ý — nối tiếp theo các chi tiết giải phẫu học và sinh lý học như là tính tất yếu luận lý. Cấu trúc tinh vi của võng mạc, của võ não đã được phô bày ra một cách trần trụi với sự hoàn chỉnh đến mức chỉ cần một hơi thở nhẹ, vô cùng nhẹ cũng đủ để làm trỗi dậy giai điệu của cuộc sống trong những khí cụ đó. Song cái hơi thở vô cùng nhẹ đó vẫn còn thiếu vắng, và điều đó không hề được bảo vệ bởi bất kỳ một phương pháp nào, cho dù phương pháp đó có phát triển khéo léo đến đâu chăng nữa. Ở bất kỳ nơi nào ta muốn, dù là tại thời điểm kết hợp của noãn, dù là tại những đỉnh cao tiến hóa của các giác quan thì đâu đâu chúng ta cũng gặp toàn những phép lạ.
Điều tương tự cũng xảy ra y hệt với phân ngành muộn màng nhất của tâm lý học, sự phác thảo những điều kiện ban đầu về chức năng. Một mặt, một cảnh tượng sẽ đáp ứng như nhau đối với mọi cặp mắt. Mỗi kết quả mới, mỗi mô đất mới được chinh phục sẽ giúp thêm tầm cao để mở rộng tầm mắt ra trước một cảnh tượng hùng vĩ bao la vô tận, những ngọn núi sừng sững phương xa. Ở đây, dường như người ta cố tình bỏ qua sự kiện hiển nhiên là cách giải thích về ý thức, về năng lực tư duy, trong mọi trường hợp đều giả định trước điều này rồi, và rằng mọi khả năng nhận thức, nếu nó hoàn toàn hiện hữu như là thế, thì đã sở hữu sẵn một nội dung nào đó của ý thức rồi. Đó là cuộc săn đuổi theo chân trời — một nỗ lực bằng những bước tiến mạnh mẽ và dứt khoát, muốn xem được phía bên kia khoảng trời bị giới hạn trong tầm nhìn — một sự tiến bộ vĩnh viễn không có chút tiến triển nào!
Điều minh họa hay nhất cho trường hợp này được cung cấp bởi cái mà tôi muốn gọi là sự phân rẽ ngây thơ đang phổ biến trong trường phái tâm lý học của chúng ta. Những trào lưu này thường xuyên chống đối những trào lưu khác, giống như những toán quân của cùng một đội quân đánh nhau loạn xạ trong đêm tối mịt mùng. Một bên nói : “Sự cứu rỗi của chúng ta nằm trong việc phân tích khả năng nhận thức. Chỉ từ khả năng nhận thức đó, chúng ta mới có thể đưa ý thức đến mức tổng hợp, và dứt khoát là trong thời đại chúng ta, khoa học không đạt được điều gì chỉ vì nó đã bỏ qua điều kiện tất yếu tự nhiên của mọi khả năng nhận thức.” Cái mà được ghi nhận thoáng qua lại là thứ đã đem đến sự an ủi lạnh lùng, sau hơn hai ngàn năm miệt mài lao động! Thế rồi phe chống đối đột nhiên lên tiếng phản bác : “Khả năng nhận thức là cái không thể nào phân tích được”[5]! À, đó là cái mà tôi muốn bắt chước lời của đức Chúa trong Vườn Địa Đàng “Các ngươi không được ăn trái cây Hiểu Biết”. Nếu tôi không đặt được ngón tay lên mạch nguồn của sự sống tôi, thì dòng suối mênh mang mà đục ngầu ở sâu bên dưới có giúp được gì cho tôi? Nếu người ta so sánh tính trung thực hiển nhiên trong nỗ lực này với sự thất bại hoàn toàn, thì toàn bộ hiện tượng “khoa học” đều mang dáng vẻ của sự phi lý thượng thừa, của nỗi nhiệt tình sầu muộn, mãi mãi gợi chúng ta nhớ lại vị anh hùng bất tử trong tiểu thuyết của Cervantes[6] — một nỗ lực chân thành và mãnh liệt xuất phát từ quan điểm sai lầm để rồi dẫn đến một kết cục sai lầm. Tuy nhiên, thực sự là trong những năm tháng gần đây, dường như người ta đã phải xét lại tính bất khả của cách tiếp cận cũ đối với vấn đề ý thức. Song con đường mới, mà trên đó con người bắt đầu nêu ra những yêu cầu của mình, vẫn hoàn toàn nghịch lý; đó là lý thuyết hiện đại cho rằng tế bào được phú bẩm một ý thức dưới hình thức của khả năng nhớ. Do thấy không thể nào giải thích được ý thức bằng chất liệu tế bào, họ đã không chần chừ dựa vào phương sách là bắt tế bào phải lên đường tham gia chiến dịch với khả năng nhớ được chứa trong túi ba lô. Bằng cách này, họ dứt khoát thoát khỏi kẻ gây khốn khổ là ý thức, và với sự giản đơn đáng kinh ngạc, họ thay đổi nền tảng đến một vị trí mà từ đó họ có thể mở cuộc chiến với thế giới luận theo thể cách hành quân, mà tất cả đều phù hợp với kế hoạch vạch sẵn. “Hãy đưa cho tôi một cõi hỗn mang, tôi sẽ biến nó thành một thế giới”, Kant đã nói thế trong tác phẩm Prolegomena của mình. “Hãy đưa cho tôi một tế bào, tôi sẽ biến nó thành Goethe hoặc Newton” các nhà sinh lý học hiện đại nói như thế. Những cuộc sắp đặt cần thiết đều đã được thực hiện, “cuộc vật lộn nghiệt ngã với những vấn đề của sự sống” có thể bắt đầu trong hình dạng của những điều kỳ quặc được rút ra từ các Ratskeller [7]. Nếu người ta biết gọt dũa những viên đá theo trí tưởng tượng của mình, thì họ có thể xây dựng nên các hệ thống nào là cơ giới luận, nào là nhiệt động học, nhưng không bao giờ là một thế giới quan thực sự.
Khả tính của những ý tưởng như vậy phải được tìm thấy trong cái mà tôi có thể gọi là cơ giới hóa những giá trị sinh học. Tư duy được trình bày, cùng với nhiệt, như là dao động phân tử; dưới hình tượng của một ấn tượng, tác động tâm lý học của “Engramm”[8], của công được thực hiện; và như thế ta đạt đến khả năng truy ngược của tiến-trình-Tự-ngã từ bản thân đến người sinh ra, và nhờ đó truy ngược từ người sinh ra đến tổ tiên xa hơn nữa, và cứ như thế truy ngược đến vô cùng ad finitum — tóm lại, đó là khả năng duy trì được những đường vạch mang tính chất liệu thuần túy. Những đường vạch này tham dự vào bản chất của phản ứng một cách chính xác, giống như những đường vạch mà trên đó nhà vật lý làm việc trong một vũ trụ luận đặc thù của năng lượng học. Cũng giống như tại đó, từ lúc bắt đầu, những nguồn năng lượng thực sự đã bị bỏ lơ không ai thèm ngó đến mà người ta chỉ quan tâm những phản ứng, xem như là công đã được thực hiện, thì cũng thế, trong việc xử lý vấn đề di truyền của khoa học, toàn bộ tiến trình của cuộc sống được xem một cách đơn giản như là công đã thực hiện, dưới cái vỏ lốt sinh lý học, một thể cách nắm bắt cuộc sống hoàn toàn đối chọi với tư tưởng khoa học, theo cách trình bày của trường phái mục đích luận[9].
Với cách trình bày sự vật theo quan điểm cơ giới, thì vị trí của ý thức tất yếu phải được đặt ra. Sinh lý học hiện đại huyên hoang là đã vượt xa sự điên khùng của những thế kỷ trước, khi người ta đi tìm kiếm cái vị trí này trong mọi ngóc ngách ẩn khuất. Nhưng thật ra mà nói cái vị trí của ý thức tuyệt không thay đổi; sự thay đổi chỉ nằm trong phương tiện tự vệ. Như đã nói, giờ đây người ta nỗ lực định vị ý thức trong những khu vực nào đó; đã có một cuộc tìm tòi cái “vị trí” của ý thức. Cho dù tôi có chuyển cái vị trí này lên tuyến yên như một giả thuyết thuần túy, hoặc tôi căn cứ vào các kết quả nghiên cứu trên động vật để tìm kiếm nó trên võ não thì điều này cũng chẳng khác gì nhau. Sai lầm này nằm trong việc tìm kiếm một “vị trí” cho ý thức. Đối với một ý tưởng như thế thì cho có một vài đầu óc thông minh ngoại lệ mới phản đối mà thôi. Để minh họa, tôi xin trích dẫn một đoạn cước chú từ tác phẩm Analyse der Empfindungen (Phân tích cảm xúc) của E.Mach[10].
Những phản tư đơn lẻ đã được khơi dậy khi người ta đối lập lại sự phong dụ vô bờ bến này bằng những khái niệm về sự vật đã được triết gia Ấn Độ đưa ra 600 năm trước khi đức Chúa Jesus giáng sinh. Trong tư tưởng đức Phật, không hề có cái gọi là “ý thức” hay “Thức”, cũng không hề có cái gọi là “sự sống”, mà chỉ có kinh nghiệm của việc khơi mở ý thức — nghĩa là một nổ lực miên tục để trở thành ý thức. Tôi không sở hữu ý thức như sở hữu đồng bạc 5 xu trong túi, mà tôi là ý thức đã được khách thể hóa, như tôi là ý chí đã được khách thể hóa. Chừng nào tôi còn suy tư bằng những thuật ngữ hiện thực, thì chỉ có một ý thức duy nhất trong thế giới — đó là chính bản thân tôi. Chừng nào tôi còn suy tư bằng những thuật ngữ hiện thực, thì ý thức chỉ là kinh nghiệm về bản thân tôi và không là gì khác. Song điều này chỉ có thể diễn ra như là trực giác, và cần thiết phải có một chỉ thị, một xung động đặc biệt để đạt đến trực giác này. Ý thức, hiểu theo nghiã là cái còn lại của tiến-trình-Tự-ngã, là hình thức của tiến trình thực dưỡng của mỗi cá nhân; sự khác biệt duy nhất là như vầy, nó là kết quả cuối cùng, là giai đoạn cao nhất, giống như trái cây là giai đoạn cuối, là giai đoạn cao nhất của quá trình dinh dưỡng thực vật. Nói về “vị trí” của ý thức cũng tương tự như cách nói về “vị trí” của nhiệt trong một cố thể. Tất cả những điều này đều rơi vào trong một khái niệm bao quát, đó là “thực dưỡng”. Có nhà vật lý hiện đại nào ngây thơ đến mức đi tìm “vị trí” của nhiệt trong một cố thể đang nóng đâu? Vậy mà các nhà sinh lý học và nhà sinh học lại kiệt sức đi tìm “vị trí” của ý thức. Cho nên cho rằng não bộ là vị trí của ý thức xem ra cũng hợp lý như cho rằng các bình điện trong văn phòng điện báo trung ương là vị trí của cơ quan tình báo trong một thành phố lớn.
Giáo thuyết của đức Phật về sinh lý học là như vầy : —
Khi mắt và sắc duyên nhau thì sinh khởi nhãn thức. Khi tai và âm thanh duyên nhau thì sinh khởi nhĩ thức. Khi mũi và mùi hương duyên nhau thì sinh khởi tỷ thức. Khi mắt và trần cảnh duyên nhau thì sinh khởi nhãn thức. Khi lưỡi và vị duyên nhau thì sinh khởi thiệt thức. Khi thân và xúc duyên nhau thì sinh khởi thân thức. Khi ý và các pháp duyên nhau thì sinh khởi ý thức. Khi mắt và trần cảnh duyên nhau thì sinh khởi nhãn thức.
“Dù con mắt bên trong còn nguyên và có sắc tướng bên ngoài, nhưng nếu con mắt và sắc tướng không duyên nhau thì nhãn thức vẫn không sinh khởi. Dù lỗ tai bên trong còn nguyên và có âm thanh bên ngoài, nhưng nếu lỗ tai và âm thanh không duyên nhau thì nhĩ thức vẫn không sinh khởi. (Majjhima Nikaya, Sutta, 28)
Do đó, toàn bộ kinh nghiệm của bản thân tôi đều là sự trở thành thức tại mọi sát na tồn tại. Thức chính là Hành (Sankhāra), chỉ khác ở một điểm duy nhất là trong Thức thì Nghiệp trở nên khả tri đối với tri giác.
Mục đích luận và cơ giới luận có cần phải đến trước đức Phật mà nói : “Ngài hãy quyết định đi! Giữa hai chúng tôi, ai là người đúng? Con mắt sinh ra từ cái thấy hay là cái thấy sinh ra từ con mắt? Bộ não sinh ra từ tư duy hay tư duy từ sinh ra bộ não?” hay không? Đức Phật hẳn sẽ mĩm cười mà bảo : —
“Này những người bạn trẻ, cả hai bạn đều đúng bởi vì cả hai bạn đều sai. Các bạn đặt vấn đề không đúng cách. Không hề có ‘con mắt’ hay ‘bộ não’ theo nghĩa các bạn đang dùng. Chỉ có duy nhất một tiến-trình-Tự-ngã. Tiến trình này tự thân khai mở theo những thể cách sai biệt vốn tự thân vận động bằng bước chậm chạp đủ để phân biệt các tên gọi như ‘con mắt’, ‘bộ não” vân vân… Câu hỏi của các bạn : ‘Con mắt sinh ra từ cái thấy hay là cái thấy sinh ra từ con mắt? Bộ não sinh ra từ tư duy hay tư duy sinh ra từ bộ não?’ chỉ có nghĩa nếu như bản thân của con mắt hay bộ não là những giác quan hoàn chỉnh, và có khả năng đáp ứng được với chức năng cụ thể. Tuy nhiên tất cả điều này không là gì cả ngoại trừ là một giai đoạn, chỉ là một sắc tướng phát triển được đảm nhận bởi một tiến trình duy nhất. Không phải con mắt thấy mà là bạn thấy. Con mắt không sinh ra từ cái thấy, mà cái thấy cũng không sinh ra từ con mắt; con mắt chỉ là sắc tướng mà trong đó cái thấy tồn tại. Bạn không thấy bằng con mắt mà bằng dữ kiện tiến hóa của con mắt. Tương tự như vậy, bạn không tư duy bằng bộ não mà bằng dữ kiện tiến hóa của bộ não. Điều đó chỉ là cách nói khác của một điều rằng bạn chỉ là một sắc tướng được đảm nhận bởi những năng lượng cá nhân”
Tại đây, nhà sinh lý học có thể chen ngang : “Những thí nghiệm trên thú vật cho thấy ý thức có một vị trí xác định trong vỏ não”. Song đây lại là một kết luận mang sai lầm thô thiển, như kết luận của nhà vật lý khi ông ta tưởng mình có thể theo dõi được năng lượng trong mọi ngóc ngách[11].
Những gì đạt được bằng các cuộc thí nghiệm chỉ là những hiện tượng tiêu cực, và những cuộc thí nghiệm này không đảm bảo có thể khẳng định được vị trí của ý thức. Nếu tôi đốt cắt đứt một sợi dây điện, thì chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng tiêu cực là “bóng tối”; nhưng nếu căn cứ vào điều này để nói rằng : “Điểm cắt hẳn phải là vị trí của dòng điện, đây là chứng cứ rõ ràng” thì đó chỉ là điều xuẩn ngốc. Ấy thế mà nhà sinh lý học lại mắc cái bệnh ngô nghê như vậy đấy, và việc phạm những tội ác thô bạo trên thú vật trong các thí nghiệm là điều khó lòng tránh khỏi. Ước gì sẽ đến thời điểm khi mà những ý tưởng chân thực về đời sống chiếm lĩnh được lãnh địa khoa học, để hằng ngày phòng thí nghiệm của những nhà sinh lý học không còn là ngôi đền diễn ra lễ hiến tế đẫm máu các loài vật nữa.
Mọi công cuộc tìm kiếm vị trí của ý thức chỉ khả thi khi chúng ta làm việc với những khái niệm rỗng. Nếu chúng ta suy tư bằng những thuật ngữ hiện thực thì ý thức chỉ là một giả thuyết hữu hiệu mang bản chất quy nạp, mà việc đọc nó là điều hoàn toàn bất khả. Bởi vì ở đây việc đọc là một hình thức được đảm nhận bởi chính ý thức, bởi cái mà việc đọc nó lại đòi hỏi đến một việc đọc khác, và cứ thế cho đến vô vùng ad finitum.
Còn có một điểm khác trong vấn đề “ý thức” mang ý nghĩa cực kỳ trọng đại, mà theo tôi biết thì cho đến nay vẫn chưa được lưu tâm. Giống như tư tưởng của Darwin không bao hàm trường hợp lai ghép — nó không hề phản ứng lại điều này— thì cũng thế, thể cách mà khoa học đối mặt với sự vật không bao hàm trường hợp hiện tượng tiêu cực của ý thức về mặt sinh lý học, có cũng không hề phản ứng lại điều này. Với các thiết bị khoa học, không thể có chuyện đạt được những dữ kiện như “đức tin”, “ảo tưởng”, “sai lầm”, “quên lãng”. Khoa học luôn đòi hỏi một cái gì đó khả tri và khách quan, một cái được cấu tạo sao cho ta có thể sắp xếp nó cùng các vật khác.
Tôi có thể đọc ý thức dưới hình tượng của những diễn biến liên quan, nhưng chỉ bằng hình thức hồi tưởng. Áp dụng cho biến cố phân ly tương ứng, nghĩa là sự lãng quên, cách giải thích này cũng bất khả như sự kiện một hỗn hợp phân tử có xu hướng tiến đến trạng thái tự cân bằng, thì đồng thời phải tan biến tiêu dung. Giống như sự điều chỉnh tự nhiên trong mức khác biệt về trương độ của phân tử có thể được giải thích như là một cách đọc hay một sự rơi, thì cũng thế, trong mọi hoạt động kết nối của nó, ý thức có thể được giải thích như là một cách đọc hay một sự rơi, nhưng trong hoạt động phân ly của nó thì điều này không thể. Tuy nhiên, điều này lại liên quan đến toàn bộ tính vô giá trị của cách giải thích trước; bởi vì mọi hỗn hợp, mọi sự kết nối đều giả định sự tách biệt, sự phân ly và yêu cầu chỉ ra cho được bản chất của ý thức, điều mà tôi muốn chỉ ra đây không phải là sự kết nối mà là sự phân ly, không phải là sự hồi tưởng mà là sự lãng quên. Một khi hòn đá được nâng lên khỏi bề mặt quả đất thì nó sẽ có xu hướng rơi trở lại vị trí cũ. Nhưng cần phải tìm thấy được sự tách lìa khỏi bề mặt quả đất, là cái tạo nên những nguyên nhân tương ứng. Tương tự như vậy, chính sự phân cách, sự lãng quên mới thực sự đòi hỏi thuyết minh; còn sự kết hợp, sự hồi tưởng có thể được giải thích một cách dễ dàng theo cơ giới luận, như trường hợp một hòn đá được nâng lên cao rồi rơi xuống. Sự phân cách là một điều kỳ diệu về phương diện sinh lý học mà mọi ngành khoa học đều bó tay không sao giải thích được.
Mọi chuyện cũng diễn ra tương tự như thế với đức tin, ảo tưởng và sai lầm. Quan niệm mang tính thuần túy cơ giới luận về sự vật, quan điểm nhìn tiến-trình-Tự-ngã chỉ đơn giản như một khía cạnh của hiện tượng bù trừ sự khác biệt về trương độ, không bao giờ có thể phù hợp với đức tin, ảo tưởng và sai lầm. Điều bất khả tương tự cũng tồn tại trong cách lĩnh hội thế giới bằng mục đích luận. Làm thế nào mà một “lực” lại có thể đạt được khả năng tự lừa gạt mình hoặc tự rơi vào sai lầm? Đối với hiện tượng bù trừ thuần túy và đơn giản, cũng như đối với Thượng Đế, thì ảo tưởng và sai lầm là những khả năng hoàn toàn bất khả đắc; chúng chỉ thuộc về con người mà đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta.
Nếu tôi chỉ là một phản ứng không ngừng đối với thế giới ngoại tại, nếu tôi thường xuyên phải thích ứng với sự vật và sự vật phải thích ứng với tôi, không phải như là sự điều chỉnh đơn thuần mà như là những nguồn năng lượng đặc biệt, thì đức tin, ảo tưởng và sai lầm cùng tất cả những hiện tượng tiêu cực khác đều mang tính khả thi như mọi hiện tượng tích cực. Tiến trình khởi nguyên từ vô thủy cung cấp khả năng này cho cả hai.
Đối với những sự kiện như ảo tưởng hay sai lầm trong hiện thực thì khoa học hoàn toàn không nhận biết, vì khi làm như thế thì khoa học hẳn phải nhận biết được một cái gì đó hoàn toàn không có chỗ đứng trong vũ trụ luận của mình. Như vậy, người ta lại phải giới thiệu những chức năng mà không thể đưa ra được một cơ sở vững chắc nào. Chỉ trong vũ trụ luận của đức Phật, chỉ trong quan niệm về cõi vô thủy của từng cá thể, mỗi thứ mới tìm được vị trí cần thiết cho mình. Ở đây, chúng là những điều kiện tiên khởi tất yếu cho mọi sự tồn tại. Khoa học tỏ ra bất lực trong việc tự bảo vệ mình, ngoài cách cố gắng giải thích các diễn biến từ trật tự của những biến cố thế giới. Về điểm này, E.Mach, trong tác phẩm Analyse der Empfindungen (Phân tích cảm xúc), đã phát biểu như sau :
“Câu nói ‘ảo tưởng của giác quan’ cho thấy rằng con người vẫn chưa đạt đến ý thức một cách chính xác, hoặc ít nhất là cũng chưa thấy cần thiết phải biểu đạt ý thức bằng thuật ngữ tương thích, và cho thấy rằng các giác quan không chỉ ra được đúng hay sai. Cái ‘thực’ duy nhất mà con người có thể nói đến trong sự liên kết với giác quan là như vầy : trong những điều kiện khác nhau chúng sinh ra những cảm giác và nhận thức khác nhau. Bởi vì những điều kiện này thì thiên hình vạn trạng … nên dường như … giác quan tác động khác nhau trong những điều kiện như nhau. Kết quả thu được theo cách tuần tự thông thường là cái mà con người quen gọi là ảo tưởng”.
Điều này là biến ảo tưởng thành chân lý trong một hình thức tế vi, là “đọc” ảo tưởng đó như hình thức đặc biệt của chân lý, và nhờ đó thoát được nó.
Nhưng giá trị của tư tưởng đức Phật trong lĩnh vực này lại không ngừng ở đây. Trước hết và trên hết, nó giải thích bằng một dữ kiện kinh nghiệm thường ngày là không phải mọi sinh hoạt giao phối nào cũng sản sinh ra một bào thai mới. Dữ kiện này có vẻ như không thể giải thích được, dù là xét từ quan điểm của đức tin hay khoa học.
Đức tin — khi nhìn thấy một linh hồn được thổi vào chất liệu của sự sống mới — không cho phép bất kỳ một giải thích nào, vì đối với đức tin thì mọi sự đã diễn ra theo ý muốn của Chúa. Tuy nhiên, theo quan điểm khoa học thì sự kết hợp giữa tinh trùng và noãn hẳn phải đảm bảo sự thụ thai, bởi vì ở đây cả hai đều đã sẵn sàng cho một sự sống mới, bản thân chúng đã mang những yếu tố của sự sống mới này. Chỉ có tư tưởng đức Phật mới giải thích vì sao sự thụ thai không thể xảy ra dù có sự kết hợp giữa tinh trùng và noãn : thai không “đậu”. Tại thời điểm khi mà cả hai đều mở ra cho dòng chảy vào của năng lượng thì yếu tố sau chưa sẵn sàng. Trong sự hòa điệu miên tục và vô tận của những diễn biến tương tác trong thế giới, cái sát na đặc thù riêng biệt đã bị trôi tuột mất [12].
Tư tưởng Phật giáo còn đi xa hơn trong việc giải thích những điểm khó hiểu về sự tương đồng và sự khác biệt giữa cha mẹ với con cái. Quan điểm nhìn sự vật bằng đức tin không cung cấp được một luận cứ nào về sự tương tự đó. Chúa thổi vào thân xác một linh hồn bất kỳ nào mà Ngài thích. Còn khoa học, trái lại, cũng không hề có một luận cứ nào về sự khác biệt này. Chỉ trong tư tưởng đức Phật thì sự tương đồng lẫn sự khác biệt mới được giải thích. Tôi có thể thừa hưởng cái lỗ mũi lẫn cách hít thở của cha tôi, bởi vì tất cả đã được dự báo trong phần chất liệu tạo ra tôi và buộc phải tự thân tiến hóa; thế nhưng chủ thể tiến hóa là một người lạ, từ một khởi điểm chung lại sản sinh ra nhiều kết quả tiến hóa độc lập với nhau. Ở đây, sự thụ thai không có nghĩa gì khác hơn là sự gặp nhau giữa hai con đường : con đường chất liệu và con đường năng lượng. Chúng ta đứng ở một giao lộ nơi hai con đường gặp nhau chỉ để khi chúng ta càng đuổi theo chúng thì chúng lại tách ra ngày càng xa nhau hơn.
Mục thứ ba có thể được giải thích bằng tư tưởng đức Phật đó là vấn đề những năng khiếu bẩm sinh. Xét từ quan điểm thuần túy kinh nghiệm trong hành vi học tập, thì những năng khiếu này là một phép lạ bất khả tư nghì. Đối nghịch với điều này, những khiếm khuyết của học thuyết thiên phú[13] nằm ở chỗ cho rằng hình tướng bên ngoài của tất cả mọi người đều hoàn toàn phù hợp với những năng khiểu bẩm sinh. Xa lìa cả hai cực đoan trên là trung đạo của đức Phật. Ngài giải thích được khả năng phát triển tiệm tiến cũng dễ dàng như giải thích vấn đề hình tướng, bởi vì với Ngài tất cả đều thuộc vào nhịp độ (tempo) mà năng lượng — khi kết hợp với chất liệu— đi vào trong tiến trình thụ thai. Nếu nhịp độ đó nhanh đến nỗi các cơ quan thu nhận đã ở trong trạng thái phát triển và sẵn sàng lìa bỏ tử cung thì ở nơi đó những năng khiếu bẩm sinh hiện diện, các cơ quan có thể khởi động ngay và thế giới ngọai tại lập tức hoạt động với vẻ hấp dẫn tuyệt vời; trong trường hợp này thì các nhà theo học thuyết thiên phú đúng. Còn nếu nhịp độ chậm thì ở đó diễn ra tiến trình tiếp thu tiệm tiến bằng kinh nghiệm.
Tuy nhiên, tách lìa khỏi những dữ kiện sinh học, tư tưởng đức Phật cũng giải thích được những suy tư cao xa vốn luôn ám ảnh tâm trí những người thuộc thế hệ trước, chẳng hạn như vấn đề “tiền kiếp”, hay quan niệm “hồi tưởng” của Platon, cho rằng học chỉ là nhớ lại những gì trong kiếp trước vân vân… Một người thông minh sâu sắc như Lichtenberg phát biểu : “Nhiều khi tôi có cảm tưởng tôi đã từng hiện hữu ở đây rồi”. Thực ra ở đây, nếu ta thích, thì ngay cả khái niệm “tiên nghiệm” (a prior) của Kant, cái “bản thể thuần túy” (pure ens) của triết học kinh viện cũng có ý nghĩa. Cái mà, theo Kant, đứng tách biệt khỏi thực tại như là một kết thúc mù quáng, không có bản chất thực sự, giống như hồn ma lởn vởn trên sông nước, thì ở đây nó lại cuộn mình vào trong chính cái Tôi. Nghiệp của tôi là cái “tiên nghiệm”; theo một nghĩa nào đó, nó thực hữu, giống như Kant chưa bao giờ hoài nghi. Tất cả những đầu óc này đều thiếu sự hướng dẫn, thiếu ánh sáng. Họ chỉ cảm nhận được một cách lờ mờ nhưng họ không hề nhìn thấy. Trong suốt thời gian tôi lưu trú tại Anuradhapura, trong buổi đàm đạo cũng cha tu viện trưởng Ruanwelli, ông bảo tôi : “Kẻ nào không nghe được giáo lý cũng giống như con voi mù trong rừng già : nó phải sờ mó từng nhánh cây để xem có ăn được không”. Tại đây chúng ta có một minh họa thích hợp về sự vô minh trong cách tìm hiểu.
Giải pháp về vấn đề sinh sản được đức Phật đề ra có liên quan với một vài câu hỏi được nêu ra trong bài luận thứ năm của chúng tôi, song ở đây cũng được trình bày đầy đủ.
Câu hỏi đầu tiên là như vầy : —
“Như đã nói ở trên, nếu nguồn năng lượng thích hợp duy nhất không luôn luôn sẵn sàng cho chất liệu, nếu sự tiếp xúc bị bỏ lỡ thì số lượng chất liệu có phải luôn luôn sẵn sàng cho Nghiệp hay không?
Câu trả lời như sau :
“Một bó củi có thể không bắt lửa, điều này thường xảy ra, nhưng tia lửa không tìm được gì để bắt lửa thì không phải là trường hợp này”. Bản thể của nó là cái nắm bắt, là độ hiện thực (actuity) tự thân của nó. Năng-lượng-Tự-ngã bén rễ để thiết lập nền tảng một cách chính xác tại nơi nào nó có thể.
Nhưng liệu nó nó có luôn luôn bén rễ một cách phù hợp và chính xác hay không?
Đặt ra câu hỏi như vậy khác nào hỏi : “Liệu mặt trời có chỉ ra được giờ ngọ một cách chính xác từng ngay hay không?” hoặc : ”Liệu đại dương có luôn duy trì được mực nước hay không?”. Nơi nào mà toàn bộ vũ trụ không có quy luật mà bản thân nó chính là quy luật, thì nơi đó “bén rễ” đồng nghĩa với “bén rễ một cách chính xác và phù hợp”. Tất cả các câu hỏi như thế chỉ được biện minh nếu như chúng ta có liên quan với những sinh thể hỗ tương hòa điệu; nhưng ta thấy vạn hữu luôn ở trong trạng thái của một chuỗi các sự hòa điệu vĩnh viễn mới lạ, cái này cộng hưởng hòa điệu với cái kia — không kết hợp với nhau theo kiểu các răng cưa với rãnh xoắn, cũng không phải là sự hòa điệu tiền định hay sự song phối sánh đôi về phương diện tâm sinh lý. Toàn thể vũ trụ luôn ở trong trạng thái mới mẻ tinh khôi vĩnh hằng. Nếu dám liều lĩnh khóac gương mặt quái thú để buông lời diễu cợt thì người ta có thể nói rằng toàn bộ thế giới đều luôn ở trong trạng thái sinh khởi thường hằng, không hề có một “cái gì đó” được sinh ra mà có thể dùng làm tiêu chuẩn lý tưởng cho cái thực lẫn cái không thực một cách phù hợp được.
Sự kiện một hợp chất hóa học phân rã và phóng thích các nguyên tố thành phần luôn có nghĩa rằng các lực mạnh hơn đã đến tham dự vào cuộc chơi từ một hướng khác. Sự phân rã chỉ là hình thức của sự kết hợp mới. Tương tự như thế, Nghiệp không trở nên tự do chỉ vì để được tự do. Không bao giờ Nghiệp tùy tiện nhảy ra khỏi vị trí cũ của mình, nó làm thế chỉ vì chất liệu của nó rơi rụng khỏi nó. Nghiệp có thể tái diễn và luôn luôn có thể tái diễn, sự kiện đơn giản làm bằng chứng cho điều này là sự tồn tại của thế giới, bởi vì thế giới chỉ là một chuỗi hòa điệu hỗ tương giữa vạn hữu. Nếu như thế giới không tham dự vào sự hòa điệu này thì không thể nào tồn tại một thế giới cả. Cái chúng ta thấy ngay bây giờ là một dữ kiện — đó là hiện thực, và điều này không chỉ đại diện tập hợp các khả tính, mà nó biểu trưng cho một năng lực, năng lực tồn tại của thế giới, và cách biểu hiện của năng lực tồn tại này chính là khả năng tái diễn vô tận.
Đổi ẩn dụ này : đối với mọi hòn đá rơi luôn luôn có một địa điểm để nó có thể rơi xuống đó. Đi cùng sự kiện “hòn đá rơi” là những điều kiện tiên quyết mà trong đó những câu hỏi như “Nó rơi xuống đâu? Nó có tìm được vị trí rơi hay không? “ luôn có câu trả lời. Sự rơi của hòn đá không phải là cái gì bất động, nó cũng không rơi một cách mù quáng vì một biến cố thuần túy. Sự rơi của hòn đá không hề được tiên lượng trước cũng không hướng đến một mục tiêu nào cả. Sự rơi đó là sư hòa điệu của chính nó, sự thích nghi với mục tiêu. Trong hành động rơi, hòn đá tìm được mục tiêu của nó. Tương tự như vậy, toàn bộ cuộc sống tôi chỉ là sự tìm đường đi, sự thích ứng với mục tiêu mới mà thôi. Nghiệp không đến vị trí mới như là lực tự phát, nó cũng không rơi, như là một phản ứng, mà nó đi đến như ngọn lửa. Trong những diễn biến của thế giới từ vô thủy, sống tại mỗi thời điểm là tự thân tương thích với sự sống. Nó giống như vũ địêu vòng tròn của vũ trụ, sự Luân Hồi (samsara). Nghiệp đã ôm lấy người bạn nhảy của mình và cùng nhau quay tròn trong cõi vô biên vô tận cho đến khi cô nàng bạn nhảy đó kiệt sức vì mệt lã, hoặc trở nên vụng về và nặng nhọc rồi tụt khỏi bàn tay của Nghiệp, vì không còn phù hợp với Nghiệp nữa. Tuy nhiên, người bạn nhảy đó không phù hợp với Nghiệp chỉ vì cô nàng phù hợp với một người khác tốt hơn, hay hơn. Do đó, chất liệu lại được trao tay, bởi vì một người cho vay đã giật lấy nó từ tay người khác.
Thực ra nó chỉ được vay, mà người cho vay thì nhiều vô số!
Và như thế là đã giải quyết được vấn đề sau : “Một khi đã bắt lửa thì tiến-trình-Tự-ngã có thể bùng cháy mãi hay không?”. Khoa học, bởi lẽ không bao giờ có thể là khoa học hiện thực, ít nhất cũng cố gắng không trở thành khoa học của những người tầm thường phàm phu tục tử, và nỗ lực làm tốt đặc điểm nổi bật của nó một cách đầy ấn tượng, hoặc có thể nói là đầy cảm xúc, trong việc cấu thành nên vấn đề. Do đó, nó cố gắng nêu bật bản chất vượt trội trong quan điểm của nó đối với những vấn đề về sự sống bằng cách bảo với kẻ nghiệp dư đang sững sốt rằng cái chết chỉ là một hiện tượng thích nghi — vâng hơn thế nữa, cái chết không là gì cả ngoài một thói quen tồi. Về điểm này, Weismann trong tác phẩm Dauer des Lebens (Kéo dài sự sống) đã nói : “Từ quan điểm thuần túy sinh lý học, không có lý do gì để cho rằng các tế bào lại không thể tự phân đôi cho đến vô cùng ad infinitum, nghĩa là để cho các cơ quan hoạt động vĩnh viễn. Đối với tôi, tính tất yếu của cái chết chỉ có thể được nhận thức từ quan điểm thiết thực …. Một cá nhân sống mãi sẽ trở nên yếu đuối và vô dụng cho nòi giống. …Cái chết chỉ là sự sắp xếp mang tính thiết thực; nó không nhất thiết phải đặt nền tảng trên sự bản chất tinh yếu của cuộc sống ”. Điều này cũng dễ hiểu như khi dựa vào thói quen bếp núc để nói : “Lửa tắt chỉ là sự sắp xếp mang tính thiết thực; nó không nhất thiết phải đặt nền tảng trên sự bản chất tinh yếu của lửa”. Nói về cái chết như một hiện tượng thích nghi chỉ là trò tung hứng với cái chết như những khái niệm rỗng. Thật ra, không phải tự thân cái chết thích nghi với cuộc sống, như một vài người nghĩ, mà đó chỉ là sự thích nghi của suy tư đối với những dữ kiện. Sự phi lý ngớ ngẫn chỉ trở nên hiển nhiên khi mà từ việc “đọc” suông những dữ kiện, người ta tìm cách phát triển chân lý về sự ứng dụng thực tiễn, như Mechnikoff[14] đã làm trong những phỏng đoán “táo bạo” của ông. Tôi khẳng định rằng khoa học cần phải biết xấu hổ về bản thân nó trong việc đem những câu chuyện hoang đường như vậy về tương lai để lấp đầy khu vườn trẻ của loài người, khi mà bầu không khí nơi đây đã dày đặc với những câu chuyện hoang đường thời quá khứ. Trường phái y khoa cổ điển Salernitanian thường hỏi : “Cur moritur homo, cut crescit salvia in hortis?”[15]. Tương tự như vậy, trường phái y khoa hiện đại lại hỏi : “Tại sao con người lại chết khi mà loại sữa chua Maya đã lên men trong phòng thí nghiệm?” điều đó cho thấy rằng ở tận cùng đáy sâu thăm thẳm dưới bề mặt nổi, khoa học cũng bắt nguồn từ một nền tảng tương tự như “đức tin mù quáng” đáng xem thường.
Như một người trưởng thành giữa bầy trẻ con, đức Phật đứng đối mặt với những điều hư cấu hoang đường đó. Đối với Ngài, cái chết không gì hơn là sự sống trong một môi trường khác. Con thoi chạy không ngừng chỉ vì có một cuộn len mới đặt trên mình nó. Thấu hiểu rằng bản chất của cuộc sống là một tiến trình, điều đó liên quan một cách tất yếu với sự thấu hiểu rằng cuộc sống chỉ có thể tồn tại chừng nào sự kết hợp ta đang xét không bị chế ngự bởi những sự kết hợp khác. Tại đây, để cho chắc chắn, tôi có thể giải thích cái chết như là một hiện tượng thích nghi, nhưng tôi cũng hoàn toàn có thể giải thích cái chết như thế, vì ở đây tôi chỉ là cái tự thích nghi, tự hòa điệu từ vô thủy. Tuy nhiên, cho dù quãng thời gian thích nghi hòa điệu này tồn tại bao lâu đi nữa, cho dù nó có được kéo dài bằng những thiết bị đặc biệt, thì nói về sự bất tử tiềm ẩn có nghĩa là loại bỏ bản chất tiến trình của cuộc sống, là biến cái hiện thực không bao giờ ngưng nghỉ thành một thứ giả mạo ấu trĩ. Tôi sinh ra luôn có nghĩa là tôi sẽ chết đi. Bởi vì chúng sinh chỉ có thể được sinh ra nếu trước kia họ đã chết đi; họ phải trả giá là mua sự sống bằng cái chết. Nếu chúng ta không được sinh ra thì chắc chắn chúng ta đâu cần phải chết. Nhưng được sinh ra và không nhìn ra được tính tất yếu của cái chết nằm sâu trong bản chất của sự sống thì điều đó đòi hỏi được đặt bên cạnh đoạn văn trong sách của Joshua : “Này mặt trời, hãy đứng yên trên đỉnh Gibeon; và này Mặt Trăng, hãy đứng yên trong thung lũng Ajalon”[16]. Thế giới của đấng Chúa Tế có một vòng tròn khác biệt xiết bao: “Không có vật gì có sinh mà lại không có tử ”. Và đúng là như thế. Chúng ta đòi hỏi những giá trị của cuộc sống bằng mọi giá; những bầu sữa đã bị vắt cạn và cái chết buộc phải lấp vào chỗ trống!
Nếu khoa học và tư tưởng Phật giáo được đặt cạnh nhau để đối chiếu một cách công bằng thì ta bắt buộc phải chấp nhận ưu thế vượt trội của tư tưởng Phật giáo, bởi vì nó giải quyết vấn đề một cách gọn ghẽ bởi một tư tưởng duy nhất, trong khi khoa học lại làm cho vấn đề rối tung lên bằng hai khái niệm phân biệt rạch ròi. Xét từ quan điểm khoa học, thì tử cũng là một phép lạ không khác gì sinh, bởi vì trong cõi sống, một đồng nhất thể mới hiện lên trên toàn thể tấn tuồng nhân sinh, và trong cõi chết thì tất cả lại tan biến đi; giống như hiện tượng một cơn sấm sét nổi lên và tan biến mất đi trong tư duy của một đứa trẻ. Sự kiện đơn giản là : mặc dù có đủ tất cả khả năng kỹ thuật để xử lý vấn đề di truyền, và dù đã nhiều tìm tòi nghiên cứu về sự gián đoạn từ cuộc sống này sang cuộc sống kế tiếp, song khoa học vẫn cư lưu trong xứ sở của phép lạ. Kỹ thuật mô tả của khoa học, mà nó thường gán một nhãn hiệu sai lầm là : “thuyết tiến hóa”, vẫn không hề đá động được đến vấn đề tiến hóa trong hiện thực. Đối mặt với các phép lạ sinh và tử, khoa học trông giống như đứa bé lần đầu quan sát lịch sử thế giới tự nhiên. Khi quan sát thấy con sâu bướm chết và con bướm sinh ra, nó sẽ bảo : “Hai phép lạ! Cái cũ chết đi và cái mới ra đời”. Thay vì kết hợp hai sự kiện này lại thành một khái niệm duy nhất về hiện tượng diễn ra, khoa học lại tách biệt chúng ra làm hai một cách sai lầm và biến chúng thành những vấn đề nan giải. Khoa học là vậy đó. Do không nhận thức được rằng sinh và tử chỉ là một, và thay vì lĩnh hội cả hai sự kiện như là một, thì khoa học lại xem hiện tượng đó như là hai phép lạ hiện tiền. Cái thòng lọng của cuộc sống đã trở thành cái nút thắt, và mọi nỗ lực tháo ra chỉ làm mọi sự thêm tồi tệ. Đến lúc này, nhà vật lý đã bỏ giai đoạn của tuổi thơ lại đàng sau. Ngày nay, ông ta không còn nói : “Hai phép lạ! Nhiệt biến mất và chuyển động đang diễn ra”. Dù sao, ông ta cũng chỉ tìm thấy được manh mối dưới dạng phản ứng. Còn nhà sinh học vẫn không thể thay hai phép lạ bằng một khái niệm chân thực và chính xác. Ông ta vẫn không hiểu được rằng chính cái sống được mua bằng giá của cái chết. Bởi vì ông ta xem sống chết như là những sự kiện tự thân độc lập, cho nên phải đối mặt với với cả hai vấn đề nan giải
Điều đó nói như vậy là đã quá nhiều. Một câu hỏi nữa được nêu ra : “Liệu Nghiệp có thể hòa điệu tại hai hoặc nhiều nơi cùng một lúc hay không?”
Câu trả lời là như vầy : “Về lý thuyết, chừng nào con người còn đối phó với những vấn đề từ quan điểm cơ giới luận, nghĩa là chỉ quan tâm xử lý đến những phản ứng, thì nghiệp có thể hòa điệu tại vô số nơi”. Hoàn toàn tương tự như trường hợp giọt nước rơi, khi nó nhỏ xuống thì về mặt lý thuyết có thể có vô số điểm là điểm rơi; tuy nhiên trong thực tế thì nó chỉ có một điểm rơi duy nhất, và điểm rơi này tự chứng minh được rằng nó là điểm rơi duy nhất trong vô số các khả năng bởi một sự kiện đơn giản là giọt nước rơi vào đúng điểm đó. Hiện thực rất đơn giản. Nó chỉ trở nên phức tạp do cách nắm bắt vấn đề dưới quan điểm máy móc, vốn chỉ quan tâm đến các phản ứng.
Bạn có thể hỏi tiếp : “Có thể nào hai Nghiệp hòa điệu với nhau trong cùng một thân xác hay không?”
Câu hỏi này cùng có ý nghĩa như khi ta hỏi : “Có thể nào hai người khác nhau lại tiêu hóa và được nuôi dưỡng bởi cùng một ổ bánh mì hay không?”. Điều đó đúng chừng nào mà chúng ta xem “ổ bánh mì” theo cách thuần túy lý thuyết, ăn các khái niệm một cách ngon lành! Nhưng khi ta ăn trong thực tế thì hiển nhiên là vô lý.
Lại thêm một câu hỏi khác : “Liệu trứng có thể thụ tinh khi không có tinh trùng hay không?”
Chừng nào ta còn xét về phương diện con người thì câu trả lời duy nhất là phải cần đến cả hai yếu tố đó. Chỉ đơn giản là thế! Tại sao khi thêm vào các chất xúc tác hoặc các chất gây men nào đó chỉ có một số phản ứng nào đó xảy ra? Sự phản đối trên đây đã đè nặng biết bao lên tâm trí con người, điều đó được biểu hiện qua vai trò quan trọng của sự thụ thai tinh khiết[17] trong thời kỳ sơ thủy. Trong thế giới động vật thì điều này không phải là không có thể. Tuy nhiên, với con người thì các điều kiện sẵn sàng đến mức cả hai, trứng và tinh trùng, đều cần phải có để dẫn dắt Nghiệp và khiến Nghiệp xảy ra.
Nếu có người hỏi : “Điều này có thể xảy ra ở bên ngoài tử cung người mẹ hay không?”. Tôi xin trả lời : “Tôi không biết”. Điều đó chắc chắn không xảy ra với phái nam. No xảy ra với loại động vật máu lạnh, với loại chó vân vân…. Trong khu vườn bách thảo ở Peradeniya tại Ceylon, trong bầu không khí tuyệt hảo nhất cho thảo mộc, có một vài loại cây, chẳng hạn cây Bertholetia excelsa[18]xứ Brazil, không thể nào phát triển được dù sống trong điều kiện khí hậu tương tự như khí hậu bản xứ. Chỉ đơn giản là thế. Hiện thực phải nhường bước trước quy luật của chính nó, bởi vì nó chính là quy luật. Khoa học chỉ có thể tấp tểnh theo đuôi những sự kiện và cố gắng thích nghi với chúng. Song điều minh chứng cho tư tưởng Phật giáo là sự kiện không thể có sự thụ thai bên ngoài tử cung, và không thể thụ tinh bằng cách đưa tinh trùng vào tử cung bằng những phương tiện nhân tạo, như một bác sĩ sản khoa Mỹ đã báo cáo[19]. Cái cần thiết là năng lượng sống, nguồn năng lượng đã chấn động bên trong chất liệu trong một giai đoạn giới hạn, giống như năng lượng được tạo ra khi ta gãy một dây đàn. Chính nguồn năng lượng chấn động bên trong nó đã khiến cho chất liệu trở thành chất liệu, nghĩa là trở thành thứ có thể tạo nên sự hòa điệu đặc thù.
Từ đó nảy sinh câu hỏi quan trọng nhất :
“Có phải chính xác là Nghiệp của con người bắt buộc phải sử dụng đến chất-liệu-Tự ngã của con người? Liệu có thể nào vào một lúc nào đó, Nghiệp của con người lại hòa điệu với chất liệu của thú vật, hoặc ngược lại Nghiệp của thú vật lại hòa điệu với chất liệu người?”
Câu trả lời là như vầy : “Nghiệp chỉ có thể diễn ra tại nơi nào có chất liệu mà tự thân chất liệu đó là hình thức của nghiệp. Chất liệu này lan rộng đến mức độ nào trong thế giới loài vật, điều đó cũng khác hơn khi bảo một ngọn lửa có thể lan rộng chính xác đến bao xa và tại chỗ nào thì nó nhường chỗ cho bóng tối. Như một ngọn lửa có phạm vi chiếu sáng nhất định, cũng thế nghiệp có một phạm vi tác động nhất định, mặc dù không có ngành khoa học nào, sinh vật học hay nhân chủng học vân vân …, có được chỗ đứng trong việc xây dựng nên luận đề này. Nghiệp diễn ra tại nơi nào nó có thể diễn ra, nghĩa là tại nơi mà chất liệu tái tạo ở đó làm chấn động những nguồn năng lượng có sự hòa điệu đặc thù với nó; và trên bậc thang của những sinh vật, nghiệp sẽ đạt đến nơi nào có thể.
Trong Bản Sinh kinh (Jatakas) kể lại cuộc đời đức Phật, chúng ta thấy Ngài trong vòng tròn luân hồi từ nấc thang thấp nhất của thế giới loài vật cho đến thế giới của chư thiên, ở những nơi mà Nghiệp tạo được sự hòa điệu tại thời điểm sụp đổ.
Kinh nghiệm cho ta thấy rằng giữa các sinh vật tồn tại một mối cộng hưởng đặc biệt. Đối với một hòn đá hay một cội cây thì không có lòng trắc ẩn thương yêu nào ràng buộc ta với chúng cả. Lòng trắc ẩn chỉ phát sinh trong thế giới động vật, giới hạn của nó là từng cá nhân và thay đổi theo tuổi tác. Đối với nhiều người, lòng trắc ẩn hoàn toàn giới hạn trong phạm vi con người; đặc biệt hơn đó là trường hợp của những người trưởng thành trong bóng mát của những tín ngưỡng độc thần. Trong phiếm thần giáo thì ngược lại, như thường thấy ở Ấn Độ thời xa xưa, lòng trắc ẩn lan đến cả thế giới động vật thấp hèn nhất. Trong khi đó, số người giữa chúng ta có được lòng trắc ẩn với một con chó, con ngựa, con bò hay một con chim bị nhốt trong lồng vẫn rất hiếm hoi.
Phân tích đến cùng thì khả năng trắc ẩn nằm trong sự hòa điệu đặc biệt, đó là sự cộng hưởng hòa thanh giữa một cái năng-lượng-Tự-Ngã này với những cái năng-lượng-Tự-Ngã khác. Do đó, như trong trường hợp của hòn đá, không hề có những năng-lượng-Tự-Ngã nên không thể có lòng trắc ẩn.
Trong tư tưởng đức Phật, sự phân loại các hiện tượng của cuộc sống là sự phân loại riêng biệt cho chính nó. Sự phân loại cuộc sống thành các loại đất đá, cây cối, động vật, con người, thành các loài hữu cơ vô cơ, sự phân loại thông thường và thô thiển ấy không có ý nghĩa gì ở đây. Tất cả những điều đó đều dựa trên sự giả định rằng sự vật là những đồng nhất thể có khối lượng cố định; do đó chúng quy định những điều kiện tiên quyết mang tính giả tạo và kết quả là không hề có một chút giá trị tự thân nào mà chỉ nhằm mục đích là để dễ hiểu mà thôi.
Trong tư tưởng đức Phật, mọi hiện tượng trong cuộc sống được chia thành hai lớp : một lớp có khả năng tác động lên tôi, kích thích được tôi, đem lại cho tôi sự rung động cảm thông; còn lớp kia thì không.
Chúng ta buộc phải chấp nhận rằng — và mọi hiện tượng sinh lý đều chứng minh điều này— trứng và tinh trùng là những hình thức phát triển của tiến-trình-Tự-ngã, trong đó năng-lượng-Tự-ngã của cá nhân liên quan tự hiển lộ dưới hình thức thuần khiết nhất, mật thiết nhất, bởi vì mang tính nội tại nhất. Nếu chúng bị tước ra khỏi cái toàn thể trong hoạt động sinh sản thì chúng vẫn có thể cung cấp chất-liệu-Tự-ngã mới, bởi vì chúng giữ năng-lượng-Tự-ngã rung động đủ lâu trong tự thân để có thể đáp ứng với Nghiệp đang ở trạng thái hòa điệu với chúng.
Cách lĩnh hội sự vật như thế giống như một cái tát vào mặt các bộ môn sinh lý và toàn thể lịch sử tiến hóa, và tại đây, công việc của tư tưởng đức Phật là đạt đến sự thấu hiểu sự vật cùng với lý thuyết về dòng dõi, nếu như cần phải chứng minh để làm thỏa mãn những người có học thức.
Để mở đầu, ta phải hoàn toàn rõ ràng rạch ròi trên quan điểm rằng toàn bộ lý thuyết về dòng dõi chỉ là hình thức đọc những dữ kiện sinh học, một lý thuyết theo nghĩa chặt chẽ nhất của danh từ. Bởi vậy, lý thuyết đó chỉ có giá trị khi tham chiếu đến những mục đích nào đó. Trước hết, là để nhóm vô số những dữ kiện linh tinh vào một tiêu đề chính, và do đó nhằm vào mục đích giáo khoa; thứ hai là để đọc theo thứ tự từ dưới lên trên thay vì từ trên xuống dưới, nghĩa là như thuyết tiến hóa chứ không phải là lý thuyết về dòng dõi, nó gợi ý rằng giá trị sống của một năng lực gây cảm hứng như vậy, về điểm này, có thể được sắp ngang hàng với những ý tưởng về Thượng Đế và nhà nước— ý tưởng về tiến hóa mãi mãi của nhân loại. Ý tưởng này, dĩ nhiên, xa xưa hơn Darwin, nhưng chính nhờ lý thuyết của ông mà lần đầu tiên nó mới trở thành hiện thực.
Thuyết tiến hóa bị loại bỏ khỏi lý thuyết ban đầu của Darwin về sự chọn lọc tự nhiên (natural selection) và sự tồn tại của những loài có khả năng thích nghi tốt nhất (the survival of the fittest). Nó chỉ được đọc lại trong thời đại của chúng ta, một thời đại đang khát khao những giá trị sống. Con người cần phải có cái gì đó để bám víu vào giữa cõi hoang vu của vô biên vô tận; hắn ta phải có một cái gì đó chỉ đến bên kia cuộc sống này, một cái gì đó mà hắn ta có thể liên hệ với cuộc sống này như là toàn thể. Đối với một thời đại mà đức tin vào Thượng Đế đang ngày càng tàn tạ, thì thuyết tiến hóa là vật thay thế vô giá. Cho dẫu nó không mang lại ra những món ăn thực sự, nhưng nó vẫn chỉ ra được, bằng biểu tượng, phía bên kia cuộc sống cá nhân, và xoa dịu con người như cảnh vật của bức tranh đẹp. Trong thực tế, con người chỉ có thể nói đến sự tiến hóa tại nơi nào mà họ có sẵn một mẫu chuẩn để áp dụng vào nó, vào sự tiến bộ đã thực hiện; nói khác đi, là tại nơi nào mà con người có thể đo lường được nó; sóng con người đã quên mất và muốn quên mất điều đó, bởi vì chỉ cần xét một điều này thôi có lẽ cũng đủ để ném toàn bộ ý tưởng về tiến hóa vào phạm trù của những ảo tưởng. Chúng ta phải có một khởi điểm tuyệt đối nếu chúng ta cần phải nói về sự tiến hóa trong chính nó. Về điểm này, chúng ta không sở hữu nhiều hơn vùng không gian tuyệt đối mà chúng ta có thể liên kết được với chuyển động của nó. Ở nơi nào thiếu khởi điểm tuyệt đối, thì ý tưởng về sự tiến hóa cũng vô nghĩa như ý tưởng về chuyển động tuyệt đối. Sự tiến hóa được “giải thích” theo các sự kiện một cách cưỡng bức. Nói rằng con người hẳn phải tiến hóa hơn các đơn bào, điều đó có phần độc đoán. Quan điểm đối lập trực tiếp là điều hoàn toàn có thể. Do các đơn bào đạt đến sự sống bằng một cỗ máy đơn giản hơn con người rất nhiều, như vậy có nghĩa là nó tiến hóa xa hơn, bởi vì “điều đó nằm trong giới hạn mà ta nhận biết được đấng chủ tể”[20]. Rất nhiều loài vật có thể làm được rất nhiều điều hơn là con người với cơ quan suy luận, mà mục đích chính, khi mọi sự đều được nói và thực hiện, sẽ xuất hiện trong việc đặt ra những trở ngại giữa con người với sự sống hiện thực, và buộc y phải chịu đựng sự độc đoán của các khái niệm. Thực ra, phép lạ của các tế bào là như nhau ở bất cứ nơi đâu, trong các đơn bào cũng như trong các tế bào não, và mỗi luận điểm cũng đều hoàn toàn phù phiếm như bất kỳ luận điểm nào khác.
Trong sự kiện rằng khoa học, như được trình bày bởi sinh học, đặc biệt đáp ứng được tư tưởng phát triển dưới hình thức của thuyết tiến hóa, và có khả năng lợi dụng được điều này, khoa học đã cho thấy tình bạn khắn khít lâu đời giữa nó với đức tin. Bởi vì theo nghĩa này thì ở đâu có sự phát triển, ở đó có sự khởi đầu; ở đâu có sự khởi đầu, ở đó có sự tuyệt đối; và ở đâu có sự tuyệt đối, ở đó có đức tin. Đối với cách suy tư chân thật thì mọi sự vật, mọi sát na khởi thủy, dù mang bản chất thực hay thuần khái niệm, đều dẫn ngược về cõi vô thủy. Trong sự tồn tại đơn giản của sự sống, nghĩa là của tất cả các sinh thể, đã bao hàm sẵn tính vô thủy rồi. Với điều này thì ý tưởng tiến hóa đã bị tước bỏ mọi khả tính. Ở đây, sự phát triển chỉ có nghĩa là sự mở phơi những đặc điểm hàm ẩn bên trong chất liệu. Sự phát triển trong thực tế tiến hành từ hạt giống đến đóa hoa, giống như từ đóa hoa trở lại thành hạt giống. Tìm ra thời điểm tiến hóa trong những diễn biến của sự sống cũng khó như tìm trong ngọn lửa đang cháy. Cho rằng giai đoạn này trong thế giới tiến hóa nhiều hơn giai đoạn khác là một quan điểm ấu trĩ. Chỉ đơn gian là thông qua sự tồn tại của nó, mọi thời điểm đều cho thấy rằng nó là hình thức thích nghi, mà tại thời điểm đó là cái khả thi duy nhất và do đó là cái thiết yếu. Thế giới của những tinh vân trong vũ trụ là đóa hoa trong các thế giới trước và hạt giống cho những thế giới sau, cũng phát triển như thế giới của loại ngư long hay thế giới của homo sapiens[21]. Tất cả đều là chuỗi các sự hòa điệu cùng nhau. Nói rằng thời kỳ hiện nay tiến hóa hơn thời kỳ đồ đá thì cũng giống như nói rằng hòn đá rơi trong năm giây tiến hóa hơn hòn đá rơi trong một giây. Tốc độ rơi xuống sau một giây cũng là sự thích nghi như tốc độ rơi xuống sau năm giây. Điều đó chỉ chứng tỏ sự ấu trĩ của cách nắm bắt vấn đề bằng quan điểm sinh học, vốn luôn tìm cách thỏa mãn bằng những điều tầm phào vụn vặt như vậy, hoàn toàn dựa trên những khái niệm do nó tự đặt ra.
Nhưng như đã nói, trong học thuyết nguyên thủy của Darwin lại không hề có những khái niệm đó. Vốn là một tín đồ Cơ đốc ngoan đạo, ông không hề mảy may có ý nghĩ sẽ dựng lên một tế bào nguyên thủy để thách thức bon Dieu[22], hay để bản thân thích nghi với học thuyết đó. Nếu tình cờ bắt gặp Thượng Đế trên đường đi của mình thì hẳn ông cũng ngã nón chào, như người nông dân trước ông địa chủ. Phần tinh túy của học thuyết Darwin nằm trong thuyết chọn lọc. Đã có nhiều kiến phản đối học thuyết này, cho rằng nó chỉ bao hàm sự chuyển hóa chứ không phải sự sinh sản của các sinh vật. Hiếm khi học thuyết này gặp những lời chỉ trích ấu trĩ và sai lầm hơn thế. Cái tao nên sự vĩ đại của tư tưởng lại bị cho là thiếu sót.
Luận đề của Darwin như sau :
“Căn cứ vào sự tồn tại của chất hữu cơ, căn cứ vào xu hướng truyền đi những đặc điểm của nó, cuối cùng căn cứ điều kiện sống của chất hữu cơ, toàn thể những sự vật này đều là nguyên nhân trong hiện tại và là điều kiện trong quá khứ của giới hữu cơ”
Sự vĩ đại trong phát biểu này nằm trong tính chính xác thực sự khoa học của nó, trong sự nắm bắt sự vật thuần túy bằng quan điểm cơ giới.
Giống như khi nhà vật lý nói về lực và khối lượng, cố ý loại bỏ hiện thực ra khỏi tất cả sự vật, thì đơn giản là ông ta không thể làm gì cho đến khi hiện thực bị loại bỏ và những giá trị tương quan được thiết lập; cũng thế, Dariwn loại bỏ hiện thực ra khỏi mọi sự vật và khởi đâu công việc với các giá trị tương quan. Nói một cách khác : học thuyết của Darwin chỉ là một hệ thống đo lường hiện thực mới; và sự vĩ đại của ông, trong chuyện này, nằm ở chỗ ông là người đầu tiên sử dụng sinh học và áp dụng những phương pháp của vật lý vào sinh học. Ông là người đầu tiên tiếp cận những dữ kiện sinh học từ quan điểm về sự khác biệt trương độ và thế năng. Học thuyết của Darwin về sự tồn tại của những loài có khả năng thích nghi tốt nhất chỉ là một cách đo lực theo quan điểm sinh học. Ta có thể nói được gì về một người thấy xấu hổ vì cây thước đo, bởi lý do là cùng một lúc nó không thể chỉ ra được bản chất và nguồn gốc của vật mà nó đo? Chỉ khi nào có sự độc lập với những câu hỏi như vậy thì bất kỳ vật gì cũng có thể được dùng làm chuẩn đo lường. Nhà vật lý sẽ thấy mình đang ở đâu, nếu như ông ta bảo : “Tôi sẽ không quan tâm đến các lực cho đến khi nào tôi thực sự hiểu được lực là gì.” Ông ta không muốn biết lực là gì. Giả sử có người bảo với ông ta, thì ông ta cũng bịt tại lại không nghe. Ông ta chỉ muốn sử dụng các lực, muốn có thể đo được nó; thế là xong. Tương tự như vậy, Darwin hoàn toàn không muốn biết và cũng không muốn cho biết sinh vật là gì. Giả sử người này bảo : “Thượng Đế sinh ra chúng”, còn kẻ khác bảo : “Quỷ sứ sinh ra chúng” thì ông ta, Darwin, sẽ theo ý kiến thứ nhất; nhưng điều đó không có dính líu gì đến vấn đề trước mắt ông cả. Giống như nhà vật lý giữ con lắc khi nó đang dao động và bảo : “Nếu bây giờ tôi buông nó ra thì sẽ xảy ra hiện tượng như thế này, thế kia ”, cũng vậy, Darwin nắm lấy con lắc sinh học và bảo : “Nếu bây giờ tôi buông nó ra thì thì phải xảy ra điều này, điều nọ.” Nhà vật lý cần sắp xếp các điều kiện ban đầu của mình sao cho ông có thể đo lường những gì xảy ra, thì Darwin cũng thế. Giống như kết quả vật lý được đo lường dưới dạng công, thì cùng thế, Darwin đo kết quả sinh học bằng định luật về sự tồn tại của những loài có khả năng thích nghi tốt nhất. Trước ông, sinh học chỉ sánh ngang hàng với vũ trụ của Ptolemy, vốn chỉ đơn thuần dựa trên sự quan sát. Sự quan sát chỉ cho phép ta đo được khối lượng chứ không đo được lực. Bằng một bươc nhảy, Darwin đã nắm bắt và xử lý sinh học một cách chặt chẽ theo cách của năng lượng học, và nhờ đó giúp các tuyên bố của ông được sánh ngang với công trình của Robert Mayer[23] cùng những người kế tục. Sự thấu hiểu, tức khoa học, chỉ có thể được tiến hành được tại nơi có sự tuôn chảy, có sự biến đổi. Vinh quang trong học thuyết Darwin là nó thích nghi uyển chuyển cho tư duy, cho thế giới sinh vật, phá vỡ những khái niệm cứng nhắc về loài, phá vỡ đức tin về sự sáng tạo duy nhất, để hiểu chúng theo quan điểm vật lý học, một cách hiểu luôn luôn đưa đến cách hiểu bằng cơ giới, đưa đến sự rơi, ngay cả khi nó tự xem mình là cách hiểu bằng quan điểm năng lượng học. Học thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin, theo nghĩa chặt chẽ nhất của từ này, là sự thanh lý hàng tồn kho của những ý tưởng cổ lỗ lỗi thời. Song cần lưu ý rằng : giống như sự vĩ đại của quan điểm cơ giới, sự vĩ đại trong tư tưởng Darwin nằm trong đặc tính phản ứng thuần túy của nó, trong sự kiện nó chỉ cung cấp những giá trị tương quan.
Tôi không hề coi trọng cách thức mà khoa học đón nhận học thuyết Darwin như là một trong những trò đùa vĩ đại nhất mà lịch sử thế giới, hiểu theo nghĩa sinh học chứ không phải lịch sử, đã làm nảy sinh trong đầu óc con người. Đó không phải là trò đùa, mà là sự thông minh dí dỏm! Con người, với tất cả sự nghiêm túc, đã tranh luận về với học thuyết Darwin để xem nó đúng hay sai; điều đó cũng giống như họ tranh luận về tính đúng sai của hệ đếm thập phân. Người ta nhận ra rằng càng thử nghiệm học thuyết chọn lọc tự nhiên thì người ta thấy nó càng sai. Điều đó giống như việc một người dùng cây thước cứ chăm chú đo đạc mọi vật mà không quan tâm đến sự đặc điểm khác biệt; anh ta sẽ thấy rằng hễ càng đo chừng nào thì con số những sự vật không chấp nhận để đo bằng cây thước đó càng tăng lên chừng nấy. Tóm lại, con người xử sự khéo léo đến nỗi thường thường họ hầu như muốn sống lâu, đủ để nghe những trận cười chế nhạo của hậu thế. Và thế là xong, quả là khôn ngoan!
Xét sự khác biệt giữa sinh học và vật lý học là điều vô cùng thú vị và bổ ích. Trong vật lý học, ta tìm thấy một loại savoir-vivre,[24] lịch lãm, một nhận thức sáng sủa minh bạch về giá trị tương đối của mọi kiến thức; câu hỏi của Pontius Pilate [25] được dịch sang thuật ngữ vật lý với tất cả sự tinh tế của những nhà cơ giới luận. Trong sinh học, trong độc thần giáo hiện đại, tai ta luôn nghe điệp khúc : “Chúa là thành lũy kiên cố của chúng ta ” được cất lên bởi người chăn cừu lẫn bầy cừu; trong đó, từ “Chúa” không phải dùng để chỉ một Thượng Đế hay ganh tỵ, người trừng phạt những đúa con vì tội lỗi của người cha, mà là một tạo vật mơ hồ trừu tượng, là “luật tiến hóa” đang tìm cách phục thù những hành động điên rồ của những đứa con đối với những người cha.
Tuy vậy vẫn cần nói thêm rằng : học thuyết tiến hóa trong sự sống, từ hình thức nguyên sơ cho đến những hình thức cao dần về sau, chỉ mang một ý nghĩa biểu trưng thuần túy giống như các định luật, do vì nó không cung cấp được thứ gì khác ngoài khả năng dồn vô số các hiện tượng vào trong một mối tương quan cụ thể.
Dĩ nhiên người ta sẽ chỉ ra sự kiện rằng sinh học có thể gây nên những thay đổi thực sự trên các loài sự vật. Cũng không khác gì nhiều so với ý định của tôi là đặt vấn đề về những dữ kiện liên quan đến việc nuôi cấy. Sự sống thường ngày đã chứng minh và các phòng thí nghiệm đã biểu thị được chúng dưới nhiều hình thức tinh tế đáng ngạc nhiên. Nhưng con người nuôi cấy gì? Người ta nuôi cấy những điều kiện đặc thù, trong đó một vài tiến trình của sự sống hoặc vài tiến trình khác hoạt động được, chứ không bao giờ là chính bản thân các tiến trình, theo cách tương tự mà nhà vật lý “ nuôi cấy” ánh sáng mặt trời như là quang phổ, tia phân cực, hiện tượng giao thoa vân vân. Không bao giờ sự nuôi cấy đó giúp được một hình thức sống chuyển hóa đến bậc cao hơn trong nấc thang tồn tại.
Đã đến lúc nhà tiến hóa luận phải lật con bài chủ. “Tuyệt lắm!”, ông ta bảo. “Cứ cho rằng do kỹ thuật còn non kém, chúng ta không thành công trong việc chuyển hóa được một loài lên một loài cao hơn, tuy nhiên, căn cứ vào vào các dữ kiện được tập trung dưới cái tên là quy luật sinh học nền tảng và những hình thức khởi đầu, Thiên nhiên cho ta thấy rằng nó đang thực sự vận hành theo hướng đó”.
Chắn chắn một điều là đức Phật không hề biết đến quy luật sinh học nào cả, cũng không biết đến cái gọi là những hình thức khởi đầu; song tôi không thể hình dung được điều gì có khả năng chứng minh được tính chân lý trong tư tưởng của Ngài hơn là những dữ kiện này. Bởi vì đối với bất kỳ ai học hỏi ở đức Phật, những dữ kiện này không nói lên được cái mà nhà sinh học hiện đại gán cho nó; chúng chứng thực cho sự hiện hữu của những mối liên kết trong hiện thực giữa những sự vật với những gì mà chúng ta gọi là giai tầng thấp kém nhất. Chúng lập tức đem ngay đến trước mắt ta khả năng của nghiệp, khả năng tìm ra dấu vết bên ngoài vương quốc loài người. Như một khách lữ hành mang theo dấu chân này với anh ta, và kẻ khác thì mang theo dấu bụi đường trong cuộc hành trình, cũng thế, trong những giai đoạn phát triển khác nhau, phôi thai hiển thị những dấu vết của luân hồi. Những hình thức của phôi thai cho thấy — nói theo ngôn ngữ vật lý— sự dao động dữ dội của tiến-trình-Tự-ngã. Chúng cho thấy tất cả chúng ta đều dùng một thức ăn.
Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để tìm cách giải thích rằng những điều đó không gợi lên gì cả ngoài chuyện mua vui cho những ai theo khoa học chính thống. Nhưng tôi ít quan tâm đến những kẻ nô lệ trong khoa học hoặc ngoài khoa học. Tôi chỉ quan tâm đến những người biết suy tư độc lập và thấu hiểu đầy đủ về hiện thực để suy ngẫm cân nhắc những dữ kiện này một cách vô tư không thành kiến.
Điều sau đây cũng đáng để ta suy ngẫm : —
Quy luật nền tảng của sinh học, theo cách giải thích của Haeckel[26], lại mâu thuẫn hoàn toàn về bản chất với thuyết Chọn Lọc Tự Nhiên. Giống như mọi cách thức tìm hiểu sự vật theo quan điểm khoa học thuần túy, có thể nói thuyết Chọn Lọc Tự Nhiên rơi vào phách nhẹ[27]. Thuyết này khởi đầu bằng sự khác biệt về tiềm năng, mà theo đó người ta không cần làm chi hết ngoài việc quan sát những triệu chứng do tiến trình bù trừ đem lại; tuy nhiên lại kiềm chế trong mọi cách giải thích vì đâu nảy sinh ra sự khác biệt. Mặt khác, trong cách giải thích của nhà tiến hóa luận, những dữ kiện, làm nền tảng để quy luật sinh học cơ bản dựng lập điểm thiết yếu theo hướng khởi thủy ban đầu, lại đồng quy vào ý tưởng “tạo dựng sự sống”. Từ đó, chúng tự giới hạn trong đức tin dưới hình thức của khoa học, mà một cách tất yếu phải tạo nên sự xung đột gay gắt với đức tin dưới hình thức của giáo hội, nếu như người ta không thể chấp nhận rằng tế bào nguyên thủy, vốn tồn tại một cách hoàn chỉnh, và câu “Thoạt kỳ thủy, Chúa tạo nên trời và đất” lại có thể được xem như là những nỗ lực để định nghĩa cùng chung một sự kiện. Đó là mối thù giữa chó nhà và chó rừng. Trong bóng tối, có thể chúng đi tìm đồng loại để giao phối, nếu không vì con này bận cắn cổ con kia. Nhưng giống như những lực sĩ thời cổ đại, độc thần giáo hiện đại cũng quên mất rằng một khi thách thức bon Dieu (Thượng Đế Lòng Lành) tham gia vào trận đấu tay đôi là đã, như các chính trị gia vẫn nói, “chấp nhận Ngài trên nguyên tắc”, và rốt cuộc, trận đấu này cũng chỉ là một modus vivendi [28] cho cả hai bên.
Quan điểm ban đầu của Darwin loại bỏ hoàn toàn các điều nan giải kiểu này. Như mọi ngành khoa học khác, nó mang tính luân lý chặt chẽ. Với sự lạnh lùng khó chịu, hoặc lạnh lùng thú vị nếu người ta muốn, các quân cờ sinh học được đặt lên trên bàn cờ vũ trụ, và cuộc chơi bắt đầu. Nước cờ khai cục đã đi xong thì các nước khác cứ thế mà nối tiếp nhau theo tính tất yếu giản đơn. Ví dụ, tại chỗ Darwin nói về bản năng của chim cu, ông lại không quan tâm đến những loài chim tương tự. Hơn thế, ông mở đầu : “Bây giờ chúng ta hãy giả sử rằng tổ tiên xa xưa của loài chim cu ở xứ châu Âu chúng ta mang tập tính của loài chim cu nước Mỹ, và nó tình cờ đẻ trứng vào tổ chim khác …” và vân vân[29], điều đó có nghĩa rằng: cuộc chơi vận hành tự do, và thế là cái này cứ nối tiếp cái kia.
Có thể gọi Darwin là đại kiện tướng chơi cờ trong lĩnh vực sinh học. Không có gì vượt xa trí óc ông hơn là việc đưa trò chơi quay về với vẻ nghiêm túc; từ sự kiện trò chơi sinh học đang phát triển, để tìm cách suy diễn câu trả lời thành câu hỏi là làm thế nào mà một điều như vậy lại xảy ra. Điều đó chỉ có nghĩa là phá hủy toàn bộ trò chơi. Thực ra, chính những người theo ông chứ không phải ai khác đã phá hủy hoàn toàn trò chơi này. Những lời sau đây của Bunge nhắm vào những người đó : “Những người theo học thuyết Darwin phát biểu rằng mọi sự đã rõ ràng, rằng chỉ còn sự bí ẩn của tính di truyền là chưa giải quyết được. Nhưng chính sự bí ẩn của tính di truyền đã tạo nên sự bí ẩn mà những người theo học thuyết Darwin cứ ngỡ rằng họ đã giải quyết được. Vậy thì cái gì được kế thừa? Trong trường hợp con người thì phải kế thừa được khả năng để con người tiến hóa từ một tế bào. Chừng nào con người còn chưa giải quyết được sự bí ẩn này — tức sự bí ẩn của sự phát sinh cá thể (ontogeny) — thì lại càng không có khả năng giải quyết được sự bí ẩn của sự phát sinh loài (phylogeny)[30].
Bản thân Darwin đã chọn một vị trí sao cho lúc nào ông cũng có thể đối mặt được với Thượng Đế. Cái vị trí tẻ nhạt đó là bằng chứng của hình thức khoa học chính xác, trong đó ông — với tư cách là người đầu tiên — nắm bắt các vấn đề sinh học. Thế nhưng trong cách nắm bắt vấn đề như thế, quy luật sinh học cơ bản với nhiều viễn tượng lại không có chỗ đứng.
Thế nhưng không hề có một bộ phận sinh học phôi thai nào lại chấp nhận được đọc bởi công thức Darwin. Ắt hẳn chúng đã phát triển nhờ vào tình trạng không được sử dụng thường xuyên. Tuy nhiên, theo thế giới quan cơ giới luận thì một đối tượng phát triển do tình trạng không được sử dụng thường xuyên là điều nghịch lý. Mọi sự phế bỏ đều bao hàm sự hiện diện của một xung động ngẫu nhiên. Trong cách nắm bắt sự vật bằng cơ giới luận chặt chẽ, toàn bộ vũ trụ trong từng xung động của nó đều được nhận thức như là sự phục phản của một xung động khác, nghĩa là như là một tiến trình bù trừ; và trong tiến trình bù trừ vô tận này, mọi hoạt động thiết sót về mặt thực tiễn cũng như lý thuyết hẳn là phép lạ. Trong vũ trụ luận cơ giới của nhà vật lý, cũng như trong vũ trụ luận của Darwin, xung động đơn lẻ tích cực trong toàn thể guồng máy vẫn rất đa dạng cùng với vô vàn hình thức khác nhau của sự sống. Trong lĩnh vực vật lý, đã nhắc ở trên cũng như ở đây, biến cố sinh học trở thành sự bù trừ cho vô số sự dị biệt đơn lẻ. Từ đó, mọi lý thuyết về sự phế bỏ đều đồng nghĩa với sự tồn tại của một một xung động mới, một xung động phi cơ giới.
Công thức Darwin chỉ nắm bắt được hiện tượng sự sống qua một bộ phận trung gian nào đó. Giống như thang nhiệt độ chỉ nắm bắt được hiện tượng nhiệt qua một bộ phận trung gian nào đó, và không có tác dụng đối với nhiệt độ nằm bên trên hoặc dưới bộ phận trung gian đó, cũng vậy học thuyết chọn lọc tự nhiên một mặt không có giá trị đối với quy luật sinh học cơ bản, mặt khác không có giá trị đối với bộ phận sinh học phôi thai.
Nhận xét thứ ba và là nhận xét quan trọng nhất là như vầy : sự kiện tạo thành các giống lai không nằm bên trên hoặc bên dưới bậc thang phân loại, mà nằm bên ngoài; nói một cách ẩn dụ, khi áp dụng vào học thuyết Darwin thì điều này giống như sử dụng thang nhiệt độ trong các hiện tượng điện từ. Ngay khi học thuyết tiến hóa ra sức đưa sự kiện tạo giống lai vào lĩnh vực của nó, thì nó lại hủy diệt khả năng tồn tại của chính mình. Chọn lọc tự nhiên chỉ có thể áp dụng trong sự tự giao phối (self-copulation). Tự giao phối mà đưa đến tình trạng vô sinh là điều mâu thuẫn với chính nó; do đó Darwin phải nhờ đến những xung động xa lạ. “Tình trạng vô sinh phổ biến, khi cho giao phối các loài với nhau, không nên xem là khả năng đặc biệt hay một đặc tính bẩm sinh, mà đó chỉ là sự biến đổi ngẫu nhiên trong bản chất còn mới mẻ trong yếu tố sinh dục.”[31]. Ông lại nói : “Sự tuyệt diệt của một số chủng loài đến nay vẫn còn là điều bí ẩn lạ lùng nhất …. Chúng ta không cần ngạc nhiên về sự tuyệt chủng đó; nếu cần phải kinh ngạc thì hãy kinh ngạc về sự cao ngạo của chúng ta khi cho rằng đến một lúc nào đó chúng ta có thể hiểu rõ sự ngẫu nhiên phức tạp, mà trong đó các loài nương tựa vào nhau để tồn tại” [32]. Tuy vậy, điều này chỉ có nghĩa là đặt ra câu hỏi : “Ai cho rằng chúng ta có quyền điều tra nghiên cứu sự vật?”. Và như thế có nghĩa là phải trở thành một tín đồ Cơ đốc ngoan đạo.
Dĩ nhiên học thuyết này cũng chẳng hề mảy may bị tai tiếng, chừng nào con người xem nó như là cái đang thực sự tồn tại, một tiêu chuẩn để đo lường những dữ kiện, một công thức mà nhờ đó, ta có thể diễn tả chứng dễ dàng hơn. Lẽ ra học thuyết này phải chịu án tử hình chiếu theo định luật bảo toàn năng lượng, nếu như khi nắm bắt nó theo kiếu cách thức ấu trĩ như vậy, người ta lại giải thích nó như một thế giới quan chân chính, như một quy luật không chỉ bổ sung việc đọc các dữ kiện mà còn giải thích bản thân các dữ kiện nữa.
Khi ngành sinh học hiện đại có xu hướng gạt học thuyết Darwin qua một bên vì những lý thuyết mới mẻ về đột biến, nó đã hành xử giống như một anh nhà quê mù chữ mua đôi kiếng mang vào để mong đọc được chữ, và phàn nàn rằng đôi kiếng không làm tròn nhiệm vụ. Giống như bao học thuyết khác, học thuyết chọn lọc tự nhiên có thể được ví như cặp mặt kiếng đọc sách. Nó làm hiển lộ dữ kiện theo cách làm cho những cặp mặt yếu đuối bớt đi sự nhọc nhằn, nhưng lại không giúp cho người ta hiểu được bản thân các dữ kiện đó. Các học thuyết đó cũng giống như các cặp mắt kiếng, ta phải thường xuyên thay đổi chúng, bình quân năm năm một lần.
Song chúng ta hãy quay về lại với chủ đề của mình.
Ở đây đức Phật cung cấp cho chúng ta một khái niệm duy nhất giữa hai phép lạ. Cái mà khoa học gọi là các bộ phận sinh học phôi thai không phải là kết quả của sự bỏ phế lâu ngày — tôi xin hỏi lại, làm thế nào mà trong sự lĩnh hội thuần cơ giới về sự vật, sự phế bỏ lại có thể xảy ra được — mà chính xác là những dữ kiện của quy luật sinh học cơ bản; chúng là nhân chứng cho cuộc hành trình vô thủy ngược xuôi trong thế giới của muôn loài sinh vật. Tại nơi diễn ra hai phép lạ này — sự khởi đầu tuyệt đối đầy đe đọa đối với quy luật sinh học cơ bản, và sự kết thúc tuyệt đối đầy đe đọa đối với các bộ phận sinh học phôi thai — chỉ có một khái niệm duy nhất. Tại đây, hình thức lai giống không còn nguy hiểm nữa. Mọi sinh vật hoặc là kẻ thừa kế tổ tiên hoặc là người trao truyền cho hậu duệ; chúng là kẻ thừa kế của chính mình.
Với cách nắm bắt sự sống như vậy, thì cái mà chúng ta gọi một cách nôm na và thông tục là sự giao cấu lại có một ý nghĩa riêng. Sự giao hợp chỉ là một nỗ lực muốn hòa nhập vào nhau. Thật ra, cả nam lẫn nữ chỉ là người đại diện của tự nhiên, sử dụng lẫn nhau để giúp cho Nghiệp và chất liệu có thể hòa nhập vào nhau. Do đó, các loài (species) hay loài phụ (sub-species) đều không có ý nghĩa gì. Cái gọi là “loài” không tồn tại trong hiện thực. Đó chỉ là một cách nắm bắt hiện tượng trong sự sống mà thôi.
Có thể người ta sẽ phản bác : “Nhưng trong thực tế thì các sinh vật được cấu tạo theo cách chúng có thể họp với nhau thành từng loài. Hễ nơi nào một sinh thể mới được sinh ra chỉ từ chất liệu của cha mẹ, thì điều này diễn đúng như thế, trong cách hiểu sinh vật một cách khoa học, hợp với tự nhiên. Nhưng trong cách hiểu sinh vật của Phật giáo, không có lý do gì để hai sinh vật giống với nhau, xét về hình thức.”
Có thể trả lời như vầy : “Hai sự vật giống như hoàn toàn về hình thức là điều không thể có. Nhóm, dù là loại nào đi nữa, cũng chỉ là thể cách thích nghi mà thôi; nghĩa là chúng chỉ có thể được tạo ra bằng cách lược bỏ những sự khác biệt nho nhỏ. Gã hề trong vở kịch King Lear [33] cho ta biết lý do chòm sao Thất tinh (Pleiades) chỉ có 7 vì sao : “Bởi vì chúng không có tám”. Không có tám không có nghĩa là ngôi sao thứ tám không tồn tại, mà chỉ vì chúng ta bỏ qua không quan tâm đến nó. Đối với các loài cũng thế. Dĩ nhiên tôi không mảy may nghi ngờ về những đối tượng mà tôi gọi là con người, con chó vân vân …., bởi vì những khái niệm đó trước hết đã ổn định trong tôi. Nhưng giống như tôi nhận thức chân trời thay đổi theo từng bước chân tôi bước, thì các khái niệm về con người, con chó vân vân … cũng thay đổi như thế. Sự vật đều được lĩnh hội trong sự tự thích nghi, tự hòa điệu liên tục, cái này vận hành nối tiếp cái kia một cách lờ đờ chậm chạp, đủ để biện minh và tạo tính khả thi tạm thời cho sự phân loại nhóm trong khoa học tự nhiên, nhằm giúp ta hiểu tốt hơn. Hỏi cớ sao lại có những mô dạng đúng chính xác như nó đang tồn tại, thì cũng chẳng khác gì đi hỏi tại sao sự vật lại hiện hữu? Chỉ đơn giản nó là thế! Các câu hỏi này sẽ có một ý nghĩa nào đấy, nếu như những mô dạng kia mãi mãi bất biến, từ vạn kiếp đến thiên thu. Thế nhưng tất cả những mô dạng này chỉ là sự tạo hình liên tục từ nó sang chính nó, từ vô thủy cho đến bây giờ. Nói rằng có một thế giới, có một thực thể, có nghĩa là nói phải có những sự tương đồng. Nếu không thì sự tự hòa điệu giữa năng lượng và chất liệu hoàn toàn không thể xảy ra. Những sự tương đồng, và do đó, khả năng của sự tổng hợp phân loại (classific syntheses) là những điều kiện tiên khởi mang tính khái niệm và thực hữu về tất cả hiện thực, vâng, nghĩa là của chính hiện thực.
Học thuyết về dòng dõi đưa ra một phản bác khác, một phản bác đầy cẩn trọng mà mọi người suy tư đều làm. Sự phản bác như sau : “Làm thế nào học thuyết về sự tiến hóa tiệm tiến tăng dần không gián đoạn theo một chuỗi dài tiến hóa lại có thể hòa giải được với sự tồn tại đồng thời của những hình thức từ thấp nhất đến cao nhất?”. Ở đây, thuyết dòng dõi thậm chí không thể đưa ra nỗi một giải thích thỏa đáng. Về điểm này, bản thân Darwin cũng nói : “Những lời phản bác như trên đã đánh một đòn chí tử vào quan điểm tôi, nếu nó xem sự tiến hóa trong tổ chức cơ thể như là một điều ngẫu nghiên tất yếu!”[34] Lời tuyên bố trên đã soi sáng toàn bộ thái độ của Darwin đối với thuyết tiến hóa và đồng thời soi sáng cả sự giải thích tùy tiện về Darwin của các môn đồ ông sau này.
Bây giờ chúng ta hay xét một khía cạnh khác. Tư tưởng đức Phật, xét từ quan điểm sinh lý học, dựa trên kiến giải cho rằng mọi chúng sinh đều là sự tồn tại duy nhất đã được xác định. Câu hỏi đặt ra là, liệu có những sự kiện nào trong tự nhiên mâu thuẫn với sự xác định đơn lẻ và duy nhất này hay không?
Tôi tự giới hạn trong trường hợp hấp dẫn nhất, đó là trường hợp con a-míp tự sinh sôi nảy nở bằng hình thức trực phân. Điều này, giải thích theo khoa học, có nghĩa là năng lượng tự phân đôi chính nó, cùng tồn tại với chính nó; bởi vì Weisse nói rằng tại thời điểm phân đôi thì không tế bào nào trong hai tế bào đó, nếu “được phú bẩm một ý thức”, lại có thể nói được rằng tế bào nào là con và tế bào nào là mẹ cả. “Tôi tin chắc rằng mỗi nửa này đều xem nửa kia là như con, và xem bản thân nó như là cá thể ban đầu”, ông đã nói thế trong tác phẩm Dauer des Lebens (Kéo dài sự sống).
Giả sử sự giải thích như thế là điều thúc bách cần thiết, thì sự xác định về những nguồn năng lượng duy nhất vẫn mãi mãi là ẩn ngữ. Song không có sự thúc bách như thế, thậm chí không thể giải thích những hiện tượng theo cách như thế. Người ta hoàn toàn có quyền nói rằng có một năng lượng mới trong những phần bị chia cắt. Sự kiện bộ phận con tiếp tục di chuyển không phải là bằng chứng cho quan niệm chính thống về hiện tượng đang diễn ra. Tinh trùng, sau khi bắn ra khỏi một bộ phận sinh dục già cỗi, vẫn tiếp tục duy trì những di chuyển đặc thù trong một khoảng thời gian dài. Nó di chuyển hướng về trứng ngược với chuyển động của biểu mô, nghĩa là chuyển động ngược dòng.
Tiện thể, ta có thể nhận xét rằng chỉ một sự kiện này thôi, giải thích theo sinh lý học, cũng đủ đặt ra sự khó khăn nan giải cho toàn bộ vấn đề thụ tinh. Bởi vì chuyển động này của tinh trùng buộc ta phải đặt ra câu hỏi : “Chính xác khi nào thì thời điểm thụ tinh thực sự xảy ra? Có phải tại những dấu hiệu đầu tiên của sự thụ thai? Hay là tại thời điểm trứng chui qua lớp vỏ trứng? Hay là tại thời điểm chúng tiếp xúc nhau lần đầu? ”. Người ta còn có thể đặt câu hỏi theo cách của các luật gia : “Chính xác tại thời điểm nào thì hành động đó diễn ra? Có phải là khi tôi tiến hành làm? Hay là tôi đã tiến hành xong? Hay là khi vạch kế hoạch hành động?”. Đấy là những khó khăn nẩy sinh khi người ta hiểu sự sinh sản bằng quan điểm thuần túy duy vật. Và người ta buộc phải nắm bắt nó bằng quan điểm thuần túy duy vật, nếu như người ta muốn nắm bắt nó bằng quan điểm khoa học.
Ta không tìm thấy và không thể nào tìm thấy điều gì mâu thuẫn lại với sự xác định duy nhất về một sinh thể. Về điểm này, bản thân năng lượng cần phải được tiếp cận và nắm bắt bởi giác quan; và đó là điều tự mâu thuẫn với chính nó. Chỉ một một nguồn năng lượng mà ta có thể tiếp cận, đó là ý thức của tôi. Và đó là cái được xác định duy nhất.
Như vậy là đã bàn quá nhiều về thái độ của tư tưởng đức
Phật đối với vấn đề sinh lý học. Để mọi người chấp nhận những quan điểm như
vậy, ta cần phải đi theo xa lộ băng qua khu rừng rậm của những ý tưởng khoa
học. Khoa học phân chia ý thức với sự sống, xem ý thức chỉ là cái tùy thuộc vào
sự sống, rồi tìm kiếm nào và thấy nó trong vật chất. Tiến trình trực phân của
những sinh thể đơn bào gợi cho ta một cái nhìn về “sự sống vĩnh cửu”. Do đó,
con người ngừng lại để biện minh với đầy vẻ tự tin “Sự liên tục của ý thức ràng
đã bị gián đoạn, còn sự liên tục của sự sống thì không bao giờ” [35],
hoặc : ”Không có một tế bào phức hợp nào chết cả mà chỉ có khái niệm chết”[36].
Khi nói thế thì, về mặt ngôn ngữ, họ hoàn toàn đồng ý với đức Phật, song về ý
nghĩa thì họ lại đứng xa cách Ngài đến nỗi mọi hy vọng cảm thông giữa hai bên
đều bị gạt ra ngoài. Sự phân kỳ nội tại hiển thị đó đây trong di chứng (: Tất cả những sự kiện liên
quan với lý thuyết sinh sản và lịch sử tiến hóa, mà khoa học cho là nan giải,
đều được đức Phật giải quyết trong một tư tưởng duy nhất : — đó là tư tưởng về
sự vô thủy của từng cá thể, được trình bày theo dòng của nghiệp, và do đó đã trở thành kinh Phúc Âm cho một thế giới
quan mới.
[1] Khi nhà văn hiện đại, như T.Loeb trong tác phẩm Dynamik der Lebenserscheinungen (Động lực về sự khởi nguyên cuộc sống), tuyên bố con người là những cỗ máy “chủ yếu chứa các chất keo có thuộc tính thực dưỡng và tái sinh sản tự động”, thì câu nói đó cũng mang giá trị đại loại như cách người ta giải thích ngọn đèn nê-ông chứa chủ yếu một thanh carbon có thuộc tính thắp sáng tự động vào mọi buổi chiều và cháy sáng suốt đêm [P.D].
[2] Chương V “Giáo lý đức Phật”, phần bàn về Nghiệp [P.D]
[3] Tiếng La tinh trong nguyên tác, câu đầy đủ là “Sta, viator, heroem calcas!”, (Hỡi du khách hãy dừng chân lại, không khéo lại dẫm lên đám bụi của một khách anh hùng). Franz Freiherr von Mercy là danh tướng người Đức, nổi tiếng khắp châu Âu. Trong trận Nordlingen đánh với quân Pháp năm 1645, do hai tướng Enghien và Turenne chỉ huy, ông bị tử trận. Enghien cho dựng một bia tưởng niệm tại nơi ông ngã xuống và khắc câu “Sta, viator, heroem calcas!” để tưởng nhớ một đối thủ vĩ đại.
[4] Một thành phố cổ ở vùng Tiểu Á, nơi diễn ra trận chiến thành Troy huyền thoại.
[5] E. Mach, Erkenntnis and Irrtum [P.D]
[6] Tác giả muốn nhắc đến nhân vật Don Quixote, nhiệt tình nhưng ngớ ngẫn trong tác phẩm Don Quixote de la Mancha của văn hào Cervantes (1547-1616) Tây Ban Nha.
[7] Ở Đức, Raskeller là tiệm ăn hay riệm rượu dưới tầng hầm của tòa thị chính.
[8] Cf. R. Semon, Die Mneme [P.D].
[9] Họ (những nhà duy vật) dạy rằng trong hệ thần kinh trung ương tất cả chỉ là sự dao động của các nguyên tử, các chuyển động phản xạ, là cơ học. Chỉ trong một phần của bộ não, trong chất xám của phần vỏ não mớ diễn ra những sự kiện àm chúng ta không sao giải thích được. Song đó chỉ là vấn đề thời gian. Sớm muộn gì người ta cũng sẽ chứng minh được rằng đó không có gì khác ngoài cơ học, không là gì khác ngoài các hoạt động phản xạ phức tạp (Bunge, Physiologie, i. p. 164). [P.D]
[10] “Việc xử lý một cái Tôi phức-tạp còn nguyên trạng như một thể thống nhất bất khả phân đã được diễn đạt một cách đặc thù bằng những thuật ngữ khoa học. Trước hết, hệ thần kinh bị tách biệt khỏi thể xác như là vị trí của cảm giác. Trong hệ thống thần kinh, bộ não lại bị tách như là cái phù hợp với vi trí như thế. Và cuối cùng, để lưu giữ được tính thống nhất giả định về mặt tâm lý, người ta cố tìm trong não bộ một được xem như là vị trí của linh hồn. Tuy nhiên những quan điểm thô thiển như thế lại ít thích hợp trong việc chỉ ra được con đường nghiên cứu trong tương lai về mối quan hệ giữa sinh lý và tâm lý, dù là chỉ những nét phác họa thô sơ nhất. Có thể so sánh với những lời giới thiệu trong một chương sách của cuốn “Der Sitz des Bewusstseins” (Vị trí của ý thức) trong triết học Bunge. [P.D]
[11] Cf. Essays VII. [P.D]
[12] Cf. Essay V., the citation from the Majjhima Nikaya, Sutta 38. [P.D]
[13] Nativistic theory : cho rằng khả năng của con người được phú bẩm sẵn chứ không phải tỉếp thu được từ bên ngoài.
[14] Mechnikoff (1845-1916) nhà sinh học lỗi lạc người Nga, nổi tiếng nhờ các công trình tiên phong về hệ thống miễn dịch. Ông nhận giài Nobel Y khoa năm 1908 nhờ công trình về thực bào (phygocytosis).
[15] Tiếng La tinh trong nguyên tác, có nghĩa : “Làm sao mà con người có thể chết khi có cỏ xô thơm mọc trong vườn? ”. Trong thời trung cổ phương Tây, cỏ xô thơm (Salvia officinalis, tiếng Anh là Sage) được xem là loại thảo dược có tác dụng trị bệnh vô cùng thần hiệu.
[16] Theo sách Joshua trong kinh Thánh, khi Joshua đánh với kẻ địch, ông đã cầu nguyện Chúa buộc mặt trời phải ngừng lại : “Ngày mà Ðức Giê-hô-va phó dân A-mô-rít cho dân Y-sơ-ra-ên, thì Giô-suê thưa cùng Ðức Giê-hô-va tại trước mặt Y-sơ-ra-ên, mà rằng: Hỡi mặt trời, hãy dừng lại trên Ga-ba-ôn; Hỡi mặt trăng, hãy ngừng lại trên trũng A-gia-lôn! Mặt trời bèn dừng, mặt trăng liền ngừng, Cho đến chừng dân sự đã báo thù quân nghịch mình. Ðiều đó há không có chép trong sách Gia-sa sao? Mặt trời dừng lại giữa trời, và không vội lặn ước một ngày trọn.” (trích theo bản kinh Thánh tiếng Việt, Joshua 10:12,13)
[17] Ý nói đến sự thai tinh khiết “immaculate conception” của đức Mẹ Maria thụ thai bởi Thánh Linh và sinh ra đức Chúa Jesus, theo Tân Ước.
[18] Theo tự điển Webster thì đây là cây thuộc họ sim ở Brazil có hạt lớn.
[19] Điều này không còn đúng với phương pháp thụ tinh nhân tạo hiện nay.
[20] Đây là câu nói của Goethe song chúng tôi chưa tra được xuất xứ.
[21] Là loài người thông minh hiện nay, xét theo quan điểm tiến hóa.
[22] Tỉềng Pháp trong nguyên tác có nghĩa là “Thượng Đề lòng lành”.
[23] Julius Robert von Mayer (1814-1878) là nhà vật lý người Đức, nổi tiếng vì những đóng góp trong lĩnh vực nhiệt động học.
[24] Tiếng Pháp có nghĩa la “phép lịch sự, phép xã giao” .
[25] Pontinus Pilate là nhà kinh doanh người La Mã. Theo Kinh Thánh, ông làm biện lý xứ Judaea và kết án tử hình Chúa Jesus. Khi nghe chúa Jesus nói rằng Ngài là người đến thế gian này để làm chứng cho chân lý, Pilate bèn hỏi vặn : “Chân lý là gì?”. (Xem John 18:37-38)
[26] Ernst Heinrich Haeckel (1834 -1919) là nhà sinh học và triết học người Đức, ủng hộ học thuyết Darwin, Ông vạch ra cây phổ hệ của các loài động vật.
[27] Trong âm nhạc, phách nhẹ (unaccented beat) là phách không được nhấn mạnh trong mỗi nhịp (measure).
[28] modus vivendi : thỏa ước tạm thời.
[29] Origin of Species, p. 212. John Murray, London, 1S84. [P.D]
[30] Physiologie, i. p. 402. [P.D]
[31] Origin of Species, p. 259. John Murray, London, 1884. [P.D]
[32] Ibid. p. 297. [P.D]
[33] Tên một bi kịch nổi tiếng của Shakespeare.
[34] Origin of Species, p. 308. [P.D]
[35] Bunge’s Physiologie. [P.D]
[36] Weissman’s Leben und Tod (Sống và chết) [P.D]
Thảo luận