SỰ CẦN THIẾT CỦA TÔN GIÁO
THỰC TÍNH CỦA CON NGƯỜI
MĀYĀ
MĀYĀ VÀ SỰ TIẾN HÓA TRONG QUAN NIỆM VỀ THƯỢNG ĐẾ
MĀYĀ VÀ TỰ DO
CÁI TUYỆT ĐỐI VÀ SỰ BIỂU HIỆN
THƯỢNG ĐẾ TRONG VẠN HỮU
THỰC CHỨNG
TÍNH THỐNG NHẤT TRONG ĐA THÙ
SỰ TỰ DO CỦA LINH HỒN
VŨ TRỤ
THẾ GIỚI VĨ MÔ
THẾ GIỚI VI MÔ
SỰ BẤT TỬ
CHÂN NGÃ (ĀTMAN)
ĀTMAN : RÀNG BUỘC VÀ GIẢI THOÁT
CON NGƯỜI THỰC VÀ CON NGƯỜI BIỂU KIẾN
VEDĀNTA THỰC TIỄN I
VEDĀNTA THỰC TIỄN II
VEDĀNTA THỰC TIỄN III
VEDĀNTA THỰC TIỄN IV
CON ĐƯỜNG THỰC CHỨNG TÔN GIÁO PHỔ QUÁT
LÝ TƯỞNG CỦA TÔN GIÁO PHỔ QUÁT
(Diễn văn đọc tại London)
Một trong những thế lực đã tác động – và vẫn sẽ còn tác động – đến sự định hình nên các chủng tộc loài người, có lẽ không có gì mãnh liệt hơn sự biểu hiện của cái mà chúng ta gọi là tôn giáo. Rải rác khắp nơi, mọi tổ chức xã hội đều dùng thế lực đặc thù đó làm nền tảng, và cái xung lực gắn kết vĩ đại nhất –vốn đã đóng góp vai trò trong những cộng đồng nhân loại – được rút ra từ năng lực này. Hiển nhiên đối với chúng ta, trong rất nhiều trường hợp, sự ràng buộc của tôn giáo vẫn tỏ ra mạnh mẽ hơn sự ràng buộc của chủng tộc, của khí hậu, thậm chí của cả dòng tộc. Một điều rất dễ thấy là những người cùng thờ chung một Thượng Đế, cùng sùng bái chung một tín ngưỡng sẽ sát cánh bên nhau với một sức mạnh to lớn hơn và bền vững hơn những người sát cánh bên nhau vì dòng tộc, hay cả vì tình huynh đệ.
Người ta đã nhiều phen cố gắng truy nguyên về sự khởi đầu của tôn giáo. Trong các tôn giáo cổ xưa còn truyền lại cho đến ngày nay, chúng ta tìm thấy một tiếng nói chung, đó là : chúng mang tính siêu nhiên, chúng không phải được nảy sinh từ bộ não của con người, mà bắt nguồn từ một chốn nào đó ở bên ngoài.
Có hai lý thuyết được các học giả hiện đại chấp nhận. Một là thuyết tâm linh của tôn giáo, hai là sự tiến hóa của ý tưởng về Cái Vô Biên. Thuyết tâm linh cho rằng sự thờ cúng tổ tiên là khởi nguyên của tôn giáo, còn thuyết kia lại cho rằng tôn giáo bắt nguồn từ việc nhân cách hóa các thế lực trong tự nhiên.
Con người muốn giữ lại trong hoài niệm những hình ảnh của người thân đã khuất, và nghĩ rằng họ vẫn còn sống ở đâu đó ngay cả khi thể xác họ đã tan rã; con người muốn dâng thực phẩm lên cho tổ tiên và, theo một nghĩa nào đó, đã thờ cúng họ. Từ khát vọng này đã sinh ra cái mà ta gọi là tôn giáo. Nghiên cứu các tôn giáo cổ xưa tại các xứ Ai Cập, Babylon, Trung Quốc cũng như của vài dân tộc ở Mỹ châu hoặc rải rác ở vài nơi khác, chúng ta thấy rất rõ rằng việc thờ cúng tổ tiên là những dấu tích khởi nguyên của tôn giáo. Đối với người Ai Cập cổ đại, ý tưởng đầu tiên về linh hồn là ý tưởng về bản sao [double]. Mọi thể xác của con người đều chứa trong nó một con người khác đồng nhất với chính nó. Khi con người chết thì bản sao kia lìa bỏ thể xác và tiếp tục sống. Nhưng bản sao kia chỉ có thể tồn tại chừng nào người chết còn nguyên vẹn hình hài; bởi vậy chúng ta thấy vì sao người Ai Cập lại rất quan tâm đến việc giữ sao cho xác chết không bị hư hoại. Đó cũng là lý do họ xây dựng nên những kim tự tháp khổng lồ để bảo quản xác chết. Bởi vì hễ bất cứ phần nào của xác chết bị tổn thương thì bản sao kia cũng bị tổn thương y hệt như thế. Đây là sự thờ cúng tổ tiên rất rõ nét. Với người Babylon cổ đại, chúng ta cũng tìm thấy ý tưởng về bản sao nhưng có khác biệt chút đỉnh. Bản sao kia mất mọi cảm giác thương yêu, nó đe dọa những người sống, bắt họ phải cung cấp thức ăn nước uống và còn phải giúp đỡ mọi thứ cho nó nữa. Nó đánh mất hoàn toàn tình cảm với vợ con. Trong số những người Ấn cổ đại, chúng ta cũng tìm thấy dấu tích của sự thờ cúng tổ tiên. Đối với người Trung Quốc thì nền tảng của tôn giáo chính là sự thờ cúng tổ tiên, và điều này đã lan tỏa ra khắp đất nước mênh mông ấy. Trên thực tế, tôn giáo duy nhất phát triển mạnh mẽ tại Trung Quốc chính là đạo thờ cúng tổ tiên. Do đó, một mặt thì đây là trường hợp làm nền tảng vững chắc cho những ai chủ trương rằng đạo thờ cúng tổ tiên là khởi nguyên của tôn giáo.
Mặt khác, có những học giả nghiên cứu nền văn học Āryan cổ đại cho rằng tôn giáo bắt nguồn từ sự sùng bái giới tự nhiên. Mặc dù ở Ấn Độ, chúng ta tìm thấy những chứng cứ về đạo thờ cúng tổ tiên, nhưng theo những tư liệu cổ nhất thì lại không hề có một dấu tích gì về điều này. Trong Rig Veda Samhitā, là tư liệu cổ nhất của chủng tộc Āryan, chúng ta cũng không hề thấy có ghi chép nào về đạo thờ cúng này. Các học giả hiện đại cho rằng đó là sự sùng bái giới tự nhiên. Tâm trí loài người dường như muốn nỗ lực nhìn xuyên qua cái thế giới hiện tượng. Bình minh, chiều tà, bão tố cùng sức mạnh kỳ diệu trong tự nhiên và vẻ đẹp của chúng– tất cả những thứ này đã tác động lên tâm trí con người, khiến con người khao khát đi xa hơn để tìm hiểu thêm về chúng. Trong nỗ lực đó, họ đã gán cho các hiện tượng tự nhiên những thuộc tính của con người, ban cho chúng một thể xác và linh hồn, lúc thì đẹp đẽ, lúc thì mang tính siêu nhiên. Mọi cố gắng này chấm dứt khi họ đã rút ra được những thuộc tính của thế giới tự nhiên, dù chúng có mang thuộc tính của con người hay không. Chúng ta cũng tìm thấy điều này với người Hy Lạp cổ đại : toàn bộ thần thoại của họ chỉ là sự sùng bái những đặc tính được rút ra từ thế giới tự nhiên. Điều này cũng đúng với chúng tộc người Đức, người Scandinavian, và mọi chủng tộc Āryan khác trong thời cổ đại. Do đó, về phương diện này, đây là trường hợp thuyết phục mạnh mẽ nhất cho quan điểm cho rằng tôn giáo phát sinh từ sự nhân cách hóa những thế lực trong tự nhiên.
Hai quan điểm này, mặc dù bề ngoài có vẻ như mâu thuẫn nhau, lại có thể được hóa giải trên nền tảng thứ ba, mà tôi cho là hạt giống thực sự của tôn giáo và tôi xin đề nghị gọi đó là nỗ lực muốn siêu việt những giới hạn của giác quan. Cho dù một người muốn đi tìm linh hồn của tổ tiên đã khuất – nghĩa là anh ta muốn nhìn xem có gì ở đằng sau cái thể xác tan rã– hay anh ta muốn tìm hiểu cái sức mạnh tác động đằng sau những hiện tượng kỳ diệu trong tự nhiên, cho dù anh ta có muốn gì đi chăng nữa thì vẫn có một điều chắc chắn : đó là anh ta đang cố gắng vượt qua những giới hạn của giác quan. Anh ta không thỏa mãn với các giác quan, mà muốn vượt qua chúng.
Giải thích điều này không có gì là bí ẩn. Tôi thấy thật hoàn toàn tự nhiên khi cái nhìn đầu tiên về tôn giáo lại bắt nguồn từ những giấc mơ. Con người có thể tìm được những ý tưởng về sự trường sinh bất tử qua các giấc mơ. Giấc mơ há chẳng phải là trạng thái tuyệt diệu hay sao? Chúng ta biết rằng trẻ con và những người ngu dốt rất ít thấy sự khác biệt giữa hai trạng thái nằm mơ và tỉnh thức. Ngay cả trong giấc ngủ, khi thể xác được xem như là đã chết thì tâm thức vẫn tiếp tục mọi công việc phức tạp của nó. Sự kinh ngạc nào sẽ đến, khi một người đi đến kết luận rằng lúc thể xác này tan rã thì các công việc kia vẫn còn tiếp diễn? Theo tôi điều này hẳn là sự giải thích tự nhiên về một sự kiện siêu nhiên. Và thông qua ý tưởng về giấc mơ này mà tâm thức con người vươn lên những khái niệm cao hơn.
Dĩ nhiên, sớm muộn gì thì phần lớn nhân loại sẽ thấy rằng những giấc mơ của họ không được xác minh bởi các trạng thái thức tỉnh; và suốt trong trạng thái nằm mơ thì một người không tồn tại bằng xương bằng thịt, mà chỉ tóm lược lại những kinh nghiệm của trạng thái thức tỉnh. Nhưng vào lúc ấy thì sự tìm kiếm đã bắt đầu, sự tìm kiếm đó hướng vào nội tâm và họ tiếp tục tiến sâu thêm vào các giai đoạn khác nhau của tâm thức, và khám phá ra một trạng thái cao hơn cả trạng thái thức tỉnh hay nằm mơ. Trạng thái đó – trạng thái mà chúng ta tìm thấy trong tất cả các tôn giáo có tổ chức trên thế giới – được gọi là trạng thái thần khải hay xuất thần nhập định. Trong tất cả tôn giáo có tổ chức, các giáo chủ, các nhà tiên tri cùng các nhà truyền giáo đều tuyên bố đã trải qua một trạng thái tinh thần không phải thức tỉnh cũng chẳng phải nằm mơ, mà trong đó họ đối mặt với một loạt các sự kiện liên quan đến cái gọi là vương quốc tâm linh. Họ trực ngộ sự vật mạnh mẽ hơn rất nhiều so với cách chúng ta nhận thức sự vật chung quanh trong trạng thái thức tỉnh. Hãy lấy Ấn giáo làm ví dụ. Các kinh Veda được coi là do các rishi viết. Các rishi này là những vị thánh triết đã trực ngộ được một vài sự kiện nào đó. Nghĩa chính xác của từ rishi trong tiếng Phạn là người thấu thị các mantra, thấu thị các tư tưởng trong các bản tụng ca của kinh Veda. Các vị này tuyên bố đã trực ngộ, đã cảm nhận được – nếu từ này được dùng theo nghĩa siêu cảm – một vài sự kiện nào đó, và họ đã ghi chép lại các sự kiện này. Chúng ta thấy cả tín đồ Do Thái giáo lẫn Thiên Chúa giáo cũng tuyên bố chân lý tương tự.
Riêng đối với các tín đồ Phật giáo Nam tông thì có khác. Người ta có thể đặt câu hỏi : Nếu các tín đồ Phật giáo không tin vào bất kỳ một Thượng Đế nào hay linh hồn nào thì làm sao tôn giáo của họ có thể khởi phát từ trạng thái siêu cảm về sự hiện hữu? Câu trả lời là như vầy : ngay cả tín đồ Phật giáo cũng tìm thấy một Quy Luật Đạo Lý hay Pháp Tắc thường hằng, và Pháp Tắc này không phải được suy luận từ nhận thức của chúng ta về thế giới. Mà chính đức Phật đã tìm ra nó, đã khám phá ra nó trong trạng thái siêu cảm. Bất kỳ ai trong các bạn có nghiên cứu đời sống đức Phật, dù chỉ được trình bày ngắn gọn trong bài thơ tuyệt vời “Ánh sáng Á châu”[1], đều có thể nhớ lại rằng bài thơ đó tả đức Phật ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề, cho đến khi Ngài đạt đến trạng thái tâm thức siêu cảm. Tất cả lời dạy của Ngài đều xuất phát từ trạng thái này chứ không phải bằng sự suy luận của lý trí.
Do vậy, mọi tôn giáo đều có chung một phát biểu vĩ đại : tại một số thời điểm nào đó, tâm thức con người sẽ vượt qua không chỉ những giới hạn của các giác quan, mà cả những giới hạn của năng lực suy luận nữa. Tâm thức rồi sẽ phải đối mặt với những sự kiện mà nó không thể nào nhận thức hay suy luận được. Những sự kiện đó là nền tảng cho mọi tôn giáo trên thế giới. Dĩ nhiên, chúng ta có quyền thách thức những sự kiện này, dùng lý trí để thử thách chúng; thế nhưng mọi tôn giáo đang tồn tại trên thế giới đều đòi hỏi tâm thức con người về năng lực đặc thù này, năng lực siêu việt được những giới hạn của giác quan và lý trí, và mọi tôn giáo đều đưa năng lực đó ra như là lời phát biểu về sự kiện này.
Tách biệt khỏi sự quan tâm về câu hỏi : liệu những sự kiện mà các tôn giáo đang đòi hỏi đó chính xác đến mức nào? Chúng ta lại tìm thấy một đặc điểm chung cho tất cả các tôn giáo : chúng đều là những ý tưởng trừu tượng, đối lập với những khám phá cụ thể của bộ môn vật lý học chẳng hạn. Và trong tất cả các tôn giáo được tổ chức cao cấp, những ý tưởng trừu tượng này đều mang những hình thức thuần khiết nhất của Nhất Thể trừu tượng, hoặc như là một Hiện Diện trừu tượng, hoặc như là một Thực Thể toàn nhiên phổ hiện [Omnipresent Being], hoặc như là một Nhân Cách trừu tượng được gọi là Thượng Đế hay Quy Luật Đạo Lý, hoặc như là một Bản Thể Tinh Yếu trừu tượng [Abstract Essence] nằm bên dưới vạn hữu. Trong thời đại hiện nay cũng vậy, những nỗ lực muốn thuyết giảng tôn giáo mà không viện đến trạng thái siêu cảm của tâm thức đều phải khoác lại các ý tưởng trừu tượng cũ của những tôn giáo cổ xưa, và gán cho chúng những tên gọi khác, như là Quy Luật Đạo Lý, là Nhất Thể Lý Tưởng v.v…, và như thế là để chứng tỏ rằng các điều trừu tượng này không nằm trong phạm vi của các giác quan. Không một ai trong chúng ta đã từng thấy một con người lý tưởng, tuy vậy chúng ta lại được bảo là phải tin vào người đó. Không một ai trong chúng ta đã từng thấy một con người hoàn hảo một cách lý tưởng, tuy vậy nếu không có cái lý tưởng đó thì chúng ta lại không thể tiến bộ.
Như thế đó, từ tất cả những tôn giáo khác nhau, có một sự kiện nổi bật lên: đó là có một Nhất Thể Lý Tưởng Trừu Tượng [Ideal Unit Abstraction] được đặt ra trước chúng ta dưới hình thức một Con Người hoặc một Thực Thể Phi Nhân Cách [Impersonal Being], hoặc dưới hình thức của một Quy Luật, hay một Bản Thể Tinh Yếu. Chúng ta luôn phấn đấu để tự thân vươn tới lý tưởng đó. Mọi con người, dù họ là ai hay ở đâu, cũng đều có một lý tưởng về năng lực vô biên. Hầu hết những công trình mà ta thấy quanh ta, những hoạt động hiển thị khắp nơi đều tùy thuộc vào sự phấn đấu để vươn đến lực lượng vô biên này hay niềm vui vô biên này.
Nhưng một số ít người lại nhanh chóng khám phá ra rằng, mặc dù họ đang phấn đấu để vươn đến năng lực vô biên, song không thể đạt đến nó thông qua các giác quan. Họ nhận ra rất nhanh rằng niềm vui vô biên vô tận này không thể đạt được thông qua các giác quan, hay nói một cách khác, các giác quan quá hạn chế và thể xác cũng quá hạn chế để diễn đạt được Cái Vô Biên. Hiển thị Cái Vô Biên thông qua Cái Hữu Hạn là chuyện không thể, và chẳng chóng thì chầy thì con người sẽ học cách từ bỏ nỗ lực muốn biểu đạt Cái Đó thông qua Cái Hữu Hạn.
Sự từ bỏ này – sự từ bỏ nỗ lực muốn biểu đạt – chính là nền tảng của đạo đức học, là cơ sở lập cước của đạo đức học. Không bao giờ có một bộ luật đạo đức nào lại không lấy sự từ bỏ đó làm nền tảng. Đạo đức học luôn lên tiếng : “Không phải Tôi, mà là Bạn”. Phương châm của nó là “Không phải Tự Ngã, mà là Phi Ngã”. Những ý tưởng hão huyền về chủ nghĩa cá nhân, mà con người đang bám vào khi anh ta cố gắng đi tìm cái Năng Lực Vô Biên đó hay Niềm Vui Vô Biên đó bằng giác quan, phải bị từ bỏ– các quy luật của đạo đức học nói như thế. Rốt cuộc, bạn phải tự đặt mình và đặt những người khác trước bạn. Các giác quan lên tiếng : “Bản thân tôi phải ưu tiên trước đã”. Đạo đức học lại lên tiếng : “Tôi phải giữ tôi lại ở cuối”. Cứ như thế, tất cả các bộ luật đạo đức đều dựa trên sự từ bỏ này; đó là phá hủy chứ không phải xây dựng cá nhân trên bình diện vật chất. Cái Vô Biên sẽ không bao giờ có thể được diễn đạt trên bình diện vật chất, nó bất khả ngôn thuyết, bất khả tư nghì.
Bởi vậy, con người phải từ bỏ bình diện vật chất và vươn lên những lĩnh vực khác để tìm cách diễn đạt Cái Vô Biên một cách sâu sắc hơn. Nhiều bộ luật đạo đức khác nhau đã được hình thành theo cách này, song tất cả đều có một ý tưởng trung tâm, đó là sự xóa bỏ vĩnh viễn cái Tôi. Sự vô ngã tuyệt đối là lý tưởng của đạo đức học. Người ta sẽ sửng sốt khi được yêu cầu đừng nghĩ đến bản sắc cá nhân [individuality] của mình. Dường như họ rất kinh hãi khi đánh mất đi cái mà họ gọi là cá tính đó. Đồng thời, cũng chính những người đó muốn tuyên bố rằng những lý tưởng cao cả nhất của đạo đức học là chân chính, song lại không một lần nghĩ rằng nội dung, mục đích và ý tưởng của tất cả bộ môn đạo đức học là sự phá hủy, chứ không phải xây dựng cá nhân.
Các tiêu chuẩn của thuyết vị lợi[2] không thể giải thích được mối tương quan đạo đức giữa con người, chẳng hạn, trước hết chúng ta không thể rút được những quy luật đạo đức từ lòng vị lợi. Nếu không có sự chuẩn nhận siêu nhiên, như ta thường gọi, hay không có sự cảm nhận siêu thức, như tôi thường nói, thì không thể có đạo lý luân thường. Không có cuộc đấu tranh hướng đến Cái Vô Biên thì không sẽ không có lý tưởng nào. Bất kỳ hệ thống nào muốn trói buộc con người vào những giới hạn xã hội riêng biệt của nó đều không thể tìm được lời giải thích cho những quy luật đạo lý của nhân loại. Kẻ theo thuyết vị lợi muốn chúng ta từ bỏ cuộc đấu tranh hướng đến Cái Vô Biên, từ bỏ mọi nỗ lực vươn đến cõi siêu giác, vì cho đó là những thứ phi lý không thực tế, song đồng thời lại yêu cầu chúng ta sống theo các chuẩn mực đạo đức và làm điều tốt cho xã hội. Tại sao chúng ta phải làm điều tốt? Làm điều tốt chỉ là mối quan tâm thứ yếu. Bản thân đạo đức học không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để đạt đến mục đích. Vì sao chúng ta lại phải làm điều tốt cho người khác mà lại không làm tổn thương họ? Nếu hạnh phúc là mục tiêu của nhân loại thì hà cớ gì tôi lại không hưởng hạnh phúc và để kẻ khác chịu khốn khổ? Điều gì ngăn cản tôi?
Lý do thứ hai là nền tảng của thuyết vị lợi lại quá hẹp hòi. Mọi hình thái xã hội hiện hành và mọi phương pháp đang áp dụng trong xã hội đều được rút ra từ xã hội đang tồn tại, nhưng những người theo thuyết vị lợi lấy quyền gì để cho rằng xã hội này là vĩnh cửu? Cách đây nhiều kỷ nguyên, xã hội đã không hề tồn tại, và có thể nó cũng sẽ không tồn tại kể từ đó đến nay. Có lẽ đó chỉ là một trong những giai đoạn chuyển tiếp tạm thời để đưa chúng ta đến sự tiến hóa cao hơn, và bất kỳ quy luật nào rút ra từ xã hội cũng đều không thể mang tính vĩnh cữu, không thể bao trùm hết được mọi lãnh vực của bản chất con người. Các học thuyết vị lợi, do đó, chỉ có đạt hiệu quả cao nhất trong những điều kiện của xã hội hiện tại. Ngoài ra thì nó chẳng có một chút giá trị gì.
Nhưng một nền tảng đạo đức, một tiêu chuẩn đạo lý rút ra từ tôn giáo và cảnh giới tâm linh lại dung chứa cả con người vô biên vô hạn. Nó đề cập đến từng cá nhân, nhưng lại liên quan đến Cõi Vô Biên; và nó cũng đề cập đến cả xã hội – bởi vì xã hội chỉ là nhiều cá nhân sống chung với nhau; và khi tiêu chuẩn đạo lý đó được vận dụng vào các cá nhân cùng những mối quan hệ vĩnh cửu giữa cá nhân, thì tất yếu nó cũng được vận dụng cho toàn thể xã hội, trong mọi điều kiện nào có thể tại bất kỳ thời điểm nào. Do đó, chúng ta thấy rằng một tôn giáo mang yếu tố tâm linh luôn là điều thiết yếu cho nhân loại. Con người không thể lúc nào cũng nghĩ đến vấn đề này, dù điều đó có dễ chịu đến đâu.
Cũng có người từng bảo rằng bận tâm quá nhiều đến vấn đề tâm linh chỉ tổ làm rối rắm thêm những mối quan hệ thực tiễn của chúng ta trong cõi thế. Ngay từ thời xa xưa ở Trung Quốc, Khổng Tử cũng đã dặn : “Cứ lo cho kiếp nay đã, đợi khi chết đi rồi hãy lo cho kiếp sau”[3]. Chăm lo kiếp này dĩ nhiên là điều vô cùng tốt đẹp. Song nếu như sự bận tâm quá nhiều đến vấn đề tâm linh có thể gây ảnh hưởng ít nhiều đến những mối quan hệ thực tiễn của chúng ta, thì bận tâm quá nhiều đến cái gọi là đời sống thực tế cũng gây tổn hại cho chúng ta kiếp này và kiếp sau. Nó biến ta thành những người duy vật. Bởi vì con người không xem bản tính tự nhiên của mình là mục tiêu, mà là một cái đó cao hơn.
Con người là con người chừng nào anh ta còn đấu tranh để vượt lên trên bản tính tự nhiên[4], và bản tính tự nhiên này thuộc thế giới nội tâm lẫn thế giới bên ngoài. Nó không chỉ bao hàm những quy luật chi phối những phân tử vật chất bên ngoài và bên trong cơ thể chúng ta, mà còn bao hàm cả bản chất tế vi hơn ở bên trong, chính bản chất này mới là sức mạnh chi phối thế giới ngoại tại. Chinh phục được thế giới tự nhiên là điều tốt đẹp và vĩ đại, nhưng sẽ vĩ đại hơn nếu chinh phục được bản tính tự nhiên bên trong ta. Hiểu được những quy luật điều khiển muôn vì tinh tú cùng các hành tinh là điều tốt đẹp và vĩ đại, nhưng sẽ vĩ đại và tốt đẹp vô vàn nếu hiểu được những quy luật điều khiển các đam mê, cảm xúc và ý chí của con người. Chinh phục được con người nội tâm, thấu hiểu được điều huyền mật của những hoạt động tế vi bên trong tâm thức con người, biết được những điều huyền mật của chúng, tất cả điều đó đều thuộc về tôn giáo.
Tâm thức con người – tôi muốn nói tâm thức của một người bình thường – cần phải thấy được những sự kiện vật chất lớn lao. Người bình thường không thể hiểu được những điều tế vi. Người ta thường bảo rằng đám đông xuýt xoa ngưỡng mộ trước cảnh một con sư tử tàn sát hàng ngàn con cừu, nhưng chẳng có lúc nào họ nghĩ đến cái chết của các con cừu. Mặc dù đối với con sư tử, đó chỉ là một chiến thắng phù du, nhưng đám đông lại chỉ thấy khoan khoái trong sự biểu hiện sức mạnh thể xác. Con người bình thường thì ai cũng đều vậy cả. Họ hiểu và thấy vui thích với những sự vật bên ngoài. Nhưng trong mọi xã hội đều có một bộ phận không tìm cầu lạc thú trong phạm vi của giác quan, mà vượt lên trên chúng, thỉnh thoảng họ thoáng nhìn vào một cái gì đó cao hơn vật chất và phấn đấu vươn đến đó. Nếu đọc kỹ lịch sử của các quốc gia, ta sẽ luôn thấy rằng sự trổi dậy của một quốc gia đi cùng với sự gia tăng số lượng của những người như thế, và một quốc gia bắt đầu suy tàn khi mà con người không còn theo đuổi Cái Vô Biên, vì những kẻ theo thuyết vị lợi cho đó là hão huyền vô ích. Phải nói rằng động lực chính đem lại sức mạnh cho mọi chủng tộc nằm trong đời sống tâm linh, và cái chết của mọi chủng tộc bắt đầu từ ngày mà đời sống tâm linh suy tàn và thuyết duy vật thắng thế.
Do đó, tách lìa khỏi những sự kiện vững chắc và những chân lý mà ta có thể học hỏi được từ tôn giáo, tách lìa khỏi những điều an ủi mà nó đem lại thì tôn giáo – hiểu theo nghĩa là một nền khoa học và là sự nghiên cứu – là bài tập lớn nhất và lành mạnh nhất mà tâm trí con người có thể đạt đến. Theo đuổi Cái Vô Biên, phấn đấu nắm bắt được Cái Vô Biên, nỗ lực vượt lên trên những giới hạn của giác quan, và do đó đưa tinh thần con người tiến hóa cao hơn, ngày đêm cố gắng hợp nhất tự ngã với Cái Vô Biên, tự bản thân sự phấn đấu đó đã là điều vĩ đại nhất và vinh quang nhất mà con người có thể làm được. Một số người tìm thấy lạc thú trong ăn uống. Ta không có quyền gì để cho rằng họ làm thế là không nên. Một số người lại tìm thấy lạc thú trong việc chiếm hữu đồ vật. Ta cũng chẳng có quyền gì để cho rằng họ làm thế là chẳng phải. Thế thì họ cũng không có quyền gì để nói “không” với người tìm thấy lạc thú tối cao trong cõi tư tưởng của tinh thần. Hễ tinh thần càng thấp kém thì lạc thú do giác quan đem lại càng lớn lao. Rất ít người nào có thể phàm ăn như một con chó hay con sói. Nhưng mọi lạc thú đó của con chó hay con sói sẽ qua đi, vì chúng chỉ nằm trong phạm vi giác quan. Tại mọi quốc gia, những hạng người thấp kém đều chỉ đi tìm lạc thú trong phạm vi giác quan, còn những người trí thức có văn hóa cao thì tìm thấy lạc thú trong tư tưởng, trong triết học, trong nghệ thuật và khoa học.
Tâm linh còn là bình diện cao hơn nữa. Do chủ thể là vô tận, bình diện tâm linh đó là tối thượng, nên lạc thú đó là tối cao đối với những người có thể cảm nhận được nó. Do vậy, ngay cả khi một người tìm lạc thú vì động cơ vị lợi, anh ta cũng đang vun trồng ý tưởng tôn giáo, vì đó là lạc thú tối cao từng tồn tại.
Vậy đó, tôn giáo – hiểu theo nghĩa là sự nghiên cứu – đối với tôi là điều tuyệt đối cần thiết. Ta có thể tìm thấy nó trong những hiệu quả mà nó đem lại. Nó là lực lượng vĩ đại nhất làm dịch chuyển tư tưởng con người. Không một lý tưởng nào có thể đặt vào tâm hồn chúng ta nhiều năng lượng như tâm linh. Chừng nào lịch sử nhân loại còn diễn tiến, tất cả chúng ta đều thấy rõ rằng sức mạnh của tôn giáo không bao giờ chết. Tôi không phủ nhận rằng một người, dù chỉ thuần túy vì động cơ vị lợi, vẫn có thể sống rất tốt đẹp và đạo đức. Trong thế giới này có không ít người hoàn toàn đức độ và tốt đẹp, dù họ chỉ thuần túy sống vì động cơ vị lợi. Nhưng những người làm lay chuyển thế giới – những người mang một khối từ trường khổng lồ vào cõi thế, những người mà tinh thần tác động lên hàng trăm, hàng ngàn người khác, những người mà cuộc đời làm cho ngọn lửa tâm linh bùng cháy lên trong tâm hồn người khác– thì ta luôn thấy rằng những người như thế đều có một nền tảng tâm linh. Sức mạnh lay chuyển hồn người của họ đến từ tôn giáo. Tôn giáo là sức mạnh lay chuyển vĩ đại nhất giúp ta chứng ngộ được nguồn năng lượng vô biên vốn là thiên tính bản hữu của con người. Trong việc xây dựng nên tính cách, xây dựng nên mọi điều tốt đẹp và vĩ đại, trong việc đem sự yên bình đến cho người khác cho bản thân mình, tôn giáo là sức mạnh lay chuyển vĩ đại nhất, do đó, ta cần phải nghiên cứu nó từ quan điểm này.
Tôn giáo cần phải được nghiên cứu trên một nền tảng rộng lớn hơn trước kia. Mọi ý tưởng hạn hẹp và mang tính xung đột về tôn giáo đều phải ra đi. Mọi thiên kiến về tông phái cùng những ý tưởng cục bộ về quốc gia, bộ lạc đều phải bị từ bỏ. Mỗi bộ lạc hay quốc gia đều có một Thượng Đế riêng và cho rằng Thượng Đế của mọi tôn giáo khác đều sai lầm – đó là thói mê tín thuộc về quá khứ. Mọi ý tưởng như thế đều cần phải bị từ bỏ. Khi tâm trí con người mở rộng thì các cấp bậc tâm linh cũng mở rộng theo. Đã đến một thời đại, trong đó con người không thể ghi chép lại một tư tưởng mà lại không đưa tư tưởng đó đến tận mọi ngóc ngách nơi chân trời cuối đất; chỉ bằng những phương tiện vật lý, ta chạm được đến toàn bộ thế giới, tôn giáo tương lai của thế giới cũng phải mang tính phổ quát như vậy, rộng rãi như vậy. Những lý tưởng tôn giáo trong tương lai phải bao hàm được tất cả những gì đã tồn tại trong thế gian, nó phải tốt đẹp và vĩ đại, đồng thời phải có nội dung vô tận để phát triển trong tương lai. Cần phải giữ gìn những gì tốt đẹp trong quá khứ, và những cánh cửa phải rộng mở cho tương lai để bổ sung thêm vào kho tàng đang có. Tôn giáo cũng phải mang tính chất bao dung, chứ không phải khinh bỉ lẫn nhau chỉ vì những lý tưởng về Thượng Đế của chúng khác nhau. Trong đời mình, tôi đã thấy được nhiều bậc đạo sư tâm linh vĩ đại, nhiều bậc minh trí vĩ đại mà chẳng hề tin vào Thượng Đế mảy may nào, nghĩa là một Thượng Đế hiểu theo nghĩa của thế gian. Có lẽ họ hiểu Thượng Đế sâu sắc hơn chúng ta nhiều. Những ý tưởng Nhân cách hóa về Thượng Đế hay về một đấng Phi Nhân Thể, đấng Vô Biên, Chuẩn Tắc Đạo Lý hay đấng Lý Tưởng – tất cả những thứ đó đều bắt nguồn từ cách định nghĩa về tôn giáo. Và khi những tôn giáo đã phát triển rộng lớn như thế thì năng lực trong thiện chí của chúng tăng lên hàng trăm lần.
Tôn giáo, do mang nguồn năng lực mãnh liệt trong tự thân, thường gây tổn hại cho thế gian hơn là mang lại ơn ích, đơn giản là do những đầu óc thiển cận và hẹp hòi. Thậm chí ngay trong thời hiện đại, chúng ta vẫn thấy nhiều tông phái và bang hội cùng có chung tư tưởng mà vẫn chống đối nhau, chỉ vì phe này thấy không cần phải phát huy những tư tưởng nào đó theo cách thức giống hệt phe kia. Bởi thế, tôn giáo cần phải được phát triển lớn mạnh. Những tư tưởng tôn giáo phải trở nên phổ quát, hoằng đại và bao la vô tận; và chỉ riêng chúng ta mới có được vở kịch trọn vẹn của tôn giáo, bởi vì sức mạnh tôn giáo chỉ mới bắt đầu hiển lộ trong thế giới. Đôi khi người ta cho rằng các tôn giáo đang hấp hối, rằng những ý tưởng mang tính tâm linh đang dần tàn lụi khỏi thế gian. Đối với tôi thì những thứ đó chỉ mới bắt đầu. Sức mạnh của tôn giáo, khi đã được phát huy và thanh tẩy, đang thẩm thấu vào từng bộ phận trong đời sống nhân loại. Chừng nào mà tôn giáo còn nằm trong tay một số người ít ỏi được chọn hoặc trong tay giới tăng lữ thì nó vẫn chỉ nằm trong các tu viện, chùa chiền, nhà thờ, kinh sách, giáo điều, nghi lễ. Nhưng khi ta đạt được quan niệm tâm linh phổ quát và chân thực về tôn giáo thì chỉ có tôn giáo mới trở thành chân thực và sinh động; nó sẽ thâm nhập vào tận bản tính tự nhiên của ta, sống trong từng hành vi cử chỉ của ta, thâm nhập vào tận từng lỗ chân lông của xã hội chúng ta, và mãi mãi mang một sức mạnh vô tận hơn trước đó.
Điều cần thiết là sự cảm thông giữa hình thức tôn giáo khác nhau, phải thấy được rằng tất cả mọi tôn giáo đều tồn tại hoặc sụp đổ cùng nhau. Đó là sự cảm thông nảy sinh từ lòng kính mến và tôn trọng lẫn nhau, chứ không phải là sự biểu hiện thiện ý một cách khinh khỉnh bằng thái độ hạ cố hay ra vẻ kẻ cả, bề trên – mà bất hạnh thay, thái độ này lại đang là trào lưu thịnh hành của nhiều tôn giáo hiện nay. Và trên hết, sự cảm thông này là điều cần thiết phải có giữa những hình thức biểu hiện tôn giáo, xuất phát từ việc nghiên cứu hiện tượng tinh thần – thật không may là ngay cả bây giờ, khi đề xuất yêu cầu duy nhất về danh từ tôn giáo – và những hình thức biểu hiện của tôn giáo đó, với cái đầu thì, có thể nói như vậy, xuyên thấu vào những điều huyền bí trên trời, trong khi đôi chân vẫn bám chặt trên mặt đất – tôi muốn nói đến những cái gọi là các bộ môn khoa học duy vật.
Để làm phát sinh được sự hòa hài này, cả hai bên cần phải nhượng
bộ lẫn nhau, đôi khi rất nhiều; không, còn hơn cả thế nữa, đôi khi còn rất đau
đớn nữa, nhưng mỗi bên sẽ thấy bản thân mình tốt đẹp hơn trong sự hy sinh đó và
tiến sâu hơn vào chân lý. Rốt cuộc, kiến thức vốn bị giới hạn trong không gian
và thời gian sẽ gặp gỡ và hợp nhất với chân trí siêu việt cả hai, nơi mà tâm
trí và giác quan không thể đạt đến – đó là Cái Tuyệt Đối, Cái Vô Biên, Nhất Thể
Duy Nhất.
(Diễn văn đọc tại London)
Con người bám chặt vào giác quan bằng cả sự kiên trì ghê gớm. Thế nhưng dù họ có nghĩ rằng cái thế giới ngoại tại – mà trong đó họ đang sống và dịch chuyển – là bền vững và chắc chắn đến đâu đi nữa thì cũng đến lúc nào đó trong cuộc sống của những cá nhân hoặc của dân tộc, họ tình cờ đặt câu hỏi : “Liệu cái thế giới này có thực chăng?” Ngay cả đối với những người không hề mảy may hoài nghi năng lực của giác quan, những người luôn lăng xăng bận rộn với lạc thú của giác quan trong từng phút từng giây thì khi cái chết đến, họ cũng buộc lòng phải đặt câu hỏi : “Liệu cái thế giới này có thực chăng?”. Tôn giáo khởi đầu bằng câu hỏi này, và chấm dứt bằng lời giải đáp. Ngay cả trong thời quá khứ xa xôi, tại thời điểm mà lịch sử thành văn không giúp được gì cho chúng ta, trong ánh sáng huyền diệu của thần thoại, hoặc quay ngược về buổi hoàng hôn mờ nhạt của nền văn minh, ta vẫn tìm thấy được một câu hỏi tương tự được đặt ra : “Cái gì đã biến thành cái thế giới này? Cái gì là thực hữu?”. Kinh Katha Upanishad – một trong những kinh thư thơ mộng nhất của Upanishad – mở đầu bằng câu chất vấn : “Khi người ta chết thì xảy ra tranh luận. Một số người tuyên bố rằng người chết ra đi vĩnh viễn, một số khác lại chủ trương người đó vẫn còn sống. Vậy đâu là sự thực?”. Người ta đã đưa ra nhiều đáp án khác nhau. Toàn bộ nội dung của siêu hình học, triết học và tôn giáo đều thực sự đầy ắp với những lời giải đáp cho câu hỏi này. Đồng thời người ta cũng cố gắng trấn áp câu hỏi đó để chấm dứt nỗi hoang mang của những tâm trí đặt ra câu hỏi : “Cái gì nằm bên kia thế giới này? Cái gì là thực hữu?”. Nhưng chừng nào cái chết còn sờ sờ ra đấy thì mọi cố gắng trấn áp vấn đề luôn cho thấy chúng đều không thể thành công. Ta có thể nói rằng ta chẳng hề thấy được gì ở bên kia thế giới, và khép mọi hy vọng và hoài bão của chúng ta vào trong phạm vi hiện tại, đồng thời cố hết sức đừng nghĩ gì đến những thứ nằm bên kia thế giới giác quan; và có thể là mọi thứ bên ngoài sẽ giúp ta khu trú trong một phạm vi chật hẹp. Toàn thể thế giới có thể kết hợp lại để ngăn không cho chúng ta vươn rộng ra ngoài phạm vi hiện tại. Tuy nhiên, chừng nào còn cái chết thì câu hỏi đó vẫn cứ quanh đi quẩn lại : “Có phải chết là chấm hết mọi thứ mà ta đang bám víu vào, như thể chúng là những thứ có thực nhất trong tất cả những thứ có thực, những thứ bền vững nhất trong tất cả những thứ bền vững?”. Thế giới này tan biến trong nháy mắt và ra đi vĩnh viễn. Đứng trên bờ vực thẳm – mà bên ngoài là những hố thẳm mênh mông – thì mọi đầu óc dù có cứng rắn đến đâu cũng phải chùn chân lùi bước và tự hỏi : “Liệu cái thế giới này có thực chăng?” Những niềm hy vọng suốt đời, được xây đắp từng chút bằng tất cả năng lực của những đầu óc vĩ đại, đều tan biến trong nháy mắt. Liệu chúng có thực chăng? Câu hỏi này cần phải có lời giải đáp. Thời gian không bao giờ giảm đi sức mạnh của nó, mặt khác nó lại còn củng cố thêm sức mạnh đó.
Như vậy thì có khát khao tìm cầu hạnh phúc. Ta chạy theo những thứ đem lại cho ta hạnh phúc; ta đeo đuổi theo cái sự nghiệp điên rồ trong thế giới ngoại tại của giác quan. Nếu bạn thử hỏi một người thanh niên thành đạt thì y sẽ tuyên bố rằng thế giới này có thực, và y thực sự nghĩ thế. Có lẽ cũng con người đó khi về già, và khi thấy vận may từ bỏ mình thì y sẽ tuyên bố rằng đó là số phận. Rốt cuộc y sẽ thấy rằng không thỏa mãn được những điều sở nguyện. Đi tới đâu, y cũng gặp phải một bức tường rắn như kim cương không thể vượt qua. Mọi hoạt động của giác quan đều gây nên một tác dụng ngược lại. Tất cả đều phù du. Sung sướng, khổ đau, cảnh hào nhoáng xa hoa, tài sản, quyền lực cùng sự nghèo đói, thậm chí chính bản thân cuộc sống, tất cả đều phù du.
Con người giữ hai lập trường. Lập trường thứ nhất là lập trường của những người theo thuyết hư vô, cho rằng tất cả đều là hư không, rằng ta không biết một chút gì cả, không biết gì về tương lai, quá khứ, thậm chí cả hiện tại. Ta phải nhớ rằng kẻ nào phủ nhận tương lai và quá khứ để khư khư bám lấy hiện tại chỉ là kẻ điên khùng. Cũng như ta phủ nhận cha mẹ để khẳng định đứa con. Cả hai vấn đề đều có ý nghĩa lôgic như nhau. Để phủ nhận được quá khứ và tương lai thì tất yếu phải phủ nhận luôn cả hiện tại. Đó là lập trường của những người theo thuyết hư vô. Tôi chưa từng gặp được một người nào có thể trở thành một người theo thuyết hư vô thực sự, dù chỉ trong một phút thôi. Nói thì rất dễ.
Còn một lập trường khác, đó là tìm kiếm một lời giải thích, tìm kiếm cái thực hữu; khám phá ra cái gì là thực hữu giữa cõi thế vô thường luôn biến động này. Trong cái thể xác được kết tập bởi các phân tử vật chất này có cái gì là thực hữu hay không? Đây là cuộc tìm kiếm xuyên suốt cả dòng lịch sử nhân loại. Trong những thời kỳ cổ xưa nhất, ta thấy thỉnh thoảng đầu óc con người lại lóe lên những tia sáng. Ta thấy rằng con người, ngay từ thuở xa xôi đó, đã tiến về phía bên kia thể xác, tìm kiếm một cái gì đó không nằm trong cái thể xác bên ngoài này, một cái gì đó rất đỗi hoàn hảo, rất đỗi viên mãn, một cái gì đó vẫn còn tồn tại ngay cả khi thể xác này tan rã. Trong những bài tụng ca trong kinh Rig-Veda, ta đọc thấy những lời ngỏ cùng Thần Lửa đang thiêu cháy xác người chết :
Hãy mang hắn đi đi, hỡi Thần Lửa, trong vòng tay dịu dàng của người; hãy ban lại cho hắn một thể xác hoàn hảo, một thể xác rực rỡ, hãy mang hắn đến nơi mà những người cha của hắn đang sống, nơi không còn buồn đau khổ não, nơi không còn cái chết.
Bạn bắt gặp ý tưởng đó hiện diện trong mọi tôn giáo. Và ta có một ý tưởng khác về điều đó. Có một sự kiện có ý nghĩa, đó là : tất cả mọi tôn giáo – không có ngoại lệ – đều cho rằng con người bị thoái hóa từ những gì vốn có, dù chúng có được bao bọc bằng những ngôn từ thần thoại, hoặc bằng ngôn ngữ rõ ràng của triết học hoặc bằng ngôn ngữ bóng bẩy của thi ca. Đây là sự kiện duy nhất xuất phát từ mọi kinh điển và tất cả thần thoại, cho rằng con người bị thoái hóa từ những gì vốn có. Đây là cốt lõi của chân lý trong câu chuyện về sự sa đọa của Adam trong Kinh Thánh Do Thái giáo. Điều này cũng được lặp đi lặp lại trong những thánh kinh Ấn giáo; giấc mơ về một thời kỳ mà họ gọi là Kỷ Nguyên Chân Lý, khi đó con người không hề chết trừ phi họ muốn chết, họ có duy trì thể xác lâu tùy thích, tâm trí họ thuần khiết và mạnh mẽ. Thuở đó không có tội lỗi hay khổ não, và thời kỳ hiện đại được xem là hiện tượng suy đồi từ thế giới hoàn hảo viên mãn đó.
Bên cạnh quan điểm này, ở đâu đâu ta cũng thấy câu chuyện về nạn hồng thủy. Bản thân câu chuyện này là một bằng chứng cho thấy mọi tôn giáo đều xem thời kỳ hiện đại là hiện tượng suy đồi từ thời kỳ trước đó. Thời kỳ này ngày càng thêm suy đồi, cho đến khi cơn hồng thủy quét sạch đi một phần lớn nhân loại, và những thế hệ đang lên lại bắt đầu. Dần dần nó lại đạt đến trạng thái thuần khiết thời nguyên thủy. Tất cả các bạn đều biết câu chuyện về nạn hồng thủy trong kinh Cựu Ước. Một câu chuyện tương tự cũng diễn ra trong những người Babylonia, người Ai Cập, người Trung Quốc và người Ấn Độ thời cổ.
Manu, một vị thánh hiền thời cổ, đang cầu nguyện trên bờ sông Ganges thì một con cá chép nhỏ bơi đến, xin được che chở; ông bèn bỏ nó vào cái lọ trước mặt. “Nhà ngươi muốn gì nào?” Manu hỏi. Con cá nhỏ bảo rằng nó đang bị một con cá lớn hơn rượt đuổi, nên cầu xin ông che chở. Manu mang con cá nhỏ về nhà, nhưng đến sáng hôm sau thì nó đã lớn bằng cả cái lọ và nói : “Tôi không thể sống trong cái lọ này nữa”. Manu liền bỏ nó vào cái chậu, nhưng đến sáng hôm sau thì nó đã lớn bằng cái chậu, và bảo rằng không thể sống trong cái chậu nữa. Manu liền đem nó bỏ ra ngoài biển, và con cá tuyên bố : “Này Manu, ta là đấng Sáng Tạo Vũ Trụ. Ta mang hình tướng này để đến cảnh báo cho ngươi biết rằng ta sẽ làm ngập lụt cả thế gian. Ngươi hãy làm một con tàu lớn, trong đó ngươi đặt một cặp của mọi loài sinh vật, và để cả gia đình ngươi lên tàu, sừng của ta sẽ nhô lên trên mặt nước. Ngươi hãy buộc chặt con tàu vào cái sừng đó; khi trận lụt rút rồi, hãy ra khỏi tàu và làm cho trái đất sinh sôi nảy nở”. Thế là cả thế giới bị ngập lụt, và Manu cứu được gia đình mình cùng một cặp của mọi loài sinh vật và hạt giống của mọi loài thảo mộc. Khi nước rút rồi, ông ra khỏi tàu và làm cho trái đất sinh sôi nảy nở; và tất cả chúng ta được gọi là “man” (con người) vì đều là con cháu của Manu.
Giờ đây, ngôn ngữ loài người là sự nỗ lực biểu đạt chân lý nằm ở bên trong. Tôi hoàn toàn bị thuyết phục rằng ngôn ngữ bập bẹ không rõ ràng của một đứa bé là sự nỗ lực diễn tả một triết lý cao siêu nhất, chỉ có điều là đứa bé không có các cơ quan để diễn đạt chứ không phải không có phương tiện. Ngôn ngữ của những triết gia cao siêu nhất và lời bập bẹ của những đứa bé chỉ khác biệt về sự trong sáng chứ không phải về thể loại. Cái mà bạn gọi là ngôn ngữ toán học, có hệ thống và chính xác hiện nay, cùng với những ngôn ngữ mơ hồ thần bí trong thần thoại cổ xưa cũng chỉ khác nhau về sự trong sáng. Tất cả các ngôn ngữ đó đều mang một ý tưởng vĩ đại đằng sau đang cố gắng – có thể nói như vậy – tự diễn đạt mình. Đằng sau các thần thoại cổ xưa đó thường là những quặng vàng chân lý, trong khi đằng sau những câu văn bóng bẩy trau chuốt của những người hiện đại, tôi xin lỗi phải nói ra điều này, chỉ là thứ cặn bã vớ vẩn. Do đó, không phải vì những thần thoại cổ xưa đó được bọc trong thần thoại, không phải vì chúng không phù hợp với những quan niệm của ông Xoài bà Mít thời hiện đại mà ta cần phải loại bỏ chúng đi. Nếu mọi người muốn cười nhạo tôn giáo, vì tôn giáo tuyên bố rằng con người phải tin vào những thần thoại do nhà tiên tri như thế này như thế kia giảng dạy, thì họ cũng nên cười nhạo nhiều hơn nữa những con người hiện đại. Hiện nay, hễ người nào trích dẫn lời nói của Moses, đức Phật hay đấng Christ thì bị thiên hạ nhạo báng, nhưng nếu y đưa ra tên tuổi của một Huxley, một Tyndall hay một Darwin thì thiên hạ lại tranh nhau nuốt chửng không cần đến gia vị. “Huxley đã nói điều đó”, ngần ấy là đã đủ với nhiều người rồi. Chúng ta đã thực sự thoát khỏi sự mê tín rồi đấy! Cái trước là mê tín vào tôn giáo, còn cái sau là mê tín vào khoa học; chỉ ở trong mê tín tôn giáo và thông qua mê tín tôn giáo mới phát sinh ra được những ý tưởng về tràn đầy sinh lực về cảnh giới tâm linh, còn ở trong mê tín khoa học và thông qua mê tín khoa học thì chỉ phát sinh ra sự tham lam và dục vọng. Mê tín tôn giáo là sự thờ phụng Thượng Đế, còn mê tín khoa học là sự tôn thờ tiền tài bẩn thỉu, danh vọng và quyền lực. Đó là sự khác biệt.
Hãy trở lại với thần thoại. Đằng sau tất cả những câu chuyện đó, ta tìm thấy một ý tưởng tối cao – đó là : con người là sự sa đọa từ những gì vốn có ban đầu. Đến ngày nay, công trình nghiên cứu hiện đại tựa hồ như phản bác hoàn toàn quan điểm này. Các nhà theo thuyết tiến hóa dường như đều nói ngược lại hoàn toàn với điều khẳng định kia. Theo họ, con người tiến hóa từ loại động vật thân mềm; và do đó, những điều thần thoại nói đều sai bét. Tuy nhiên, tại Ấn Độ lại có một thần thoại có thể dung hòa được cả hai quan điểm này. Thần thoại Ấn Độ là một lý thuyết về chu kỳ, chủ trương rằng mọi sự tiến bộ đều mang dạng sóng. Mọi con sóng đều có điểm rơi xuống thấp rồi lại nhô lên cao trong dao động tiếp theo, rồi lại rơi xuống thấp rồi lại nhô lên. Dao động này mang tính chu kỳ. Có một điều chắc chắn đúng, dẫu là dựa trên cơ sở nghiên cứu hiện đại, đó là : con người không thể chỉ đơn thuần là sự tiến hóa. Mọi sự tiến hóa đều giả định một sự đột biến. Nhà khoa học hiện đại sẽ bảo bạn rằng từ một cỗ máy bạn chỉ có thể nhận được năng lượng mà trước đó bạn đã nạp vào. Không có gì có thể được sinh ra từ hư không. Nếu con người tiến hóa từ loại động vật thân mềm, vậy thì những nhân vật toàn thiện như đức Phật hay đấng Christ cũng liên quan đến động vật thân mềm. Nếu không phải thế thì những nhân cách vĩ đại đó từ đâu ra? Không có gì có thể được sinh ra từ hư không.
Do vậy, chúng ta đang ở trong lập trường dung hòa kinh điển với ánh sáng khoa học hiện đại. Nguồn năng lượng đó – nguồn năng lượng tự thân hiển lộ một cách chậm chạp qua nhiều giai đoạn khác nhau cho đến khi nó trở thành một con người toàn hảo – không thể sinh ra từ hư không. Nó đã tồn tại ở đâu đó rồi; và nếu như loài động vật thân mềm hoặc chất nguyên sinh là điểm khởi đầu để bạn vạch lại quá trình tiến hóa thì chất nguyên sinh đó, bằng cách nay hay cách khác, hẳn phải chứa sẵn năng lượng đó rồi
Có một cuộc tranh luận vĩ đại về vấn đề : sự kết hợp các yếu tố vật chất – mà chúng ta gọi là thể xác – là căn nguyên hiển lộ của một lực mà ta gọi là linh hồn, tư tưởng v.v… hay là chính tư tưởng mới là cái làm hiển lộ thể xác? Các tôn giáo của thế giới này dĩ nhiên đều chủ trương rằng chính cái lực mà ta gọi là tư tưởng mới làm hiển lộ thể xác, chứ không phải ngược lại. Có những trường phái tư tưởng hiện đại chủ trương rằng : cái mà ta gọi là tư tưởng chỉ là kết quả từ việc điều chỉnh những bộ phận của một cỗ máy mà ta gọi là thể xác. Hãy xét lập trường thứ hai, tức lập trường chủ trương linh hồn hay một đống tư tưởng –hoặc bạn muốn gọi bằng tên gì tùy ý – là kết quả phát sinh từ cỗ máy này, kết quả của sự kết hợp của vật chất về phương diện vật lý và hóa học để tạo nên thể xác và bộ não, hãy cứ để vấn đề đó khoan giải đáp vội. Cái gì tạo nên thể xác? Lực nào kết hợp được các phân tử để tạo thành thể xác? Lực nào đã dùng khối vật chất để cấu tạo nên thể xác tôi theo cách này, rồi thể xác kia theo cách khác, và cứ tiếp tục như thế? Điều gì đã tạo nên sự khác biệt vô tận này? Nếu cho rằng lực được gọi là linh hồn chỉ là kết quả của sự kết hợp các phân tử của thể xác thì đó là đặt con bò trước cỗ xe. Sự kết hợp xảy ra như thế nào, đâu là lực tạo nên chúng? Nếu bạn bảo rằng một lực nào đấy là nguyên nhân gây nên sự kết hợp này, linh hồn chỉ là kết quả của vật chất, và linh hồn đó – vốn kết hợp một khối vật chất cụ thể – tự thân nó là kết quả của những sự kết hợp, thì đó không phải là câu trả lời. Lý luận đó nên được dùng để giải thích hầu hết các sự kiện, nếu không phải là tất cả mọi sự kiện, và điều đó không hề mâu thuẫn với các lý luận đang khác có. Sẽ hợp lý hơn khi nói rằng lực dùng vật chất để tạo nên thể xác cũng chính là lực hiển lộ thông qua thể xác.
Do đó, nói rằng những sức mạnh tư tưởng do thể xác hiển lộ là kết quả từ sự sắp xếp những phân tử và không tồn tại độc lập thì điều đó vô nghĩa; sức mạnh đó không thể biến hóa từ vật chất. Hơn nữa, có thể chứng minh được rằng cái mà ta gọi là vật chất chẳng hề tồn tại. Nó chỉ là trạng thái nào đó của lực. Có thể chứng minh được các trạng thái đặc, rắn hoặc những trạng thái khác của vật chất chỉ là kết quả của chuyển động. Gia tăng chuyển động theo chiều xoáy lốc truyền cho chất lỏng sẽ đem đến cho chất lỏng đó một lực để biến thành thể rắn. Một khối không khí chuyển động theo chiều xoáy lốc, như cơn trốt, trở nên rắn chắc và làm vỡ hoặc cắt đứt những vật thể rắn mà nó chạm vào. Một sợi tơ nhện, nếu di chuyển với tốc độ gần như vô tận, có thể trở nên rắn như sợi dây sắt và cắt đứt cả một cây sồi[6]. Hãy nhìn vấn đề theo cách này, sẽ dễ dàng chứng minh rằng cái mà ta gọi là vật chất không hề tồn tại. Nhưng lại không thể chứng minh theo cách khác.
Cái gì là sức mạnh tự hiển lộ trong thể xác? Đối với tất cả chúng ta, dù sức mạnh đó có là gì đi nữa thì hiển nhiên là nó dùng các hạt, có thể nói như vậy, để nhồi nặn thành thể xác con người. Không một ai khác đến đây để nhồi nặn nên thể xác cho bạn hay tôi. Tôi chưa bao giờ thấy được người nào ăn thay cho mình. Tôi phải tiêu hóa thức ăn, chế tạo nên máu và xương từ thức ăn đó. Sức mạnh huyền bí đó là gì? Những ý tưởng về tương lai hay quá khứ tựa hồ như làm cho nhiều người kinh hãi. Đối với nhiều người, chúng có vẻ như chỉ là sự suy luận mà thôi.
Chúng ta sẽ lấy hiện tại làm chủ đề của mình. Đâu là sức mạnh tác động thông qua chúng ta? Theo các kinh thư cổ, ta đã biết vào thuở xa xưa, năng lực đó và sự biểu hiện của năng lực đó được xem là bản thể sáng ngời [bright substance] khoác hình thức của thể xác, và bản chất đó sẽ tiếp tục tồn tại sau khi thể xác tan rã. Tuy nhiên về sau ta lại thấy xuất hiện ý tưởng cao hơn – đó là : thể xác sáng ngời [bright body] này không đại diện cho sức mạnh đó. Hễ cái gì có hình tướng đều phải là kết quả của sự kết hợp những phân tử, và cần phải có một cái đằng sau để di chuyển nó. Nếu thể xác này phải đến cần một cái gì đó không phải là thể xác để điều động nó thì tất yếu thể xác sáng ngời đó cũng cần đến một cái gì đó khác với tự thân để điều động nó. Như thế, cái gì khác đó được gọi là linh hồn hay Tự Ngã – tức Ātman trong tiếng Sankrit. Có thể nói rằng chính Ātman (Tự Ngã) đã thông qua thể xác sáng ngời để tác động lên thể xác thô ở bên ngoài. Thể xác sáng ngời đó được xem là khí cụ để chứa tâm trí, và Ātman nằm bên ngoài cái đó. Thậm chí nó cũng không phải là tâm trí, nó tác động lên tâm trí, và thông qua tâm trí để tác động lên thể xác. Bạn có một Ātman, tôi có một Ātman khác, và mỗi người trong chúng ta đều có một Ātman riêng và một thể xác tế vi riêng, và thông qua nó mà ta mới tác động được lên cái thể xác thô bên ngoài. Thế thì những câu hỏi sẽ được đặt ra về bản thể của Ātman. Ātman – linh hồn của con người nhưng không phải là thể xác mà cũng chẳng phải là tâm trí – là gì? Đã có nhiều cuộc tranh luận vĩ đại về điều này. Người ta đã suy đoán, rồi nhiều nghiên cứu triết học tối nghĩa đã ra đời; tôi sẽ thử đặt trước mặt các bạn một vài kết luận đã đạt được về Ātman này.
Những triết gia khác nhau dường như nhất trí rằng Ātman này, dù nó có là gì đi nữa, vẫn vô hình vô tướng, và cái gì vô hình vô tướng ắt sẽ phổ hiện khắp nơi. Thời gian khởi đầu với tâm trí, và không gian cũng nằm trong tâm trí. Quan hệ nhân quả không thể đứng vững nếu không có thời gian. Không có ý niệm về sự tương tục thì sẽ không có ý niệm về quan hệ nhân quả. Thời gian, không gian, quan hệ nhân quả, do đó, đều nằm trong tâm trí, và bởi vì cái Ātman này siêu quá tâm trí và vô hình tướng, nên nó cũng phải siêu quá thời gian, không gian cùng quan hệ nhân quả. Nếu siêu quá thời gian, không gian cùng quan hệ nhân quả thì nó phải vô biên vô tận. Đến đây là giai đoạn tư duy cao nhất trong nền triết học chúng ta. Cái Vô Biên thì không thể có hai được. Nếu linh hồn là vô biên thì chỉ có thể có một Linh Hồn duy nhất, và mọi ý tưởng về những linh hồn khác nhau – bạn có một linh hồn, tôi có một linh hồn khác v.v… – đều không thực. Con Người Chân Thực [Real Man], do đó, là nhất thể và vô biên, là Tinh Thần toàn nhiên phổ hiện. Và con người ngoại biểu [apparent man] chỉ là giới hạn của Con Người Chân Thực đó mà thôi. Theo nghĩa này thì các thần thoại đều chân thực khi cho rằng con người ngoại biểu, dù y có vĩ đại đến đâu chăng nữa, cũng chỉ là cái bòng mờ nhạt của Con Người Chân Thực ở cõi bên kia. Con Người Chân Thực – hay Tinh Thần – do vượt lên trên nhân và quả, không bị trói buộc bởi thời gian và không gian, nên phải tự do tự tại. Con người đó không trói buộc cái gì cả, và cũng không thể bị bất cứ cái gì trói buộc. Con người ngoại biểu, hay cái bóng phản chiếu, bị hạn định bởi thời gian, không gian, quan hệ nhân quả, do đó phải chịu sự trói buộc. Trong ngôn ngữ của một vài triết gia chúng ta, con người đó tựa hồ như bị trói buộc, nhưng thực sự là không. Đó là thực tại tính trong linh hồn chúng ta, là cái toàn nhiên phổ hiện, là bản chất tâm linh, là cái vô biên vô tận. Mọi linh hồn đều vô biên vô tận, do đó không còn vấn đề sống chết.
Người ta sát hạch một số em bé. Giám khảo đặt ra các câu hỏi khó, một trong số đó là câu này : “Vì sao trái đất không rơi?”. Ông ta muốn gợi ý cho một câu trả lời liên quan đến trọng lực. Hầu hết các em bé đều không thể trả lời, một vài em trả lời là do trọng lực hoặc đại loại như thế. Một bé gái mặt mày sáng sủa đã trả lời bằng cách đặt một câu hỏi khác : “Nó sẽ rơi về đâu chứ?”. Câu hỏi là vô nghĩa. Trái đất sẽ rơi về đâu? Đối với trái đất thì không hề có chuyện rơi xuống hay nhô lên. Trong không gian bao la vô tận không hề có xuống hay lên, điều đó chỉ có trong cảnh giới tương đối. Cõi vô biên sẽ đi đâu và đến đâu? Từ đâu nó đến, và đi về đâu?
Như vậy đó, khi con người thôi nghĩ đến quá khứ hay tương lai, khi họ từ bỏ ý tưởng về thể xác, bởi vì thể xác đến rồi đi và bị hạn định thì họ đã vươn lên đến một lý tưởng cao hơn. Thể xác không phải là Con Người Chân Thực, tâm trí cũng không phải, vì tâm trí vẫn có sự tăng trưởng rồi suy tàn. Đó là Tinh Thần ở cõi bên kia, cái duy nhất có thể trường tồn vĩnh viễn. Thể xác và tâm trí liên tục biến đổi vô thường, và trên thực tế, chúng chỉ là tên gọi của một loạt các hiện tượng biến dịch mà thôi, giống như những con sông, dòng nước của chúng là trạng thái tuôn chảy không ngừng, vậy mà vẫn biểu hiện được cho hình trạng dòng nước không hề gián đoạn. Mọi phân tử trong thể xác này đều không ngừng biến dịch; không ai có thể mang cùng một thể xác trong quãng thời gian nhiều phút được, vậy mà ta lại cứ nghĩ nó vẫn cùng một thể xác. Với tâm trí cũng vậy, lúc này thì nó hoan hỷ, lúc kia thì nó khổ đau, lúc này thì nó kiên cường, lúc khác thì lại yếu đuối, đó là cơn lốc không ngừng biến động. Cái đó không thể là Tinh Thần, vốn là thứ vô tận vô biên. Sự biến đổi chỉ xảy ra với những gì bị hạn định. Bảo rằng cái vô biên biến đổi theo cách nào đấy thì đó là điều phi lý; không thể như vậy được. Bạn có thể dịch chuyển, tôi có thể dịch chuyển, theo nghĩa là những thể xác bị hạn định; mọi hạt trong vũ trụ này đều ở trong trạng thái vận động thường xuyên, nhưng bản thân vũ trụ – xét như một toàn thể – thì không thể chuyển động, không thể biến dịch. Chuyển động luôn luôn là điều tương đối. Tôi chuyển động trong mối tương quan với một cái gì khác. Bất cứ hạt nào trong vũ trụ cũng có thể biến đổi trong mối tương quan với một hạt bất kỳ nào khác, nhưng xét toàn bộ vũ trụ như một nhất thể thì nó tương quan với cái gì để mà chuyển động? Không có gì ngoài nó. Bởi vậy, Nhất Thể vô biên này là bất biến, bất động, tuyệt đối; và đây là Con Người Chân Thực. Thực thể của chúng ta, do đó, bao hàm trong Cái Phổ Quát, chứ không phải trong cái bị hạn định. Có những sai lầm thuở xa xưa, dù rất dễ chịu, khiến chúng ta cứ đinh ninh rằng mình là những sinh vật bé bỏng, bị hạn định và thường xuyên thay đổi. Mọi người kinh hãi khi nghe nói rằng họ là Hằng Hữu Phổ Quát [Universal Being] toàn nhiên phổ hiện. “Thông qua tất cả những thứ bạn làm, thông qua mỗi bước chân bạn đi, thông qua mọi lời bạn nói, thông qua từng nhịp đập của trái tim mà bạn cảm nhận”. Mọi người đều kinh hãi khi nghe nói thế. Họ sẽ hỏi đi hỏi lại bạn nếu thế thì liệu họ có còn giữ bản sắc cá nhân của họ không. Bản sắc cá nhân là gì? Tôi rất thích được nhìn thấy nó. Một đứa bé không có râu mép, khi trưởng thành thì có thể nó có râu mép và cả râu cằm. Bản sắc cá nhân của nó xem như đã bị mất đi, nếu như bản sắc đó nằm trong thể xác. Nếu tôi hỏng một con mắt hoặc mất một cánh tay thì bản sắc cá nhân của tôi sẽ bị mất đi, nếu nó nằm trong thể xác. Như vậy một gã say sẽ không bỏ rượu, bởi vì làm thế y sẽ đánh mất đi bản sắc cá nhân. Một tên trộm sẽ không trở thành người lương thiện, bởi vì làm thế y sẽ đánh mất đi bản sắc cá nhân. Không một ai nên thay đổi những thói quen của mình do sợ hãi điều này. Không hề có bản sắc cá nhân, ngoại trừ trong Cõi Vô Biên. Đó là tình trạng duy nhất không biến dịch. Còn ngoài ra thì tất cả đều lưu chuyển biến dịch không ngừng. Chẳng có bản sắc cá nhân nào được lưu trong ký ức cả.
Giả sử tôi bị một cú đánh vô đầu và quên sạch quá khứ; vậy là tôi đã đánh mất toàn bộ bản sắc cá nhân của mình; thế là xong đời tôi. Tôi không còn nhớ được hai hay ba năm thời thơ ấu, và nếu như ký ức và sự tồn tại là một thì tất cả những gì quên lãng đều vĩnh viễn ra đi. Tôi đã không sống phần đời mà tôi không còn nhớ. Đó là ý tưởng vô cùng hẹp hòi về bản sắc cá nhân.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn không phải là những cá nhân. Ta phấn đấu hướng đến bản sắc cá nhân, đó là Cõi Vô Biên, là thực tính [real nature] của Con Người. Chỉ những ai mà trọn vẹn cuộc sống nằm trong toàn thể vũ trụ thì mới thực sự sống, và hễ càng tập trung đời mình vào những sự vật bị hạn định thì ta càng đi nhanh về cõi chết. Chỉ trong những giây phút đó ta mới sống, khi mà cuộc sống của ta hòa trong vũ trụ, trong những thứ khác; và sống một cuộc đời nhỏ mọn thì đó là cái chết, một cái chết đơn thuần, và đó là lý do vì sao ta sợ chết. Con người chỉ có thể vượt qua cảm giác sợ chết khi ngộ được rằng hễ chừng nào còn có một sự sống trong vũ trụ thì y vẫn còn đang sống. Khi người đó có thể tuyên bố: “Tôi ở trong lòng vạn hữu, trong tất cả mọi người, tôi ở trong tất cả mọi cuộc sống, tôi là vũ trụ” thì y đạt đến trạng thái vô úy, không còn sợ hãi. Nói đến sự bất tử trong những sự vật thường xuyên biến dịch là điều vô nghĩa. Một triết gia về ngôn ngữ Sankrit thời cổ đã nói : Chỉ có Tinh Thần mới là cá nhân, bởi vì nó vô biên. Cái Vô Biên không thể bị phân chia, không thể bị vỡ tan thành nhiều phần nhỏ. Nó là một đại khối đồng nhất, một thực thể vĩnh viễn bất khả phân ly, và đó là con người cá nhân, Con Người Chân Thực. Con người ngoại biểu chỉ là sự phấn đấu để biểu đạt và biểu hiện bản sắc cá nhân nằm ở cõi bên kia; chứ không có sự tiến hóa trong Tinh Thần đó.
Những sự biến hóa đang diễn ra – kẻ độc ác thành người lương thiện, con thú thành con người, mang đủ loại hình tướng tùy bạn thích – không hề có trong Tinh Thần. Chúng là sự tiến hóa của tự nhiên và là sự biểu hiện của Tinh Thần. Giả sử có một bức màn che giữa tôi và các bạn, trên bức màn đó có một lỗ nhỏ nhờ đó mà tôi có thể nhìn thấy được một vài gương mặt trước mặt tôi, chỉ một vài thôi. Bây giờ giả sử cái lỗ rộng dần ra, cảnh vật trước mắt tôi sẽ tự hiển lộ dần ra, cho đến cuối cùng khi cả cái màn biến mất thì tôi đứng đối diện với tất cả các bạn. Trong trường hợp này, các bạn chẳng có gì thay đổi cả, mà chính cái lỗ đang biến chuyển và các bạn dần dần hiện cả ra. Đối với Tinh Thần cũng thế. Không hề có chuyện đạt đến cảnh giới viên mãn.
Các bạn vốn đã tự tại tự do và hoàn hảo rồi. Những ý tưởng về tôn giáo và Thượng Đế, và sự tìm kiếm trong kiếp sau nghĩa là gì? Tại sao con người phải đi tìm Thượng Đế? Tại sao người tại mọi quốc gia, tại mọi hình thái xã hội đều phải cần đến một cảnh giới lý tưởng toàn hảo ở một nơi nào đó, hoặc là tại một con người, hoặc tại Thượng Đế hoặc tại một nơi nào khác? Bởi vì ý tưởng đó đã nằm trong bạn rồi. Nó là nhịp đập của trái tim bạn mà bạn không hề hay biết, bạn cứ nhầm lẫn nó với một cái gì đó ở bên ngoài. Chính Thượng Đế bên trong tự ngã của bạn đã thôi thúc bạn tìm kiếm Ngài, chứng ngộ được Ngài. Sau những cuộc tìm tòi đây đó trong những điện thờ, chùa chiền hay giáo đường, thánh thất, dưới đất và trên trời, rồi cuối cùng, sau khi hoàn tất một chu trình từ nơi bạn khởi đầu, bạn cũng quay về trở lại với tâm hồn mình và thấy rằng vị Thượng Đế mà bạn đi tìm khắp mọi chân trời góc biển, người mà bạn đã phải kêu khóc và cầu xin tại những điện thờ, người mà bạn tìm kiếm như là điều huyền bí của mọi điều huyền bí ẩn khuất trong mây mù, vị Thượng Đế đó gần gũi nhất trong những cái gần gũi, là chính Tự Ngã[7] của bạn, là thực thể của cuộc sống, thể xác và linh hồn bạn.
Tự Ngã đó là tự tính [own nature] của bạn. Hãy khẳng định nó, hãy hiển thị nó. Các bạn không cần phải trở nên thuần khiết, vì tự bản lai các bạn vốn đã thuần khiết rồi. Các bạn không cần phải trở nên hoàn mỹ, vì tự bản lai các bạn vốn đã hoàn mỹ rồi. Thiên nhiên giống như một bức màn, che giấu thực tại ở cõi bên kia. Mọi tư tưởng tốt đẹp mà bạn tư duy hay hành động theo đều đơn giản là đang xé bức màn kia, có thể nói như vậy; và Sự Thuần Khiết, Cái Vô Biên, hay Thượng Đế đằng sau nó càng tự hiển lộ rõ ràng hơn. Đó là toàn bộ lịch sử của nhân loại. Bức màn trở nên mỏng manh hơn, ánh sáng đằng sau đó càng tỏa sáng mạnh hơn, vì bản chất của nó là tỏa sáng.
Tự Ngã đó không thể nhận biết được; ta cố gắng tìm hiểu nó chỉ hoài công vô ích. Nếu như nó là cái khả tri thì nó hẳn không còn là cái nó là nữa, bởi vì nó là chủ thể vĩnh hằng. Kiến thức là sự hạn định, kiến thức là quá trình khách quan hóa. Nó là Chủ Thể vĩnh hằng nhận biết tất cả vạn hữu, là Nhân Chứng vĩnh cửu của vũ trụ – Tự Ngã của bạn đấy. Có thể nói kiến thức là một bước thấp kém hơn, một sự thoái hóa. Chúng ta vốn đã là Chủ Thể vĩnh hằng đó rồi, làm thế nào ta có thể biết Nó?
Tự Ngã vô biên đó là thực tính của mỗi người, và y đang cố gắng biểu hiện nó bằng nhiều cách khác nhau; nếu không thế thì tại sao lại có nhiều chuẩn mực đạo lý đến vậy? Đâu là lời giải thích cho tất cả những nền đạo đức này? Một ý tưởng nổi bật lên như là trung tâm của mọi hệ thống đạo lý, được biểu hiện bằng vô số cách khác nhau, nghĩa là làm điều tốt đẹp cho kẻ khác. Động cơ dẫn đạo của nhân loại là lòng thương yêu với đồng loại, nhân hậu với muôn loài. Nhưng đây là tất cả những cách biểu hiện khác nhau của một chân lý vĩnh cửu: “Ta là vũ trụ; vũ trụ này là một”. Nếu không phải thế thì đâu là lý do? Tại sao tôi phải đối xử tốt đẹp với người khác? Cái gì thúc đẩy tôi? Đó là lòng thương cảm, là cảm thức về sự bình đẳng tương đồng ở khắp nơi nơi. Những trái tim sắt đá nhất đôi khi vẫn cảm nhận được lòng thương cảm với người khác. Thậm chí những kẻ sợ hãi khi nghe bảo rằng bản sắc cá nhân giả định này thực ra chỉ là ảo tưởng, rằng chấp trước vào cái bản sắc cá nhân ngoại biểu này là điều ti tiện – chính kẻ đó cũng sẽ bảo với bạn rằng từ bỏ toàn vẹn tự ngã là tâm điểm của mọi nền luân lý. Từ bỏ toàn vẹn tự ngã là gì? Điều đó có nghĩa là từ bỏ cái tự ngã ngoại biểu kia, từ bỏ mọi tư tưởng vị kỷ.
Ý tưởng về “tôi” hay “của tôi”[8] — ahamkāra và mamatā — là kết quả của sự mê tín thời quá khứ, hễ cái tự ngã hiện tại càng bớt đi chừng nào thì cái Thực Ngã [Real Self] càng hiển lộ rõ ràng chừng đó. Đây là sự từ bỏ tự ngã chân chính, nó là trung tâm, nền tảng, thực chất của mọi lời thuyết giảng về đạo đức; dù con người có biết điều đó hay không thì toàn thể thế giới này vẫn đang di chuyển dần về điều đó, vẫn đang thực hiện điều đó ít hoặc nhiều. Chỉ có điều là phần đông nhân loại thực hiện điều đó một cách vô thức. Hãy để họ thực hiện điều đó với ý thức. Hãy để họ hy sinh, vì hiểu được rằng cái “tôi” và cái “của tôi” này không phải là Thực Ngã, mà chỉ là giới hạn. Một cái nhìn vào Thực Tại vô biên ở cõi bên kia – chỉ là một tia chớp của Ngọn Lửa vô biên vốn là Toàn Thể – biểu trưng được con người hiện tại. Cái Vô Biên là thực tính [real nature] của y.
Đâu là sự ích lợi, hiệu quả và kết quả của kiến thức này? Thời nay, chúng ta phải đo lường giá trị của mọi thứ bằng lợi ích – xem thử nó đem lại được bao nhiêu đồng, bao nhiêu xu. Con người lấy quyền gì để đòi hỏi chân lý cần được đánh giá theo tiêu chuẩn của lợi ích và tiền bạc? Giả sử chân lý không đem lại lợi ích thì nó sẽ kém chân thực đi chăng? Lợi ích không phải là phép thử của chân lý. Tuy nhiên, lợi ích tối cao lại nằm trong đó. Ta thấy đó, mọi người ai ai cũng tìm cầu hạnh phúc, nhưng phần đông lại tìm thấy nó trong những sự vật phù du và không thực. Không một hạnh phúc nào có thể được tìm thấy trong phạm vi giác quan cả. Chưa hề có người nào tìm thấy được hạnh phúc trong giác quan hoặc trong lạc thú do giác quan đem lại. Hạnh phúc chỉ có thể được tìm thấy trong Tinh Thần. Do đó, lợi ích tối cao cho nhân loại là đi tìm hạnh phúc trong Tinh Thần.
Điểm tiếp theo là : vô minh là mẹ đẻ của mọi khổ đau, và về căn bản, vô minh là quan niệm cho rằng Cái Vô Biên than khóc kêu gào rằng Nó là hữu hạn. Nền tảng của mọi sự vô minh à điều này : chúng ta – những sinh linh hữu sinh hữu tử, những kẻ tự bản lai đã thuần khiết vô nhiễm, là Tinh Thần toàn hảo – lại cứ nghĩ rằng mình là những tâm trí nhỏ bé, mang thân nhỏ bé. Điều đó chính là mẹ đẻ của mọi tư tưởng vị kỷ. Ngay khi tôi nghĩ rằng tôi là cái thể xác nhỏ bé này thì tôi muốn gìn giữ nó, bảo vệ nó, giữ cho nó được xinh tươi đẹp đẽ, với cái giá trả là những thể xác khác; thì bạn và tôi trở nên tách biệt. Ngay khi tư tưởng tách biệt này nảy sinh thì nó mở toang cánh cửa cho mọi thứ phiền não, và dẫn đến mọi điều khốn khổ. Đây là lợi ích của tri thức này – nếu một bộ phận rất nhỏ của nhân loại ngày nay có thể gạt bỏ được tư tưởng vị kỷ, hẹp hòi và nhỏ nhen ti tiện thì chỉ ngày mai thôi, trái đất này sẽ biến thành một thiên đàng. Nhưng chỉ bằng máy móc và sự phát triển tri thức duy vật không thôi thì sẽ không bao giờ có được cảnh đó. Những thứ đó chỉ làm gia tăng khổ não, giống như đổ thêm dầu vào lửa. Không có tri thức về Tinh Thần, mọi tri thức duy vật chỉ là đổ thêm dầu vào lửa, chỉ trao vào tay kẻ ích kỷ những công cụ để cướp đoạt thêm những gì thuộc về người khác, để sống trên đầu trên cổ người khác thay vì hy sinh để giúp đỡ họ.
Điều này có thực tế không? – đó là một vấn đề khác. Liệu ta có thể thực hiện được nó trong xã hội hiện đại không? Chân lý không cần phải tôn trọng bất kỳ xã hội nào, dù cổ đại hay hiện đại. Ngược lại, chính các xã hội mới phải rập khuôn theo chân lý, chứ không phải chân lý điều chỉnh mình cho phù hợp theo xã hội. Nếu một chân lý cao cả như lòng vị tha mà không thể thực thi trong một xã hội, con người chẳng thà từ bỏ xã hội để vô sống trong rừng còn tốt hơn. Đó là người gan dạ.
Có hai loại can đảm. Một là lòng can đảm đối mặt với khẩu đại pháo, cái kia là lòng can đảm kiên định trong thế giới tâm linh. Có một vị hoàng đế chinh phục Ấn Độ, vị thầy của ông ta khuyên ông nên đi tìm một vài nhà hiền triết ở đấy. Sau một thời gian tìm kiếm, ông tìm thấy một cụ già ngồi trên tảng đá. Vị hoàng đế chỉ trao đổi đôi điều, và có ấn tượng sâu sắc về trí tuệ của cụ già đó, nên muốn mời ông về triều định làm việc.
Cụ già bảo :
– Không, ta hoàn toàn thấy mãn nguyện với rừng núi của ta ở nơi đây.
Vị hoàng đế liền bảo :
– Trẫm sẽ cho ngươi vàng bạc, địa vị, tài sản. Trẫm là hoàng đế của thế gian này.
Cụ già đáp :
– Không, ta không cần đến những thứ đó.
Vị hoàng đế liền bảo :
– Nếu ngươi không chịu đi, trẫm sẽ giết ngươi.
Cụ già mỉm cười trầm tĩnh, rồi đáp :
– Này hoàng đế, đó là điều xuẩn ngốc nhất mà ngài từng nói ra. Ngài không thể nào giết chết được ta. Ta là người mà vầng dương kia không làm cho khô héo được, lửa không thiêu cháy được, gươm đao không giết nổi, bởi vì ta bất sinh bất diệt, ta là Tinh Thần toàn trí toàn năng, toàn nhiên phổ hiện.
Đó là sự vô úy tâm linh, còn những thứ khác chỉ là sự can đảm của loài cọp beo hay sư tử.
Trong cuộc biến loạn năm 1857[9], có một Swami – tức một đại sư – bị một kẻ nổi loạn Hồi giáo đâm một vết thương trí mạng. Những kẻ nổi loạn người Ấn Độ liền bắt lấy hắn và giao cho vị Swami kia giết. Nhưng vị Swami trầm tĩnh nhìn hắn rồi nói : “Này người anh em, anh là Ngài, anh chính là Ngài!” rồi tắt thở. Đây là một trường hợp khác.
Có ích gì khi nói về sức mạnh của cơ bắp, về sự ưu việt của các thể chế phương Tây, nếu như các bạn không thể làm cho Chân Lý được ngang hàng với xã hội các bạn, nếu các bạn không thể xây dựng được một xã hội phù hợp với Chân Lý tối cao? Có ích gì khi cứ ba hoa về sự vĩ đại của các bạn, nếu như bạn đứng lên và nói : “Lòng can đảm này không thực tế”? Chẳng lẽ không có gì thực tế ngoài những đồng tiền? Nếu quả vậy thì sao các bạn lại cứ ba hoa về xã hội của mình? Một xã hội mà trong đó những chân lý tối cao đều có thể thể hiện thì đó mới là xã hội vĩ đại nhất. Đó là ý kiến của tôi Và nếu như một xã hội không thể thích nghi được với những chân lý tối cao thì hãy làm cho nó thích nghi, càng sớm càng tốt.
Hỡi các bạn nam nữ, hãy đứng dậy trong tinh thần này, hãy mạnh dạn tin vào Chân Lý đó, hãy mạnh dạn thể hiện Chân Lý đó! Thế giới cần đến một vài trăm người quả cảm. Hãy thực hiện lòng quả cảm đó, lòng quả cảm dám nhận biết Chân Lý đó, dám thể hiện Chân Lý đó trong cuộc sống, lòng quả cảm không lay động trước cả cái chết; hơn thế nữa, lòng quả cảm hân hoan đón chào cái chết, khiến con người biết rằng anh ta chính là Tinh Thần đó, rằng trong toàn bộ vũ trụ này không có gì có thể giết được anh ta. Rồi bạn sẽ tự do. Rồi bạn sẽ biết đến Linh Hồn chân thực của mình.
“Ātman này là điều đầu tiên cần nghe đến, rồi tư duy về nó, và quán tưởng về nó”. Xu hướng nổi bật trong thời hiện đại là nói quá nhiều đến công việc mà xem thường chuyện tư duy. Làm việc là điều rất tốt, nhưng phải là những công việc xuất phát từ tư duy. Những biểu hiện nhỏ nhoi của năng lực thông qua cơ bắp được gọi là công việc. Nơi nào không có tư tưởng, nơi đó sẽ không có công việc. Bởi vậy, hãy lấp đầy bộ não bằng những tư tưởng thanh cao, những lý tưởng tối thượng, cả ngày lẫn đêm hãy đặt chúng trước mắt bạn, rồi từ đó sẽ phát sinh công trình vĩ đại. Đừng nói về sự bất tịnh, mà hãy nói rằng chúng ta thuần tịnh. Chúng ta đã tự thôi miên mình bằng tư tưởng rằng chúng ta là những con người nhỏ bé, rằng chúng ta đã sinh ra đời rồi sẽ chết đi, và ở trong trạng thái thường xuyên sợ hãi.
Có một câu chuyện về con sư tử cái mang thai đi săn mồi. Khi trông thấy bầy cừu, nó liền nhảy tới. Khi cố gắng làm thế thì nó bị chết. Con sư tử con nhỏ bé chào đời mà không có mẹ. Những con cừu chăm sóc, nuôi dưỡng nó; và nó lớn dần theo bầy cừu, cùng ăn cỏ, và kêu be be như cừu. Theo thời gian, nó lớn dần lên thành một con sư tử to lớn, nhưng nó vẫn tưởng mình là con cừu. Một ngày kia, có một con sư tử khác đến săn mồi và sửng sốt khi thấy giữa bầy cừu là một con sư tử, con này cũng tháo chạy như con cừu khi thấy sự nguy hiểm đến gần. Con sư tử tìm cách đến gần con sư-tử-cừu kia để bảo cho nó biết rằng nó không phải là cừu, mà là một con sư tử; nhưng con vật khốn khổ kia cứ đâm đầu bỏ chạy mỗi khi con sư tử đến gần. Tuy nhiên, con sư tử vẫn chờ cơ hội, và ngày nọ nó thấy con sư-tử-cừu đang ngủ. Con sư tử lại gần và bảo : “Mi là sư tử”; con sư tử kia rống lên : “Tôi là con cừu”, nó không thể tin vào điều ngược lại, miệng cứ kêu be be. Con sư tử bèn dẫn nó đến một hồ nước, rồi bảo : “Hãy nhìn đi, đây là bóng của ta và mi”. Con sư-tử-cừu liền so sánh. Nó nhìn con sư tử rồi nhìn lại bóng mình, rồi chỉ trong một phút giây nó hiểu rằng nó là sư tử. Con sư tử bèn gầm lên, tiếng be be không còn nữa.
Các bạn là sư tử, các bạn là Linh Hồn đó, thanh khiết, vô biên và toàn hảo. Quyền năng của vũ trụ nằm cả ở nơi bạn. “Vì sao bạn lại kêu khóc, này người bạn tôi? Không hề có tử hay sinh cho bạn. Vậy thì tại sao bạn lại kêu khóc? Không hề có bệnh tật hay khổ đau cho bạn. Bạn như bầu trời vô biên vô tận; những đám mây đủ màu sắc trôi trên đó, chơi đùa chốc lát rồi tan biến. Nhưng bầu trời thì muôn đời vẫn mãi mãi xanh lơ”.
Vì sao ta lại thấy có điều tà ác? Có một gốc cây trong bóng tối, một tên trộm đi qua đó, nhìn thấy và bảo : “Đó là một tay cảnh sát”. Một chàng trai đang chờ người yêu nhìn thấy, và ngỡ đó là người yêu của mình. Một đứa kẻ nghe kể chuyện ma sẽ cho đó là con ma, và kêu ré lên. Nhưng lúc nào thì nó cũng chỉ là một gốc cây. Ta thế nào thì nhìn thế giới ra như thế ấy. Giả sử có một đứa bé trong phòng với một túi vàng đặt trên bàn, một tên trộm lẻn vào và cuỗm túi vàng đi mất. Đứa bé có biết túi vàng bị trộm không? Hễ trong lòng ta có cái gì thì ta thấy cái đó ở bên ngoài. Đứa bé không có tên trộm trong lòng, nên không thấy tên trộm bên ngoài. Mọi kiến thức cũng đều vậy cả.
Đừng nói về điều tà ác của thế gian cũng như mọi tội lỗi của
nó. Hãy khóc đi vì bạn buộc phải nhìn thấy những điều tà ác. Hãy khóc đi vì bạn
buộc phải nhìn thấy tội lỗi ở khắp mọi nơi. Nếu bạn muốn giúp đỡ thế giới thì xin
đừng nguyền rủa nó. Đừng làm cho nó suy nhược thêm nữa. Bởi vì tội lỗi là gì và
khốn khổ là gì, tất cả những thứ đó là gì nếu không phải là những hậu quả của
sự suy nhược? Thế giới này từng ngày đã bị những loại giáo lý như thế làm cho
thêm suy nhược[10]. Ngày
từ bé, con người đã được dạy rằng họ vốn yếu đuối và là những kẻ phạm tội. Hãy
dạy cho họ biết rằng họ là những đứa trẻ vinh quang và bất tử, ngay cả với
những kẻ có biểu hiện suy nhược nhất. Hãy để tư tưởng tích cực, mạnh mẽ và hữu
ích này đi vào bộ não ngay từ thời thơ ấu. Hãy mở rộng tâm trí ra với những tư
tưởng này, chứ đừng đón nhận những tư tưởng làm ta suy nhược và tê cóng. Hãy tự nhủ : “Ta là Ngài, Ta là Ngài.” Hãy
để tư tưởng đó ngày đêm vang lên trong tâm trí bạn như một bài ca, và lúc lâm chung
hãy tuyên bố : “Ta là Ngài”. Đó là Chân Lý, sức mạnh vô biên của thế giới là
sức mạnh của bạn. Hãy quét sạch mọi thứ mê tín bao phủ tâm trí bạn. Chúng ta
hãy dũng cảm lên. Hãy nhận biết Chân Lý đó và thể hiện Chân Lý đó. Mục tiêu có
thể ở xa, nhưng hãy thức dậy. Vươn cao lên và cố gắng không ngừng cho đến khi
đạt được mục tiêu.
(Diễn thuyết tại London)
Hầu hết các bạn đều từng nghe nói về danh từ Māyā. Danh từ này thường được dùng không chính xác theo nghĩa là “ảo tưởng”, “ảo giác” hoặc một cái gì đại loại như thế. Nhưng học thuyết về māyā tạo nên một trong những trụ cột chống đỡ cho triết học Vedānta; do đó, ta cần phải hiểu nó cho đúng. Tôi xin các bạn hãy kiên nhẫn một chút, bởi vì hiểu sai sẽ rất nguy hiểm.
Ý tưởng xa xưa nhất về māyā mà ta tìm thấy trong nền văn học Vedānta theo nghĩa là ảo tưởng, nhưng như thế là không đạt đến chân nghĩa của tư tưởng này. Ta thấy có nhiều đoạn như sau : “Indra dùng māyā của mình để hóa thân thành vô lượng hình tướng”. Đúng là danh từ māyā có một cái gì đó giống như huyễn thuật, và ta cũng tìm thấy nhiều đoạn văn khác có ý nghĩa tương tự. Vậy là danh từ māyā cũng khuất khỏi tầm mắt ta. Nhưng trong khi chờ đợi thì ý tưởng đó lại phát triển. Về sau, một vấn đề đã nảy sinh : “ Vì sao ta không thể thấu hiểu được những điều huyền bí của vũ trụ?”. Và câu trả lời cũng rất có ý nghĩa : “Vì chúng ta chỉ nói suông, vì chúng ta thấy thỏa mãn với những sự vật thuộc phạm vi giác quan, và vì ta chỉ biết chạy theo dục vọng; bởi vậy có thể nói là ta phủ kín Thực Tại trong một lớp sương mù”. Ở đây, không hề dùng đến từ māyā, nhưng ta vẫn hiểu được một ý là : nguyên nhân khiến chúng ta vô minh là do giữa ta và Chân Lý có một lớp sương mù. Càng về sau nữa, trong một trong các kinh thư Upanishad cổ nhất, ta lại thấy từ māyā tái hiện, nhưng lần này diễn ra sự chuyển dịch về ý nghĩa : rất nhiều nghĩa mới được gán cho nó. Nhiều học thuyết đã được đề xuất và lặp lại, nhiều học thuyết khác được chọn lựa, cho đến cuối cùng ý tưởng về māyā trở nên cố định. Ta đọc trong Śvetāśvatara Upanishad : “Hãy biết thế giới tự nhiên là māyā, và đấng Cai Trị māyā này chính là Thượng Đế”.
Đến các triết gia về sau thì ta thấy từ māyā này lại được sử dụng theo nhiều cách khác nhau, cho đến khi ta gặp được Śhankarāchārya vĩ đại. Học thuyết māyā ít nhiều cũng được các luận sư Phật giáo sử dụng, nhưng trong tay các luận sư này thì nó giống như cái gọi là thuyết duy tâm, và đó là ý nghĩa thường được gán cho danh từ māyā hiện nay.
Khi tín đồ Hindu nói rằng thế giới này là māyā, lập tức mọi người nghĩ ngay rằng thế giới này là ảo ảnh. Cách giải thích đó cũng có sơ cở, như được sử dụng qua tay các luận sư Phật giáo, bởi vì có một bộ phận các triết gia hoàn toàn không tin vào thế giới ngoại tại. Nhưng māyā của triết học Vedānta, trong hình thức phát triển cuối cùng, không phải là thuyết duy tâm [idealism] cũng chẳng phải là thuyết duy thực [realism], thậm chí nó cũng chẳng phải là một học thuyết. Đơn giản nó chỉ là một phát biểu về những sự kiện, về con người thực của ta và về những gì ta thấy chung quanh mình.
Như tôi đã nói với các bạn trước đây, tâm trí của những người viết nên kinh Veda đều mải mê đi theo những nguyên lý, khám phá ra những nguyên lý. Họ không có thời gian để vạch nên những chi tiết hoặc đợi chờ chi tiết; họ muốn đi sâu vào lòng sự vật. Một cái gì đó ở phái bên kia đang réo gọi, có thể nói như thế, và họ không thể đợi chờ. Rải rác khắp các kinh thư Upanishad, ta thấy rằng chi tiết của những chủ đề – mà hiện nay ta gọi là khoa học hiện đại – thường rất sai lầm, nhưng đồng thời những nguyên lý của chúng thì chính xác. Chẳng hạn ý tưởng hiện đại về ê-te[11] – vốn là một trong những lý thuyết mới mẻ nhất của khoa học hiện đại – đã được tìm thấy trong nền văn học cổ đại Ấn Độ trong những hình thức còn tiến bộ hơn nhiều so với lý thuyết khoa học về e-te hiện nay, nhưng điều đó còn nằm trong phần nguyên lý. Khi chúng cố chứng minh cho bằng được các hoạt động của nguyên lý này thì chúng lại phạm sai lầm. Học thuyết về một nguyên lý toàn nhiên phổ hiện trong sự sống, mà mọi cuộc sống trong vũ trụ này đều chỉ những biểu hiện khác nhau của nó, học thuyết đó đã được thấu hiểu ngay từ thời kinh điển Veda; ta tìm thấy nó trong các Brāhmana. Có nhiều trường thi trong Samhitā ca ngợi prāna (nguyên sinh khí), mà mọi cuộc sống chỉ là sự biểu hiện của nó. Dần dần, một số trong các bạn có thể quan tâm tìm hiểu để biết được rằng có những học thuyết trong triết học Veda liên quan đến nguồn gốc sự sống trên trái đất này lại rất tương đồng với những học thuyết được đề xướng bởi những nhà khoa học châu Âu châu hiện đại. Dĩ nhiên, tất cả các bạn đều biết rằng có một học thuyết cho rằng sự sống bắt nguồn từ một hành tinh khác. Học thuyết này dung hòa với quan điểm của những triết gia Veda cho rằng sự sống xuất phát từ mặt trăng.
Ta thấy những nhà tư tưởng này rất can đảm và dũng mãnh phi thường khi truyền giảng những học thuyết có nội dung phổ quát và rộng lớn. Đáp án của họ về bí ẩn của vũ trụ – một bí ẩn đến từ thế giới bên ngoài – đã đem lại sự thỏa đáng tối đa. Những công trình chi tiết của khoa học hiện đại không đem câu hỏi tiến gần hơn với đáp án, bởi vì những nguyên lý đó đã thất bại. Nếu trong thời cổ đại, thuyết ê-te đã thất bại trong việc giải đáp bí ẩn của vũ trụ thì bây giờ dẫu thuyết đó có được nghiên cứu tường tận đến đâu đi nữa cũng không thể đưa ta đến gần chân lý hơn. Nếu lý thuyết về sự sống toàn nhiên phổ hiện đã thất bại, khi giải đáp bí ẩn của vũ trụ, thì nó cũng không có nghĩa gì sâu xa hơn nếu ta nghiên cứu cặn kẽ đến từng chi tiết, bởi vì những chi tiết đó cũng không thay đổi được nguyên lý vũ trụ. Điều tôi muốn nói ở đây là các nhà tư tưởng Ấn Độ, khi truy vấn nguyên lý này, nhiều lúc đã tỏ ra dũng mãnh hơn những người hiện đại rất nhiều. Họ đã khái quát hóa được một số vấn đề vĩ đại nhất mà con người từng đạt đến, và một số trong đó vẫn còn là những lý thuyết mà nền khoa học hiện đại thậm chí vẫn chưa đạt đến về phương diện lý thuyết. Chẳng hạn, họ không chỉ đạt đến thuyết ê-te, mà còn tiến xa hơn nữa và phân loại tâm trí như là khí ê-te ở trạng thái tế vi hơn. Tiếp tục vượt xa hơn nữa, họ còn tìm thấy khí ê-te ở trạng thái còn tế vi hơn nữa. Thế nhưng không có lời giải đáp nào, thuyết đó không giải quyết được vấn đề. Không một kiến thức nào về thế giới ngoại tại lại có thể giải quyết được vấn đề.
“Nhưng mà”, các nhà khoa học bảo, “chúng ta chỉ mới bắt đầu biết được đôi chút; hãy chờ vài ngàn năm nữa, chúng ta sẽ có được lời giải đáp”. “Không”, triết gia Vedānta tuyên bố, bởi vì ông ta đã chứng minh một cách rõ ràng rằng tâm trí luôn bị hạn chế, nó không thể vượt qua được những giới hạn nhất định – không thể vượt qua không gian, thời gian, và quan hệ nhân quả. Khi con người không thể nhảy qua được Tự Ngã của mình, không một ai có thể vượt qua được những giới hạn đang đóng khung anh ta trong quy luật về thời gian và không gian. Mọi nỗ lực giải quyết những quy luật về quan hệ nhân quả, thời gian và không gian đều hoài công vô ích, bởi vì khi chính việc thực hiện nỗ lực đó đã mặc nhiên xác nhận cả ba thứ đó đều tồn tại.
Vậy thì lời phát biểu về sự tồn tại của thế giới có ý nghĩa gì? “Thế giới này không tồn tại”. Nói thế có nghĩa là gì? Có nghĩa là thế giới không tồn tại tuyệt đối. Nó chỉ tồn tại trong mối tương quan với tâm trí tôi, với tâm trí bạn, với tâm trí của tất cả mọi người khác. Ta thấy được thế giới này bằng năm giác quan, nhưng nếu có một giác quan khác, ta sẽ thấy còn có một cái gì khác hơn thế nữa. Nếu ta có một giác quan khác thì thế giới có thể xuất hiện như một cái gì đó hoàn toàn khác lạ. Do đó, nó không thực sự tồn tại; sự tồn tại của nó không bất biến, bất động và vô hạn. Ta cũng không thể gọi nó là không tồn tại, vì nó vẫn tồn tại sờ sờ ra đấy, và ta vẫn phải làm việc quần quật như nô lệ trong thế giới đó và khắp thế giới đó. Thế giới này là sự hòa hợp giữa tồn tại và không tồn tại, giữa hữu với vô.
Xuất phát từ cách nhìn trừu tượng đối với quần chúng, trong đời sống thường ngày của mình, ta nhận thấy toàn bộ cuộc sống của chúng ta là một khối mâu thuẫn, là sự hòa hợp giữa tồn tại và không tồn tại. Trong kiến thức cũng có mâu thuẫn này. Con người tựa hồ như có thể biết được hết mọi sự, nếu như anh ta muốn biết, nhưng trước khi đi được chỉ một vài bước thì anh ta đã vấp phải một bức tường rắn tợ kim cương không thể vượt qua. Mọi công việc của anh ta chỉ lẩn quẩn trong một vòng tròn, và anh ta không thể bước ra khỏi vòng tròn đó. Những vấn đề gần gũi nhất và thân thiết nhất đã thúc đẩy anh ta suốt ngày đêm đi tìm một lời giải đáp, nhưng anh ta không thể giải quyết được những vấn đề đó, vì anh ta không thể vươn lên khỏi trí năng của mình. Tuy nhiên, khát vọng này đã cắm sâu trong tâm hồn anh ta. Ta cũng biết rằng chỉ bằng cách kiểm soát và chế ngự khát vọng đó, ta mới có thể đạt được điều tốt đẹp duy nhất. Mọi hơi thở, mọi nhịp đập của trái tim đều buộc ta phải mang lòng ích kỷ. Đồng thời lại có một năng lực nào đó bên ngoài chúng ta bảo ta rằng điều tốt đẹp duy nhất là lòng vị tha. Mọi đứa bé khi sinh ra đều lạc quan, chúng mơ ước những giấc mộng vàng. Đến lúc trưởng thành, chúng vẫn còn lạc quan. Đối với một thanh niên thì thật khó mà tin rằng có cái gọi là cái chết, hay một cái đại loại như là thất bại hay sa sút. Rồi tuổi già đến, và cuộc đời chỉ là một đống đổ nát hoang tàn. Những giấc mơ tan biến, và con người trở nên bi quan. Thế đó, chúng ta đi từ cực đoan này đến cực đoan khác, bị thiên nhiên vùi dập cho tơi tả mà không hề biết mình đang đi về đâu.
Tôi nhớ đến một bài ca nổi tiếng trong Lalita Vistara (kinh Phổ Diệu) nói về cuộc đời đức Phật. Kinh đó kể rằng, đức Phật đản sinh như một đấng Cứu Thế, nhưng Ngài lại đắm chìm trong cảnh xa hoa lộng lẫy của cung đình. Chư thiên liền đến hát bài ca này để thức tỉnh Ngài. Nội dung chính của bài ca là như vầy : ta đang không ngừng trôi nổi đắm chìm trong dòng sông luân hồi sinh tử. Cuộc đời ta cũng thế, thịnh suy hưng phế nối tiếp nhau không ngừng nghỉ. Ta phải làm gì đây? Hễ người nào có đầy đủ đồ ăn thức uống thì lạc quan yêu đời, anh ta tránh không muốn nghe nói đến những cảnh khổ đau phiền não, vì nó làm anh ta khiếp hãi. Đừng nói với anh ta về sự phiền muộn đau thương của thế gian; hãy đi đến mà bảo với anh ta rằng mọi sự trên đời đều tốt đẹp. “Vâng, tôi đang sống bình yên.”, anh ta bảo : “Hãy nhìn tôi này! Tôi có nhà đẹp để ở. Tôi không hề sợ đói rét; bởi vậy đừng có mang những hình ảnh kinh khủng đó đến trước mặt tôi”. Nhưng mặt khác, có biết bao nhiêu người chết vì đói rét. Nếu bạn đi đến và dạy họ rằng mọi sự trên đời đều tốt đẹp thì họ sẽ không nghe bạn. Làm sao họ có thể mong cầu cho người khác được hạnh phúc trong khi họ bất hạnh khổ đau? Thế đấy, chúng ta cứ dao động lắc lư giữa tinh thần lạc quan và tinh thần bi quan.
Cái chết là sự kiện vô cùng khủng khiếp. Toàn thể thế giới đều hướng về cõi chết : tất cả đều phải chết. Tất cả mọi sự tiến bộ, cảnh tượng phồn hoa, bao nhiêu chương trình cải cách, bao nhiêu sự lộng lẫy xa hoa, tài sản, kiến thức đều đi kết thúc đó : cái chết. Đó là điều chắc chắn nhất trong mọi điều. Những thành phố dựng lên rồi sụp đổ, những đế chế trỗi dậy rồi lụi tàn, những hành tinh tan vỡ thành tro bụi rồi bị thổi bay đi bởi khí quyển của những hành tinh khác. Mọi sự đã như vậy rồi vô thủy. Cái chết là sự kết thúc của mọi sự. Cái chết là sự kết thúc của sự sống, sắc đẹp, của giàu sang, quyền lực và của cả đức hạnh nữa. Các thánh nhân chết, những kẻ tội phạm cũng chết, vua chúa đều chết và kẻ ăn mày cũng chết. Tất cả đều đang đi về cõi chết, nhưng tất cả đều bám chặt vào cuộc sống một cách khủng khiếp. Ta không biết vì sao mình phải bám chặt vào cuộc sống, thế nhưng ta lại không thể từ bỏ nó. Và đây là māyā.
Một bà mẹ chăm bẵm nuôi con; linh hồn của bà, sự sống của bà đều nằm trong đứa bé. Đứa bé trưởng thành, có thể trở thành một đứa con bất hiếu thô bạo, đánh đập bà hàng ngày, nhưng người mẹ vẫn bám chặt vào đứa con; khi lý trí thức tỉnh thì bà lại phủ lấp nó đi bằng tình yêu thương. Bà ít khi nghĩ rằng đó không phải là tình yêu, rằng đó là một cái gì đó bám chặt trong não tủy mình, mà bà không sao dứt ra được; dù có cố gắng đến bao nhiêu đi nữa bà cũng không sao dứt bỏ được sự triền phược đang trói buộc mình. Và đây là māyā.
Tất cả chúng ta đều chạy theo Bộ Lông Cừu Vàng[12]. Ai trong chúng ta cũng đều nghĩ rằng nó sẽ là của mình. Hễ ai có chút lý trí cũng đều thấy rằng cơ hội dành cho mình có lẽ chỉ là một phần hai mươi triệu, vậy mà ai cũng tranh nhau đi tìm. Và đây là māyā.
Cả ngày lẫn đêm, cái chết cứ lảng vảng trên thế giới này để chờ chúng ta, nhưng đồng thời chúng ta lại cứ luôn nghĩ rằng mình sẽ sống đời đời, không bao giờ chết. Nhà vua Yudhishthira, khi được hỏi : “Điều kỳ diệu nhất trên thế gian này là gì?”, đã đáp : “Hàng ngày mọi người đều chết ở quanh ta, vậy mà con người lại cứ ngỡ rằng mình sẽ không bao giờ chết”. Và đây là māyā.
Những mâu thuẫn khủng khiếp trong trí năng ta, trong kiến thức ta, vâng, trong cả mọi sự kiện trong đời sống, luôn đối mặt với ta trong mọi hướng. Một nhà cải cách nổi dậy, muốn chữa trị mọi tội ác đang hoành hành trong một đất nước nào đó; và trước khi chữa trị được những tội ác đó thì hàng ngàn tội ác khác đã phát sinh để thay thế. Điều đó giống như một cái nhà cũ đổ nát, hễ bạn sửa được chỗ này thì sự hư hoại lại lan đến chỗ khác. Ở Ấn Độ, những nhà cải cách của chúng ta kêu gọi và truyền giảng hãy chống lại tệ nạn góa bụa cưỡng bức[13]. Ở phương Tây, sống độc thân là một tội lớn. Hãy giúp những người độc thân ở bên này, họ đang chịu khổ đau. Hãy giúp những người góa bụa ở bên kia, họ cũng đang chịu khổ đau. Điều đó giống như bệnh thấp khớp mãn tính : bạn loại bỏ được đau nhức ở đầu thì nó chạy xuống mình, loại bỏ được đau nhức ở mình thì nó chạy xuống chân. Những nhà cải cách đứng lên và truyền giảng rằng kiến thức, tài sản và văn hóa chỉ nằm trong tay một thiểu số ít ỏi, và họ nỗ lực để san sẻ chúng đều cho tất cả mọi người. Họ có thể mang hạnh phúc đến cho một số người nào đó, nhưng có lẽ khi văn hóa đến thì hạnh phúc về thể xác sẽ giảm bớt đi. Hiểu biết về hạnh phúc cũng mang theo hiểu biết về bất hạnh. Vậy thì ta sẽ đi theo lối nào đây? Số lượng tài sản nhỏ nhất mà ta đang hưởng thụ, nó đem cho ta niềm vui thì đồng thời cũng đem lại nỗi khổ đau tương tự đến một nơi nào đó. Đó là quy luật. Thanh niên có thể không thấy rõ được điều này, nhưng người ai đã sống đủ lâu và những ai đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh trong đời đều hiểu cả. Và đây là māyā.
Sự việc trên đời cứ luôn diễn ra như thế, cả ngày lẫn đêm, và tìm ra một giải pháp cho vấn đề này là điều bất khả. Tại sao nó lại như vậy? Không thể nào trả lời được, bởi vì câu hỏi không thể được trình bày một cách hợp lý. Thực ra, không hề có “thế nào” và “tại sao”; chúng ta chỉ biết rằng sự việc là như vậy, và ta không thể làm được gì. Thậm chí nắm bắt được vấn đề, vẽ ra một bức tranh chính xác trong tâm trí ta cũng là điều vượt quá sức mình. Vậy thì ta có thể giải quyết vấn đề bằng cách nào?
Māyā là lời phát biểu về thực trạng của vũ trụ này, và cách thức mà vũ trụ vận hành. Hầu như ai nấy đều kinh hãi khi nghe nói đến những điều này. Nhưng chúng ta hãy dũng cảm lên. Che giấu thực trạng không phải là phương thuốc chữa trị. Như tất cả các bạn đã biết, một con thỏ khi bị bầy chó săn đuổi thường chui đầu xuống đất, và ngỡ thế là an toàn; chúng ta cũng như vậy đó, khi chạy theo đời sống lạc quan yêu đời, ta cũng hành động không khác gì con thỏ. Nhưng đó hoàn toàn không phải là phương thuốc chữa trị. Có những lời phản bác lại điều này, nhưng bạn có thể thấy rằng những lời phản bác đó thường xuất phát từ những người gặp được nhiều điều tốt đẹp trong đời. Ở nước Anh này thật khó mà trở thành người bi quan. Người nào cũng bảo với tôi rằng thế giới này tuyệt diệu biết bao, tiến bộ biết là ngần nào; nhưng người sao thì cảnh vậy. Vấn đề cũ được đặt ra : Cơ Đốc giáo phải là tôn giáo chân chính duy nhất trên thế giới, bởi vì những quốc gia theo Cơ Đốc giáo đều giàu có! Nhưng lời khẳng định đó tự mâu thuẫn với chính nó, bởi vì sự giàu có của những quốc gia theo Cơ Đốc giáo tùy thuộc vào vào sự bất hạnh của những quốc gia không theo Cơ Đốc giáo. Phải có một số quốc gia chịu bóc lột. Giả sử toàn thế giới đều theo Cơ Đốc giáo thì những quốc gia Cơ Đốc giáo cũng sẽ trở nên nghèo khổ, vì sẽ không còn quốc gia phi Cơ Đốc giáo nào cho họ bóc lột nữa[14]. Như vậy lập luận này đã tự giết chính nó. Muông thú sống dựa vào thảo mộc, con người sống dựa vào muông thú, và tệ hại hơn hết là sống dựa trên kẻ khác, kẻ mạnh sống dựa vào kẻ yếu. Điều này đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Và đây là māyā.
Bạn tìm được giải pháp nào cho điều này? Ngày nào ta cũng nghe nhiều lời giải thích, và nghe bảo rằng rốt cuộc rồi tất cả mọi chuyện đều sẽ trở nên tốt đẹp. Cứ cho rằng điều đó hiển nhiên khả thi, thế thì tại sao điều tốt lại được thực hiện một cách hiểm độc như vậy? Tại sao điều tốt không được thực hiện thông qua điều tốt, mà lại phải thông qua những cách thức hiểm độc này? Hậu duệ của loài người ngày nay sẽ được hạnh phúc trong tương lai, nhưng tại sao lại phải có những khổ đau ngày hôm nay? Không có một lời giải đáp nào cả. Và đây là māyā.
Chúng ta cũng lại nghe rằng một trong những đặc điểm của sự tiến hóa là nó giảm thiểu tội ác, và những điều xấu xa đang liên tục bị loại dần ra khỏi thế giới này, cuối cùng chỉ còn lại những gì tốt đẹp. Điều này nghe thì rất sướng tai, nó cố sức làm thỏa mãn đầu óc phù phiếm của những kẻ có đầy đủ của cải trên thế gian, những kẻ suốt ngày không phải đầu tắt mặt tối, chúi đầu nơi đồng ruộng, và không bị nghiền nát dưới bánh xe của cái gọi là sự tiến hóa. Đối với những kẻ may mắn đó thì điều này thực sự tốt đẹp và đem lại niềm an ủi. Đám dân đen có thể chịu đựng khổ đau, nhưng những kẻ may mắn kia không hề quan tâm; hãy để đám dân đen chết đi, họ chẳng làm được tích sự gì. Thật là tốt đẹp, nhưng lập luận này sai lầm từ đầu đến cuối. Trước hết, nó hiển nhiên chấp nhận rằng thiện và ác, tốt và xấu trong thế giới này là hai thực thể tuyệt đối. Thứ hai là nó giả định một điều còn tệ hại hơn nữa, đó là : số lượng điều thiện đang gia tăng còn số lượng điều ác đang giảm sút. Như vậy, nếu điều ác bị giảm sút theo cách đó, bởi cái mà họ gọi là sự tiến hóa, thì sẽ đến một lúc nào đó cái ác sẽ bị tiêu trừ, và chỉ còn lại cái thiện cái tốt mà thôi. Nói thì rất dễ, nhưng lấy gì để chứng minh rằng cái ác đang giảm sút?
Chẳng hạn một người sống trong rừng, không biết trau dồi tâm trí, chẳng biết đọc sách, thậm chí cũng chưa từng nghe nói đến những thứ như văn tự, chữ nghĩa. Nếu anh ta bị thương nặng thì sẽ phục hồi mau chóng; trong khi chúng ta có thể chết vì một vết trầy xước. Máy móc đang làm cho hàng hóa rẻ hơn, mở đường cho tiến bộ và tiến hóa, nhưng hàng triệu người bị nghiền nát để cho một kẻ trở nên giàu có; khi một người trở thành đại gia thì đồng thời có hàng ngàn người đã nghèo lại càng nghèo hơn nữa, và toàn thể nhân loại bị biến thành nô lệ. Điều đó đang diễn ra ở khắp nơi.
Những người chưa tiến hóa sống trong phạm vi giác quan. Nếu không đủ cái ăn, anh ta sẽ đau khổ, hoặc có điều gì xảy đến với thể xác mình, anh ta sẽ đau khổ. Cả hạnh phúc lẫn đau khổ của anh ta đều bắt đầu và chấm dứt trong phạm vi giác quan. Khi con người này tiến bộ hơn, khi chân trời hạnh phúc mở rộng ra thì chân trời bất hạnh cũng mở rộng theo một cách tương xứng. Con người trong rừng không hề biết thế nào là ghen tuông, là ra tòa, là đóng thuế, là bị xã hội bêu riếu, là bị cai trị ngày đêm bởi sự độc tài khủng khiếp nhất mà đầu óc hiểm độc của con người đã từng phát minh ra – sự hiểm độc nhìn xoi mói vào tận những điều bí ẩn trong từng tâm hồn của con người. Anh ta không hiểu làm thế nào mà con người lại hiểm độc hơn loài vật khác gấp cả ngàn lần, bằng tất cả những thứ kiến thức phù phiếm và lòng kiêu ngạo. Như vậy đấy, khi chúng ta vươn cao lên khỏi phạm vi giác quan, chúng ta phát triển năng lực hưởng thụ cao hơn thì đồng thời chúng ta cũng phát triển năng lực chịu đau khổ sâu sắc hơn. Thần kinh trở nên tinh tế hơn và có khả năng chịu đựng nhiều khổ đau hơn. Trong mọi xã hội, ta thường thấy một kẻ thường dân dốt nát chẳng cảm nhận được gì nhiều khi bị xúc phạm, nhưng y sẽ cảm nhận được một trận đòn đau. Còn người nho nhã thì không thể chịu nổi một lời xúc phạm; thần kinh anh ta đã trở nên quá đỗi tinh tế. Khốn khổ đã tăng theo độ bén nhạy với hạnh phúc. Điều này không chứng minh thêm được gì cho lập luận của nhà tiến hóa luận.
Khi ta gia tăng năng lực cảm thụ hạnh phúc, ta cũng gia tăng năng lực cảm thụ khổ đau, và đôi khi tôi còn muốn nói rằng nếu ta gia tăng năng lực cảm thụ hạnh phúc theo cấp số cộng thì mặt khác, ta sẽ gia tăng năng lực cảm thụ khổ đau theo cấp số nhân. Những người đang tiến bộ đều hiểu rằng ta càng tiến bộ thì càng có nhiều con đường dẫn đến đau thương lẫn khoái lạc. Và đây là māyā.
Như vậy, ta thấy rằng māyā không phải là một học thuyết nhằm giải thích thế giới; mà nó chỉ đơn giản là lời phát biểu về thực trạng đang hiện hữu, rằng tận nền tảng của hiện thể chúng ta là sự mâu thuẫn, rằng ở nơi đâu ta cũng đều phải di chuyển xuyên qua sự mâu thuẫn khủng khiếp này, rằng hễ nơi nào có năng lực tạo ra điều thiện thì nơi đó cũng ẩn tàng năng lực tạo ra điều ác, nơi nào có năng lực tạo ra điều ác thì nơi đó cũng ẩn tàng năng lực tạo ra điều thiện, bất cứ nơi nào có sự sống thì có cái chết đi theo như hình với bóng, kẻ nào cười đều phải sẽ khóc và ngược lại. Trạng thái này của sự vật là vô phương cứu chữa. Rất có thể chúng ta đã tưởng tượng ra một nơi toàn thiện, hoàn toàn vắng bóng cái ác, nơi chỉ có nụ cười chứ không có tiếng khóc. Điều này hoàn toàn bất khả đối với chính bản chất sự vật, và những điều kiện này vẫn cứ luôn mãi thế. Nơi nào có năng lực đem lại cho chúng ta nụ cười thì nơi đó cũng ẩn tàng năng lực đem lại cho chúng ta nước mắt. Nơi nào có năng lực tạo ra hạnh phúc thì nơi đó cũng ẩn tàng năng lực làm chúng ta khốn khổ.
Bởi vậy, triết học Vedānta không lạc quan mà cũng chẳng bi quan. Nó nói về cả hai quan điểm và quán chiếu sự vật đúng y như thực. Nó chấp nhận thế giới này là sự hòa hợp giữa thiện và ác, giữa hạnh phúc và đau khổ; khi gia tăng cái này thì tất yếu ta cũng phải gia tăng cả cái kia. Không bao giờ có một thế giới toàn thiện hay toàn ác, bởi vì ngay cả ý tưởng đó cũng đã mâu thuẫn trong thuật ngữ rồi. Từ sự phân tích này đã phát lộ một điều huyền mật vĩ đại : đó là thiện và ác, tốt và xấu không phải là hai thực thể tách rời biệt lập. Trong thế giới của chúng ta, không hề có một sự vật nào mà bạn có thể gán cho nhãn hiệu là tốt và luôn luôn chỉ là tốt; và trong vũ trụ này không hề có một sự vật nào mà bạn có thể gán cho nhãn hiệu là xấu và luôn luôn chỉ là xấu. Cũng một hiện tượng như nhau nhưng hôm nay nó có thể tốt mà ngày mai lại xấu. Cùng một sự vật có thể gây khổ đau cho người này nhưng lại đem đến hạnh phúc cho người khác. Ngọn lửa thiêu cháy đứa bé cũng có thể nấu chín một bữa ăn ngon lành để cứu một người đang đói lả. Những dây thần kinh dẫn truyền cảm thụ về khổ đau thì đồng thời cũng dẫn truyền cảm thụ về hạnh phúc.
Do đó, cách duy nhất để chấm dứt điều xấu là ngừng làm điều tốt; không còn cách nào khác. Muốn chấm dứt cái chết, ta cũng phải dừng sự sống. Sinh mà không tử, hạnh phúc mà chẳng khổ đau là điều mâu thuẫn; không thể tìm được một điều nào riêng lẻ bởi vì cả hai chỉ là cách biểu hiện khác nhau của cùng một sự vật.
Điều mà tôi cho là tốt hôm qua thì hôm nay có thể tôi không còn xem là tốt nữa. Khi hồi tưởng lại quá khứ, nhìn lại những lý tưởng của đời mình tại những giai đoạn khác nhau, ta thấy quả nhiên là vậy. Có lúc lý tưởng của tôi là được cưỡi một cặp tuấn mã; lúc khác thì tôi cho rằng nếu tự tay làm được món mứt nào đó thì tôi hạnh phúc trọn vẹn; về sau, tôi lại nghĩ rằng tôi sẽ hoàn toàn thỏa mãn nếu có vợ đẹp con ngoan và tiền của rủng rỉnh. Hôm nay tôi cười nhạo tất cả những lý tưởng đó, xem như là điều vớ vẩn trẻ con. Kinh điển Vedānta nói rằng chắc chắn phải có lúc ta hồi tưởng lại và cười nhạo những lý tưởng đã từng khiến ta lo sợ đánh mất đi bản sắc cá nhân. Người nào trong chúng ta cũng đều muốn gìn giữ thể xác này đến vô hạn, đều nghĩ rằng chúng ta sẽ rất hạnh phúc, nhưng rồi sẽ đến lúc ta cười nhạo tất cả những ý tưởng này.
Giờ đây, nếu quả như điều đó là chân lý thì chúng ta đang ở tình trạng mâu thuẫn đầy tuyệt vọng – không tồn tại mà cùng không bất-tồn-tại, không khổ đau mà cũng chẳng hạnh phúc, mà là sự hòa hợp của cả hai. Như vậy thì kinh điển Vedānta cùng tất cả những triết học và tôn giáo khác có ích gì? Và trên hết, làm điều thiện thì có ích gì? Đây là câu hỏi xuất hiện trong tâm trí. Nếu quả thật là bạn không thể làm điều thiện mà không gây thêm điều ác, hễ bất cứ khi nào tạo ra hạnh phúc thì bạn cũng luôn đem lại khổ đau, như vậy người ta sẽ hỏi bạn : “Vậy thì làm điều thiện thì có ích gì?” Trước tiên, câu trả lời sẽ là : ta phải làm việc để giảm thiểu khổ đau, bởi vì đó là cách duy nhất khiến chúng ta hạnh phúc. Sớm muộn gì mỗi người trong chúng ta cũng tìm ra được điều này trong đời. Người thông minh tìm thấy sớm hơn một chút, còn kẻ đần độn sẽ tìm thấy muộn hơn một chút. Kẻ đần độn phải trả giá rất đắt cho khám phá này, còn kẻ thông minh lanh lợi trả giá ít hơn. Thứ hai, chúng ta phải làm việc vì bản thân ta, đó là cách duy nhất để thoát ra khỏi cuộc sống đầy mâu thuẫn này. Cả hai lực lượng thiện và ác đều giữ gìn cho vũ trụ được sinh động cho ta, cho đến khi ta thoát khỏi những giấc mơ và thôi trò nắn bùn làm bánh. Bài học đó ta cần phải học, và để học được nó phải cần đến nhiều, rất nhiều thời gian.
Tại nước Đức đã có những nỗ lực xây dựng một nền triết học dựa trên nền tảng : Cái Vô Hạn trở thành hữu hạn. Tại nước Anh cũng vậy. Lập trường của những triết gia này được phân tích như vầy : Cái Vô Hạn cố gắng biểu hiện tự thân trong vũ trụ này, và đến một thời điểm nào đó Cái Vô Hạn sẽ thực hiện thành công. Tất cả đều rất tốt đẹp, và chúng ta đã sử dụng các danh từ Vô Hạn, hiển thị, biểu hiện v.v…, nhưng theo lý tự nhiên thì các triết gia yêu cầu nền tảng lý luận cơ bản cho lời phát biểu rằng cái hữu hạn cũng có thể toàn nhiên biểu hiện trong Cái Vô Hạn, Cái Tuyệt Đối; và Cái Vô Hạn chỉ có thể biến thành vũ trụ này là do sự giới hạn. Mọi sự vật đều bị giới hạn nếu thông qua giác quan, thông qua tâm trí hoặc thông qua trí năng; cái bị giới hạn mà trở thành vô biên vô hạn là điều hoàn toàn phi lý và không thể xảy ra.
Kinh điển Vedānta, mặt khác, tuyên bố như thực rằng Cái Tuyệt Đối hay Cái Vô Hạn đang cố gắng biểu hiện tự thân trong cái hữu hạn, nhưng sẽ đến một lúc nó thấy điều đó là bất khả, nên sẽ nhanh chóng rút lui, và sự rút lui nhanh chóng này có nghĩa là buông xả, từ bỏ – đó là khởi đầu chân chính của tôn giáo. Ngày nay thật khó mà nói đến hai chữ buông xả. Ở Mỹ, người ta nói tôi là người đến từ một vùng đất chết đã bị chôn vùi cách hàng năm ngàn năm rồi, để nói về sự buông xả. Có lẽ các triết gia người Anh cũng nói thế. Nhưng quả thực, đó là con đường duy nhất dẫn đến tôn giáo. Buông xả và từ bỏ. đấng Christ đã nói gì? “Kẻ nào vì ta mà đánh mất sự sống sẽ tìm thấy nó”. Ngài dạy đi dạy lại sự buông xả như là con đường duy nhất dẫn đến sự toàn thiện.
Sẽ đến lúc tâm trí thức tỉnh, thoát ra khỏi cơn trường mộng thê lương này – đứa bé từ bỏ trò chơi và muốn quay về với mẹ. Nó tìm thấy chân lý trong lời nói : “Không thể làm thỏa mãn tham dục bằng sự hưởng thụ, điều đó chỉ làm cho tham dục tăng thêm như ngọn lửa khi tưới bơ vào”. Đây là sự thực đối với mọi sự hưởng lạc bằng giác quan, bằng trí thức hoặc mọi sự hưởng lạc những thứ mà tâm trí con người có thể nghĩ ra. Chúng là hư không, chúng nằm trong māyā, nằm bên trong mạng lưới mà ta không thể vượt ra ngoài. Ta có thể bươn chải ở trong mạng lưới đó trong khoảng thời gian vô tận mà không tìm thấy đâu là điểm dừng, và bất cứ khi nào ta cố tìm cho được sự khoái lạc nhỏ nhoi thì một đống khốn khổ sẽ đổ ập lên đầu chúng ta. Thật đáng sợ biết bao! Khi nghĩ đến điều này, tôi không thể không xem học thuyết māyā, xem lời phát biểu rằng tất cả đều là māyā, là cách lý giải duy nhất và tuyệt hảo nhất.
Số lượng những nỗi bất hạnh trong thế giới này thật là khổng lồ; và nếu bạn du lịch qua nhiều quốc gia, bạn sẽ thấy rằng quốc gia này thì tìm cách chữa trị những điều xấu xa bằng phương tiện này, quốc gia khác thì bằng phương tiện kia. Cùng một điều xấu xa nhưng mỗi quốc gia lại cố gắng khống chế bằng nhiều phương thức khác nhau, vậy mà chẳng có quốc gia nào thành công. Nếu điều xấu xa giảm đến mức tối thiểu ở điểm này thì nó lại tập trung ở điểm khác. Sự vật cứ diễn ra như thế.
Người Ấn Độ, do rất xem trọng sự thuần chủng, nên ủng hộ tục tảo hôn; điều đó trong suốt một thời gian dài đã làm giống nòi này suy kiệt. Song đồng thời, tôi cũng không thể phủ nhận rằng tục tảo hôn lại giúp cho giống nòi được thuần chủng hơn. Các bạn sẽ chọn điều gì? Nếu các bạn muốn quốc gia được thuần chủng hơn thì sẽ làm cho dân tộc suy yếu về thể chất bởi tục tảo hôn. Ngược lại, các bạn ở nước Anh thì có tốt hơn không? Không, bởi vì tình trạng thuần chủng là sự sống còn của một quốc gia. Các bạn há lại không thấy rằng, trong lịch sử, dấu hiệu diệt vong đầu tiên của một quốc gia là đánh mất đi sự thuần chủng. Khi điều đó xảy ra thì sự diệt vong của một chủng tộc hiện ngay ra trước mắt. Vậy thì chúng ta sẽ có giải pháp nào cho những khốn khổ này? Nếu cha mẹ chọn vợ chọn chồng cho con cái thì điều tệ hại này được giảm đến mức tối thiểu. Những người con gái ở Ấn Độ có đầu óc thực tế hơn là cảm xúc. Nhưng cuộc đời họ có quá ít những điều thơ mộng. Lại nữa, nếu mọi người tự mình chọn chồng chọn vợ thì điều đó dường như cũng không mang đến nhiều hạnh phúc. Người phụ nữ Ấn Độ thường rất hạnh phúc, hiếm khi có chuyện vợ chồng cãi lộn nhau. Mặt khác tại Mỹ, một quốc gia có nền tự do vĩ đại nhất, con số những gia đình và hôn nhân bất hạnh cũng rất lớn.
Tại đây, tại đó, ở đâu đâu cũng có sự bất hạnh. Điều đó cho thấy gì? Rằng, rốt cuộc, tất cả những lý tưởng đó không đem lại nhiều hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều phấn đấu để được hạnh phúc, và ngay khi ta có được chút ít hạnh phúc bên này thì lại gặp bất hạnh ở bên kia.
Vậy thì chúng ta không làm điều tốt nữa ư? Vâng, với sự nhiệt tình hơn bao giờ hết. Nhưng điều mà sự hiểu biết này đem lại cho chúng ta là đập tan óc cuồng tín của chúng ta. Người Anh không nên cuồng tín thêm nữa và thôi chửi rủa người Ấn Độ. Họ sẽ học cách tôn trọng phong tục tập quán của những quốc gia khác. Sẽ bớt đi óc cuồng tín, và có nhiều thêm những công việc thực sự. Những kẻ cuồng tín không thể làm việc, họ phung phí đến ba phần tư năng lượng. Chỉ những người thực tế, điềm tĩnh, đầu óc tỉnh táo mới làm việc được. Do đó, năng lực làm việc sẽ tăng thêm nhờ ý tưởng này. Biết rằng đó là trạng thái của sự vật, ta sẽ kiên nhẫn hơn nữa. Cảnh tượng khốn khổ hay tội ác sẽ không thể làm đầu óc ta mất quân bình mà khiến ta chạy theo những chiếc bóng. Bởi vậy, lòng kiên nhẫn sẽ đến với chúng ta, vì biết rằng thế giới này sẽ phải vận hành theo dòng chảy riêng của nó. Chẳng hạn, nếu tất cả loài người đều trở nên tốt đẹp thì trong thời gian đó muông thú tiến hóa thành người, và sẽ phải chuyển qua trạng thái tương tự, và đến lượt cỏ cây cũng vậy.
Nhưng chỉ có một điều duy nhất chắc chắn : con sông chảy cuồn cuộn ra biển, và mọi giọt nước cấu tạo nên dòng nước sớm muộn gì cũng đều bị cuốn về đại dương bao la vô tận. Trong đời sống cũng thế đối với mọi niềm vui và nỗi buồn, khổ đau và hạnh phúc, nụ cười và nước mắt, chỉ có một điều chắc chắn là vạn hữu đang hối hả lao về đến đích, vấn đề chỉ là thời gian để các bạn và tôi, cây cỏ cùng muông thú, cùng mọi phân tử của đời sống đang tồn tại phải đạt đến Đại Dương Viên Mãn Vô Biên, phải đạt đến Tự Do và Thượng Đế.
Một lần nữa, tôi xin nhắc lại rằng lập trường của triết học Vedānta không bi quan mà cũng chẳng lạc quan. Triết học đó không bảo rằng thế giới này toàn ác hay toàn thiện. Nó bảo rằng điều ác của ta cũng có giá trị không kém gì điều thiện, và điều thiện của ta cũng có giá trị không kém gì điều ác. Thiện ác gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Đó là thế giới, và khi hiểu được điều này, các bạn sẽ làm việc với sự kham nhẫn kiên trì.
Để làm gì? Vì sao ta phải làm việc? Nếu đó là trạng thái của vạn vật thì ta sẽ làm gì? Tại sao không trở thành người theo thuyết bất khả tri? Những người theo thuyết bất khả tri hiện đại cũng hiểu rằng không hề có giải pháp cho vấn đề này, hay nói theo ngôn ngữ của chúng ta là không có cách nào thoát ra khỏi điều tai ác của māyā, bởi vậy họ bảo ta nên thỏa mãn và hưởng thụ cuộc sống. Nhưng đây lại là một sai lầm, một sai lầm chí mạng, một sai lầm phi lý nhất. Và sai lầm đó là như vầy : cái mà các bạn gọi là cuộc sống có nghĩa là gì? Có phải các bạn muốn nói đến đời sống của giác quan? Về điểm này thì phần lớn chúng ta đều chẳng khác với loài vật bao nhiêu. Tôi dám chắc rằng không một vị nào ở đây lại có đời sống chỉ nằm trong phạm vi giác quan. Cảm xúc, tư tưởng và khát vọng của chúng ta là toàn bộ đời sống chúng ta; cuộc đấu tranh hướng đến lý tưởng vĩ đại, hướng đến sự toàn mãn này há chẳng phải là một trong những thành phần cấu tạo quan trọng nhất của cái mà ta gọi là cuộc sống hay sao? Theo các người theo thuyết bất khả tri thì ta phải hưởng thụ cuộc sống y như bản chất của nó. Lập trường của thuyết bất khả tri xem cuộc đời này, bỏ đi lý tưởng về sự toàn mãn, là tất cả những gì tồn tại. Người theo thuyết bất khả tri tuyên bố không thể nào đạt đến lý tưởng đó, cho nên anh ta phải từ bỏ việc truy tìm. Nhưng cuộc sống, trên tất cả, lại có nghĩa là cuộc truy tìm lý tưởng đó; điều cốt tủy của cuộc sống là hướng đến sự toàn mãn. Ta phải đạt đến lý tưởng đó, và do đó, ta không thể là những người theo thuyết bất khả tri, và không thể xem thế giới giống như nó đang biểu hiện được.
Thiên nhiên này, vũ trụ này là cái được gọi là māyā. Tất cả mọi tôn giáo ít nhiều cũng đều nỗ lực vượt qua cảnh giới tự nhiên – tôn giáo thô sơ nhất, hay tinh tế nhất đều biểu hiện điều đó thông qua thần thoại, qua thuyết biểu tượng, qua truyền kỳ về chư thần hay ma quỷ, qua những câu chuyện về các bậc thánh hay những nhà thấu thị, những vĩ nhân hay những nhà tiên tri, hoặc qua những quan điểm trừu tượng về triết học – tất cả đều có một mục đích, tất cả đều đang nỗ lực vượt qua những giới hạn này. Nói tóm lại, chúng đang đấu tranh để hướng đến tự do.
Dù có ý thức hay vô thức, con người vẫn cảm nhận được mình bị trói buộc; anh ta không là cái mà anh ta muốn được là. Anh ra học được một điều là tại bất cứ thời điểm nào, anh ta cũng phải nhìn chung quanh. Chính thời điểm đó, anh ta mới biết rằng mình bị trói buộc, đồng thời phát hiện ra rằng trong tâm hồn anh ta có một cái gì đó thèm bay bổng đến cõi bên kia, nơi mà thể xác không thể đi theo được, nhưng lại bị níu kéo bởi sự giới hạn này. Ngay cả trong những ý tưởng thấp kém nhất của tôn giáo về việc thờ phụng tổ tiên ông bà đã khuất và những yêu ma quỷ quái – những loại hung bạo nhất, tàn ác nhất, luôn rình rập quanh ngôi nhà của bạn bè ta, khoái cảnh đổ máu và rượu mạnh – ta vẫn thấy một nhân tố chung, đó là nhân tố tự do. Kẻ nào muốn thờ cúng chư thần nhìn thấy trong những đối tượng thờ cúng đó, trên tất cả mọi thứ, một sự tự do vĩ đại hơn bản thân mình. Nếu cánh cửa khép kín, họ tin rằng chư thần vẫn có thể đi xuyên qua, và những bức tường kia chẳng thể ngăn trở họ. Ý tưởng về tự do tăng dần đến cho đến khi đạt đến lý tưởng về một Thượng Đế Mang Hình Ảnh Con Người hay Thượng Đế Nhân Thể [Personal God], mà quan điểm trung tâm của lý tưởng là như vầy : Ngài là đấng Hằng Hữu vượt trên mọi giới hạn của tự nhiên, của māyā.
Có thể nói là tôi thấy trước mắt tôi, tại một chốn u cư tịch mịch nào đó trong rừng, các bậc hiền nhân Ấn Độ thời cổ đại đang bàn luận về vấn đề này; và tại một chốn ẩn cư khác – nơi mà ngay cả những bậc hiền triết thành trí nhất, kỳ cựu nhất cũng không tìm ra được lời giải đáp – một chàng trai đứng giữa họ và tuyên bố : “Hãy nghe đây, hỡi những người con bất tử, hãy nghe đây, hỡi những kẻ sống trong những cung điện tráng lệ nguy nga, ta đã tìm ra nẻo đạo. Nhờ biết được Ngài – đấng nằm bên kia sự vô minh tăm tối – mà chúng ta có thể vượt qua được bên kia cái chết”.
Māyā ở khắp mọi nơi.
Nó thật là khủng khiếp. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể làm việc thông qua nó. Kẻ
nào nói rằng anh ta sẽ làm việc khi thế giới này trở nên toàn thiện và anh ta
sẽ hưởng thụ lạc phúc từ nó, kẻ đó cũng giống như người ngồi bờ sông Ganges và
nói : “Tôi sẽ băng qua con sông này, khi nào nước của nó chảy hết về đại
dương”. Phương thức của chúng ta không phải là tùy thuận theo māyā, mà chống
lại nó. Đó là một nhân tố khác cần phải học hỏi. Chúng ta không sinh ra như là
những người giúp đỡ thiên nhiên mà là những người ganh đua với thiên nhiên.
Chúng ta là chủ nhân của thiên nhiên, nhưng chúng ta lại tự trói buộc để kéo
mình xuống thấp. Vì sao có cái nhà ở đây? Thiên nhiên có xây dựng nó đâu. Thiên
nhiên bảo : “Hãy đi vào sống trong rừng”. Con người bảo : “Tôi sẽ xây một ngôi
nhà và chiến đấu với thiên nhiên”. Và anh ta đã làm vậy. Toàn bộ lịch sử nhân
loại là cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để chống lại cái gọi là quy luật tự
nhiên, và cuối cùng con người đã chiến thắng. Đi vào thế giới nội tâm, ta cũng
thấy diễn ra một cuộc chiến tương tự, cuộc chiến giữa con người thú vật và con
người tâm linh, giữa ánh sáng và bóng tối; và ở nơi đây con người lại chiến
thắng. Có thể nói là con người đã vạch ra một con đường giữa lòng thiên nhiên
để đi đến tự do. Như vậy, ta thấy rằng ở cõi bên kia māyā, các triết gia
Vedānta đã tìm ra được một cái gì đó không bị ràng buộc bởi māyā; và nếu ta có
thể đạt được đến cảnh giới đó thì ta sẽ thoát khỏi sự ràng buộc của māyā. Ý
tưởng này, dù ở hình thức này hay hình thức khác, chính là thuộc tính chung của
mọi tôn giáo. Nhưng với triết học Vedānta thì điều đó chỉ là sự khởi đầu của
tôn giáo chứ không phải là cứu cánh. Ý tưởng về một Thượng Đế Nhân Thể, về đấng
Thống Trị và Sáng Tạo Vũ Trụ, theo cách con người phác họa về Ngài, đấng Thống
Trị Māyā hay Thống Trị Thiên Nhiên, không phải là cứu cánh của những ý tưởng
này trong triết học Vedānta; nó chỉ là sự khởi đầu. Ý tưởng đó cứ phát triển dần
cho đến khi triết gia Vedānta chứng ngộ được rằng Ngài – Đấng đứng bên ngoài – chính
là bản thân mình và, trên thực tế, đang tiềm ẩn trong tự tâm mình. Ông ta chính
là con người tự tại tự do, nhưng do những giới hạn nên cứ ngỡ rằng mình bị trói
buộc[15].
(Diễn thuyết tại London, 20 tháng 10, 1896)
Chúng ta thấy rằng quan niệm về māyā – có thể nói là một trong những học thuyết trụ cột của Tuyệt đối luận Vedānta – ngay từ buổi ban đầu đã được nảy sinh trong những Samhitā, và trên thực tế thì mọi tư tưởng được phát huy trong các Upanishad đều đã có sẵn trong các Samhitā dưới hình thức này hay hình thức khác. Đến hôm nay, phần lớn các bạn đã quen dần với khái niệm māyā, và đã hiểu rằng đôi khi nó bị giải thích một cách lệch lạc như là ảo tưởng, ảo giác. Diễn dịch ý nghĩa của danh từ này chẳng thú vị gì mà lại không chính xác. Māyā không phải là một học thuyết, nó chỉ đơn thuần là lời phát biểu về một vũ trụ y như thực. Muốn hiểu được māyā, ta phải truy nguyên về các Samhitā và bắt đầu với quan niệm này từ buổi phôi thai.
Chúng ta đã thấy chư thiên (Deva) xuất hiện như thế nào. Thoạt tiên, chư thiên được hiểu như là những sinh thể đầy quyền năng, chứ không là gì khác. Hầu hết các bạn đều khiếp hãi khi đọc các cổ thư của người Hy Lạp, người Do Thái, người Ba Tư hoặc của những dân tộc khác, vì thấy đôi lúc những vị thần thời cổ đại đó làm những điều mà ta thấy rất là ghê tởm. Nhưng khi đọc những cổ thư đó, ta hoàn toàn quên mất rằng chúng ta là những người của thế kỷ hiện đại, còn những vị thần đó đã sống cách đây hàng mấy ngàn năm. Chúng ta cũng quên mất rằng những dân tộc thờ phụng những vị thần đó không thấy có gì là phi lý trong nhân cách chư thần, không thấy có gì khiến họ phải sợ hãi, bởi vì chư thần rất giống với bản thân họ.
Tôi cũng xin lưu ý rằng đó là một trong những bài học vĩ đại nhất mà ta đã học được trong suốt đời mình. Khi phán xét những kẻ khác, ta luôn phán xét họ bằng những lý tưởng riêng của ta. Đó là điều không nên. Mọi người cần phải được phán xét theo chính lý tưởng riêng của họ, chứ không phải bằng bất kỳ một lý tưởng nào khác. Khi cư xử với người đồng loại, ta thường xuyên phạm phải sai lầm này, và tôi cho rằng phần lớn những cuộc tranh cãi của chúng ta với người khác chỉ do một nguyên nhân này : ta luôn luôn đem thần thánh của chúng ta để phán xét thần thánh trong các tín ngưỡng khác, đem lý tưởng của chúng ta để phán xét lý tưởng của người khác, đem những động cơ của chúng ta để phán xét động cơ của người khác. Trong một số tình huống cụ thể thì tôi có thể làm một số việc nào đấy, và khi tôi thấy người khác cũng hành động y như vậy thì tôi lại cho rằng động cơ để anh ta và tôi hành động là như nhau, mà ít khi chịu nghĩ rằng mặc dù kết quả là như nhau, nhưng nhiều nguyên nhân khác nhau cũng có thể cho ra cùng một kết quả như nhau. Người kia có thể hành động như tôi, nhưng với những động cơ hoàn toàn khác hẳn với động cơ đã thôi thúc tôi. Bởi vậy, khi phán xét những tôn giáo cổ đại, ta không được dựa vào thiên kiến, mà phải đặt ta vào lập trường tư tưởng và đời sống tại thời điểm cổ xưa ấy.
Ý nghĩ về một đức Jehovah độc ác và tàn bạo trong kinh Cựu Ước đã làm cho biết bao nhiêu người phải kinh hãi – nhưng vì sao lại thế? Những người đó lấy quyền gì để cho rằng đức Jehovah của người Do Thái cổ đại là đại diện cho ý tưởng về Thượng Đế quy ước ngày nay? Đồng thời, ta cũng không được quên rằng những thế hệ mai sau cũng sẽ có người cười nhạo ý tưởng của chúng ta về tôn giáo và Thượng Đế, giống như ta cười nhạo ý tưởng về tôn giáo và Thượng Đế của người cổ đại. Tuy vậy, sợi chỉ vàng chạy xuyên suốt qua tất cả những quan niệm khác nhau đó là tính nhất quán; và mục tiêu của triết học Vedānta là khám phá ra được sợi chỉ này.”Ta là sợi chỉ chạy xuyên suốt qua tất cả những quan niệm khác nhau này, mà mỗi ý tưởng đều giống như một hạt ngọc”, thần Krishna đã nói vậy; và nhiệm vụ của triết học Vedānta là xác lập được sợi chỉ liên kết đó, cho dù những ý tưởng này có thể không phù hợp hoặc đáng kinh sợ khi phán xét theo quan niệm ngày nay.
Trong bối cảnh thời quá khứ, những ý tưởng này rất hài hòa, và không hề gớm guốc hơn những ý tưởng của chúng ta ngày nay. Chỉ khi nào ta mang chúng ra khỏi bối cảnh của chúng, và đem áp dụng vào tình trạng hiện hành của chúng ta thì sự ghê tởm ấy mới hiện rõ ra. Bởi vì những môi trường cổ xưa đã mất đi và không còn nữa. Cũng như những người Do Thái cổ đã phát triển thành người Do Thái sắc bén, tinh tế hiện đại; người Aryan cổ xưa phát triển thành những người Ấn Độ trí thức; tương tự như vậy, đức Jehovah cũng phát triển và chư thiên cũng phát triển. Sai lầm lớn lao nằm ở chỗ công nhận sự tiến hóa của những người sùng bái mà lại không chịu thừa nhận sự tiến hóa của đối tượng được sùng bái. Người ta không chịu tin rằng Thượng Đế đi đôi cùng với sự tiến bộ mà tín đồ Ngài đã tạo ra. Điều đó muốn nói rằng các bạn và tôi, hiểu theo nghĩa là những ý tưởng tượng trưng, cũng đã phát triển; chư thần, hiểu theo nghĩa là những ý tưởng tượng trưng, cũng đã phát triển.
Điều này có thể khiến cho các bạn tò mò – đó là quan niệm cho rằng Thượng Đế cũng có thể phát triển. Ngài không thể. Tương tự theo nghĩa đó, con người chân thực không bao giờ phát triển. Những quan niệm của con người về Thượng Đế thì thường xuyên biến đổi và lớn mạnh. Ở đoạn sau, chúng ta sẽ thấy đằng sau mỗi biểu hiện mang tính người này là một con người chân thực bất động và bất biến như thế nào, luôn thuần tịnh và viên mãn ra làm sao. Cũng tương tự như thế đó, ý tưởng mà chúng ta dùng để định hình Thượng Đế cũng chỉ thuần là sự biểu hiện, là sự sáng tạo của chính ta. Đằng sau đó là một Thượng Đế Bất Biến, đấng Bản Lai Thuần Tịnh, đấng Như Như Bất Động. Nhưng sự biểu hiện thì luôn luôn biến động, phát lộ thực tại càng lúc càng nhiều. Khi nó phát lộ được nhiều hơn nữa những sự kiện nằm ở đằng sau thì ta gọi đó là sự tiến bộ, còn khi nó che giấu được nhiều hơn nữa những sự kiện đằng nằm ở sau thì ta gọi đó là sự thoái bộ. Do vậy, khi chúng ta phát triển thì chư thần cũng phát triển. Xét từ quan điểm bình thường, trong quá trình tiến hóa chúng ta biểu lộ được bản thân mình như thế nào thì chư thần cũng biểu lộ được tự thân như thế ấy.
Bây giờ chúng ta sẽ đứng tại một lập trường để tìm hiểu học thuyết māyā. Mọi tôn giáo trên thế giới đều nêu ra một vấn đề để thảo luận, là như vầy : Vì sao lại có sự bất hài hòa trong vũ trụ này? Vì sao lại có điều xấu xa trong vũ trụ này? Ta không hề tìm thấy câu hỏi này trong bất kỳ tư tưởng nào của những tôn giáo cổ sơ; bởi vì đối với người nguyên thủy thì thế giới không có gì là vô lý. Tình cảnh nào đối với họ cũng êm giầm xuôi mái; không hề có xung đột về ý tưởng; đối với họ không hề có sự đối kháng giữa thiện và ác. Trong tâm hồn họ, chỉ có một cảm xúc cất lên tiếng nói “ừ” với vật này, và”không” với vật kia. Người nguyên thủy là con người của cảm xúc bồng bột. Chư thần cũng vậy, họ là những tạo vật của cảm xúc bồng bột. Indra đến và đánh cho thế lực ma quỷ thua tan tác; đức Jehovah thì hài lòng với người này, bất mãn với người kia, vì những lý do không một ai hiểu mà cũng chẳng ai thắc mắc. Thói quen tra hỏi chưa khởi dậy, và chư thần làm điều gì cũng được xem là đúng. Không có ý tưởng về thị phi, thiện ác. Chư thiên làm nhiều điều tà ác theo nhận thức của ta về thế giới; Indra thì năm lần bảy lượt cùng các vị thần phạm nhiều điều tà ác, nhưng những tín đồ sùng bái thần Indra chưa có ý niệm về tà ác, nên họ không hề tra hỏi chư thần.
Chỉ khi ý tưởng về đạo đức tiến bộ thì mới xảy ra đấu tranh. Một cảm thức nào đó trỗi dậy trong con người, được những quốc gia khác nhau gọi bằng những tên gọi khác nhau. Dù gọi nó là tiếng nói của Thượng Đế, hay là kết quả của giáo dục thời cổ, hoặc bằng bất kỳ tên gọi nào các bạn thích thì hiệu quả của nó vẫn là chế ngự những cảm xúc bồng bột tự nhiên của con người. Trong tâm trí ta có một cảm xúc bồng bột bảo :”Hãy làm đi!”, nhưng đằng sau nó lại có một tiếng nói vang lên :”Đừng!”. Có một lô ý tưởng trong tâm trí ta luôn đấu tranh để thoát ra ngoài thông qua những kênh giác quan, và đằng sau đó vẫn có một tiếng nói vang vọng mênh mang nhưng vô cùng yếu ớt : “Đừng hướng ngoại!”. Trong tiếng Phạn có hai mỹ từ chỉ những hiện tượng này : Pravritti nghĩa là hướng ngoại và Nivritti nghĩa là nội quán. Bản chất hướng ngoại thường ước thúc hành vi của chúng ta. Tôn giáo khởi đầu với bản chất nội quán. Tôn giáo khởi đầu với chữ “đừng” này. Tâm linh cũng khởi đầu với chữ”đừng” này. Khi chữ “đừng” không còn nữa thì tôn giáo đã không khởi đầu. Và chữ”đừng” này đã đến khiến tư tưởng con người phát triển, mặc kệ những vị thần ham chiến đấu mà họ thờ phụng.
Một chút yêu thương thức dậy trong trái tim nhân loại. Nó thực sự rất nhỏ, và thậm chí đến bây giờ nó cũng chẳng lớn hơn. Thoạt tiên, tình yêu thương đó có lẽ hạn chế trong việc những thành viên trong một bộ lạc ôm hôn nhau. Những vị thần này yêu thương bộ lạc mình, và mỗi vị thần chỉ là vị thần trong bộ lạc, là thần bảo vệ bộ lạc đó. Và đôi khi những thành viên trong bộ lạc nghĩ rằng mình là hậu duệ của vị thần họ thờ phụng, cũng như những thị tộc tại một số quốc gia nghĩ rằng mình là hậu duệ của người sáng lập ra thị tộc. Trong thời cổ đại, thậm chí cả bây giờ, một số dân tộc tuyên bố rằng họ thuộc dòng dõi không chỉ của những vị thần bộ lạc mà còn là hậu duệ của Mặt Trời và Mặt Trăng. Các bạn đọc trong các cổ thư Sanskrit sẽ thấy những vị hoàng đế anh dũng vĩ đại thuộc các triều đại mặt trời và mặt trăng. Thoạt tiên, họ là những người thờ Mặt Trời và Mặt Trăng, dần dần đến lúc họ cho rằng mình hậu duệ của Thần Mặt Trời và Thần Mặt Trăng. Do đó, khi những tư tưởng mang tính bộ lạc này bắt đầu phát triển thì nảy sinh một chút yêu thương, một chút ý tưởng về bổn phận đối với kẻ khác, và một tổ chức xã hội nhỏ bé. Rồi theo lẽ tự nhiên, tư tưởng này đã đến : Làm sao ta có thể sống cùng nhau nếu không biết nhẫn nại chịu đựng và khoan dung tha thứ cho nhau? Làm thế nào một người có thể sống với đồng loại mà không thỉnh thoảng kiềm chế những cảm xúc bồng bột của mình, biết tự chủ để không làm những điều mà tâm trí cứ nhắc nhở phải làm? Điều đó bất khả. Từ đó mới nảy sinh ý tưởng kiềm chế. Toàn bộ kết cấu của xã hội đều dựa trên ý tưởng kiềm chế này, và tất cả chúng ta đều biết rằng bất kỳ ai, dù là nam hay nữ, nếu không biết đến bài học vĩ đại về lòng nhẫn nại và khoan thứ thì sẽ sống một đời khốn khổ.
Đến lúc này, khi những ý tưởng về tôn giáo nảy sinh thì cái nhìn vào một cảnh giới cao thượng hơn, đạo đức hơn đã đem ánh bình minh lan tỏa trên trí năng nhân loại. Người ta thấy các vị thần thời cổ đại luôn mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất; đó là những vị thần hung dữ ồn ào, phàm ăn tục uống của người cổ đại, chỉ tìm thấy khoái lạc trong mùi thịt nướng và rượu mạnh được dâng cúng. Thần Indra đôi khi uống say bí tỉ đến mức ngã lăn quay và nói năng những điều nhảm nhí. Những vị thần đó khó lòng được khoan dung thêm nữa. Quan niệm này đã nảy sinh từ việc muốn tìm kiếm các căn nguyên bên trong của những hành vi đó, và chư thần đã xuất hiện để chia sẻ công cuộc tìm kiếm. Người ta cần hiểu nguyên cớ của những hành vi như thế và phải cần đến lý trí. Do đó, con người đã từ bỏ chư thần kiểu này, và hơn thế nữa, họ đã phát triển những ý tưởng cao viễn hơn về chư thần. Có thể nói là họ giám sát mọi hành vi và phẩm chất của chư thần và loại bỏ những vị thần nào không thích hợp, mà chỉ giữ lại những vị thần nào họ có thể hiểu được, rồi phối hợp với nhau để gán cho một cái tên chung: Deva-deva, có nghĩa là Thượng Đế hay Thần của Chư thần. Vị Thượng Đế được sùng bái này không chỉ là biểu tượng của quyền năng, mà người ta còn yêu cầu một cái gì hơn thế nữa. Ngài là vị thần của đạo lý, ngài yêu thương loài người và ban ân huệ cho loài người. Nhưng ý tưởng về Thượng Đế vẫn còn đó. Họ phát triển thêm phần ý nghĩa đạo lý của ngài, đồng thời cũng tăng thêm sức mạnh quyền năng. Ngài trở thành một đấng đức độ nhất trong vũ trụ, đồng thời cũng là đấng hầu như toàn năng.
Nhưng toàn bộ công trình chắp vá này không giải quyết được gì. Khi sự lý giải đã phát triển đến một tỷ lệ lớn lao hơn thì điểm khó khăn, mà nó tìm cách giải quyết, cũng phát triển theo một tỷ lệ lớn lao y như vậy. Nếu phẩm chất của chư thần phát triển theo cấp số cộng thì những vấn nạn và sự hoài nghi phát triển theo cấp số nhân. Vấn nạn về đức Jehovah là điều vô cùng nhỏ bé khi so với vấn nạn về một Thượng Đế trong vũ trụ, và vấn đề đó vẫn còn kéo dài mãi cho đến tận ngày nay. Cớ sao dưới sự cai quản của một đấng Thượng Đế nhân ái toàn năng bao trùm vũ trụ mà thế gian lại có lắm điều xấu xa vậy? Ta có thể nhắm mắt làm lơ trước những điều đó, nhưng sự thực vẫn cứ sờ sờ ra đấy : thế giới này thật là đáng sợ. Nó quả là địa ngục của Tantalus[16]. Ở đây, chúng ta mang những thói bốc đồng mạnh mẽ và những dục vọng mãnh liệt, nhưng không bao giờ được thỏa mãn. Ở đó, một cơn sóng nổi lên xô ta tới trước không sao cưỡng nỗi, và ngay khi ta vừa bước tới thêm một bước thì nhận ngay một cú đấm. Tất cả chúng ta đều bị kết án phải sống ở đây trong cảnh đọa đày như Tantalus. Những lý tưởng nảy sinh trong trí não chúng ta vượt xa giới hạn của những lý tưởng thuộc về giác quan, nhưng khi tìm cách để diễn đạt chúng thì ta không sao làm được. Mặt khác, ta còn bị đám đông sôi động quanh ta quật cho vỡ nát tan tành. Tuy nhiên, nếu tôi từ bỏ mọi cảnh giới lý tưởng và chỉ đấu tranh cả đời vì cái thế giới này thì sự tồn tại của tôi chỉ là sự tồn tại của một kẻ cục súc mọi rợ, và tôi tự làm thoái hóa, suy đồi chính bản thân mình. Không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc. Bất hạnh là số phận của những kẻ được sinh ra và hài lòng sống trong thế giới này. Có một nỗi bất hạnh còn lớn hơn cả ngàn lần, đó là số phận của những kẻ dám đứng lên đi tìm chân lý cùng những điều cao cả hơn, và những kẻ dám yêu cầu một cái gì đó cao viễn hơn sự tồn tại thô thiển nơi đây. Đó là những sự kiện, nhưng không có lời giải thích – không thể có được lời giải thích. Những kinh điển Vedānta chỉ ra một con đường. Các bạn cần nhớ kỹ rằng tôi buộc lòng phải kể cho các bạn nghe về những sự kiện làm các bạn kinh hãi, nhưng nếu các bạn nhớ lại những gì tôi nói, tư duy về nó và tiêu hóa nó thì nó sẽ là của các bạn. Nó sẽ nâng các bạn lên một tầm cao hơn, giúp các bạn có thể thấu hiểu được chân lý và sống trong chân lý.
Lời phát biểu về sự kiện đó là như vầy : thế giới này là địa ngục dành cho Tantalus, chúng ta không biết một chút gì về cái vũ trụ này, mà đồng thời cũng không thể nói rằng chúng ta không biết. Tôi không thể bảo sợi xích đó tồn tại khi tôi nghĩ rằng tôi không biết gì về nó. Nó hoàn toàn có thể chỉ là ảo tưởng của trí não tôi. Tôi có thể mơ mộng trong mọi lúc. Tôi đang mơ rằng tôi đang nói chuyện với các bạn, và các bạn đang lắng nghe tôi. Không một ai có thể chứng minh rằng điều này không phải là giấc mộng. Ngay cả trí não tôi cũng có thể là một giấc mộng, vì không một ai đã từng nhìn được bộ não của mình. Tất cả chúng ta đều xem đó là chuyện tất nhiên. Đối với mọi chuyện cũng đều thế cả. Tôi xem xác thân tôi là một cái gì đó đương nhiên. Đồng thời tôi lại không thể bảo rằng tôi không biết. Lập trường giữa kiến thức và vô minh, cái cảnh tượng hoàng hôn huyền ảo này, sự hòa trộn lẫn giữa chân và giả đó – và nơi chúng gặp gỡ nhau – là điều không một ai biết. Ta đang bước đi giữa một cơn trường mộng trong thể điệu ngủ gật mơ màng, đi suốt cả đời mình giữa lớp sương mù; và đó là số phận của mỗi người chúng ta. Đó là số phận của mọi tri thức thuộc giác quan. Đó là số phận của mọi nền triết học, của mọi nền khoa học khoác lác, của mọi tri thức khoa trương của loài người. Đó là vũ trụ này.
Dù ta có nói về vấn đề vật chất hay tinh thần hoặc bất cứ điều gì khác – mà ta có thể gọi theo tên gì tùy thích – thì một sự kiện vẫn hiện sờ sờ ra đấy : ta không thể bảo rằng chúng hiện hữu, mà cũng không thể bảo rằng chúng không hiện hữu. Ta không thể bảo rằng chúng đơn nhất, mà cũng không thể bảo rằng chúng đa thù. Tấn tuồng muôn thuở bất khả phân ly, bất khả tách biệt giữa ánh sáng và bóng tối vẫn cứ mãi diễn ra ở đó. Do tấn tuồng này mà vũ trụ có vẻ như là thực hữu, mà đồng thời cũng là bất thực, và chúng ta có vẻ như là thức tỉnh mà đồng thời cũng là ngái ngủ. Đây là lời phát biểu về sự kiện này, và ta gọi đó là māyā.
Chúng ta sinh ra trong māyā này, sống trong đó, tư duy trong đó và mơ mộng trong đó. Chúng ta là những triết gia trong đó, là những con người tâm linh trong đó, vâng, chúng ta là những con quỷ trong māyā này, và đồng thời cũng là chư thần trong māyā này. Hãy đưa tư tưởng của các bạn mỗi lúc một lên cao hơn nữa, hãy gọi chúng là cái vô biên hay bằng bất cứ danh từ nào mà bạn thích thì ngay cả những tư tưởng đó cũng nằm trong māyā. Không thể khác đi được. Toàn thể khối tri thức của nhân loại là sự khái quát hóa cái māyā này, là nỗ lực tìm hiểu nó đúng như nó đang hiện hữu. Đó là sự tạo tác của nāma-rupa, tức danh sắc. Phàm mọi sự vật nào có sắc tướng, hay gợi lên ý tưởng trong tâm ta cũng đều nằm trong phạm vi của māyā; bởi vì tất cả những sự vật nào chịu sự chi phối của quy luật không gian, thời gian và quan hệ nhân quả cũng đều nằm trong phạm vi của māyā.
Ta hãy lùi một chút về với những ý tưởng ban sơ về Thượng Đế, và xem thử cái gì đã biến thành những ý tưởng đó. Ta lập tức nhận ra ngay rằng ý tưởng về một đấng Hằng Hữu luôn thương yêu chúng ta – một đấng hoàn toàn vô ngã và toàn năng vĩnh viễn, cai quản cả vũ trụ này – cũng không thể làm ta thỏa mãn.”Vị Thượng Đế nhân từ, công chính đó ở nơi đâu?”, triết gia lên tiếng hỏi. Ngài có thấy hàng triệu hàng triệu những đứa con của Ngài đang diệt vong tàn lụi, dưới hình thức loài người hay loài vật hay không, bởi vì có ai có thể sống một phút giây mà không giết những sinh vật khác? Các bạn có thể thở ra một hơi mà không giết hàng ngàn sinh vật khác hay không? Bạn sống, vì hàng triệu sinh vật khác đã chết. Từng phút giây trong đời sống các bạn, mỗi hơi thở các bạn thở ra là cái chết của hàng ngàn sinh vật khác. Tại sao chúng lại phải chết đi?
Lối ngụy biện cũ mèm cho rằng vì chúng là loài sinh vật rất thấp. Giả sử là vậy đi chăng nữa thì vấn đề vẫn còn rất đáng hoài nghi, vì ai biết được liệu con kiến vĩ đại hơn con người hay con người vĩ đại hơn con kiến? Ai có thể chứng minh được điều đó bằng cách này hay cách khác? Ngoài vấn đề đó ra, thậm chí khi mặc nhiên chấp nhận rằng chúng là loài sinh vật cấp thấp đi nữa thì vì sao chúng lại phải chết? Nếu chúng là sinh vật cấp thấp thì chúng lại càng có lý do để tồn tại. Sao lại không chứ? Bởi vì chúng sống bằng cảm giác nhiều hơn, nên chúng cảm nhận được khoái lạc và khổ đau nhiều hơn các bạn và tôi đến vạn ngàn lần. Ai trong số chúng ta có thể ăn bữa tối một cách khoái trá như một con chó hay con sói? Không hề có, bởi vì năng lực của chúng ta không nằm trong phạm vi cảm xúc; mà chúng nằm trong trí năng, trong tinh thần. Nhưng đối với loài vật thì toàn bộ linh hồn chúng đều nằm trong phạm vi cảm giác, nên chúng có thể nổi điên lên hoặc vui sướng hưởng thụ những sự vật mà con người không bao giờ nghĩ đến, và sự đau đớn cũng tương xứng với sự sung sướng. Sung sướng và đau đớn cùng được tan chảy theo một mức độ như nhau. Nếu con vật cảm nhận được sự sung sướng một cách nhạy bén hơn con người thì hậu quả là chúng cũng cảm nhận được sự đau đớn nhạy bén như con người, nếu không muốn nói là còn nhạy bén hơn cả con người. Bởi vậy, thực tế là sự đau đớn và nỗi bất hạnh mà con người cảm nhận khi hấp hối mạnh gấp ngàn lần so với con vật, vậy mà ta cứ thản nhiên giết chúng mà không hề bận tâm gì đến tình cảnh khốn khổ của chúng. Đây là māyā.
Nếu ta giả thiết rằng có một Thượng Đế Nhân Thể [Personal God] toàn năng làm nên mọi sự thì những cái gọi là cách giải thích và học thuyết – vốn cố gắng chứng minh rằng điều thiện xuất phát từ điều xấu xa – đều bất toàn, thiếu sót. Hãy để cho hai mươi ngàn điều tốt đẹp nảy sinh, nhưng vì sao chúng lại phải xuất phát từ điều xấu xa? Trên nguyên tắc tôi có thể cắt cổ những người khác chỉ để thỏa mãn sự khoái lạc của ngũ quan. Không có lý nào lại thế. Vì sao điều thiện lại phải xuất phát từ điều xấu xa? Câu hỏi đó vẫn cứ bị bỏ ngỏ không có lời giải đáp, và không thể có lời giải đáp. Nền triết học Ấn Độ bị ép buộc phải chấp nhận sự kiện này.
Triết học Vedānta đã từng là (và vẫn đang là) hệ thống tôn giáo dũng cảm nhất. Nó không dừng chân lại tại bất cứ nơi đâu, và có được lợi thế. Không một ai trong giới tăng lữ tìm cách đàn áp những người cố nói lên chân lý. Luôn có tự do tín ngưỡng tuyệt đối. Tại Ấn Độ, sự ràng buộc của mê tín dị đoan là sự ràng buộc mang tính xã hội; còn ở đây tại phương Tây thì xã hội rất tự do. Những vấn đề xã hội tại Ấn Độ rất là khắt khe, nhưng tư tưởng tôn giáo thì lại tự do. Tại nước Anh, một người có thể ăn mặc tùy theo sở thích, và ăn uống bất cứ thứ gì anh ta khoái mà chẳng có ai phản đối, nhưng nếu anh ta bỏ một buổi đi lễ nhà thờ thì lời phê phán của cô nàng Grundy[17] lập tức đổ lên đầu anh ta ngay. Trước hết, anh ta phải thích nghi với quan niệm của xã hội về tôn giáo, rồi sau đó anh ta mới có thể tư duy về chân lý. Trái lại, tại Ấn Độ, nếu một người dùng cơm với người không thuộc chủng cấp của mình thì tất cả những thế lực khủng khiếp của xã hội sẽ vùi dập cho anh ta tan tành tơi tả. Một người chỉ cần ăn mặc hơi khác với y phục mà tổ tiên anh ta đã mặc hàng bao thế hệ trước đó thì coi như xong đời. Tôi nghe kể có một người bị xã hội trục xuất chỉ vì anh ta đi bộ hàng mấy dặm để xem cho được chuyến xe lửa đầu tiên. Đấy, chúng ta sẽ xem như điều đó không có thực! Nhưng trong tôn giáo, ta tìm thấy nào là kẻ vô thần, người duy vật, nào là tín đồ Phật giáo, tín điều, tư tưởng, cùng những tư duy tư biện tại mọi giai đoạn với vô vàn sắc thái, nào là những tính chất đáng kinh ngạc, tất cả đều cùng tồn tại bên nhau. Những nhà truyền giáo của mọi tông phái đi khắp nơi để truyền giảng và tìm kiếm tín đồ; và chính tại những cánh cổng của những đền thờ chư thần, các tu sĩ Brāhman thậm chí vẫn cho phép những người duy vật đứng tại nơi đó để trình bày ý kiến.
Đức Phật viên tịch khi mãn tuổi thọ. Tôi nhớ đến một người bạn của tôi, một nhà khoa học vĩ đại người Mỹ, rất mê đọc về cuộc đời đức Phật. Anh ta không thích cái chết của đức Phật, bởi vì ngài không bị đóng đinh. Thật là ý tưởng quá đỗi sai lầm! Bởi vì, phải bị giết hại mới là con người vĩ đại! Những ý tưởng như thế không bao giờ phổ biến tại Ấn Độ. Đức Phật vĩ đại đã vân du khắp Ấn Độ, phủ nhận thần linh của xứ sở này, thậm chí phủ nhận cả Thượng Đế của vũ trụ, vậy mà Ngài vẫn sống đến mãn tuổi thọ. Ngài đã sống đến tám mươi tuổi, và đã khiến một nửa đất nước này quy y theo Phật.
Rồi có những kẻ theo trường phái Chāvāka truyền giảng những điều vô cùng khủng khiếp, truyền bá một chủ nghĩa duy vật thô thiển nhất, trần trụi nhất, những điều mà ở thế kỷ 19 họ không dám công khai truyền giảng. Những kẻ theo trường phái Chāvāka được tự do truyền bá từ đền thờ này đến đền thờ khác, từ thành phố này đến thành phố khác rằng tôn giáo là thứ hoàn toàn vô ích, nó là trò lừa đảo của đám tu sĩ, kinh điển Veda chỉ là văn tự của lũ ngu ngốc, lưu manh và xảo quyệt, và không hề có Thượng Đế hay linh hồn bất tử. Nếu linh hồn có thực thì tại sao nó không quay về lại với thế gian sau khi chết, vì nhớ vợ thương con? Theo quan niệm của họ, nếu linh hồn có thực thì nó vẫn còn biết thương yêu sau khi chết, và vẫn cần tới thực phẩm và y phục. Tuy vậy, chẳng có ai làm tổn hại đến những kẻ theo trường phái Chāvāka này.
Ấn Độ luôn có những tư tưởng hoành tráng về tự do tôn giáo như vậy đó, và các bạn cần phải nhớ rằng tự do là điều kiện đầu tiên để phát triển. Bất cứ thứ gì mà các bạn không để cho tự do thì không thể nào phát triển được. Quan niệm cho rằng các bạn có thể giúp người khác phát triển, có thể dìu dắt và hướng dẫn họ, và các bạn luôn giữ vai trò tự do của người thầy, quan niệm đó thật là vô nghĩa, là điều dối trá nguy hiểm đã làm trì trệ sự phát triển của hàng triệu người trên thế giới. Hãy để cho con người có ánh sáng của tự do. Đó là điều kiện duy nhất để phát triển.
Tại Ấn Độ, chúng tôi cho phép tự do trong lĩnh vực tâm linh, và chúng tôi đã có được sức mạnh tâm linh vĩ đại trong tư tưởng tôn giáo, ngay cả trong thời đại ngày nay. Các bạn chấp nhận sự tự do tương tự trong lĩnh vực xã hội, cho nên các bạn có được một tổ chức xã hội huy hoàng. Chúng tôi không chấp nhận mở rộng tự do trong lĩnh vực xã hội nên xã hội chúng tôi là một xã hội tù túng. Các bạn chưa bao giờ có tự do trong lĩnh vực tôn giáo mà chỉ dùng lửa và lưỡi gươm để cưỡng bức đức tin, và hậu quả là tôn giáo chỉ phát triển èo uột trong tâm thức châu Âu. Tại Ấn Độ, chúng tôi phải tháo gỡ cùm gông ra khỏi xã hội, còn châu Âu thì phải tháo bỏ xích xiềng ra khỏi đôi chân của sự tiến bộ tâm linh. Như vậy sẽ dẫn đến sự phát triển tuyệt diệu của nhân loại. Nếu ta khám phá ra rằng có sự nhất quán xuyên suốt qua mọi sự phát triển trong lĩnh vực tâm linh, đạo đức và xã hội thì ta sẽ thấy rằng tôn giáo – theo nghĩa đầy đủ nhất của danh từ này – phải nhập thể vào xã hội, vào đời sống hàng ngày. Dưới ánh sáng của triết học Vedānta, các bạn sẽ hiểu rằng mọi bộ môn khoa học chỉ là sự biểu hiện của tôn giáo, của mọi thứ tồn tại trong vũ trụ này cũng đều vậy cả.
Trong xã hội, ta thấy có hai quan điểm : một quan điểm mang tính phê phán chỉ trích, quan điểm kia thì mang tính tích cực và xây dựng. Thật là rất đỗi lạ lùng khi các bạn tìm thấy điều này trong bất kỳ xã hội nào. Giả sử trong xã hội có điều xấu xa thì các bạn lập tức thấy có một nhóm khác trổi dậy lên án kịch liệt, không khoan nhượng đến mức đôi khi biến thành sự cuồng tín. Xã hội nào cũng có những kẻ cuồng tín, và phụ nữ thường gia nhập đám người kêu gào than khóc này, do bản tính bốc đồng. Mọi kẻ cuồng tín nào trổi dậy lên án một điều gì đó đều có thể tìm được những người ủng hộ. Đạp đổ thì rất dễ, một kẻ cuồng tín có thể đạp đổ mọi thứ hắn muốn, nhưng y khó lòng mà kiến tạo nên một thứ gì. Những kẻ cuồng tín này có thể làm được một vài đều tốt đẹp theo quan niệm của họ, nhưng thường thì chỉ mang đến tai họa. Bởi vì những thế chế xã hội không phải được xây dựng trong ngày một ngày hai, nên thay đổi chúng có nghĩa là xóa bỏ luôn căn nguyên kiến tạo. Giả sử có điều xấu xa : phủ nhận nó có nghĩa là xóa bỏ nó, nhưng các bạn phải giải quyết vấn đề ở tận gốc rễ. Trước tiên phải tìm cho được căn nguyên rồi xóa bỏ nó đi, hậu quả sẽ được xóa bỏ theo. Kêu gào than khóc suông không thể tạo nên được bất kỳ hậu quả nào, trừ phi nó thực sự tạo nên thảm họa.
Có những người cảm thông từ tận thâm tâm và hiểu được ý tưởng rằng ta phải đi sâu vào tận căn nguyên, đó là những vị thánh vĩ đại. Có một điều mà các bạn phải ghi nhớ, đó là các bậc đạo sư vĩ đại trên thế gian này đều tuyên bố rằng họ đến không phải để phá hủy mà để tựu thành. Có nhiều lúc thông điệp của họ không được ai hiểu, và sự nhẫn nại của họ được xem là sự thỏa hiệp không tương xứng những quan niệm phổ biến hiện hành. Thậm chí ngay cả giờ đây, đôi lúc các bạn cũng nghe nói rằng các nhà tiên tri cùng các bậc đạo sư là những người khá hèn nhát vì không dám nói những điều mà họ cho là đúng, nhưng sự thực không phải vậy. Đám người cuồng tín ít khi hiểu được năng lực vô biên của tình yêu trong trái tim của những vị thánh vĩ đại, vốn thương yêu toàn thể nhân loại như con mình. Họ là những người cha thực sự, là những thánh thần chân chính, trong tim chan chứa tình yêu bao la và lòng khoan dung vô tận đối với tất cả chúng sinh; họ sẵn sàng chịu đựng và tha thứ. Họ biết xã hội loài người phát triển như thế nào, nên kiên trì nhẫn nại tìm phương thuốc chắc chắn để chữa trị, không phải bằng cách phủ nhận và đe dọa con người, mà từng bước dìu con người đi lên một cách dịu dàng và nhân ái. Các tác giả của những kinh thư Upanishad là thế đó. Họ thấu hiểu sự xung khắc giữa những Thượng Đế quan cổ lỗ với những quan niệm đạo đức tiến bộ đương thời khó có thể thể dung hòa như thế nào; họ cũng biết tường tận rằng lời truyền giảng của những kẻ vô thần lại hàm chứa rất nhiều chân lý, vâng, nói cho đúng là chứa đựng những thỏi vàng chân lý; nhưng đồng thời họ lại hiểu rằng người nào muốn cắt đứt sợi dây đang kết nối các hạt ngọc thành xâu chuỗi, muốn xây dựng nên một xã hội mới không tưởng, cũng đều thất bại hoàn toàn.
Chúng ta không bao giờ kiến tạo nên điều gì mới, mà chỉ đơn giản là sắp xếp lại. Chúng ta không bao giờ có được điều gì mới, mà chỉ thay đổi vị trí của sự vật. Hạt giống biến thành cái cây một cách kiên trì và nhẹ nhàng. Chúng ta phải hướng năng lực của mình đến chân lý đó, tựu thành viên mãn chân lý đã từng tồn tại chứ không phải tạo nên chân lý mới. Bởi vậy, thay vì phủ nhận những Thượng Đế quan cổ lỗ vì chúng không phù hợp với thời hiện đại, các nhà hiền triết thời xưa lại đi tìm thực tại nằm bên trong chúng. Và kết quả là nền triết học Vedānta ra đời. Từ chư thần cổ đại và từ Thượng Đế độc nhất – đấng Cai Quản Vũ Trụ, họ tiến lên những tư tưởng cao viễn hoằng đại hơn. Và ý tưởng cao siêu nhất là cái mà họ gọi là Cái Tuyệt Đối Phi Nhân Thể [Impersonal Absolute], trong đó họ thấy được thể nhất như của vũ trụ.
Ai nhìn thấy được Nhất Thể chạy xuyên suốt trong cái thế
giới đa thù thiên sai vạn biệt này; ai nhìn thấy được Sự Sống vô biên trong thế
giới của sự chết, và ai tìm thấy được Ánh Sáng cùng Trí Tuệ trong cái thế giới
vô tri và vô minh này, chỉ người đó mới đón nhận được niềm an lạc vĩnh cửu, chứ
không một ai khác.
(Diễn thuyết tại London, 22 tháng 10, 1896)
Một nhà thơ đã nói “Chúng ta đến, mang theo những đám mây rực rỡ huy hoàng”. Chẳng có ai trong chúng ta đến và mang theo những đám mây rực rỡ huy hoàng, mà một số người còn theo những đám sương mù thê lương, thảm đạm. Điều này cũng chẳng có vấn đề gì. Chúng ta đến nơi đây với tiếng khóc than, nỗ lực hết sức bình sinh để chiến đấu vạch ra cho mình một con đường xuyên qua biển đời mênh mông vô tận. Chúng ta cứ làm như thế, cho đến khi cái chết đến và mang chúng ta ra khỏi bãi chiến trường; ta không hề biết được mình chiến thắng hay thất bại. Và đây là māyā.
Thuở thiếu niên, tâm hồn con người ngập tràn hy vọng. Cả thế giới là cảnh tượng hoàng kim mở ra trước ánh mắt trẻ thơ, đứa bé ngỡ rằng ý chí của nó sẽ là tối thượng. Khi nó bước tới trước, thiên nhiên dựng lên một bức tường rắn như kim cương tại mỗi bước chân đi, ngăn không cho nó tiến ra hơn. Nó càng đi xa thì lý tưởng càng lùi ra xa hơn nữa, cho đến khi cái chết đến, và có lẽ nó trút bỏ được gánh nặng. Và đây là māyā.
Con người khoa học vùng dậy. Anh ta khát khao tìm hiểu. Đối với anh ta thì không có gì là quá sức vĩ đại, không có sự đấu tranh nào dẫn đến tuyệt vọng. Anh ta tiến tới, khám phá hết bí mật này đến bí mật khác trong thiên nhiên, tìm cho ra những điều huyền mật trong tận cùng sâu thẳm nơi tâm hồn con người – rồi để làm gì nữa? Rốt cuộc, tất cả những thứ đó để làm gì? Vì sao chúng ta phải tôn vinh người đó? Vì sao anh ta có được danh tiếng? Há chẳng phải thiên nhiên còn làm được vô vàn những thứ hơn hẳn con người đó sao? Mà thiên nhiên thì vô tri, vô giác. Vậy thì tại sao việc bắt chước cái thiên nhiên vô tri, vô giác đó lại được tôn vinh? Thiên nhiên có thể giáng một trận sấm chớp lớn nhỏ bất kỳ xuống bất cứ nơi nào. Nếu có người nào có thể làm được một phần nhỏ điều đó thì chúng ta ca ngợi anh ta và tôn vinh như thần thánh. Vì sao? Vì sao chúng ta lại ca ngợi kẻ bắt chước thiên nhiên, mô phỏng cái chết, học theo thói vô tri vô giác? Sức mạnh của trọng lực có thể xé tan tành những khối vật thể khổng lồ từng tồn tại; song đó vẫn là sức mạnh vô tri giác. Mô phỏng sức mạnh vô tri giác đó, thử hỏi có vinh quang gì? Vậy mà chúng ta vẫn cứ miệt mài theo đuổi điều đó. Và đây là māyā.
Các giác quan kéo tâm hồn con người hướng ngoại. Con người đi tìm lạc thú và hạnh phúc tại một nơi mà những thứ đó không hề được tìm thấy. Trong hàng vô lượng kiếp, tất cả chúng ta đều được dạy rằng đó là điều hoang đường hư ảo, rằng không hề có hạnh phúc trong thế gian này. Nhưng chúng ta không thể học hỏi, chúng ta không thể làm được điều đó trừ phi bằng sự trải nghiệm của chính bản thân. Chúng ta thử nghiệm và nhận được một cú đấm. Chúng ta có học hỏi được chăng? Chẳng được gì. Như những con thiêu thân lao vào lửa để tự hủy hoại mình, chúng ta cũng lao vào những thú vui nhục dục để tự hủy hoại bản thân, hy vọng rằng sẽ tìm được sự thỏa mãn. Chúng ta cứ quanh đi quẩn lại điều đó với nguồn hoạt lực tươi tắn mạnh mẽ, rồi cứ tiếp tục như vậy cho đến khi chết đi trong tình trạng què quặt và bị phỉnh lừa. Và đây là māyā.
Trí năng chúng ta cũng vậy. Trong khát vọng giải đáp những điều huyền ẩn của vũ trụ, ta không thể ngừng tra vấn, chúng ta cảm nhận rằng mình phải biết, mà lại không thể tin rằng ta hoàn toàn không thể thu hoạch được một chút kiến thức nào. Mới bước đi được vài bước thì bức trường thành của thời gian vô thủy vô chung đã sừng sững nổi lên, mà ta không sao vượt qua nổi; và toàn thể vũ trụ đều bị ràng buộc trong bức trường thành của quan hệ nhân quả không sao biến đổi. Ta không thể nào vượt được qua chúng. Vậy mà ta vẫn đấu tranh, và vẫn mãi còn đấu tranh. Và đây là māyā.
Với từng hơi thở, với mỗi nhịp đập của trái tim nhịp theo nhất cử nhất động của chúng mình, chúng ta ngỡ rằng mình tự do, đồng thời cũng trong từng nhất cử nhất động đó, ta lại thấy mình không hề có tự do. Chúng ta là những kẻ nô lệ bị trói buộc vào thiên nhiên, bị trói buộc trong thể xác và tâm trí, trong tư tưởng và cảm giác. Và đây là Māyā.
Chẳng có người mẹ nào lại không cho rằng con mình là một thiên tài bẩm sinh, là đứa trẻ kỳ diệu nhất từng được sinh ra. Đứa bé lớn lên, có thể trở thành kẻ nghiệp ngập, một tên thô lỗ cục súc, ngược đãi người mẹ; và nó càng ngược đãi bao nhiêu thì người mẹ lại càng yêu thương con bấy nhiêu. Thế gian ca ngợi đó là tình yêu vị tha của người mẹ, ít có người nghĩ rằng bà mẹ là một nô lệ bẩm sinh, bà không thể không làm thế. Cả ngàn lần bà muốn vất cái nợ đời đó đi, nhưng không thể. Bởi vậy, bà đem muôn ngàn đóa hoa phủ lên cái tình cảm mà bà gọi là tình yêu kỳ diệu đó. Và đây là māyā.
Tất cả chúng ta đều giống nhau thế đấy trong cái thế gian này. Truyền thuyết kể rằng có lần Nārada hỏi thần Krishna :”Thưa sư phụ, hãy chỉ cho con biết thế nào là māyā”. Một vài ngày trôi qua, thần Krishna yêu cầu Nārada đi theo ngài vào sa mạc, sau khi đi được vài dặm, thần Krishna bảo : “Này Nārada, ta khát nước; con đi kiếm cho ta một ít nước được không?” Nārada đáp : “Con sẽ đi mang nước về cho sư phụ liền”, rồi đi ngay. Cách đó không xa có một ngôi làng, Nārada đi vào làng kiếm nước và gõ cửa một ngôi nhà nọ thì có một cô gái tuyệt đẹp bước ra mở cửa. Vừa nhìn thấy nàng ta, Nārada đã quên hết mọi sự và bắt đầu chuyện trò với nàng. Suốt ngày hôm đó, anh ta không quay về với vị sư phụ mình.
Hôm sau, Nārada lại đến ngôi nhà đó và trò chuyện với cô gái. Câu chuyện chín muồi thành tình yêu, Nārada liền ngỏ lời với ông bố để xin được cưới cô gái. Họ sống với nhau và sinh con đẻ cái. Mười hai năm cứ trôi qua như thế. Người bố qua đời, và Nārada được thừa hưởng gia tài. Anh ta sống một đời hạnh phúc với vợ đẹp, con ngoan cùng gia tài điền sản. Rồi một trận lụt xảy tới. Chỉ trong một đêm, nước sông dâng lên nhấn chìm cả ngôi làng. Nhà cửa sụp đổ, người và súc vật bị nhấn chìm, tất cả đều bị cuốn trôi theo dòng nước chảy xiết. Nārada phải lo tháo chạy. Một tay dắt vợ, một tay ẵm con, đứa thứ hai thì ngồi trên vai, Nārada cố gắng băng qua cơn lũ khủng khiếp. Mới đi được vài bước thì dòng nước chảy xiết quá mạnh, đứa bé trên vai anh ngã xuống và bị dòng nước cuốn trôi đi. Nārada kêu gào tuyệt vọng. Khi cố gắng cứu đứa bé, Nārada sổng tay làm rơi luôn đứa con đang ẵm, rồi nó cũng bị nước lũ cuốn trôi. Cuối cùng, người vợ mà anh nắm chặt trong tay cũng bị cơn lũ cuốn đi mất hút; Nārada trôi dạt đến một bờ sông, khóc lóc kêu gào thảm thiết. Bỗng đàng sau anh, một tiếng nói nhẹ nhàng vọng tới : “Này con ơi, nước đâu rồi? Ta đang chờ con đi mang nước về đây, con đi đã cả nửa giờ rồi đó”. “Nửa giờ!”, Nārada kêu lên thảng thốt. Mười hai năm đã trôi qua trong tâm trí anh, và tất cả những cảnh tượng đó chỉ diễn ra trong vòng nửa tiếng đồng hồ! Và đây là māyā.
Dưới hình thức này hay hình thức khác, tất cả chúng ta đều lạc mất trong māyā. Đó là một trạng thái sự vật cực kỳ rối rắm và khó hiểu. Māyā được truyền giảng tại mọi quốc gia, được giảng dạy ở khắp mọi nơi, nhưng chỉ có số rất ít người tin, bởi vì chỉ khi nào tự thân trải nghiệm thì ta mới tin được. Điều đó cho thấy gì? Một cái gì đó vô cùng khủng khiếp. Bởi vì tất cả đều hão huyền vô ích. Thời gian – kẻ phục cừu cho vạn vật – đến và không để lại gì. Nó nuốt chửng cả vị thánh lẫn kẻ phạm tội, vị hoàng đế lẫn bác nông phu, kẻ đẹp lẫn người xấu; và không để lại gì. Tất cả sự vật đều đang lao đến mục tiêu hủy diệt đó. Kiến thức, nghệ thuật, khoa học, tất cả những thứ khác của chúng ta đều đang lao đến mục tiêu hủy diệt. Không một ai ngăn được cơn thủy triều này, cũng không một ai có thể trì hoãn được một phút. Tất cả chúng ta đều cố gắng quên điều đó. Giống như những cư dân trong một thành phố bị bệnh dịch cố quên đi điều đó bằng cảnh tiệc tùng, nhảy múa cùng bao điều vô ích khác, rồi trở nên tê liệt hết. Chúng ta cũng cố tìm quên như thế đó bằng mọi lạc thú của giác quan. Và đây là māyā.
Có hai giải pháp được đề nghị. Giải pháp thứ nhất, mà mọi người đều biết, rất được phổ biến, đó là :”Điều đó rất có thể là sự thật, nhưng đừng nghĩ đến nó làm chi. ‘Hãy phơi rơm khi trời nắng‘ như lời một câu tục ngữ. Tất cả điều đó đều là sự thực, nhưng đừng bận tâm làm gì. Hãy tận hưởng những lạc thú ít ỏi mà bạn có thể hưởng, hãy làm một ít việc mà bạn có thể làm, đừng nhìn vào mặt tối của bức tranh, mà hãy luôn luôn tiến tới với tinh thần tích cực đầy hy vọng”. Quan niệm đó có phần đúng, nhưng cũng có phần nguy hiểm. Đúng, vì nó là động lực rất tốt để thúc đẩy ta tiến tới. Niềm hy vọng và lý tưởng tích cực là những động lực rất tốt đẹp cho đời sống chúng ta, nhưng bên trong chúng lại tiềm ẩn nguy cơ. Sự hiểm nguy nằm ở chỗ chúng ta có thể từ bỏ đấu tranh vì tuyệt vọng. Đó là trường hợp của những người thuyết giảng :”Hãy nhận thức thế giới này y như thực, hãy lặng lẽ ngồi xuống trong tư thế vô cùng thoải mái, và hãy an phận với tất cả những khổ đau này. Khi bị một cú đấm, bạn hãy bảo rằng đó là đóa hoa chứ không phải là cú đấm; khi bị lôi đi như những kẻ nô lệ, bạn hãy tự nhủ rằng mình đang tự do. Cả ngày lẫn đêm hãy nói những lời dối trá đó với những kẻ khác và với chính tâm hồn bạn, bởi vì đó là cách duy nhất để sống hạnh phúc”.
Đó là cái mà ta gọi là minh triết thực tiễn, và chưa bao giờ quan niệm đó lại tràn ngập trên khắp thế giới như ở thế kỷ 19 này, bởi vì chưa bao giờ có những cú đấm lại mạnh hơn như thời hiện đại, chưa bao giờ sự canh tranh lại gay gắt hơn, chưa bao giờ con người lại tàn ác với đồng loại hơn bây giờ; do đó, phải cần đến sự vỗ về an ủi này. Quan niệm này được đề xuất theo giải pháp mạnh mẽ nhất thời hiện đại, nhưng nó đã thất bại, như đã từng luôn luôn phải thất bại. Ta không thể dùng hoa hồng để che đậy một xác chết thối rữa, vì như thế sẽ khiến tình trạng xác chết lại càng tồi tệ hơn trước đó. Đối với cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Chúng ta có thể dùng gấm vóc lụa là để che phủ ung nhọt mưng mủ kinh niên của mình, nhưng sẽ đến một ngày tấm lụa đó bị gỡ ra, và cái ung nhọt mưng mủ gớm ghiếc đó lại hiện ra.
Vậy thì không có hy vọng gì sao? Trên thực tế, chúng ta là những nô lệ của māyā, sinh ra trong māyā, và sống trong māyā. Phải chăng không còn con đường nào thoát ra ngoài, và không còn hy vọng? Tất cả chúng ta đều là những kẻ khốn khổ, thế giới thực sự là một ngục tù, ngay cả cái mà chúng ta gọi là cảnh tượng đẹp đẽ cũng chỉ là một nhà tù, thậm chí đến trí năng và tâm thức của chúng ta cũng là những nhà tù; điều đó đã được nhận biết qua hàng bao thời đại. Chưa từng có một người nào lại không cảm nhận được ít nhiều về điều này, dù anh ta có nói gì đi nữa. Những người già thì cảm thụ sâu sắc hơn, vì họ tích lũy được kinh nghiệm cả đời người, vì họ không để bị lừa phỉnh bởi những lời dối trá của thiên nhiên. Vậy thì không còn con đường nào thoát ra ngoài chăng? Ta thấy rằng với tất cả những điều này, với sự kiện khủng khiếp đang bày ra trước mắt, giữa sự phiền não khổ đau, thậm chí trong một thế giới mà tử sinh bình đẳng, sống chết đồng nghĩa thì ngay cả nơi đây vẫn có một tiếng nói khe khẽ vang vọng qua bao thời đại, xuyên qua mọi quốc gia và ngập tràn trong mỗi trái tim :”Māyā này của Ta là thần thánh, được cấu thành bằng những phẩm chất thượng đẳng và rất khó vượt qua. Thế nhưng hỡi những kẻ nào đến với Ta, hãy băng qua dòng đời”. “Hỡi những kẻ đang lao động miệt mài và mang nặng khổ đau, hãy đến với Ta, và Ta sẽ đem đến cho các ngươi sự bình an”. Tiếng nói đó đã giúp chúng ta tiến tới. Con người đã từng nghe và đang nghe tiếng nói đó vọng qua mọi thời đại. Tiếng nói đó vọng đến với con người khi họ gần như đánh mất tất cả, và mọi hy vọng đều tan biến, khi sự nương tựa vào sức mạnh bản thân bị sụp đổ tan tành, mọi thứ dường như đều trôi vuột khỏi tầm tay, và cuộc sống chỉ còn là một đống đổ nát hoang tàn đầy tuyệt vọng. Rồi họ lại nghe ra tiếng nói đó. Điều này được gọi là tôn giáo.
Bởi vậy, một mặt là sự khẳng định dũng cảm rằng tất cả điều này đều vô nghĩa, rằng đây là māyā; nhưng đi cùng với điều đó là sự khẳng định tràn trề hy vọng cho rằng bên kia māyā vẫn có một lối thoát. Mặt khác, những người thực tiễn lại bảo với ta “Đừng bận tâm chi tới những thứ vớ vẩn như tôn giáo hay siêu hình học cho mệt óc. Hãy sống ở nơi đây đi; tuy đây là một thế giới vô cùng tồi tệ, nhưng hãy tận hưởng nó”. Nói một cách nôm na là hãy sống một đời giả dối, cứ tiếp tục tự lừa dối mình, cứ dùng đủ thứ hoa mỹ có được để che đậy tất cả những vết thương mưng mủ. Hãy đắp mảnh vá này lên mảnh vá khác, cho đến khi tất cả mất hết và bạn chỉ còn là một đống nùi giẻ chắp vá. Đấy là cái được gọi là cuộc sống thực tế. Những kẻ nào thỏa mãn với đống nùi giẻ chắp vá đó sẽ không bao giờ đến được với tôn giáo.
Tôn giáo bắt đầu bằng sự bất mãn cùng cực với tình trạng hiện tại của sự vật, với cuộc sống của chúng ta, bằng sự căm phẫn mãnh liệt với lối sống chắp vá, bằng sự kinh tởm vô bờ bến với sự lừa bịp và dối trá. Hướng đến được với tôn giáo chỉ có thể là người mạnh dạn tuyên bố, như đức Phật dũng mãnh tuyên bố dưới gốc Bồ Đề, khi tư tưởng về đời sống thực tiễn này xuất hiện trước mặt anh ta, và anh ta thấy rằng đời sống đó thật là vô nghĩa, nhưng anh ta không sao tìm được lối thoát ra ngoài. Khi bị cám dỗ để từ bỏ sự tìm cầu chân lý, để quay lại với thế gian và sống một đời dối trá, gọi sự vật bằng những danh xưng sai lệch, nói những điều dối trá cho chính bản thân mình cùng tất cả bao người khác thì anh ta – con người khổng lồ – đã chiến thắng được sự cám dỗ đó và tuyên bố : “Chết còn tốt hơn là sống một đời ngu si như cây cỏ; chết giữa chiến trường còn tốt hơn là sống một đời thất bại”. Đây là nền tảng của tôn giáo.
Khi con người đứng trên lập trường này là anh ta đang trên đường đi đến chân lý, đang trên đường đến với Thượng Đế. Quyết tâm này phải là động cơ đầu tiên hướng đến tinh thần tôn giáo. Tôi phải tự khai phá cho mình một con đường. Tôi sẽ biết được chân lý hoặc sẽ bỏ mạng trong nỗ lực này. Bởi vì ở bên này chẳng hề có gì cả, tất cả đều tàn diệt, và đang tan biến từng ngày. Người trẻ đẹp và tràn đầy hoài vọng hôm nay sẽ thành người già cỗi trong ngày sau. Hy vọng, niềm vui cùng sự hoan lạc sẽ chết đi như những đóa hoa lụi tàn trong sương giá ngày mai. Bên này là vậy; còn bên kia là sự hấp dẫn mãnh liệt của sự chinh phục và chiến thắng trước mọi điều xấu xa trong cuộc sống, là cuộc chinh phục chính cuộc sống, chinh phục cả vũ trụ. Con người đứng trên bờ bên ấy. Do đó, những ai dũng cảm đấu tranh vì chiến thắng, vì chân lý, vì tôn giáo mới là những người đi đúng đường; và đó là điều mà kinh điển Veda truyền giảng :”Đừng tuyệt vọng, con đường này rất gập ghềnh khó khăn, giống như bước đi trên lưỡi dao cạo; nhưng đừng có tuyệt vọng, hãy đứng dậy, thức tỉnh và tìm cho ra lý tưởng, mục đích”.
Giờ đây, tất cả những biểu hiện hiện khác nhau đó của tôn giáo, dù đã đến với nhân loại dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều có chung nền tảng trung tâm này. Đó là sự truyền giảng về tự do, về phương thức giải thoát khỏi thế gian. Những lời thuyết giảng đó không bao giờ đến để hòa giải thế gian và tôn giáo, mà để giải quyết vấn đề một cách dứt khoát, để thiết lập tôn giáo trên lý tưởng của chính nó chứ không phải để thỏa hiệp với thế gian. Đó là những gì mà mọi tôn giáo đều thuyết giảng; và nhiệm vụ của triết học Vedānta là hòa hợp mọi nguồn cảm hứng đó, đồng thời làm hiển lộ nền tảng chung của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới, cao cả nhất cũng như thấp kém nhất. Cái mà chúng ta gọi là sự mê tín dị đoan nhảm nhí nhất và nền triết học cao siêu nhất đều thực sự có chung một mục tiêu, đó là cả hai đều cố gắng chỉ ra con đường giải thoát khỏi những nỗi gian khó giống nhau; và trong phần lớn các trường hợp thì con đường đó dựa vào sự trợ giúp của những vị đạo sư đã đạt đến cảnh giới tự tại, không còn bị ràng buộc bởi những quy luật tự nhiên. Dù có vô vàn điều khó khăn và sự khác biệt trong quan niệm về bản chất của tác nhân tự do tự tại duy nhất đó, xem Ngài có phải là một Thượng Đế Nhân Thể hay không, hay chỉ là một đối tượng mang bản chất phù du tử diệt như con người, là nam hay nữ hay trung tính – những cuộc tranh luận kiểu này kéo dài đến vô tận – thì ý tưởng nền tảng vẫn tương đồng, không có gì khác biệt. Dù có những mâu thuẫn thâm căn cố đế giữa các hệ thống khác nhau, ta vẫn tìm thấy được sợi chỉ vàng nhất quán chạy xuyên suốt qua tất cả những hệ thống đó, và trong nền triết học này, chúng ta từng bước lần ra đấu mối của sợi chỉ vàng này, và nền tảng chung cho bước đầu tiên hướng đến sự khải thị này là : tất cả đều đang tiến đến cảnh giới tự do.
Một sự kiện lạ lùng hiện diện giữa mọi niềm vui cùng nỗi buồn, giữa mọi khó khăn và tranh đấu của chúng ta, đó là : chúng ta chắc chắn đang ở trong cuộc hành trình hướng đến tự do. Trong thực tế, có một câu hỏi :”Vũ trụ này là gì? Nó sinh khởi từ đâu? Rồi nó đi về đâu?” Và câu trả lời là :” Trong tự do nó sinh khởi, trong tự do nó yên nghỉ, rồi trong tự do nó tan biến”. Các bạn không thể phủ nhận quan niệm tự do này. Những hành động của các bạn, cả cuộc sống của các bạn sẽ bị mất hết nếu không nó. Trong từng giây từng phút, thiên nhiên đều chứng minh cho ta thấy chúng ta là những kẻ nô lệ chứ không được tự do. Tuy nhiên, một quan niệm khác lại đồng thời nảy sinh, đó là chúng ta là những người tự do. Có thể nói là từng bước chân của chúng ta đều luôn bị māyā quật ngã, và chúng ta thấy mình luôn bị trói buộc triền phược; nhưng cùng với cú đấm này, cùng với cảm nhận mình đang bị trói buộc thì đồng thời chúng ta lại cảm nhận rằng mình đang được tự do. Một tiếng nói thầm kín từ nội tâm bảo ta rằng ta tự do, tự tại. Nhưng nếu ta cố gắng thực hiện tự do đó, cố gắng biểu hiện nó thì ta sẽ gặp những khó khăn không sao vượt qua nổi. Tuy thế, từ trong nội tâm, tiếng nói đó vẫn cứ luôn khăng khăng khẳng định : “Tôi tự do, tôi tự do”. Nếu nghiên cứu tất cả những tôn giáo khác nhau trên thế giới thì các bạn sẽ thấy chúng luôn diễn đạt tư tưởng này.
Không chỉ tôn giáo – các bạn không nên hiểu danh từ này theo nghĩa hẹp – mà trọn cả đời sống xã hội là lời khẳng định về nguyên lý tự do duy nhất này. Tất cả mọi phong trào, mọi sinh hoạt của xã hội đều là lời khẳng định về tự do duy nhất này. Dù có nhận biết hay không thì tất cả mọi người, ai ai cũng đều đã nghe tiếng nói đó, tiếng nói đã tuyên bố :”Hãy đến với Ta, hỡi những kẻ lao động nhọc nhằn và đang mang gánh nặng”. Có thể tiếng nói đó không mang cùng một ngôn ngữ hay cùng một hình thức phát ngôn, nhưng dù dưới hình thức này hay hình thức khác thì tiếng nói kêu gọi tự do đó vẫn luôn ở trong ta. Vâng, chúng ta sinh ra tại nơi đây là vì tiếng nói đó, mỗi một hành động của chúng ta đều hướng đến tiếng nói đó. Tất cả chúng ta đều đang lao đến tự do, đang chạy theo tiếng nói đó, dù chúng ta có biết hay không; giống như những đứa trẻ trong làng bị cuốn hút theo giai điệu của người thổi sáo, chúng ta cũng bị cuốn hút như thế bởi giai điệu của tiếng nói đó, mà không hề hay biết.
Khi đi theo tiếng nói đó, chúng ta trở nên đức hạnh. Không chỉ con người, mà mọi tạo vật, từ loài thấp kém nhất đến loài tiến hóa cao nhất, cũng đều nghe ra tiếng nói đó và lao theo nó; và trong cuộc tranh đấu này, muôn loài đều đang phối hợp với nhau hoặc đang xô đẩy nhau ra khỏi con đường đó. Do đó mà có sự ganh đua, niềm vui, đấu tranh, sự sống, lạc thú, cái chết; và toàn thể vũ trụ chỉ là kết quả của cuộc tranh đấu điên cuồng để đạt đến tiếng nói đó, chứ chẳng có chi khác. Đây là sự biểu hiện của thiên nhiên.
Rồi điều gì sẽ xảy đến? Cảnh tượng bắt đầu dịch chuyển. Ngay khi các bạn vừa biết được tiếng nói đó, và hiểu được nó là gì thì toàn bộ cảnh tượng đều thay đổi. Cũng chính cái thế giới mà trước đây là bãi chiến trường khủng khiếp của māyā thì lúc này đã biến thành một cái thứ gì đó tốt lành và đẹp đẽ. Chúng ta không còn nguyền rủa thiên nhiên, cũng không tuyên bố rằng thế giới này thật quá gớm guốc và tất cả đều phù phiếm vô ích; chúng ta cũng không còn khóc than nữa. Khi hiểu được tiếng nói đó thì ta lập tức thấy ngay nguyên do vì sao cuộc đấu tranh này lại diễn ra ở nơi đây, hiểu được nguyên do của cuộc chiến đấu này, của cuộc ganh đua này, của nỗi khó khăn này, của sự tàn ác này, của những lạc thú cỏn con và niềm vui nhỏ nhoi này. Ta sẽ thấy rằng tất cả những thứ đó đều nằm trong bản chất của sự vật, vì nếu không có chúng thì sẽ không có cuộc theo đuổi tiếng nói đó để có thể đạt đến mục đích dành cho chúng ta, dù ta có biết nó hay không. Do đó, trọn cả cuộc sống con người, toàn thể thiên nhiên đều đang đấu tranh để đạt đến tự do. Mặt trời đang di chuyển đến mục tiêu đó, trái đất xoay quanh mặt trời cũng đang di chuyển đến mục tiêu đó, mặt trăng xoay quanh trái đất cũng đang di chuyển đến mục tiêu đó. Hành tinh này đang di chuyển đến mục tiêu đó, cả bầu khí quyển cũng đang thổi đến mục tiêu đó. Toàn thể vạn hữu đều đang đấu tranh để hướng đến đến mục tiêu đó. Vị thánh đang hướng đến tiếng nói đó, không sao cưỡng lại được, không có vinh quang gì cho ông ta trong chuyện này. Kẻ tội lỗi cũng thế. Người nhân đức đang trên đường hướng đến tiếng nói đó, không có gì có thể ngăn cản được; kẻ keo kiệt cũng đang hướng đến cùng một mục tiêu. Người làm những việc thiện vĩ đại nhất cũng nghe ra cùng một tiếng nói đó từ nội tâm, không sao cưỡng lại nỗi, anh ta buộc phải đi đến với tiếng nói đó; kẻ cùng cực lười biếng cũng nghe ra và làm y như thế. Người này có thể vấp ngã nhiều lần hơn người kia; kẻ vấp ngã nhiều thì ta gọi là người xấu, kẻ ít vấp ngã thì ta bảo là người tốt. Tốt hay xấu, thiện hay ác không bao giờ là hai sự vật khác nhau, chúng là một và tương đồng, sự khác biệt không thuộc về thể loại mà chỉ thuộc về mức độ mà thôi.
Giờ đây, nếu sự hiểu hiện của năng lực tự do này đang thực sự chi phối toàn thể vũ trụ thì khi áp dụng điều đó vào tôn giáo – là điều được chúng ta đặc biệt nghiên cứu – ta sẽ thấy rằng đó là quan niệm duy nhất được khẳng định ở khắp mọi nơi. Hãy xét hình thức thấp nhất của tôn giáo là thờ cúng tổ tiên đã khuất, hoặc sùng bái những vị thần có quyền năng hay hung bạo nào đấy, thì quan niệm nổi bật về tổ tiên đã khuất hoặc những vị thần đó là gì? Đó là họ vượt trội hơn thiên nhiên, không còn bị thiên nhiên ràng buộc hay câu thúc nữa. Người sùng bái dĩ nhiên có những quan niệm rất hạn hẹp về thế giới tự nhiên. Anh ta không thể đi xuyên qua tường hay bay lên trời, nhưng những vị thần mà anh ta sùng bái thì có thể làm được điều đó. Điều đó có nghĩa là gì về phương diện triết học? Đó là sự khẳng định về tự do, và các vị thần mà anh ta sùng bái có nhiều quyền năng hơn cái thế giới tự nhiên mà anh ta biết. Đối với những người sùng bái các vị thần cao siêu hơn thì cũng thế. Khi quan niệm về thế giới tự nhiên càng mở rộng thì quan niệm về một linh hồn siêu việt thế giới tự nhiên cũng được mở rộng theo, cho đến lúc chúng ta tiến đến cái mà ta gọi là độc thần giáo, cho rằng có một māyā và có một đấng Chúa Tể thống trị māyā đó.
Triết học Vedānta bắt đầu tại đây, nơi mà những quan niệm độc thần giáo lần đầu tiên xuất hiện. Nhưng triết học Vedānta còn muốn giải thích xa sâu hơn nữa. Kinh điển Vedānta tuyên bố rằng điều giải thích này – cho rằng có một đấng vượt trên tất cả những biến hiện của māyā, đấng cao siêu hơn cả māyā, không phụ thuộc vào māyā, là đấng đang lôi cuốn chúng ta đến với Ngài, và là đấng mà tất cả chúng ta đang hướng đến – là vô cùng tốt đẹp, nhưng nhận thức đó chưa được rõ ràng, sự khải thị hãy còn mù mịt, mơ hồ, mặc dù nó không trực tiếp mâu thuẫn với lý trí.
Giống như trong một bản thánh ca của các bạn có nói : “Hãy gần Người hơn hỡi Thượng Đế”, cũng bài thánh ca đó có thể sẽ rất tốt cho một người theo triết học Vedānta, nhưng anh ta chỉ đổi đi một chữ : “Hãy gần con hơn, hỡi Thượng Đế”. Quan niệm cho rằng mục tiêu ở quá xa, nằm bên kia thế giới tự nhiên, và đang cuốn hút tất cả chúng ta hướng đến, quan niệm đó phải được đưa về mỗi lúc một gần thêm nữa, mà không làm cho nó sút giảm giá trị hoặc suy biến. Thượng Đế trên trời biến thành Thượng Đế trong tự nhiên, Thượng Đế trong tự nhiên lại biến thành Thượng Đế đồng nhất với giới tự nhiên, và Thượng Đế đồng nhất với giới tự nhiên lại biến thành Thượng Đế ngự trong đền thờ của thể xác, rồi cuối cùng Thượng Đế ngự trong đền thờ của thể xác biến thành chính đền thờ, trở thành linh hồn và con người – và tại đó, triết học Vedānta đã đạt đến những lời tối hậu mà nó có thể giảng dạy. Đấng mà các bậc hiền triết mòn mỏi đi tìm ở khắp mọi nơi đang ngự trị trong chính tâm hồn chúng ta; triết học Vedānta bảo rằng tiếng nói mà các bạn đã nghe được là chân thực, nhưng phương hướng mà các bạn gán cho nó lại sai lầm. Lý tưởng tự do mà các bạn nhận thức là đúng đắn, nhưng các bạn phóng chiếu nó ra bên ngoài tự thân thì đó là sai lầm của các bạn. Hãy đưa tiếng nói đó mỗi lúc mỗi đến gần bạn hơn, cho đến khi bạn thấy rằng tự bản lai nó đã ở bên trong tâm hồn mình rồi, nó chính là Thực Ngã của tự ngã của bạn. Tự do đó chính là tự tính của bạn, và māyā này chưa hề ràng buộc bạn bao giờ.
Thiên nhiên chưa hề có uy quyền gì với bạn cả. Như một đưa
bé bị khủng bố, các bạn đang mơ thấy nó đang bóp cổ mình, và mục tiêu của các
bạn là thoát khỏi nỗi sợ hãi đó : không chỉ thấy được nó bằng trí năng, mà còn
phải thận thức được nó, hiện thực được nó một cách dứt khoát, gấp nhiều lần
cách ta nhận thức thế giới. Lúc đó, ta sẽ biết được rằng ta đang tự do. Đến lúc
đó, và chỉ đến lúc đó thôi, mọi khó khăn đều tan biến, rồi mọi vấn đề trằn trọc
nan giải của tâm hồn đều được xoa dịu, mọi điều cong vênh đều được uốn thẳng,
rồi mọi vọng tưởng về tính đa thù và thiên nhiên sẽ tan biến cả; và māyā – thay
vì là một cơn ác mộng tuyệt vọng như xưa nay –giờ đây sẽ trở nên đẹp đẽ; và
trái đất này – thay vì là một nhà tù – sẽ trở thành một sân chơi cho chúng ta;
thậm chí những sự hiểm nguy gian khó, cùng tất cả những khổ đau cũng trở nên
thiêng liêng và hiển lộ cho ta thấy chân tính của chúng, chứng minh cho ta thấy
rằng đằng sau vạn hữu thì Ngài – bản thể của vạn hữu – đang đứng đó, và Ngài
chính là Thực Ngã duy nhất của chúng ta.
(Diễn thuyết tại London, 1896)
Vấn đề duy nhất khó lãnh hội nhất khi nghiên cứu triết học Advaita (nhất nguyên luận Vedānta), và vấn đề cứ luôn được nêu lên thành câu hỏi, đó là : Làm thế nào mà Cái Vô Hạn, Cái Tuyệt Đối biến thành cái hữu hạn[18]? Hôm nay tôi lại nêu lên câu hỏi này, và tôi sẽ dùng hình ảnh để minh họa.
Đây là Cái Tuyệt Đối (a), còn đây là vũ trụ (b). Cái Tuyệt Đối đã biến thành vũ trụ. Vũ trụ ở đây không chỉ có nghĩa là thế giới vật chất, mà còn gồm cả thế giới tinh thần và thế giới tâm linh – trời đất, và trên thực tế là toàn thể vạn hữu, tức tất cả những gì đang tồn tại. Tâm thức là tên gọi của một sự biến dịch, thể xác cũng là tên gọi của một sự biến dịch khác, và cứ như thế, tất cả những sự biến dịch này cùng cấu tạo nên cái vũ trụ của chúng ta. Cái Tuyệt Đối (a) biến thành vũ trụ (b) thông qua thời gian, không gian và quan hệ nhân quả (c). Đây là tư tưởng trọng tâm của Advaita. Thời gian, không gian và quan hệ nhân quả giống như một cái ly thủy tinh trong suốt, mà xuyên qua nó ta có thể nhìn thấy được Cái Tuyệt Đối, và khi được nhìn ở phía thấp hơn thì nó hiện ra như là vũ trụ. Bây giờ, từ điều này, chúng ta rút ra ngay được ngay kết luận, đó là trong Cái Tuyệt Đối chẳng hề có thời gian, không gian hay quan hệ nhân quả. Ý niệm về thời gian không thể hiện hữu trong đó, bởi vì chẳng hề có tâm thức hay tư tưởng. Ý niệm về không gian cũng không thể hiện hữu trong đó, bởi vì chẳng hề có sự biến dịch nào ở bên ngoài. Cái mà các bạn gọi là sự chuyển động hay quan hệ nhân quả cũng không thể tồn tại ở nơi chỉ có Nhất Thể. Chúng ta phải hiểu điều này, và khắc sâu trong tư tưởng, đó là : cái mà chúng ta gọi là quan hệ nhân quả chỉ bắt đầu sau khi – nếu ta được quyền nói như vậy – Cái Tuyệt Đối suy biến thành thế giới hiện tượng chứ không phải trước; và ý chí của chúng ta, khát vọng của chúng ta cùng tất cả những thứ này đều luôn luôn đến sau điều đó.
Tôi cho rằng triết học Schopenhauer đã phạm sai lầm khi giải thích triết học Vedānta, vì triết học đó xem ý chí là tất cả. Schopenhauer đặt ý chí tại vị trí của Cái Tuyệt Đối. Nhưng cái tuyệt đối đó không thể được hình dung như là ý chí, bởi vì ý chí là một cái gì đó có thể biến đổi và mang tính hiện tượng, và bên trên giới tuyến của thời gian, không gian cùng quan hệ nhân quả thì không có biến dịch, cũng chẳng hề có vận động; chỉ ở bên dưới giới tuyến đó thì mới bắt đầu có sự vận động bên trong và bên ngoài, mà ta gọi là tư tưởng. Không thể có ý chí ở phía bên kia, và do đó, ý chí không thể là căn nguyên của vũ trụ. Khi đến gần hơn, ta sẽ thấy rằng trong thể xác chúng ta, ý chí không phải là căn nguyên của mọi hành động. Tôi dịch chuyển cái ghế này, ý chí của tôi là căn nguyên của hành động đó, và cuối cùng ý chí đó sẽ hiện ra như là chuyển động cơ bắp. Nhưng cũng chính năng lực dịch chuyển cái ghế đó lại làm cho tim tôi đập, phổi tôi thở v.v… mà không thông qua ý chí. Giả sử rằng năng lực đó là như nhau thì nó chỉ trở thành ý chí khi được nâng lên bình diện ý thức; trước khi nó được nâng lên bình diện ý thức mà ta lại gọi nó là ý chí thì đó là sự sai lầm về tên gọi. Điều này tạo nên rất nhiều điều nhầm lẫn trong triết học Schopenhauer.
Một hòn đá rơi, và chúng ta hỏi vì sao? Câu hỏi chỉ có thể trở thành câu hỏi khi nó dựa trên giả thiết là không có gì xảy ra mà lại không có nguyên nhân. Tôi đề nghị các bạn phải hiểu thật rõ ràng điều này, vì bất cứ khi nào chúng ta hỏi vì sao một sự việc bất kỳ nào đó xảy ra thì chúng ta mặc nhiên cho rằng tất cả mọi sự việc xảy ra đều có nguyên nhân, có nghĩa là trước đó phải một cái gì đó tác động đến nó, hiểu như là nguyên nhân. Sự kiện diễn ra trước đó và sự kiện diễn ra kết tiếp là cái mà chúng ta gọi là quy luật nhân quả. Điều này có nghĩa là mọi sự việc trong vũ trụ đều lần lượt là nhân và quả. Một sự việc là nhân của một sự việc diễn ra sau đó, và bản thân nó có thể là quả của một sự việc diễn ra trước đó. Đây được gọi là quy luật nhân quả, và là điều kiện cần thiết cho tư duy của chúng ta. Chúng ta tin rằng mọi phân tử trong vũ trụ, cho dù là bất cứ phân tử nào, cũng đều nằm trong mối tương quan với mọi phân tử khác.
Quan niệm này phát sinh như thế nào thì đã có nhiều cuộc tranh luận rồi. Tại châu Âu, có những triết gia theo thuyết trực giác tin rằng quan niệm đó là bản tính cố hữu của nhân loại, một số triết gia khác lại tin rằng nó xuất phát từ kinh nghiệm, nhưng vấn đề vẫn chưa bao giờ ngã ngũ. Tiếp theo đây, chúng ta sẽ thấy kinh điển Vedānta nói về điều này như thế nào. Nhưng trước hết, chúng ta phải hiểu chính cách thức đặt câu hỏi “vì sao” đó đã giả định trước một điều rằng : mọi sự vật bất kỳ quanh ta đều là quả của một sự vật nào đó đi trước, đồng thời là nhân của một sự vật nào đó tiếp theo.
Trong vấn đề này, có những người tin rằng không có gì trong vũ trụ có thể tồn tại độc lập, mà vạn vật đều hỗ tương tác động lẫn nhau. Hỗ tương tác động là quy luật của toàn thể vũ trụ. Khi đặt câu hỏi cái gì tạo ra Cái Tuyệt Đối, chúng ta đã phạm sai lầm tai hại! Vì khi đặt câu hỏi này thì chúng ta phải giả định rằng Cái Tuyệt Đối cũng bị ràng buộc vào một cái gì đó, phải phụ thuộc vào một cái gì đó. Và khi giả định điều đó thì chúng ta đã kéo Cái Tuyệt Đối xuống bình diện của vũ trụ rồi. Bởi vì trong Cái Tuyệt Đối thì không hề có thời gian, không gian, hay quan hệ nhân quả; Nó là cái một nhưng bao hàm tất cả, tức là nhất thể hàm dung [all one]. Cái gì tự thân tồn tại thì không thể chịu tác động của bất kỳ nhân nào. Cái gì tự do tự tại thì không thể chịu tác động của bất kỳ nhân nào, nếu không thế thì nó không còn tự do tự tại nữa mà bị ràng buộc trong mối tương quan. Cái gì nằm trong mối tương quan thì không thể tự do tự tại. Do đó, chúng ta thấy ngay câu hỏi đó – vì sao Cái Vô Hạn lại biến thành Cái Hữu Hạn – đã là một câu hỏi bất thành, vì nó tự mâu thuẫn với chính nó.
Xuất phát từ tính chất tế nhị tinh vi của môn lôgic trên bình diện nhận thức thông thường, ta có thể thấy được điều này từ phía bên kia, khi tìm hiểu Cái Tuyệt Đối biến thành tương đối như thế nào. Giả sử khi ta biết được lời giải đáp thì liệu Cái Tuyệt Đối vẫn còn là Cái Tuyệt Đối hay không? Rất có thể nó biến thành tương đối. Theo cách hiểu thông thường của chúng ta thì kiến thức có nghĩa là gì? Chỉ khi một cái gì đó bị giới hạn trong tâm trí chúng ta thì chúng ta biết được, còn khi nó vượt ngoài tâm trí chúng ta thì ta không còn nhận thức được nữa. Giờ đây, nếu Cái Tuyệt Đối bị giới hạn bởi tâm trí thì Nó không còn là Cái Tuyệt Đối nữa; Nó đã trở nên hữu hạn. Bất kỳ thứ gì bị giới hạn bởi tâm trí cũng biến thành hữu hạn. Bởi vậy, nhận thức được Cái Tuyệt Đối là một điều mâu thuẫn trong thuật ngữ. Đó là lý do câu hỏi đó không bao giờ có lời giải đáp; vì khi giải đáp được thì Nó không còn là Cái Tuyệt Đối nữa. Thượng Đế mà ta nhận thức được thì không còn là Thượng Đế nữa, vì Ngài đã trở nên hữu hạn như chúng ta. Ta không thể nhận thức được Ngài vì Ngài là đấng Bất Khả Tri.
Nhưng Advaita tuyên bố rằng Thượng Đế còn hơn là đấng khả tri. Đây là sự kiện lớn lao cần phải học hỏi. Các bạn không cần phải làm quen với quan niệm Thượng Đế là đấng bất khả tri hiểu theo thuật ngữ của những người theo thuyết bất khả tri. Ví dụ đây là cái ghế, chúng ta nhận biết điều đó. Nhưng những gì tồn tại ở ngoài cõi ether, hoặc liệu có người sống ở đấy không, thì điều đó đối với ta là xa lạ, không thể biết được. Còn Thượng Đế không phải là đấng khả tri hoặc bất khả tri theo nghĩa này. Ngài vẫn là cái gì đó cao siêu hơn những gì được nhận biết, đó là cách ta hiểu về một đấng Thượng Đế xa lạ và bất khả tư nghì. Cách diễn đạt này không được dùng theo nghĩa mà người ta có thể nói về một số câu hỏi nào đó mang tính xa lạ và bất khả tri. Thượng Đế còn hơn những gì được nhận biết. Ta biết được cái ghế, nhưng biết được Thượng Đế còn mãnh liệt hơn rất nhiều, bởi vì để biết được bản thân cái ghế thì ta phải biết được nó trong Thượng Đế và qua Thượng Đế.
Ngài là Chứng Nhân, vị Chứng Nhân vĩnh cửu cho mọi kiến thức. Tất cả những gì ta biết được đều phải biết được trong Ngài và qua Ngài. Ngài là bản thể tinh yếu của tự ngã chúng ta. Ngài là bản thể tinh yếu của cái Tôi này, và chúng ta không thể biết được bất cứ điều gì, trừ phi biết nó trong cái Tôi và qua cái Tôi đó. Do đó, các bạn phải biết vạn vật trong Brahman và qua Brahman. Để biết cái ghế, các bạn phải biết nó trong Thượng Đế và qua Thượng Đế. Bởi thế, Thượng Đế vô cùng gần gũi thân cận với chúng ta hơn là chiếc ghế, nhưng đồng thời Ngài cũng cao xa hơn đến vô cùng. Ngài không phải là cái khả tri hay là cái bất khả tri mà là cái gì đó vô cùng cao siêu hơn cả hai điều đó. Ngài chính là Thực Ngã của các bạn. “Ai có thể sống được một giây, ai có thể thở một giây trong vũ trụ này, nếu không có đấng Thế Tôn ngập tràn trong đó?” Bởi vì chúng ta thở trong Ngài và qua Ngài, chúng ta tồn tại trong Ngài và qua Ngài. Ngài không đứng tại một nơi nào đó và khiến máu luân lưu trong cơ thể tôi. Điều này có nghĩa rằng Ngài là cốt tủy, là Bản Thể Tinh Yếu của tất cả những thứ đó, là Linh Hồn của linh hồn tôi. Các bạn không thể bảo rằng các bạn biết được Ngài dù bằng bất cứ cách nào; vì điều đó hạ thấp Thượng Đế. Các bạn không thể thoát ra khỏi tự thân mình, bởi vậy các bạn không thể biết được Ngài.
Kiến thức là tiến trình khách thể hóa. Chẳng hạn, trong ký ức, các bạn đang biến nhiều thứ thành khách thể, đang phóng chiếu chúng ra khỏi tự thân. Mọi ký ức, mọi sự vật mà tôi đã thấy và biết đều ở cả trong tâm trí tôi. Những hình ảnh, những ấn tượng của tất cả những điều này đều nằm trong tâm trí tôi, và mỗi khi tôi muốn nghĩ về chúng, muốn biết về chúng thì hành động đầu tiên của kiến thức là phóng chiếu chúng ra ngoài. Với Thượng Đế thì ta không thể làm như thế, bởi vì Ngài là Bản Thể Tinh Yếu của linh hồn chúng ta, ta không thể phóng chiếu Ngài ra ngoài được. Đây là một trong những đoạn kinh văn thâm thúy nhất trong kinh điển Vedānta : “Ngài là Bản Thể Tinh Yếu của linh hồn ngươi, Ngài là Chân Lý, Ngài là Thực Ngã, ngươi là Cái Đó, hỡi Shvetaketu”. Đó là ý nghĩa của câu nói : “Ngươi là Thượng Đế”, Các bạn không thể mô tả Ngài bằng bất cứ ngôn ngữ nào. Mọi nỗ lực của ngôn ngữ, gọi ngài là Cha, hoặc là người anh em, hoặc là người bạn chí thân v.v… đều là những nỗ lực muốn khách thể hóa Thượng Đế, đó là điều bất khả. Ngài là Chủ Thể Vĩnh Cửu của muôn vật. Tôi là chủ thể đối với cái ghế này, nên tôi thấy được nó; cũng thế đó, Thượng Đế là Chủ Thể Vĩnh Cửu của linh hồn tôi. Làm sao các bạn có thể khách thể hóa Ngài – Bản Thể Tinh Yếu của linh hồn các bạn, Thực Tính của vạn hữu?
Do đó, tôi muốn lặp lại với các bạn một lần nữa rằng : Thượng Đế không phải là cái khả tri hay là cái bất khả tri, mà là cái gì đó vô cùng cao siêu hơn cả hai điều này. Ngài hợp nhất với chúng ta, và những gì hợp nhất với chúng ta đều không phải là khả tri hay bất khả tri, giống như chính tự ngã của các bạn. Các bạn không thể biết được tự ngã của mình; các bạn không thể đem nó ra ngoài, rồi biến thành một đối tượng để nhìn ngắm, bởi vì các bạn chính là cái đó, và không thể tách ra khỏi nó. Mà nó cũng không phải là bất khả tri, bởi vì có gì mà các bạn lại có thể biết rõ hơn chính bản thân mình? Nó thực sự là trung tâm kiến thức của chúng ta. Đúng theo nghĩa này, Thượng Đế không phải là cái bất khả tri hay là cái khả tri mà là cái gì đó vô cùng cao siêu hơn cả hai điều đó, vì Ngài chính là Thực Ngã của chúng ta.
Trước hết, ta thấy rằng câu hỏi “Cái gì sinh ra Cái Tuyệt Đối?” đã tự mâu thuẫn về thuật ngữ; thứ hai, chúng ta thấy rằng quan niệm về Thượng Đế trong Advaita là Nhất Thể Tính [Oneness] này; và do đó, chúng ta không thể khách thể hóa Ngài, vì chúng ta luôn sống và di chuyển trong Ngài, dù ta có biết đều đó hay không. Mọi hành động của chúng ta đều thông qua Ngài.
Bây giờ, câu hỏi đặt ra là : thời gian, không gian và quan hệ nhân quả là gì? Advaita có nghĩa là phi nhị nguyên; không có hai thể mà chỉ có một thể. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng đây là một mệnh đề mà trong đó Cái Tuyệt Đối tự thân hiển lộ như là cái đa thù, thông qua bức màn của thời gian, không gian và quan hệ nhân quả. Do vậy, ta thấy tựa hồ có hai thể – tức Cái Tuyệt Đối và Māyā (tổng số của thời gian, không gian và quan hệ nhân quả). Xét bề ngoài thì rõ ràng ta tin chắc là có hai thể. Nhưng người theo thuyết Advaita trả lời rằng không thể gọi nó là hai. Để có hai thể thì phải có hai thực thể tồn tại độc lập, tự sinh. Trước hết, ta không thể bảo rằng thời gian, không gian và quan hệ nhân quả tồn tại độc lập. Thời gian là sự tồn tại phụ thuộc hoàn toàn; nó thay đổi theo từng sự thay đổi trong tâm trí ta. Đôi khi trong giấc mơ, một người lại tưởng như mình sống hàng mấy năm, nhiều lúc một vài tháng lại thoáng qua như chỉ một giây. Thứ hai, ý niệm về thời gian đôi khi cũng tan biến mất. Đối với không gian cũng thế. Ta không thể biết được không gian là gì. Ấy vậy mà không gian vẫn cứ tồn tại ở đấy, không thể xác định, và không thể tồn tại tách biệt với bất cứ đối tượng nào khác. Quan hệ nhân quả cũng thế.
Một thuộc tính đặc thù mà ta tìm thấy trong thời gian, không gian và quan hệ nhân quả là chúng không thể tồn tại độc lập với nhau. Hãy thử tưởng tượng một không gian không có màu sắc, giới hạn, hay không có bất kỳ một mối quan hệ nào với những sự vật chung quanh –đó chỉ là không gian trừu tượng. Các bạn không thể làm được điều đó, các bạn buộc phải tư duy về một không gian nằm giữa hai giới hạn, hoặc giữa ba đối tượng. Không gian phải kết hợp với một đối tượng nào đó mới tồn tại được. Đối với thời gian cũng vậy; các bạn không thể có bất kỳ ý niệm nào về một loại thời gian trừu tượng, mà các bạn phải dùng đến hai biến cố, một biến cố xảy ra trước và một biến cố khác tiếp theo sau, rồi kết hợp chúng lại bằng khái niệm kế tục trước sau. Thời gian tùy thuộc vào hai biến cố, cũng giống như không gian tùy thuộc vào những đối tượng bên ngoài. Và ý niệm về quan hệ nhân quả thì không thể tách lìa khỏi thời gian và không gian. Cả ba thời gian, không gian và quan hệ nhân quả đều có một tính chất đặc thù là chúng không thể tồn tại độc lập. Thậm chí chúng không thể tồn tại như cái ghế hay bức tường kia. Chúng như cái bóng bao quanh tất cả sự vật mà các bạn không sao nắm bắt được. Chúng không thực sự tồn tại, thế nhưng chúng cũng không phải là không tồn tại, bởi vì nhờ chúng mà tất cả sự vật mới có thể hiển thị thành cái vũ trụ này.
Bởi vậy, trước tiên ta thấy rằng khi thời gian, không gian và quan hệ nhân quả kết hợp với nhau thì sự kết hợp đó không hề tồn tại mà cũng không không tồn tại; tiếp đó là chúng đôi khi tan biến. Ta hãy dùng sóng biển để minh họa. Hiển nhiên sóng với biển là một, nhưng khi ta nhận biết sóng là sóng thì nó khác với biển. Cái gì tạo ra sự khác biệt đó? Do danh xưng và sắc tướng, nghĩa là ý niệm trong tâm thức và sắc tướng. Bây giờ, ta có thể tư duy sắc tướng của sóng [wave-form] như là cái gì đó tách biệt với biển được không? Hiển nhiên là không. Bởi vì sắc tướng của sóng phải luôn gắn liền với ý niệm biển. Nếu sóng rút xuống thì sắc tướng tan biến mất trong lúc đó, nhưng sắc tướng đó không phải là một ảo giác. Chừng nào sóng tồn tại thì sắc tướng tồn tại, và các bạn buộc phải nhìn sắc tướng. Và đây là māyā.
Toàn thể vũ trụ, do đó, có thể nói là một sắc tướng đặc thù; Cái Tuyệt Đối là biển cả mà trong đó các bạn và tôi, mặt trời và mặt trăng, cùng tất cả mọi thứ khác đều là những đợt sóng khác nhau đang nhấp nhô. Cái gì khiến cho các con sóng khác nhau? Chỉ là do sắc tướng; và sắc tướng đó là thời gian, không gian và quan hệ nhân quả, tất cả đều tùy thuộc vào con sóng. Ngay khi con sóng vừa tan đi thì tất cả những thứ đó đếu biến mất. Ngay khi một người vừa từ bỏ được māyā này, nó sẽ tan biến mất và anh ta trở nên tự do tự tại. Toàn bộ cuộc đấu tranh là thoát khỏi sự chấp trước vào thời gian, không gian cùng quan hệ nhân quả, vốn là những thứ luôn gây chướng ngại cho ta.
Thuyết tiến hóa là gì? Hai yếu tố là gì[19]? Một thế năng [potential power] khủng khiếp đang cố tự hiển thị, còn hoàn cảnh thì cố ghìm nó xuống, và môi trường thì không cho phép nó hiển lộ. Thế đấy, để chiến đấu với môi trường này, năng lượng đó phải luôn khoác một hình thức mới. Một con a-míp, trong cuộc đấu tranh đó, phải mang một thân xác khác, vượt qua chướng ngại, rồi lại tiếp tục mang một thân xác khác, tiếp tục vượt chướng ngại, cho đến khi nó biến thành con người. Bây giờ, nếu các bạn đưa ý tưởng này đến một kết luận hợp lý thì phải đến một lúc cái năng lượng ở trong con a-míp và tiến hóa thành con người đó ắt sẽ chinh phục được tất cả những trở ngại mà thiên nhiên đặt trước nó, và do đó, sẽ thoát ra khỏi tất cả môi trường chung quanh. Ý tưởng này nếu được diễn tả bằng siêu hình học sẽ mang hình thức như vầy : trong mọi sự vật đều có hai mặt đối lập, một cái là chủ thể, cái kia là khách thể, và mục đích của cuộc sống là phải để cho chủ thể làm chủ được khách thể. Chẳng hạn, tôi thấy khó chịu vì có người la mắng tôi. Sự đấu tranh của tôi sẽ khiến tôi mạnh mẽ đủ để chiến thắng được môi trường quanh tôi, sao cho người đó có thể mắng chửi nhưng tôi lại không cảm thấy khó chịu. Đó là cách thức mà tất cả chúng ta đều đấu tranh để chiến thắng. Đạo đức có nghĩa là gì? Đó là làm cho chủ thể mạnh mẽ lên bằng cách hòa thanh hài điệu với Cái Tuyệt Đối, để cho thiên nhiên hữu hạn không còn chế ngự chúng ta được nữa. Kết luận hợp lý của triết học chúng ta là : phải đến lúc chúng ta sẽ chế ngự được tất cả môi trường, bởi vì thiên nhiên thì hữu hạn.
Đây là một điều khác nữa cần phải học hỏi. Làm sao các bạn biết được rằng thiên nhiên hữu hạn? Các bạn chỉ biết được điều đó nhờ siêu hình học. Thiên nhiên là Cái Vô Biên nằm trong những hạn độ. Bởi vậy nó mới hữu hạn. Do đó, phải đến lúc chúng ta sẽ chế ngự được toàn thể môi trường. Và chúng ta chế ngự chúng như thế nào? Có lẽ ta không thể chế ngự được toàn thể môi trường khách quan. Ta không thể làm được điều đó. Con cá nhỏ muốn bay thoát khỏi kẻ thù trong dòng nước. Làm thế nào nó có thể thực hiện được điều này? Nó phải mọc cánh và tiến hóa thành loài chim. Con cá đó không thể thay đổi được dòng nước hay không khí, mà sự biến đổi đó đã ở ngay trong chính tự thân nó. Sự biến đổi luôn mang tính chủ quan. Thông qua thuyết tiến hóa, các bạn thấy rằng việc chế ngự thiên nhiên xuất phát từ sự biến đổi nơi chủ thể. Vận dụng điều này vào lĩnh vực tôn giáo và đạo đức, các bạn sẽ thấy rằng chế ngự điều xấu xa chỉ có thể xuất phát từ sự thay đổi mang yếu tố chủ quan mà thôi. Đây là điểm đem lại toàn bộ sức mạnh cho hệ thống triết học Advaita : yếu tố chủ quan nơi con người. Bàn về điều xấu xa hay sự khốn khổ là chuyện tầm phào vô nghĩa, vì chúng không tồn tại bên ngoài tâm ta. Nếu tôi miễn nhiễm được với mọi điều sân si thì tôi không bao giờ nổi nóng. Nếu tôi đề kháng được với mọi tư tưởng hận thù thì tôi không bao giờ cảm nhận được sự hận thù, bởi vì nó không thể chạm được vào tôi. Bởi vậy, đây là tiến trình mà nhờ đó ta chế ngự được thiên nhiên –nghĩa là thông qua chủ thể, và bằng cách hoàn thiện chủ thể.
Tôi xin đánh bạo mà nói rằng tôn giáo duy nhất phù hợp được với những công trình nghiên cứu hiện đại về phương diện vật lý lẫn đạo lý, thậm chí còn tiến xa hơn nữa, chính là triết học Advaita, và đó là lý do vì sao nó hấp dẫn các nhà khoa học hiện đại nhiều đến thế. Các nhà khoa học đó thấy rằng những học thuyết nhị nguyên già cỗi không đủ đáp ứng cho họ, không làm thỏa mãn những yêu cầu bức thiết của họ. Con người không chỉ cần có đức tin mà còn phải có đức tin bằng trí năng nữa. Giờ đây, ở vào nửa sau thế kỷ 19, những quan niệm đại loại như cho rằng tôn giáo xuất phát từ một cội nguồn khác với tôn giáo được truyền thừa từ thời cổ đại hẳn là điều sai lầm, những quan niệm đó cho thấy chúng vẫn còn điểm yếu và cần phải từ bỏ. Tôi không muốn nói rằng tình trạng đó chỉ xảy ra tại quốc gia này, mà nó diễn ra ở khắp mọi nơi, và không ở đâu hơn trên chính đất nước của tôi. Triết học Advaita không bao giờ cho phép tất cả mọi người tiếp cận. Thoạt tiên, chỉ một vài tu sĩ nắm giữ được nó và mang vào rừng, do đó triết học này có tên gọi là “Triết học núi rừng”. Vì lòng từ bi của bậc giác ngộ, đức Phật đã đến và thuyết giảng giáo pháp đó cho quần chúng, khiến cả đất nước này đều quy y theo Phật. Thật lâu về sau, khi những kẻ vô thần và những người theo thuyết bất khả tri phá hủy đất nước này lần nữa, người ta phát hiện ra rằng triết học Advaita là con đường duy nhất cứu đất nước Ấn Độ thoát khỏi thuyết duy vật.
Như vậy là triết học Advaita đã hai lần cứu Ấn Độ thoát khỏi thuyết duy vật. Trước khi đức Phật ra đời, thuyết duy vật đã lan tràn đến mức độ khủng khiếp, và nó là một loại triết học đáng ghê sợ nhất, không phải dưới hình thức như ngày nay, mà mang một bản chất vô cùng tệ hại. Theo một nghĩa nào đó thì tôi là một người duy vật, bởi vì tôi tin vào Thực Thể Duy Nhất. Đó là điều mà người duy vật muốn các bạn tin; chỉ khác một điểm : họ gọi nó là vật chất, còn tôi thì gọi là Thượng Đế. Người duy vật cho rằng những thứ như hy vọng, tôn giáo, cùng tất cả bao thứ khác đều phát sinh từ vật chất. Tôi thì cho rằng tất cả những thứ đó đều phát sinh từ Brahman. Những thuyết duy vật chi phối xã hội Ấn Độ trước khi đức Phật xuất thế chỉ là một thuyết duy vật thô sơ. Nó tuyên bố : “Hãy ăn uống và hưởng lạc; chẳng hề có Thượng Đế, linh hồn hay thiên đàng gì hết; tôn giáo chỉ là trò bừa bịp của bọn thầy tu nham hiểm”. Thuyết đó dạy đạo lý rằng chừng nào còn sống thì cứ việc ăn chơi hưởng lạc, dù có phải đi vay mượn để ăn uống thì cũng đừng bao giờ bận tâm đến chuyện trả nợ làm chi. Đó là học thuyết duy vật cổ lỗ, và loại triết học đó lan tràn mạnh mẽ tới tận ngày nay, đến mức nó mang tên là “triết học bình dân”. Đức Phật đưa triết học Vedānta ra ánh sáng, trao nó cho dân chúng, và cứu lấy đất nước Ấn Độ.
Sau khi đức Phật nhập diệt được một ngàn năm thì tình trạng tương tự lại tái diễn. Đám đông hỗn tạp của đủ loại chủng tộc quy y theo Phật giáo nên theo lẽ tự nhiên thì sớm muộn gì Phật pháp cũng suy đồi, bởi vì hầu hết tín đám đồ đó đều là những người bình dân ít học. Phật giáo không dạy về Thượng Đế, hay Pháp Tắc vũ trụ, cho nên dần dần đám đông quần chúng mang theo thần thánh và cả ma quỷ yêu tinh của họ để biến Phật giáo tại Ấn Độ thành một cái nồi khổng lồ chứa đủ thứ hổ lốn tạp nham. Một lần nữa, thuyết duy vật giữ vai trò chủ đạo, khiến tầng lớp thương lưu thì ăn chơi sa đọa, còn giới bình dân thì đâm ra mê tín dị đoan. Học phái Śankarāchārya trỗi dậy, và một lần nữa làm hồi sinh triết học Vedānta. Nó biến triết học này thành một loại triết học duy lý. Trong các kinh thư Upanishad, những lập luận thường rất tối nghĩa. Đức Phật thì nhấn mạnh đến phương diện đạo lý của triết học này, còn học phái Śankarāchārya thì nhấn mạnh đến phương diện tri thức. Śankarāchārya biên tập lại, hợp lý hóa các lập luận và đưa cho mọi người một hệ thống triết học Advaita mạch lạc tuyệt vời.
Ngày nay, thuyết duy vật thắng thế ở châu Âu. Các bạn có thể cầu nguyện để những triết gia hoài nghi hiện đại được cứu rỗi, nhưng họ không nhượng bộ, họ cần đến lý trí. Sự cứu rỗi châu Âu tùy thuộc vào một tôn giáo duy lý; và triết học Advaita – một loại triết học phi nhị nguyên, triết học về Nhất Thể, quan niệm về một Thượng Đế Phi Nhân Thể hay Thượng Đế Không Mang Hình Ảnh Con Người [Impersonal God] – là tôn giáo duy nhất có thể thích hợp với bất kỳ dân tộc trí thức nào. Triết học này xuất hiện bất cứ khi nào tôn giáo có vẻ như tan biến và tình trạng phi tôn giáo tựa hồ như thắng thế, đó là lý do vì sao nó đã bén rễ được trên vùng đất châu Âu và châu Mỹ.
Tôi muốn trình bày thêm một điều nữa có liên quan với triết học này. Trong các cổ thư Upanishad, ta thấy một nền văn học tao nhã, tác giả chúng là những nhà thơ. Plato nói thơ ca truyền cảm hứng đến với dân chúng, và tựa hồ những Rishi thời cổ – những nhà hiền triết thấu thị được Chân Lý – đã vượt lên cao hẳn với loài người để bày tỏ những chân lý đó bằng thơ ca. Họ không truyền giảng, cũng chẳng triết lý hay viết lách gì cả. Âm nhạc trào dâng từ tâm hồn họ. Với đức Phật, ta có được một tâm hồn vĩ đại bao trùm cả vũ trụ và một sự kham nhẫn vô bờ bến, khi Ngài biến tôn giáo thành thực tiễn và mang nó đến tận cửa của từng nhà. Trong triết học Śankarāchārya ta lại thấy một trí năng mãnh liệt, dùng ánh sáng của lý trí để sáng soi muôn vật. Ngày nay, ta cần một vầng dương sáng chói của trí tuệ kết hợp với trái tim của đức Phật – một trái tim diệu kỳ chan chứa sự thương yêu vô lượng. Sự kết hợp này sẽ đem lại cho chúng ta một nền triết học cao cả nhất. Khoa học và tôn giáo sẽ cùng gặp gỡ để nắm tay nhau. Thơ ca và triết học sẽ trở thành bè bạn. Đó sẽ là tôn giáo của tương lai, và nếu ta có thể phát triển rộng thêm thì điều đó chắc chắn sẽ diễn ra ở mọi thời đại và cho mọi dân tộc.
Đây là điều duy nhất mà khoa học hiện đại có thể chấp nhận, bởi vì hầu như nó đã đến với nền khoa học rồi. Khi một nhà khoa học khẳng định rằng tất cả đều là biểu hiện của lực, điều đó há không nhắc nhở các bạn nhớ đến Thượng Đế mà các bạn đã từng nghe trong những kinh thư Upanishad hay sao? “Khi tiến vào vũ trụ, ngọn lửa duy nhất tự biểu hiện trong muôn ngàn sắc tướng như thế nào thì Linh Hồn Duy Nhất cũng tự biểu hiện trong mỗi linh hồn như thế ấy, và còn vô tận vô biên hơn thế nữa”. Các bạn há không thấy khoa học hướng về đâu chăng? Đất nước Ấn Độ thực hành khoa học thông qua nghiên cứu tâm thức, siêu hình học và lôgic. Các quốc gia châu Âu lại khởi đầu khoa học từ thiên nhiên bên ngoài, và giờ đây cả hai đang đi đến cùng một kết quả. Ta thấy rằng khi tìm kiếm thông qua tâm thức thì rốt cuộc ta cũng đi đến Nhất Thể Tính đó, Nhất Thể Phổ Quát đó, đến cái Linh Hồn của vạn hữu, Bản Thể Tinh Yếu và Thực Tại Tính của muôn vật, đến sự Tự Do cố hữu, niềm Lạc Phúc cố hữu, cái Vĩnh Viễn Thường Tồn. Thông qua việc nghiên cứu vật chất bằng khoa học, ta cũng đi đến Nhất Thể Tính đó. Ngày nay, khoa học cho ta biết rằng vạn vật chỉ là sự biểu hiện của một nguồn năng lượng duy nhất vốn là tổng số năng lượng của tất cả sự vật tồn tại, và xu hướng của loài người là tiến đến tự do chứ không phải tiến đến nô lệ. Tại sao con người lại cần phải đạo đức? Bởi vì con đường đi xuyên qua đạo đức sẽ đưa ta đến tự do, còn con đường đi xuyên qua vô luân chỉ dẫn đến nô lệ, ràng buộc.
Một điểm đặc thù khác của hệ thống triết học Advaita là từ khởi thủy nó không phải là triết học phá hoại. Đây là niềm vinh quang khác, là sự dũng cảm khi tuyên bố : “Đừng quấy nhiễu đức tin của bất kỳ ai, kể cả những kẻ mà sự vô minh ngu muội đã gắn kết họ với những hình thức sùng bái thấp kém nhất”. Điều đó có nghĩa là đừng quấy nhiễu, mà hãy giúp đỡ để mọi người ngày càng hướng thượng, bao gồm tất cả loài người. Triết học đó thuyết giảng về một Thượng Đế là tổng số bao hàm tất cả. Nếu các bạn muốn tìm một tôn giáo phổ quát có thể thích hợp được với tất cả mọi người thì tôn giáo đó không thể được cấu thành từ những thành phần riêng lẻ, mà nó phải là tổng số và bao trùm mọi mức độ phát triển khác nhau của tôn giáo. Ta không thể thấy rõ ý tưởng này trong bất kỳ một hệ thống tôn giáo nào khác. Mọi tôn giáo khác đều là những thành phần tương đương, cùng đấu tranh lẫn nhau để đạt đến cái toàn thể. Những thành phần đó tồn tại chỉ vì mục đích này thôi.
Do đó, ngay từ khởi thủy, triết học Advaita không hề mâu thuẫn với những tông phái đang tồn tại ở Ấn Độ. Ngày nay có những triết gia nhị nguyên luận, nhưng ở Ấn Độ thì số lượng những triết gia đó đông đảo nhất, bởi vì theo lẽ tự nhiên thì thuyết nhị nguyên luôn hấp dẫn những đầu óc ít hiểu biết. Đó là cách giải thích vũ trụ tiện lợi và tự nhiên theo lý trí thông thường. Nhưng với những triết gia nhị nguyên đó, Advaita không hề tranh luận. Người thì cho rằng Thượng Đế ở ngoài vũ trụ, tại một nơi nào đó trên thiên đàng; kẻ khác lại quan niệm rằng Ngài là Linh Hồn của mình, nên xem Ngài là một đối tượng cao xa bất kỳ nào cũng đều là báng bổ. Bất cứ ý tưởng nào về sự tách biệt giữa Ngài và ta cũng đều khủng khiếp. Ngài là đấng thân thiết gần gũi trong những cái cận kề. Trong bất cứ ngôn ngữ nào cũng không có một danh từ nào diễn đạt được ý tưởng cận kề này ngoài danh từ Nhất Thể Tính. Triết gia Advaita không thỏa mãn với bất kỳ một tư tưởng nào khác, cũng triết gia nhị nguyên sửng sốt trước tư tưởng Advaita và cho đó là báng bổ, bất kính. Đồng thời, triết gia Advaita cũng hiểu rằng những tư tưởng kia phải là thế, cho nên ông ta không hề tranh luận với những triết gia nhị nguyên đi đúng đường. Từ lập trường của mình, triết gia nhị nguyên phải nhìn thấy sự đa tạp. Đó là yếu tố thiết yếu cấu thành nên lập trường của họ. Hãy cứ để yên họ như thế. Triết gia Advaita biết rằng dù lý thuyết của các triết gia nhị nguyên có là gì đi nữa thì họ cũng đi đến cùng một mục đích như mình. Do đó, ông ta hoàn toàn khác với các triết gia nhị nguyên vì những triết gia này bị gò bó trong quan điểm hạn hẹp của mình nên tin rằng tất cả quan điểm khác đều sai lầm.
Dĩ nhiên là những triết gia nhị nguyên khắp thế giới tin vào một Thượng Đế Nhân Thể, vị Thượng Đế đó giống hệt con người về hình dạng, có quyền năng vĩ đại, ưa thích người này, ghét bỏ kẻ kia. Ngài thấy hài lòng với một dân tộc hay một chủng tộc nào đó, và ban ơn phước cho họ. Dĩ nhiên những triết gia nhị nguyên đi đến kết luận rằng Thượng Đế cũng có những tín đồ được Ngài đặc biệt yêu quý, và họ mong được là một trong những người đó. Các bạn thấy rằng trong hầu hết mọi tôn giáo ta đều thấy ý tưởng này : “Chúng ta là những người được Thượng Đế của chúng ta yêu thương nhất, do dó hãy dốc lòng tin tưởng đặng hưởng ân phước của Người”. Một số triết gia nhị nguyên còn hẹp hòi, nông cạn đến mức khăng khăng cho rằng chỉ có một số ít người nào được chọn để hưởng ân sủng của Chúa mới được cứu rỗi, còn những người khác dù có nỗ lực đến mấy cũng bị khước từ. Tôi thách các bạn chỉ ra một tôn giáo nhị nguyên nào mà không có ít nhiều tư tưởng độc đoán này. Do vậy, theo lý tự nhiên, những tôn giáo nhị nguyên buộc phải chiến đấu và xung đột với nhau, từ xưa mãi đến tận bây giờ. Hơn thế nữa, các triết gia nhị nguyên được đông đảo quần chúng tin theo là nhờ vào đầu óc phù phiếm hời hợt của đám người thất học. Đám người này cảm thấy họ là những tín đồ được đặc quyền hưởng ân sủng.
Các triết gia nhị nguyên cho rằng các bạn không thể nào là người đạo đức cho đến khi nào bạn tin vào một đấng Thượng Đế cầm roi trên tay để sẵn sàng trừng phạt bạn. Đám đông cạn cợt thiếu suy nghĩ đó thường là những người theo quan điểm nhị nguyên, và những kẻ đáng thương đó đã bị đày đọa khốn khổ hàng mấy ngàn năm tại mọi quốc gia; bởi vậy họ quan niệm cứu rỗi là thoát khỏi sự trừng phạt này.
Nhưng chúng ta thấy rằng những người ưu tú nhất và những người vĩ đại nhất đã từng sinh ra trên cõi thế đều mà việc với ý tưởng phi nhân thể cao thượng đó. Đó là người đã từng tuyên bố : “Ta và Cha ta là Một”, người mà quyền năng đã truyền xuống cho hàng triệu người. Trong hai ngàn năm qua, vị đó vẫn mãi mãi hành động. Và chúng ta cũng biết rằng cũng chính người đó, bởi vì Ngài là người phi nhị nguyên, rất nhân ái với người khác. Đối với đám đông không thể lĩnh hội cái gì cao siêu hơn một Thượng Đế Nhân Thể thì Ngài phán: “Hãy cầu nguyện Cha các ngươi trên trời”. Đối với những người tâm trí mở mang có thể hiểu được những giáo lý cao xa hơn thì Ngài phán : “Ta là cây nho, các ngươi là cành nhánh”; nhưng đối với những môn đồ mà Ngài có thể tự hiển lộ trọn vẹn hơn thì Ngài thuyết giảng chân lý tối thượng : “Ta và Cha ta là một”.
Đó là đức Phật vĩ đại, người chưa hề quan tâm đến thần linh của những triết gia nhị nguyên, người bị gọi là kẻ vô thần và duy vật, tuy vậy Ngài lại là người sẵn sàng hy sinh thân mình vì một con dê đáng thương. Người đó đã khởi xướng những tư tưởng đạo đức cao siêu nhất mà bất kỳ một quốc gia nào có thể có được. Bất cứ nơi nào có những chuẩn mực đạo đức thì đó là ánh sáng phát xuất từ người đó.
Ta không thể đem ép những tâm hồn vĩ đại của thế gian vào
trong những khuôn khổ hạn hẹp và giữ chúng ở đó, nhất là tại thời điểm mà trong
lịch sử nhân loại, trí năng đã phát triển đến mức cả một trăm năm trước đó cũng
không bao giờ tưởng tượng nổi, khi mà làn sóng tri thức khoa học đã trỗi dậy mà
không một người nào cách đó năm mươi năm từng mơ tưởng tới. Đem ép con người
vào trong những khuôn khổ hạn hẹp là các bạn đã làm họ suy đồi, biến thành loài
vật và đám đông không có đầu óc. Làm như thế là các bạn giết chết sinh hoạt đạo
đức. Cái còn thiếu giờ đây là sự kết hợp trái tim vĩ đại nhất với bộ óc uyên
bác nhất, kết hợp tình yêu vô biên với kiến thức vô hạn. Triết gia Vedānta
không gán cho Thượng Đế một thuộc tính nào ngoài ba thứ sau đây : Ngài là Hiện
Hữu Vô Lượng, Đại Trí Vô Lượng và Đại Bi Vô Lượng; và Ngài xem cả ba điều đó là
một. Hiện Hữu mà không có Trí và Bi là điều không thể có; mà Trí thiếu Bi hay
Bi thiếu Trí cũng là điều không thể có. Điều mà chúng ta cần là sự hài hòa giữa
Hiện Hữu Vô Lượng, Đại Trí Vô Lượng và Đại Bi Vô Lượng. Vì đó là mục tiêu của
ta. Chúng ta cần sự hài hòa, chứ không phải sự phát triển một chiều. Ta có thể
có được trí tuệ của một Śhankara với tâm hồn của một đức Phật. Tôi hy vọng tất
cả chúng ta sẽ đấu tranh để đạt đến sự kết hợp thiêng liêng đó.
(Diễn thuyết tại London, 27 tháng 10, 1896)
Chúng ta hiểu rõ rằng phần lớn đời sống đều chứa đầy điều xấu xa, đó là chuyện tất yếu, nhưng chúng ta phản kháng lại chuyện đó, và hiểu rằng khối lượng điều xấu xa này, trên thực tế, đối với chúng ta là vô tận. Kể từ khởi thủy, chúng ta đã đấu tranh chống lại điều đó, thế nhưng mọi chuyện vẫn cứ y nguyên như cũ, chẳng có gì thay đổi. Chúng ta càng tìm ra thuốc chữa thì lại càng thấy mình bị bủa vây bởi những điều xấu xa tinh vi hơn. Chúng ta thấy rằng mọi tôn giáo đều gợi ý một Thượng Đế, xem đó là biện pháp để thoát khỏi những vấn nạn này. Mọi tôn giáo đều bảo chúng ta rằng nếu đón nhận thế giới này đúng như thực trạng của nó – như phần lớn những người có đầu óc thực tế trong thời buổi hiện nay khuyên ta nên làm – thì chúng ta chẳng còn gì ngoài những điều xấu xa. Họ còn đi xa hơn khi khẳng định rằng còn có một cái gì đó ở bên kia thế giới. Cuộc sống trong phạm vi giác quan, cuộc sống trong thế giới vật chất không phải là tất cả; mà nó chỉ là một bộ phận nhỏ, hời hợt bên ngoài. Đằng sau thế giới và bên kia thế giới là Cõi Vô Biên, nơi đó không hề có tội lỗi. Một số dân tộc gọi đó là Chúa, là Thượng Đế, các dân tộc khác gọi là Allah, các dân tộc khác nữa gọi là Jehovah hay Jove v.v…. Còn những triết gia Vedānta thì gọi là Brahman.
Ấn tượng đầu tiên đến từ những lời khuyên của tôn giáo là : tốt hơn hết thì chúng ta hãy từ bỏ cuộc sống này. Đối với vấn đề làm thế nào để chữa trị những điều xấu xa của cuộc sống, câu trả lời hiển nhiên là : hãy từ bỏ nó. Nó gợi ta nhớ đến một câu chuyện cổ. Có một con muỗi đậu trên trán của một người nọ. Một người bạn muốn giết con muỗi nên tống một quả đấm mạnh đến nỗi giết chết cả anh ta lẫn con muỗi. Phương thuốc chữa trị cho những điều xấu xa tựa hồ cũng gợi cho ta một điều như thế. Cuộc sống đầy những điều xấu xa, thế giới đầy những điều xấu xa, đó là một sự kiện mà không một người chín chắn hiểu đời nào lại có thể phủ nhận. Nhưng phương thuốc chữa trị mà các tôn giáo đưa ra là gì? Đó là : thế giới này là hư không, chỉ bên kia thế giới mới là thực hữu. Ở đây lại nảy sinh ra những vấn nạn. Phương thuốc chữa trị đó dường như phá hủy hết mọi thứ. Vậy thì làm thế nào nó có thể là phương thuốc chữa trị được? Không có con đường nào thoát ra chăng?
Triết học Vedānta bảo rằng tất cả những gì các tôn giáo đề nghị đều hoàn toàn chân thực, nhưng cần phải hiểu cho đúng. Thường thì điều đó bị ngộ nhận, bởi vì ý nghĩa của các tôn giáo không thật tường minh. Điều chúng ta cần là sự kết hợp giữa khối óc với trái tim. Trái tim thì thật sự vĩ đại, biết bao nguồn cảm hứng to lớn cho cuộc đời đã nảy sinh từ chính trái tim. Tôi trăm ngàn lần mong muốn thà có một trái tim nhỏ bé và không có khối óc, còn hơn là có một khối óc vĩ đại mà không có trái tim. Cuộc sống sẽ dễ chịu, và sự tiến bộ sẽ đến được với người có một trái tim, còn những kẻ chỉ có khối óc mà không có trái tim sẽ phải chết trong sự khô cằn. Đồng thời ta cũng biết rằng những người nào chỉ để mình cuốn theo tiếng nói của con tim sẽ phải gánh chịu những điều tồi tệ, bởi vì thỉnh thoảng anh ta rất có thể bị ngã hầm sụp hố. Sự kết hợp giữa khối óc và trái tim là điều mà chúng ta cần. Tôi không có ý nói rằng một người nên đem trái tim thỏa hiệp với khối óc hay ngược lại, mà muốn rằng tất cả mọi người đều có những cảm xúc dạt dào vô tận, đồng thời lại có lý trí vô biên. Có giới hạn nào cho những điều chúng ta mong đợi ở thế giới hay không? Thế giới này có vô biên hay không? Còn có chỗ cho khối lượng vô biên của cảm xúc, và cũng còn có chỗ cho khối lượng vô biên của kiến thức và trí năng. Hãy để chúng đi bên nhau không giới hạn, hãy để chúng sánh vai cùng bước, như từ trước đến nay, theo thể điệu song hành.
Phần lớn các tôn giáo đều hiểu điều đó, nhưng dường như chúng đều phạm phải một sai lầm như nhau, đó là chúng cứ để bị cuốn theo bởi trái tim và cảm tính. Thế gian này đầy những điều xấu xa, hãy từ bỏ thế gian; đó là lời thuyết giảng vĩ đại, lời thuyết giảng vĩ đại duy nhất, không còn nghi ngờ gì cả. Hãy từ bỏ thế gian. Không thể nào có hai quan điểm : để hiểu chân lý thì mỗi người trong chúng ta phải từ bỏ điều lầm lạc. Không thể nào có hai quan điểm : để làm được điều tốt thì mỗi người trong chúng ta phải từ bỏ điều xấu. Không thể nào có hai quan điểm : để có được sự sống thì mỗi người trong chúng ta phải từ bỏ cái chết. Vậy thì ta còn lại gì, nếu như giáo lý này đề cập đến việc từ bỏ cuộc sống của giác quan – cuộc sống mà chúng ta đều biết rõ? Cái mà ta gọi là cuộc sống có phải là cái gì khác hay không? Nếu từ bỏ nó thì ta còn lại gì?
Sau đây, ta sẽ hiểu điều này rõ hơn, khi đến với những giáo lý đượm màu triết học của kinh Veda. Nhưng lúc này, tôi xin được nói rằng chỉ trong triết học Vedānta chúng ta mới tìm thấy được giải pháp hợp lý cho vấn đề. Tại đây, tôi có thể bày ra trước mặt các bạn nội dung của triết học Vedānta, đó là giáo lý biến thế gian thành nơi linh thánh[20].
Trên thực tế, triết học Vedānta không từ khước thế gian. Không ở đâu mà lý tưởng xả ly lại có thể đạt đến đỉnh cao như trong giáo lý Vedānta. Nhưng đồng thời, nó không có những lời khuyên khô khan về tự vẫn; nó thực sự có nghĩa là biến thế gian thành nơi linh thánh – nghĩa là từ bỏ thế gian như chúng ta nghĩ về nó, như chúng ta biết về nó, đúng như nó hiển lộ ra trước chúng ta – và thấu hiểu chân tướng của nó. Hãy biến thế gian thành nơi linh thánh, nó chính là Thượng Đế duy nhất.
Trong đoạn mở đầu của kinh thư Upanishad tối cổ, ta đọc thấy : “Tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ này đều được bao hàm trong đấng Chúa Tể”. Ta phải dùng đấng Chúa Tể để bao trùm lên tất cả, không phải bằng thuyết lạc quan sai lạc, không phải bằng cách bịt mắt làm ngơ trước những điều xấu xa, mà bằng cách thực sự nhìn thấy Thượng Đế trong vạn hữu. Như thế, nếu chúng ta từ bỏ thế gian, và khi thế gian bị từ bỏ thì còn lại gì? Thượng Đế. Điều đó có nghĩa là gì? Các bạn có thể có vợ, chắc chắn các bạn không được từ bỏ người vợ của mình, mà phải nhìn ra Thượng Đế nơi người vợ đó. Hãy từ bỏ con cái – điều đó có nghĩa là gì? Có phải tống cổ chúng ra khỏi cửa, như một số người cục súc thô bạo vẫn làm ở mọi quốc gia? Hoàn toàn không. Đó là sự tàn độc chứ không phải là tôn giáo. Mà hãy nhìn thấy Thượng Đế nơi chúng. Tương tự như thế, hãy nhìn thấy Thượng Đế trong muôn vật. Trong sự sống và cái chết, trong hạnh phúc và khổ đau, đấng Chúa Tể đều hiện hữu bình đẳng như nhau. Toàn thể thế gian này đều ngập tràn linh ảnh của đấng Chúa Tể. Hãy mở mắt ra và nhìn Ngài.
Đây là giáo lý Vedānta : Hãy từ bỏ cái thế gian mà các bạn ước đoán, bởi vì sự ước đoán của các bạn chỉ dựa trên những kinh nghiệm manh mún, rời rạc, dựa trên những suy luận quá đỗi nghèo nàn, và dựa trên chính sự yếu đuối của các bạn. Hãy từ bỏ điều đó, cái thế giới mà các bạn suy tưởng lâu nay, cái thế giới mà các bạn quyến luyến lâu này là cái thế giới giả dối do ta tự tạo ra. Hãy từ bỏ thế giới đó đi, hãy mở lớn mắt ra và thấy rằng nó chưa từng hiện hữu như thế; thế giới đó là giấc mộng, là māyā. Cái thực sự tồn tại, đó là chính đấng Chúa Tể. Ngài là đấng hiện hữu trong đứa trẻ, trong người vợ, trong người chồng; Ngài là đấng hiện hữu trong thiện và ác, trong tội lỗi và trong kẻ phạm tội; Ngài là đấng hiện hữu trong sự sống và cái chết.
Một điều khẳng định thực sự khủng khiếp! Tuy vậy, đó là chủ đề mà triết học Vedānta muốn chứng minh, giảng dạy và thuyết giảng. Điều này mới chỉ là chủ đề mở đầu.
Chúng ta tránh né những hiểm nguy trong cuộc sống cùng những điều xấu xa của nó, bằng cách nhìn thấy Thượng Đế trong vạn hữu. Đừng khát khao bất cứ điều gì. Điều gì khiến chúng ta phải khốn khổ? Căn nguyên của mọi khốn khổ mà chúng ta phải gánh chịu chính là dục vọng. Nếu bạn ham muốn một điều gì đó mà không được thỏa mãn, kết quả là sự khốn khổ. Nếu không còn ham muốn thì không còn khổ đau. Nhưng ở đây, cũng có nguy cơ tôi bị hiểu sai. Cho nên tôi cần phải giải thích rõ ý của mình, đó là : từ bỏ tham dục và thoát khỏi khổ đau. Các bức tường không có tham dục, và chúng không bao giờ đau khổ. Đúng vậy, nhưng chúng cũng không bao giờ tiến hóa được. Cái ghế này không có tham dục, và nó không bao giờ đau khổ; nhưng vĩnh viễn nó cũng chỉ là cái ghế. Có vinh quanh trong hạnh phúc và cũng có vinh quang trong đau khổ. Nếu tôi dám nói điều này, ngay trong tội lỗi cũng có điều hữu ích. Tất cả chúng ta đều biết đến bài học vĩ đại trong đau khổ. Có hàng trăm việc ta đã làm trong đời mình mà ta ước phải chi đừng có làm, nhưng đồng thời chính những việc đó là những vị thầy vĩ đại của ta. Về phần mình, tôi vui sướng là đã làm được một số việc tốt và rất nhiều việc xấu, bởi vì việc nào cũng đều là một bài học lớn. Tôi giờ đây là kết quả của tất cả những gì tôi đã làm và những gì tôi đã suy nghĩ. Mọi hành động của thân và ý đều tại nên quả, và những quả này là tổng số sự tiến bộ của tôi.
Tất cả chúng ta đều hiểu rằng tham dục là sai, nhưng từ bỏ tham dục có nghĩa là gì? Lúc đó đời sống sẽ ra sao? Điều đó có vẻ giống như lời khuyên nên tự vẫn, giết chết tham dục và cả con người. Giải pháp là như vầy. Không phải là các bạn không nên có của cải, cũng không phải là các bạn không nên có những vật dụng cần thiết, thậm chí là những thứ xa hoa sang trọng – mà tất cả những gì các bạn cần phải có, và còn cần hơn thế nữa, đó là hiểu được chân lý về tài sản : nó không thuộc về một ai cả. Đừng có một quan niệm nào khác về tài sản, về sở hữu. Bạn chẳng phải là ai cả, tôi cũng vậy, bất cứ người nào cũng vậy. Tất cả đều thuộc về Thượng Đế, bởi vì câu thơ mở đầu trong Iśa Upanishad đã nói với ta rằng hãy đem Thượng Đế bao trùm lên vạn hữu. Thượng Đế là tài sản mà các bạn thụ hưởng. Ngài là khát vọng phát sinh trong tâm trí các bạn. Ngài là đồ vật bạn mua sắm để thỏa mãn khát vọng của mình; Ngài ở trong dáng diệu xinh đẹp của các bạn, ở trong những đồ trang sức mỹ lệ của các bạn. Đây là phương thức tư duy. Tất cả sẽ chuyển hình biến tướng ngay khi các bạn nhìn sự vật trong làn ánh sáng đó. Nếu các bạn đặt Thượng Đế trong mọi hành động của mình, trong mọi lời nói, trong mọi hình thái, trong mọi sự vật thì toàn bộ cảnh tượng sẽ thay đổi, và thế giới – thay vì hiện ra như là một nơi đầy sầu não, khổ đau – sẽ biến thành một cõi thiên đàng.
Đức Chúa Jesus phán : “Nước thiên đàng ở trong tâm hồn các ngươi”. Triết học Vedānta và mọi đạo sư vĩ đại trên thế gian cũng đều nói như thế. “Những ai có mắt để nhìn, hãy để họ nhìn; và những ai có tai để nghe, hãy để họ nghe”. Triết học Vedānta chứng minh rằng chân lý mà chúng ta mê mải đi tìm từ trước đến nay là cái hiện tại, và luôn ở trong tâm ta từ vô thủy. Do vô minh, ta ngỡ đã đánh mất nó, nên chúng ta đi khắp thế gian mà kêu gào than khóc, đấu tranh để tìm chân lý đó, trong khi nó vẫn luôn hiện hữu trong tâm ta. Chỉ ở nơi đó, trong tâm ta, ta mới có thể tìm ra chân lý mà thôi
Nếu ta hiểu việc từ bỏ thế gian theo nghĩa thô thiển ngày trước thì sẽ dẫn đến điều này : chúng ta không cần phải làm việc, mà cứ nhàn nhã nghỉ ngơi, cứ ngồi thù lù như một cục đất, không suy nghĩ mà cũng chẳng cần làm một chuyện chi hết, cứ phó mặc cho số phận, để hoàn cành đưa đẩy, cứ để quy luật thiên nhiên thổi dạt lênh đênh tới đâu hay đó. Kết cục sẽ là vậy đấy. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn nói. Chúng ta phải làm việc. Một người bình thường nếu cứ để cho những tham vọng hão huyền thổi dạt đi khắp mọi nơi thì anh ta biết gì về công việc? Một người nếu cứ bị thôi thúc bởi những cảm hứng bốc đồng, bởi tham vọng và dục lạc thì anh ta biết gì về công việc? Chỉ những ai không để bị thôi thúc bởi những tham vọng và bất kỳ thói ích kỷ nào mới là những người làm việc thực sự. Chỉ những ai không để bị thôi thúc bởi những động cơ kín đáo mới là những người làm việc thực sự. Chỉ những ai không mong thu hoạch thành quả từ công việc mới là những người làm việc thực sự.
Ai là người thưởng ngoạn bức tranh? Người bán hay người xem? Người bán lăng xăng bận rộn với những khoản tiền, tính toán thu hoạch được bao nhiêu, lời lãi được chừng nào khi bán bức tranh. Đầu óc anh ta đầy ắp những thứ đó. Anh ta nhìn cái búa và quan sát những khoản tiền đấu giá. Anh ta chỉ quan tâm những khoản tiền đấu giá đó lên cao bao nhiêu. Người thưởng ngoạn bức tranh là người đi đến đó mà không hề có ý định mua hay bán thứ gì. Anh ta nhìn bức tranh và thưởng ngoạn nó. Toàn thể vũ trụ cũng như thế đó, nó là một bức tranh; khi mọi tham dục tan biến thì con người thưởng ngoạn được thế giới, và những chuyện mua bán cùng những ý tưởng điên rồ về chiếm hữu đều sẽ kết thúc. Kẻ cho vay tiền sẽ ra đi, người bán cũng ra đi, người mua cũng ra đi, thế giới này còn lại như một bức tranh, một bản vẽ xinh đẹp.
Tôi chưa bao giờ đọc được một ý tưởng nào về Thượng Đế lại đẹp hơn ý tưởng này : “Người là Nhà Thơ Vĩ Đại, Nhà Thơ Cổ Điển; cả vũ trụ này là bài thơ của Người, những câu thơ, âm điệu và tiết tấu phối hợp với nhau trong niềm Lạc Phúc Vô Biên”. Chỉ khi tâm ta không còn tham vọng thì ta mới có thể đọc ra và thưởng ngoạn được vũ trụ của Thượng Đế. Lúc đó toàn thể vạn vật đều trở nên linh thánh. Những ngóc ngách hay góc khuất, những con đường mòn hay những nơi âm u mà chúng ta ngỡ là tăm tối hoặc phàm tục đều trở nên thiêng liêng, linh thánh. Hết thảy chúng đều hiển lộ thực tính và chúng ta sẽ mỉm cười về chính bản thân mình, nghĩ tới tất cả những chuyện kêu than, gào khóc đều là trò đùa của trẻ con, và chúng ta chỉ việc đứng một bên để ngắm nhìn.
Hãy làm công việc của bạn đi, kinh Veda đã dạy thế. Trước hết, nó khuyên bảo chúng ta nên làm việc như thế nào : bằng cách từ bỏ – từ bỏ cái thế gian hư ảo, giả dối này. Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là nhìn thấy Thượng Đế ở khắp mọi nơi. Do đó, hãy làm công việc của bạn đi. Hãy ước mơ sống một trăm năm, thỏa mãn tất cả những khát vọng trần gian, nếu bạn muốn, nhưng chỉ cần biến chúng thành thiêng liêng, chuyển hóa chúng thành cõi thiên đàng. Hãy khao khát sống trọn một đời có ích, đầy lạc phúc và luôn hoạt động trên cõi thế này. Khi làm việc như thế, các bạn sẽ tìm được một thoát ra. Không có con đường nào khác. Nếu một người cứ lao đầu vào những lạc thú xa hoa điên rồ của thế gian mà không biết đến chân lý thì anh ta đã lạc mất nền tảng, và không thể đạt mục tiêu. Còn người nào cứ nguyền rủa thế gian, đi vào rừng sâu, tu khổ hạnh, tự hành xác mình để chết dần mòn bằng cách nhịn đói, biến tâm hồn mình thành bãi sa mạc cằn cỗi, giết dần các cảm xúc, trở nên khô đét, hốc hác thì người đó cũng đi lầm đường. Đó là hai cực đoan, cả hai đều nhầm lẫn. Cả hai đều lạc đường và cùng đánh mất mục tiêu.
Bởi vậy kinh Veda dạy hãy làm việc đi, hãy đặt Thượng Đế trong vạn hữu và biết rằng Ngài hiện hữu trong tất cả sự vật. Hãy làm việc không ngừng nghỉ, hãy xem cuộc đời là một cái đó rất đỗi thiêng liêng như chính Thượng Đế, và biết rằng đó là tất cả những gì chúng ta phải làm, là tất cả những gì chúng ta cần đòi hỏi. Thượng Đế hiện hữu trong muôn vật, vậy ta sẽ đi đâu để tìm Ngài? Ngài đã hiện hữu trong từng công việc, trong từng suy tưởng, trong từng cảm xúc. Khi hiểu được như thế rồi thì chúng ta phải làm việc. Đó là con đường duy nhất, không có con đường nào khác. Như thế hiệu quả của công việc sẽ không trói buộc chúng ta. Ta đã thấy rằng căn nguyên của tất cả bao nỗi khốn khổ và điều xấu xa mà chúng ta phải chịu đựng thật là những khát vọng hư giả biết ngần nào; nhưng một khi chúng trở nên linh thánh, được gột sạch cấu nhiễm qua Thượng Đế thì chúng không còn mang đến điều xấu xa, không còn mang đến khốn khổ não phiền nữa. Những người không biết được điều huyền mật này sẽ phải sống trong một thế giới quỷ quái, cho đến khi phát hiện ra điều đó. Nhiều người không biết được rằng họ đang có một kho báu vô tận trong mình, ở chung quanh họ, ở khắp mọi nơi; họ vẫn chưa phát hiện ra được điều đó. Thế giới quỷ quái đó là gì? Vô minh, kinh Veda bảo thế.
Chúng ta đang chịu chết khát khi đang ngồi trên bờ một con sông rộng nhất. Chúng ta đang chịu chết đói khi đang ngồi cạnh một đống thức ăn. Đây là một vũ trụ toàn phúc, thế mà ta không tìm thấy nó. Chúng ta luôn ở trong vũ trụ này tự bao giờ rồi, nhưng vẫn mãi mãi đánh giá sai về nó. Tôn giáo đề nghị tìm cho chúng ta một con đường thoát ra. Khát vọng về một vũ trụ toàn phúc luôn ở trong mọi trái tim. Mọi quốc gia đều tìm kiếm nó, nó là mục tiêu duy nhất của tôn giáo, và lý tưởng này được diễn đạt bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau trong những tôn giáo khác nhau. Chỉ có sự khác biệt về ngôn ngữ mới tạo nên những điểm bất đồng bên ngoài. Ngôn ngữ này có thể diễn đạt tư tưởng đó theo cách này, ngôn ngữ kia có thể diễn đạt theo cách khác, nhưng có lẽ mỗi ngôn ngữ đều diễn đạt chính xác ý nghĩa mà ngôn ngữ khác đã diễn đạt.
Còn có nhiều câu hỏi liên quan đến vấn đề này. Nói suông thì rất dễ. Ngay từ hồi còn nhỏ, tôi đã nghe nói rằng Thượng Đế hiện hữu khắp nơi và ở trong vạn vật, do đó tôi có thể thực sự thưởng ngoạn thế giới; nhưng ngay khi tôi vừa hòa nhập với thế giới, và nhận một vài cú đấm là ý tưởng kia liền tan biến. Tôi đi bộ trên phố, đang trầm tư suy nghĩ rằng Thượng Đế hiện hữu trong tất cả mọi người thì một người đàn ông to lớn đi đến, đẩy mạnh tôi một cái khiến tôi ngã sóng soài trên vỉa hè. Tôi liền ngồi nhổm dậy ngay, nắm tay lại, máu xông lên đầu, mất cả bình tĩnh. Ngay lập tức, tôi nổi điên lên và quên sạch mọi thứ; thay vì gặp Thượng Đế, tôi lại gặp phải một con quỷ. Từ khi mới lọt lòng mẹ, chúng ta đã nghe nói rằng Thượng Đế hiện hữu trong tất cả sự vật. Tôn giáo nào cũng dạy điều đó : hãy nhìn thấy Thượng Đế hiện hữu khắp mọi nơi và trong muôn vật. Các bạn có nhớ trong Tân Ước, Chúa Jesus cũng đã dạy như thế không? Tất cả chúng ta đều được dạy điều đó, nhưng chỉ khi va chạm với thực tế thì mới phát sinh sự khó khăn.
Tất cả các bạn còn nhớ trong Truyện Ngụ ngôn của Aesop có một con nai xinh đẹp đứng ngắm bóng nó soi dưới nước, rồi nói với con nai con : “Ta thật là dũng mãnh, con hãy nhìn cặp sừng oai vệ của ta, hãy nhìn đôi chân của ta, chúng thật mạnh khỏe và gân guốc biết chừng nào, và ta chạy nhanh biết mấy”. Đúng lúc đó, nó nghe tiếng chó sủa vang vẳng từ xa, thế là nai ta lập tức ba chân bốn cẳng bỏ chạy trối chết; sau khi chạy được vài dặm, nó quay lại thở hổn hển. Con nai con liền hỏi : “Bố vừa mới bảo với con là bố rất mạnh khỏe, vậy sao vừa mới nghe tiếng chó sủa, bố đã bỏ chạy mất tiêu?”. “Đúng là bố mạnh khỏe thật, con à; nhưng khi nghe tiếng cho sủa thì tất cả lòng tự tin của bố đều tiêu tan hết”. Trường hợp chúng ta cũng vậy đấy. Chúng ta nghĩ đến nhân loại bằng những tư tưởng cao cả, ta thấy mình khỏe mạnh và dũng cảm, chúng ta quyết tâm làm những điều vĩ đại, thế nhưng khi “những con chó” thử thách và cám dỗ cất lên tiếng sủa, thế là chúng ta giống như con nai đó trong truyện ngụ ngôn.
Nếu tình cảnh là như thế thì giáo lý về tất cả những điều này có lợi ích gì? Có lợi ích to lớn nhất. Lợi ích đó là như vầy : cuối cùng sự kiên trì sẽ chiến thắng. Không có gì có thể thành tựu trong một sớm một chiều.
“Đầu tiên, ta nghe nói đến Tự Ngã này, rồi tư duy về nó và thiền quán về nó”. Người nào cũng đều có thể nhìn thấy bầu trời, thậm chí cả con sâu bò trên mặt đất cũng có thể nhìn thấy được bầu trời xanh kia, nhưng nó cao xa biết mấy! Lý tưởng chúng ta cũng thế. Hiển nhiên là nó quá xa vời, nhưng đồng thời chúng ta biết rằng ta phải có được nó. Thậm chí chúng ta cần phải có lý tưởng cao cả nhất. Thật không may là trong cuộc sống, phần lớn mọi người đều mò mẫm đi qua cõi đời tối tăm này mà chẳng hề có một lý tưởng nào. Nếu một người có lý tưởng mà phạm một ngàn sai lầm thì tôi tin chắc rằng một người không có lý tưởng phải phạm đến năm mươi ngàn sai lầm. Bởi vậy, tốt hơn là nên có một lý tưởng. Và lý tưởng này, ta cần phải nghe nói đến nó càng nhiều càng tốt, cho đến khi nó nhiễm sâu vào tâm hồn ta, vào trí não ta, vào từng mạch máu của ta, cho đến khi nó kích thích từng giọt máu của ta, và thấm vào từng lỗ chân lông trên cơ thể ta. Chúng ta phải trầm tư về nó. “Miệng phát biểu từ sự viên mãn của trái tim”, và bàn tay cũng làm việc từ sự viên mãn của trái tim.
Chính tư tưởng là sức mạnh thôi thúc trong ta. Hãy lấp đầy tâm trí bằng những tư tưởng cao siêu nhất, hãy nghe chúng lên tiếng từ ngày này qua ngày khác, hay suy nghĩ đến chúng từ tháng này sang tháng khác. Đừng bao giờ bận tâm đến những sự thất bại, vì đó là chuyện đương nhiên. Những thất bại đó là vẻ đẹp của cuộc sống. Đời sống sẽ ra sao nếu không thất bại? Cuộc đời không đáng có nếu thiếu đi sự đấu tranh. Chất thơ trong cuộc sống sẽ ở nơi đâu? Đừng bao giờ bận tâm đến chuyện đấu tranh, đến lỗi lầm. Tôi chưa bao giờ nghe một con bò nói dối, nhưng nó chỉ là con bò, chứ không bao giờ là con người. Bởi vậy, đừng bao giờ bận tâm đến những thất bại đó, những bước thụt lùi nhỏ nhoi đó; hãy gìn giữ lý tưởng một ngàn lần, và nếu các bạn thất bại một ngàn lần, hãy cố gắng thêm một lần nữa. Lý tưởng của con người là thấy được Thượng Đế hiện hữu trong muôn vật. Nhưng nếu các bạn không thể thấy được Ngài trong muôn vật thì hãy thấy được Ngài trong một sự vật, trong sự vật mà bạn yêu thích nhất, rồi hãy thấy Ngài trong sự vật khác. Các bạn có thể tiếp tục như thế. Có một cuộc sống vô tận bày ra trước linh hồn. Cứ thong thả và các bạn sẽ đạt được cứu cánh cuối cùng.
“Ngài, đấng Duy Nhất, đấng dao động nhanh hơn tâm trí, di chuyển nhanh hơn tâm trí, đấng mà ngay cả chư thần cũng không vươn đến được, tư tưởng cũng không thấu hiểu được – khi Ngài chuyển động thì muôn vật đều chuyển động theo. Muôn vật đều hiện hữu trong Ngài. Ngài đang chuyển động, nhưng Ngài vẫn bất động. Ngài tuy gần mà xa. Ngài ở bên trong muôn vật. Ngài ở bên ngoài muôn vật, quán thông muôn vật. Ai cũng đều thấy Ātman đó trong mọi sinh thể, ai cũng đều thấy cũng toàn thể muôn vật trong chính Ātman đó, nhưng Ngài chưa bao giờ rời xa khỏi Ātman đó. Khi một người nhìn thấy được toàn bộ cuộc sống và toàn thể vũ trụ trong Ātman này thì người đó quán chiếu được mọi điều huyền ẩn. Người đó không còn mắc phải vọng tưởng nữa. Còn nỗi khốn khổ nào dành cho người đã kiến chiếu được Nhất Thể Tính này trong vũ trụ?”
Đây là một chủ đề lớn khác nữa của triết học Vedānta : Nhất Thể Tính của đời sống, Nhất Thể Tính của toàn thể vạn hữu. Ta sẽ thấy nó chứng minh được toàn bộ sự khốn khổ của chúng ta đều xuất phát từ vô minh ra sao; và vô minh này là quan niệm về tính phồn tạp đa thù, về sự phân cách giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia, giữa trái đất với mặt trăng, giữa mặt trăng với mặt trời. Từ quan niệm về sự phân cách giữa nguyên tử này với nguyên tử khác đã làm nảy sinh mọi điều khốn khổ. Nhưng triết học Vedānta bảo rằng sự phân cách đó không hề tồn tại, nó không có thực. Nó chỉ là biểu hiện hời hợt bên ngoài. Trong tâm của muôn vật vẫn có sự Thống Nhất. Nếu đi xuống dưới phần bề mặt, các bạn sẽ thấy sự Thống Nhất giữa người với người, giữa chủng tộc với chủng tộc, giữa cao thượng với thấp hèn, giữa giàu với nghèo, giữa thần linh với con người, giữa con người với loài vật. Nếu đi sâu hơn nữa, ta sẽ thấy tất cả chỉ là biểu hiện khác nhau của Nhất Thể.
Người nào chứng ngộ được Nhất Thể Tính này thì không còn mắc vọng tưởng phân biệt nữa. Điều gì có thể lừa dối được kẻ đã biết được thực tướng của muôn vật, biết được điều huyền mật của vạn hữu? Liệu có nơi nào còn nỗi khốn khổ cho người đó? Người đó khát khao điều gì? Người đó đã lần theo thực tướng của muôn vật để đến được với Thượng Đế, với đấng Trung Tâm, với sự Thống Nhất của muôn vật, và đó là Hiện Hữu Thường Hằng, Kiến Thức Thường Hằng, Lạc Phúc Thường Hằng. Ở đó không còn cái chết, bệnh tật, phiền não, khốn khổ hay bất mãn. Tất cả đều là sự Hợp Nhất Viên Mãn và Lạc Phúc Viên Mãn. Vậy thì người đó còn phải than khóc cho ai nữa? Trong Thực Tướng không còn cái chết, không còn phiền não khổ đau, không còn ai để ta phải than khóc, cũng chẳng còn ai để ta phải muộn phiền. Người đó đã xuyên thấu được vạn hữu – đó là bậc Thuần Tịnh, Vô Tướng, Vô Thể, Vô Nhiễm. Người đó là bậc Tuệ Trí, là Đại Thi Nhân, là đấng Tự Tồn Tự Hữu; người đó ban cho tất cả mọi người những gì mình xứng đáng nhận.
Những kẻ nào sùng bái cái thế giới ngu tối này – cái thế giới được tạo ra bởi vô minh – và nghĩ rằng cái thế giới này thực sự tồn tại thì những kẻ đó đều phải mò mẫm bước đi trong đêm tối; còn những kẻ nào sống trọn đời trong cái thế giới này mà không tìm thấy được điều gì cao cả hơn hay tốt đẹp hơn thì những kẻ đó còn mò mẫm trong cõi tối tăm hơn nữa. Nhưng những ai biết được điều huyền mật của thế giới tự nhiên, nhờ vào sự trợ giúp của thế giới tự nhiên mà thấy được Cái nằm bên kia thế giới tự nhiên thì kẻ đó vượt qua được cái chết; và nhờ vào sự trợ giúp của Cái nằm bên kia thế giới tự nhiên, kẻ đó hưởng được Lạc Phúc Thường Hằng.
“Cánh cửa Chân Lý được phủ bằng một cái đĩa bằng vàng. Hãy mở nó ra, hỡi đấng Dưỡng Nuôi Muôn Vật[21]! Hãy gỡ bỏ cái đĩa đó đi để cho ta – kẻ tôn thờ Chân Lý – có thể nhìn thấy được”.
“Hỡi
đấng Dưỡng Nuôi Muôn Vật, kẻ Lữ Hành Cô Độc trên bầu trời! Hỡi đấng Chế Ngự Thế
Gian! Hỡi Vầng Dương, hậu duệ của đấng Prajāpati! Hãy gom tia nắng của người
lại, hãy thu ánh sáng của người lại. Nhờ vào ân sủng của người, ta muốn được
thấy Hình Tướng tối diệu của người. Ta thực sự là Purusha, kẻ đang cư lưu nơi
đó”.
(Diễn thuyết tại London, 29 tháng 10, 1896)
Tôi sẽ đọc cho các bạn nghe một trong những cuốn sách đơn giản nhất, nhưng tôi cho là thi vị nhất trong các kinh thư Upanishad. Nó có tên là Katha Upanishad. Một số trong các bạn có lẽ đã đọc qua bản dịch của Sir Edwin Arnold dưới nhan đề Sự Huyền Bí của Cái Chết. Trong bài giảng vừa rồi, chúng ta đã thấy cuộc tra vấn bắt nguồn từ khởi nguyên của thế giới và sự sáng tạo của vũ trụ đã thất bại như thế nào khi tìm lời giải đáp, và nó phải quay về với thế giới nội tâm ra sao. Về phương diện tâm lý học, cuốn sách này gợi lên vấn đề thế giới ngoại tại của người. Câu hỏi đầu tiên mà nó đặt ra là ai đã tạo dựng nên cái thế giới này, và nó hình thành như thế nào. Giờ đây câu hỏi là : Cái gì ở bên trong con người để khiến họ có thể sống và di chuyển, rồi nó trở thành cái gì khi họ chết đi?
Những triết gia đầu tiên đã nghiên cứu thế giới vật chất và, thông qua nó, cố đạt đến Thực Tại Tối Hậu. Giỏi lắm thì họ chỉ tìm ra được một đấng Cai Quản Vũ Trụ – là hình ảnh một con người được phóng đại đến vô cùng –, nhưng mục đích cuối cùng cũng chỉ là một con người. Song điều đó không phải là toàn bộ chân lý; cùng lắm thì nó cũng chỉ là chân lý nửa vời. Chúng ta nhìn vũ trụ này với tư cách là những con người, và Thượng Đế của chúng ta chỉ là cách giải thích về Ngài, theo cách ta tìm hiểu vũ trụ từ quan điểm con người. Giả sử con bò mà có tinh thần triết học và có tôn giáo thì hẳn chúng đã có một vũ trụ quan và giải pháp cho vấn đề này theo mô hình con bò, và điều đó hẳn cũng không thể thấy được Thượng Đế, như chúng ta. Giả sử các con mèo mà trở thành triết gia thì chắc hẳn chúng đã có một vũ trụ quan và giải pháp cho vấn đề vũ trụ theo mô hình con mèo, với một con mèo cai quản[22]. Bởi vậy, từ điều này ta thấy rằng giải thích vũ trụ theo cách của chúng ta không phải là giải pháp trọn vẹn.
Quan niệm của chúng ta cũng không bao trùm được khắp vũ trụ. Thật là một sai lầm to lớn khi chấp nhận cái lập trường cực kỳ ích kỷ đó, lập trường mà con người thường thích giữ lấy. Một giải pháp như thế về vũ trụ, như chúng ta có thể thu nhận được từ hình thể bên ngoài, vấp phải vấn nạn này : trước tiên, vũ trụ mà chúng ta nhận thấy là vũ trụ đặc thù riêng biệt của chúng ta, là quan điểm riêng của chúng ta về Thực Tại. Ta không thể cảm nhận được Thực Tại đó bằng giác quan, ta cũng không thể lĩnh hội được nó. Ta chỉ biết được vũ trụ đó từ quan điểm của những sinh thể có năm giác quan. Giả sử chúng ta có được một giác quan khác thì toàn thể vũ trụ hẳn phải biến đổi theo chúng ta. Giả sử ta có được một giác quan mang từ tính thì chúng ta có thể phát hiện ra sự tồn tại của hàng triệu triệu các lực, mà hiện tại chúng ta chưa hề biết đến, mà cũng chưa hề cảm nhận được; điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Giác quan chúng ta bị hạn chế, thực sự là rất bị hạn chế; và bên trong những giới hạn đó, tồn tại cái mà ta gọi là vũ trụ; và Thượng Đế của chúng ta là giải pháp của cái vũ trụ này. Nhưng đó không thể là giải pháp cho toàn bộ vấn đề. Con người không thể dừng chân tại đấy. Con người là một sinh thể biết tư duy, và muốn tìm ra một giải pháp có thể giải thích được toàn bộ vũ trụ. Con người muốn thấy một thế giới vừa là thế giới của con người, vừa là thế giới của chư thần cùng tất cả mọi sinh thể khác nào có thể tồn tại, và tìm ra một giải pháp có thể giải thích được mọi hiện tượng.
Ta thấy rằng trước hết ta phải tìm ra một vũ trụ bao hàm tất cả mọi vũ trụ; ta phải tìm ra một cái gì đó mà tự thân nó phải là một loại chất liệu chạy xuyên suốt qua tất cả mọi cấp độ tồn tại, dù giác quan ta có nhận biết được hay không. Nếu ta tìm ra được một cái, mà ta có thể biết đó là thuộc tính chung của những thế giới cấp thấp cũng như của những thế giới cấp cao, thì vấn đề của ta đã được giải quyết xong. Cho dù chỉ nhờ sức mạnh lý thuyết thuần túy mà ta có thể hiểu được rằng phải có một nền tảng chung cho mọi sự tồn tại thì vấn đề của chúng ta vẫn có thể tiếp cận được với một giải pháp nào đấy; nhưng chắc chắn ta cũng không thể đạt được giải pháp đó thông qua cái thế giới mà ta nhìn thấy và nhận biết, bởi vì nó chỉ là một cái nhìn cục bộ về toàn thể.
Niềm hy vọng duy nhất của chúng ta nằm ở chỗ xuyên thấu sâu hơn. Những triết gia ban đầu phát hiện ra rằng hễ họ càng xa trung tâm bao nhiêu thì sự biến dị và sai biệt càng rõ rệt bấy nhiêu, mà càng đi gần vào trung tâm thì họ đi gần đến tính thống nhất. Càng đến gần tâm vòng tròn thì chúng ta càng đến gần nền tảng chung, nơi mà tất cả các bán kính đều đồng quy; càng đi xa tâm vòng tròn thì các bán kính càng xa lìa nhau hơn. Thế giới ngoại tại xa cách với trung tâm, do đó nó không có nền tảng chung để tất cả các hiện tượng tồn tại có thể đồng quy. Cùng lắm thì thế giới ngoại tại chỉ là một phần của toàn thể hiện tượng giới. Còn có những thành phần khác : thế giới tinh thần, thế giới đạo đức, thế giới trí năng – những cấp độ khác nhau của sự tồn tại –; cho nên chọn ra một thế giới duy nhất, và tìm ra giải pháp cho toàn thể từ thế giới đó, là điều hoàn toàn bất khả. Do đó, trước hết chúng ta cần phải tìm ra một trung tâm ở đâu đó, nơi mà – có thể nói như vậy – mọi cấp độ tồn tại đều khởi đầu; và đứng trên lập trường đó, ta mới có thể nỗ lực tìm ra một giải pháp. Đó là lời đề nghị. Và trung tâm đó nằm ở đâu? Ở ngay trong ta. Các bậc hiền triết cổ đại đã xuyên thấu vấn đề này ngày càng sâu, cho đến khi họ khám phá ra rằng phần sâu kín nhất trong tận cùng thế giới nội tâm của con người chính là trung tâm của toàn thể vũ trụ. Mọi cấp độ tồn tại đều hướng về trung tâm đó. Đó là nền tảng chung, và chỉ đứng từ trung tâm đó ta mới có thể tìm ra được một giải pháp chung. Do đó, câu hỏi ai đã sáng tạo nên vũ trụ này không còn mang tính triết học nặng nề, mà câu trả lời cho nó cũng không được đặt thành vấn đề.
Katha Upanishad đã nói đến điều này bằng một ngôn ngữ vô cùng hoa mỹ. Ngày xưa, có một người vô cùng giàu có, ông ta tiến hành một nghi lễ hiến tế đòi hỏi phải dâng cúng tất cả tài sản của mình. Nhưng ông ta không thành tâm. Ông muốn được tôn vinh là người đã thực hiện lễ hiến tế đó, nhưng chỉ dâng cúng những thứ không còn dùng được – những con bò già, mù lòa, què quặt và không còn khả năng sinh sản nữa. Ông ta có một đứa con trai tên là Nachiketas. Đứa bé thấy cha mình không làm đúng theo lời nguyện, nhưng không biết phải nói với cha thế nào, vì ở Ấn Độ, con cái tôn kính cha mfẹ như thần thánh. Đứa bé bèn đến gần cha nó, và kính cẩn hỏi : “Thưa cha, cha sắp dâng cúng con cho ai?”. Bởi vì lễ hiến tế của người cha yêu cầu phải dâng cúng tất cả tài sản. Người cha rất bực mình vì câu hỏi đó, nên hỏi lại : “Con nói vậy là có ý gì? Một người cha mà có thể đem hiến tế con trai mình hay sao chớ?” Thằng bé cứ lặp lại câu hỏi đó lần thứ hai, rồi lần thứ ba khiến người cha nổi cáu, đáp : “Cha dâng cúng con cho Thần Chết (Yama)”. Câu chuyện tiếp tục kể rằng đứa bé đi về cõi của Thần Chết Yama.
Yama là người đầu tiên bị chết. Ông lên cõi trời và làm người cai quản tất cả các Pitris. Tất cả những người hiền lành lương thiện, khi chết đi, đều đến sống với ông trong một thời gian dài. Yama là một người thánh thiện, trong sạch và nhân đức, đúng như cái tên của mình. Bởi vậy, đứa bé đi đến cõi thần Yama. Nhưng ngay cả các thần linh đôi khi cũng vắng nhà, nên đứa bé phải chờ ở đó ba ngày. Đến ngày thứ ba, thần Yama mới quay về.
“Ô! Kẻ khôn ngoan”, thần lên tiếng, “ngươi đã chờ ở đây ba ngày mà chẳng ăn uống gì, ngươi là vị khách đáng kính trọng. Xin chào ngươi, vị brāhmin! Xin cho ta được mọi sự tốt lành! Ta rất ân hận là đã vắng nhà. Nhưng ta sẽ đền bù cho ngươi. Ta cho ngươi ba điều ước, mỗi ngày ước một điều”. Đứa bé đáp : “Điều ước đầu tiên của con là cha con không còn giận con nữa, và người sẽ đối xử tử tế với con, khi thần để con quay về”. Yama chấp thuận điều đó. Điều ước thứ hai của đứa bé là nó muốn biết về một lễ hiến tế có thể đưa tất cả mọi người lên được cõi trời.
Bây giờ thì chúng ta đã thấy rằng ý tưởng cổ xưa nhất trong phần Samhitā của kinh Veda chỉ là ý tưởng về một cõi trời, nơi mà con người có được thể xác sáng ngời và được sống với cha mẹ mình. Dần dần, những ý tưởng khác xuất hiện, nhưng không làm cho con người thỏa mãn, họ vẫn còn cần đến những điều cao xa hơn. Đời sống trên cõi trời cũng chẳng khác chi nhiều so với đời sống nơi trần thế. Giỏi lắm thì đó cũng chỉ là đời sống của một người giàu có, mạnh khỏe, hưởng thụ đủ mọi thứ khoái lạc và không hề biết đến bệnh tật. Đó vẫn chỉ là thế giới vật chất, ít nhiều thanh nhã hơn mà thôi; chúng ta thấy ngay điều nan giải : thế giới vật chất ngoại tại không bao giờ có thể giải quyết được vấn đề. Bởi vậy, không thể có một thiên đàng hay cõi trời nào có thể giải quyết được vấn đề. Nếu thế giới này không giải quyết được vấn đề đó thì dù có muôn ngàn thế giới đi nữa cũng chẳng giải quyết được gì, bởi vì ta phải luôn nhớ rằng vật chất chỉ là một phần vô cùng nhỏ bé trong hiện tượng tự nhiên.
Phần bao la của hiện tượng giới, mà chúng ta thực sự nhìn thấy, không phải là vật chất. Chẳng hạn, tại mọi thời điểm trong đời sống, nếu đem so với hiện tượng vật chất bên ngoài thì chính tư tưởng và cảm xúc mới đóng một vai trò to lớn! Thế giới nội tâm cũng những hoạt động của nó thật mênh mông biết ngần nào! Thế giới hiện tượng do giác quan đem lại quá nhỏ bé khi so sánh với nó. Giải pháp thiên đàng phạm phải sai lầm này : nó khư khư khẳng định rằng toàn bộ thế giới hiện tượng chỉ nằm trong phạm vi của sờ, nếm, thấy, nghe v.v… Cho nên ý tưởng về thiên đàng không làm cho tất cả mọi người đều thấy thỏa mãn. Tuy vậy, Nachiketas chỉ ước điều thứ hai là có một lễ hiến tế đưa được tất cả mọi người cùng lên cõi trời. Trong kinh Veda có một quan niệm cho rằng có một loại lễ hiến tế làm chư thần hài lòng và đưa được con người lên cõi trời.
Khi nghiên cứu mọi tôn giáo, các bạn sẽ thấy rằng bất cứ cái gì cổ xưa cũng đều trở nên linh thiêng. Chẳng hạn, tổ tiên của chúng tôi ở Ấn Độ thường viết trên vỏ cây hoa [birch], nhưng chẳng bao lâu họ biết cách làm ra giấy. Ấy vậy mà vỏ cây hoa vẫn được xem là rất linh thiêng. Khi những đồ gia dụng dùng để nấu nướng trong thời cổ được cải tiến thì những đồ cổ lại được xem là linh thiêng, và không nơi nào ý tưởng đó lại được giữ gìn như ở Ấn Độ. Những phương pháp thời cổ được sử dụng cách đây hàng chục ngàn năm, chẳng hạn như cọ xát hai cây que để lấy lửa, hiện nay vẫn có người áp dụng. Trong thời kỳ hiến tế, không có một phương pháp nào khác. Các tộc người Āryan châu Á thuộc nhánh khác[23] cũng vậy. Hậu duệ hiện nay của họ vẫn thích lấy lửa từ ánh nắng mặt trời, chứng tỏ họ vẫn thường lấy lửa bằng cách này. Thậm chí khi họ học hỏi những phong tục tập quán khác, họ vẫn giữ nguyên tập quán cũ, nên chúng dần trở nên thiêng liêng. Người Do Thái cũng chẳng khác. Họ thường viết trên da thú. Hiện nay thì họ viết trên giấy, nhưng da thú là thứ vô cùng thiêng liêng. Tất cả các quốc gia khác cũng thế. Mọi nghi thức – mà giờ đây các bạn thấy thiêng liêng – chỉ là những tập quán cổ xưa; bản chất những nghi thức hiến tế trong các kinh Veda cũng vậy. Theo thời gian, khi con người tìm ra những cách sống tốt hơn thì những quan niệm của họ cũng phát triển đổi rất nhiều; những nghi thức tập quán cổ xưa vẫn được con người gìn giữ và thực hiện, dần dần chúng trở nên thiêng liêng.
Vậy thì phải có một bộ phận đảm trách công việc cúng tế. Đó là giới tăng lữ. Họ đầu tư nghiên cứu cho những nghi thức cúng tế này, và chúng trở thành tất cả đối với họ. Chư thần tề tựu đến để thưởng thức hương vị của lễ vật, và người ta cho rằng họ có thể đạt được mọi thứ trong thế gian này nhờ vào quyền năng của những buổi hiến tế. Khi dâng cúng thì phải có nghi thức tụng niệm, bày trí bàn thờ, và chư thần chấp thuận mọi điều. Cho nên Nachiketas mới hỏi hiến tế theo nghi thức nào để tất cả mọi người đều được lên cõi trời. Điều ước thứ hai đó cũng được Yama sẵn sàng chấp thuận, vị thần này hứa rằng nghi thức cúng tế đó từ đây về sau sẽ có tên là Nachiketas.
Tiếp theo đó là điều ước thứ ba, và các Upanishad ra đời là do điều ước này. Đứa bé hỏi “Có một điều khó khăn : khi một người chết đi thì người đó còn hiện hữu hay không hiện hữu? Con cầu mong thần dạy cho con biết điều này”. Thần Yama hiểu ngay đứa bé đang hỏi đến Tri Thức Về Tự Ngã [Self-Knowledge], một vấn đề chỉ có thể thuyết giảng cho những học giả uyên bác mà thôi. Ngài muốn thử Nachiketas nên bảo : “Chư thần trong quá khứ cũng từng kinh ngạc về điều đó. Chân lý nhiệm mầu này không dễ gì lãnh hội nổi đâu. Này Nachiketas, hãy chọn một điều ước khác đi. Đừng làm khó cho ta nữa. Hãy tha cho ta đi”.
Nhưng đứa bé đã quyết tâm, nên nói : “Hỡi Thần Chết, những gì Ngài nói đều là sự thật, ngay đến chư thần cũng hoài nghi điểm này, và không dễ gì hiểu được. Nhưng con không thể tìm được một ai giải đáp được như Ngài, và cũng không có điều ước nào sánh ngang được với điều ước này”.
Thần Chết đáp : “Ngươi hãy cầu xin ta về những đám con cháu sẽ sống được hàng trăm năm, hãy cầu xin ta về những đàn bò, đàn voi, vàng bạc và bầy ngựa. Ngươi hãy cầu xin ta về những vương quốc trên thế gian này, và hãy cầu sống lâu tùy ý. Hoặc ngươi hãy chọn một điều ước khác mà ngươi thấy tương đương với những điều này – chẳng hạn như tài sản, của cải và sự trường thọ. Hoặc này Nachiketas, hãy cầu xin được làm vua cả thế gian mênh mông này. Ta sẽ khiến ngươi hưởng thụ được tất cả những điều ước nguyện đó. Ngươi hãy cầu xin tất cả những điều ước nguyện khó đạt được trên thế gian này. Những thiên nữ đánh xe và ca hát, mà con người không sao có được, sẽ thuộc về ngươi. Hãy để họ phục vụ cho ngươi. Nhưng này Nachiketas, xin đừng hỏi ta điều gì sẽ đến sau khi chết”.
Nachiketas đáp : “Hỡi Thần Chết, những thứ đó đều là chuyện vặt vãnh, chúng làm hao mòn hết năng lực của mọi giác quan. Ngay cả một cuộc sống trường thọ cũng rất là ngắn ngủi. Những con ngựa cùng các cỗ xe, những lời ca điệu múa kia, xin Ngài hãy giữ lấy. Tài sản, của cải không làm cho con người thỏa mãn. Liệu con có thể giữ được của cải không, khi về đối diện với Ngài? Điều ước duy nhất mà con muốn hỏi chỉ là điều đó mà thôi”.
Yama đẹp lòng với câu trả lời đó, nên đáp : “Hoàn hảolà một chuyện và hưởng thụ là một chuyện khác. Hai điều đó có hai cứu cánh khác nhau, nên sẽ đưa con người đến hai cảnh giới khác nhau. Kẻ chọn sự hoàn hảo sẽ được thuần tịnh. Kẻ chọn sự hưởng thụ sẽ đánh mất cứu cánh chân thực của mình. Cả sự hoàn hảo và hưởng thụ đều tự bày ra trước con người; người khôn ngoan, sau khi xem xét cả hai, phân biệt được cái này với cái kia. Người đó sẽ chọn sự hoàn hảo vì thấy nó cao siêu hơn hưởng lạc; còn kẻ ngu sẽ chọn sự hưởng lạc để thỏa mãn xác thân. Này Nachiketas, sau khi tư duy về những thứ tưởng như là lạc thú, ngươi đã khôn ngoan từ bỏ chúng”. Rồi Thần Chết lại tiếp tục giảng dạy cho Nachiketas.
Lúc này, chúng ta có một ý tưởng tiến bộ về sự xả ly và nền đạo đức theo kinh Veda; đó là : chỉ đến khi nào con người chế ngự được khát vọng hưởng lạc thì chân lý mới bừng sáng trong tâm. Chừng nào mà những khát vọng hưởng lạc phù phiếm còn lên tiếng ầm ĩ, và còn lôi kéo chúng ta hướng ngoại trong từng giây từng phút, biến chúng ta thành kẻ nô lệ cho muôn vật bên ngoài – cho sắc màu vụn vặt, vị ngon thấp kém, sự êm dịu ngắn ngủi – mặc dù chúng ta có nhiều kỳ vọng thì làm sao chân lý có thể hiển lộ trong tâm ta?
Thần Chết nói tiếp : “Cái ở cõi bên kia không bao giờ hiện ra trước tâm trí của đứa bé hời hợt vô tư, bị lừa dối bởi cơn điên rồ vì sự giàu sang. ‘Thế giới này tồn tại, thế giới khác không tồn tại’, do nghĩ thế nên nó cứ mãi quay đi quay lại dưới quyền năng của ta”. Chân lý này rất khó hiểu. Thậm chí có nhiều người cứ nghe điều này lặp đi lặp lại liên tục nhưng chẳng hiểu gì cả, vì người nói phải thật tuyệt diệu mà người nghe cũng thế. Vị đạo sư phải thật tuyệt diệu, và giáo lý cũng thế. Tâm trí cũng không bị xao động bởi lý thuyết suông, bởi vì vấn đề không phải là lý thuyết mà là thực tế.
Chúng ta luôn nghe nói rằng tôn giáo nào cũng đòi hỏi phải có đức tin. Chúng ta đã được dạy phải tin một cách mù quáng. Phải, quan niệm về đức tin mù quáng rõ ràng là điều đáng phê phán, nhưng nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy đằng sau nó là một chân lý vô cùng vĩ đại. Ý nghĩa thực sự của nó là điều mà ta đang đọc giờ đây. Tâm trí không thể bị xao động bởi lý thuyết suông, vì lý thuyết sẽ không giúp ta hiểu được Thượng Đế. Đó là vấn đề thuộc sự kiện chứ không phải lý thuyết.
Mọi lý thuyết và lập luận đều phải dựa trên những nhận thức cụ thể. Nếu không thế thì không thể có bất kỳ lý thuyết nào. Lập luận là phương pháp so sánh giữa những sự kiện cụ thể mà chúng ta đã nhận thức được. Nếu những sự kiện được nhận thức này không có ở đó thì không thể có lập luận. Nếu điều này đúng với hiện tượng ngoại giới thì vì sao nó lại không đúng với hiện tượng nội tâm? Nhà hóa học dùng một số hóa chất cụ thể và tạo ra những kết quả cụ thể. Đó là sự kiện; các bạn phải thấy nó, cảm nhận nó và biến nó thành cơ sở để xây dựng nên tất cả những lý thuyết về hóa học. Các nhà vật lý cũng thế, và các nhà khoa học khác cũng thế. Kiến thức nào cũng phải căn cứ trên sự nhận thức những sự kiện cụ thể, và chúng ta phải xây dựng lý thuyết của mình trên những sự kiện đó.
Nhưng thật là lạ lùng khi phần lớn nhân loại – nhất là con người thời hiện đại –, những người mà tâm trí hoàn toàn trỗng rỗng những nhận thức như thế, lại đắm chìm trong lý thuyết suông để hiểu tôn giáo. Nhưng các kinh thư Upanishad đã bảo chúng ta rằng không được để tâm trí xao động bởi lý thuyết suông.
Tôn giáo là vấn đề thực tế chứ không phải nói suông. Ta phải phân tích linh hồn mình và tìm thấy cái gì nơi đó. Ta phải hiểu nó và thực chứng những gì được hiểu. Đó là tôn giáo. Nói nhiều đến mấy cũng không bao giờ làm nên tôn giáo. Thế cho nên vấn đề đặt ra là có một Thượng Đế hay không, và có thể chứng minh được Ngài bằng lý thuyết hay không, bởi vì bất cứ lý thuyết nào cũng một chiều như nhau. Nhưng nếu có Thượng Đế thì Ngài ở trong chính tâm hồn chúng ta. Các bạn có bao giờ thấy được Ngài chưa? Vấn đề liệu thế giới này có tồn tại hay không vẫn chưa ngã ngũ, và cuộc tranh luận giữa các triết gia duy tâm cùng các triết gia duy thực vẫn chưa đến hồi kết thúc. Tuy nhiên, ta biết rằng thế giới này tồn tại, và nó vẫn đang tồn tại. Chúng ta chỉ thay đổi ý nghĩa của danh từ. Đối với tất cả những câu hỏi về cuộc đời cũng thế, chúng ta phải đi đến những sự kiện.
Có những sự kiện tôn giáo cụ thể cần phải được nhận thức, giống như sự kiện khoa học, và tôn giáo sẽ được xây dựng trên các sự kiện đó. Dĩ nhiên, điều yêu cầu cực đoan – rằng bạn phải tin vào mọi tín điều tôn giáo – đang làm suy đồi tâm trí nhân loại. Kẻ nào yêu cầu bạn phải tin mọi thứ thì kẻ đó đang làm suy đồi bản thân họ, còn nếu bạn tin theo họ thì bạn đang làm suy đồi chính bản thân mình. Chỉ những vị thánh của thế gian mới có quyền bảo cho ta rằng họ phân tích tâm trí mình và đã phát hiện ra những sự kiện đó; và nếu chúng ta cũng làm y như vậy thì chúng ta cũng sẽ tin theo, chứ không tin trước. Đó là tất cả những gì có trong tôn giáo. Song các bạn phải nhớ điều này : trên thực tế thì 99.9% những kẻ công kích tôn giáo là những kẻ chưa bao giờ phân tích tâm trí mình, chưa bao giờ nỗ lực để đạt đến những sự kiện đó. Do đó, những lời lẽ công kích của họ chẳng hề có giá trị gì đối với tôn giáo, còn đối với chúng ta thì những lời lẽ đó cũng chẳng hơn gì tiếng la hét của đám người mù : “Các ngươi toàn là một lũ ngu ngốc mới tin rằng có mặt trời”.
Đây là một trong những tư tưởng vĩ đại cần phải học hỏi và giữ gìn : tư tưởng về sự thực chứng. Sự hỗn loạn, đấu tranh và khác biệt trong tôn giáo chỉ chấm dứt khi nào chúng ta hiểu được rằng tôn giáo không hề nằm trong kinh sách hay đền thờ. Nó nằm trong nhận thức. Chỉ người nào thực sự nhận thức được Thượng Đế thì mới có tinh thần tôn giáo. Không có sự khác biệt thực sự giữa một tu sĩ vĩ đại thuộc hàng giáo phẩm cao nhất – người có thể thuyết giảng tràng giang đại hải hàng pho sách – với một người theo thuyết duy vật thuộc loại thấp kém nhất, ngu dốt nhất. Tất cả chúng ta đều những kẻ vô thần; chúng ta hãy thú nhận điều đó. Sự tán đồng thuần túy bằng trí năng không biến chúng ta thành những người có tinh thần tôn giáo.
Một người – cho dù là tín đồ Cơ Đốc giáo hay Hồi giáo, hay là tín đồ của một tôn giáo bất kỳ trên thế giới – hễ thực chứng được chân lý trong Bài Giảng Trên Núi thì lập tức trở thành người hoàn hảo. Người ta bảo rằng có hàng triệu triệu tín đồ Cơ Đốc giáo trên thế giới. Song chẳng có một ai trong số hai mươi triệu đó là tín đồ Cơ Đốc giáo chân chính. Cũng vậy, người ta bảo rằng có đến ba trăm triệu Vedāntist tại Ấn Độ, nhưng nếu có một người trong số hàng ngàn người đó thực sự thực chứng tôn giáo thì thế giới này hẳn đã thay đổi rất nhiều rồi. Tất cả chúng ta đều là những kẻ vô thần, vậy mà chúng ta lại chống đối người nào chấp nhận điều đó. Tất cả chúng ta đều ở trong bóng tối; đối với chúng ta, tôn giáo chỉ là sự chấp nhận suông bằng lý trí, chỉ là lý thuyết suông, hoàn toàn trống rỗng.
Ta thường cho rằng người giảng đạo lôi cuốn là người có tinh thần tôn giáo. Nhưng đó không phải là tôn giáo. Śankarāchārya nói : “Các xảo thuật kết hợp danh từ, năng lực hùng biện, và chú giải kinh điển theo nhiều cách, những thứ đó chỉ là trò giải trí của các học giả, chứ không phải là tôn giáo”. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi tâm hồn chúng ta thực sự bắt đầu thực chứng. Điều đó sẽ là buổi bình minh của tôn giáo; và chỉ điều đó mới làm cho chúng ta trở nên đạo đức. Hiện giờ, chúng ta cũng không đạo đức hơn loài vật bao nhiêu. Chúng ta chỉ chùn bước trước những lằn roi của xã hội. Nếu xã hội ngày nay mà lên tiếng “Tôi sẽ không trừng phạt dù bạn có ăn cắp”, thì có thể chúng ta đã đổ xô đi đánh cắp tài sản của nhau rồi. Chính người cảnh sát khiến ta đạo đức. Chính dư luận làm cho chúng ta trở nên đạo đức, nên ta thực sự không hơn loài vật bao nhiêu. Chúng ta hiểu rõ điều này biết bao, trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn. Cho nên ta đừng làm những kẻ đạo đức giả. Chúng ta hãy thừa nhận mình không có tinh thần tôn giáo, và không có quyền khinh thường người khác. Tất cả chúng ta đều là anh em, và chúng ta sẽ thực sự đạo đức khi đã thực chứng tôn giáo.
Nếu các bạn đã tham quan một số quốc gia nào đó, mà có người buộc bạn phải nói rằng bạn chưa từng đến tham quan nước đó, thì trong lòng bạn, bạn vẫn biết rằng mình đã có tham quan. Cũng thế, khi bạn đã thấy được tôn giáo và Thượng Đế theo nghĩa mạnh mẽ hơn nhiều so với cách bạn thấy thế giới ngoại tại thì không gì có thể lay chuyển được đức tin của bạn. Thế là bạn đã có được đức tin chân chính. Đây là ý nghĩa của những lời trong Phúc Âm : “Nếu ngươi có được đức tin nhỏ như hạt cải”. Như vậy bạn sẽ hiểu được chân lý, vì bạn đã trở thành chân lý.
Đây là khẩu hiệu của triết học Vedānta : Hãy thực chứng tôn giáo, đừng nói mà hãy làm, Thực hành điều này sẽ vô cùng khó khăn. Thượng Đế – đấng Cổ Xưa ngụ trong tận cùng sâu thẳm của mỗi trái tim người – đã tự ẩn mình đi trong nguyên tử. Các bậc hiền triết chứng ngộ được Ngài qua năng lực nội quán, và vượt qua được cảnh giới khổ lạc, vượt qua cảnh giới thị phi, thiện ác, siêu quá hữu vô, các vị đó thấy được Ngài trong Thực Tại.
Vậy thì thiên đàng thì sao? Đó là cảnh giới toàn hỷ lạc. Có nghĩa là : điều ta cần là một cuộc sống hạnh phúc không có phiền não, khổ đau. Hiển nhiên đó là một quan niệm tốt, xuất hiện rất tự nhiên; nhưng điều đó lại sai lầm hoàn toàn, bởi vì không hề có cái gì là tốt đẹp tuyệt đối, cũng chẳng có cái gì là xấu xa tuyệt đối. Các bạn đã từng nghe câu chuyện về một phú ông ở Rome, một ngày nọ ông ta biết tài sản mình chỉ còn có một triệu bảng Anh, bèn tự nhủ : “Ngày mai ta sẽ sống ra sao đây?”, rồi tự vẫn. Đối với ông ta thì một triệu bảng Anh vẫn là nghèo túng.
Vui là gì? Buồn là gì? Chúng chỉ là những thực thể phu du, tan biến vô thường. Khi còn bé, tôi nghĩ rằng nếu được làm người đánh xe ngựa để được giong ngựa đi dạo chơi thì đời tôi cực kỳ hạnh phúc. Giờ đây, tôi không còn nghĩ như thế nữa. Các bạn sẽ say sưa quyến luyến với niềm vui nào? Đó là một câu hỏi mà tất cả chúng ta đều phải cố gắng tìm hiểu, và nó là một trong những điều mê tín cuối cùng còn lại cho ta. Mỗi người đều có những quan điểm khác nhau về lạc thú. Tôi đã từng thấy một người không hề cảm nhận được hạnh phúc, trừ phi được hút thuốc phiện hàng ngày. Thiên đàng mà anh ta mơ tưởng tới có thể chỉ là nơi trồng toàn thuốc phiện. Đối với tôi thì thiên đàng đó quá đỗi tồi tệ. Trong thơ ca Ả Rập, ta thường thấy tả những khu vườn xinh đẹp, với những dòng chảy sông qua. Tôi sống phần lớn đời mình tại một đất nước có quá nhiều dòng sông, mỗi năm lũ lụt tàn phá nhiều ngôi làng và cướp đi hàng ngàn sinh mạng. Cho nên tôi không muốn thiên đàng của mình là khu vườn xinh đẹp với những dòng chảy sông qua, mà rất có thể tôi mơ đến một nơi ít có mưa. Lạc thú của chúng ta cũng luôn luôn thay đổi. Nếu một thanh niên mơ tưởng thiên đàng thì nơi đó hẳn phải có một người vợ đẹp. Cũng chính người đó, đến khi đứng tuổi thì không còn mơ tưởng đến một người vợ nữa. Chính nhu cầu thiết yếu của chúng ta đã tạo nên thiên đàng của chúng ta, và thiên đàng đó thay đổi theo nhu cầu thiết yếu đó. Nếu chúng ta đã có một thiên đàng, giống thiên đàng của những kẻ xem dục lạc là cùng đích của cuộc đời, thì chúng ta sẽ không thể nào tiến bộ. Đó là lời nguyền rủa khủng khiếp nhất mà ta có thể tuyên án đối với linh hồn.
Đó có phải là tất cả những gì mà chúng ta hướng tới? Sống một đời, khóc than chút đỉnh, nhảy múa hát ca chút đỉnh để rồi chết đi như một con chó! Khi các bạn khao khát những thứ đó thì lời nguyền rủa mà các bạn tuyên án đối với nhân loại thật khủng khiếp dường nào! Đó là những gì các bạn làm, khi la gào chạy theo những lạc thú thế gian, bởi vì các bạn không hề biết đến hỷ lạc chân chính. Điều mà triết học khăng khăng yêu cầu không phải là từ bỏ lạc thú, mà phải biết lạc thú đó thực sự là gì.
Thiên đàng của người Na Uy là một bãi chiến trường khủng khiếp, tất cả bọn họ đều ngồi trước thần Odin; họ săn gấu hoang, rồi đánh nhau và chém kẻ khác thành từng mảnh. Nhưng bằng cách này hay cách khác, sau một vài giờ đánh nhau, tất cả các vết thương đều lành, họ lại kéo vào tòa đại sảnh, nơi những con gấu đã được quay chín, và cùng nhau chè chén tưng bừng. Sau đó, các con gấu sống lại, sẵn sàng để bị săn đuổi vào ngày hôm sau. Thiên đàng đó cũng khác gì thiên đàng của chúng ta, chỉ có điều là quan niệm của chúng ta tinh tế hơn chút ít mà thôi. Chúng ta muốn săn gấu hoang, muốn có một nơi để mãi mãi hưởng thụ mọi lạc thú, giống như người Na Uy tưởng tượng ra cảnh ngày nào cũng săn đuổi và quay nướng gấu, rồi hôm sau lại cứ tiếp tục như thế.
Ngay nay, triết học khẳng định có một niềm vui tuyệt đối và bất biến. Niềm vui đó không thể là những niềm vui hay lạc thú mà chúng ta có nơi trần thế; và triết học Vedānta chỉ ra rằng tất cả những lạc thú thế gian chỉ là một phần nhỏ của niềm vui chân thực, vì đó là niềm vui duy nhất. Trong từng mỗi phút giây, chúng ta đều thực sự hưởng thụ được niềm Hạnh Phúc Tuyệt Đối, dù nó bị phủ lấp, ngộ nhận và mang màu sắc biếm họa. Bất cứ nơi nào có sự may mắn, hạnh phúc hay niềm vui, thậm chí là niềm vui của tên trộm khi đi ăn cắp thì đó vẫn là Hạnh Phúc Tuyệt Đối; có thể nói là nó chỉ bị lu mờ, lẫn lộn với đủ mọi điều kiện bên ngoài và bị ngộ nhận mà thôi.
Nhưng để hiểu được điều đó, ta phải đi qua sự phủ nhận, rồi khía cạnh tích cực sẽ bắt đầu. Chúng ta phải từ bỏ vô minh cùng tất cả những điều giả dối thì chân lý sẽ tự thân hiển lộ ra với chúng ta. Khi chúng ta lĩnh hội được chân lý thì những thứ đầu tiên mà chúng ta từ bỏ sẽ mang một hình tướng mới, sẽ xuất hiện trong một ánh sáng mới và trở nên linh thánh. Chúng sẽ thăng hoa, rồi chúng ta sẽ hiểu được chúng trong làn ánh sáng chân thực. Nhưng để hiểu được chúng, trước hết chúng ta hãy nhìn lướt qua chân lý; chúng ta phải từ bỏ chúng rồi thu nhận chúng trở lại trong bản chất thiêng liêng. Chúng ta phải từ bỏ tất cả phiền não khổ đau, từ bỏ tất cả những lạc thú nhỏ nhặt của mình.
“Điều mà tất cả kinh Veda muốn thuyết giảng, điều mà tất cả những kẻ khổ tu muốn nói, điều mà những người sống tiết dục muốn tìm kiếm, tôi sẽ nói với các bạn bằng một chữ duy nhất, đó là chữ ‘Om'”. Các bạn sẽ thấy chữ “Om” này được ca ngợi hết lời trong kinh Veda, và được xem là cực kỳ linh thiêng.
Bấy giờ, Yama trả lời câu hỏi : “Con người sẽ ra sao khi thể xác này chết đi?”. “Tự Ngã năng tri [knowing Self] vốn bất sinh bất diệt. Nó sinh khởi từ hư không, và hư không sinh khởi từ Nó. Tự Ngã này – vốn bất sinh, thường tồn – không hề bị hư hoại khi thể xác này hư hoại Nếu kẻ đâm người ngỡ rằng y đã đâm người, hoặc người bị đâm ngỡ rằng mình đã bị đâm thì cả hai đều không hết biết đến chân lý, bởi vì Tự Ngã không đâm mà cũng chẳng bị đâm”. Đó là kết luận vô cùng khủng khiếp.
Tôi muốn các bạn lưu ý đến tính từ đầu tiên trong câu này, đó là “năng tri” [knowing]. Khi tiếp tục nghiên cứu, ta sẽ thấy rằng lý tưởng của triết học Vedānta là : mọi tri thức cùng mọi sự thuần tịnh vô nhiễm đều có sẵn trong linh hồn cả rồi – mà tất cả sự khác biệt chỉ nằm ở chỗ chúng được biểu hiện mờ nhạt hay rõ ràng mà thôi.
Sự khác biệt giữa người này với người khác, và giữa muôn vật trong toàn thể sự sáng tạo, chỉ là khác biệt về mức độ chứ không phải thể loại. Bối cảnh và thực tại tính của tất cả mọi người đều cùng là cái Tự Ngã bản lai viên mãn, bản lai thuần tịnh, bản lai lạc phúc và thường hằng, vĩnh viễn này. Nó là Ātman, là linh hồn, trong vị thánh cũng như trong kẻ phạm tội, trong hạnh phúc cũng như trong khốn khổ, trong người đẹp cũng như người xấu, trong loài người cũng như trong loài vật. Nó như nhau ở khắp mọi nơi. Nó là Tự Ngã Ngời Sáng. Do năng lực biểu hiện khác nhau nên tạo ra sự khác biệt. Người thì biểu hiện Nó nhiều, kẻ thì biểu hiện Nó ít, nhưng mức độ biểu hiện khác nhau đó không ảnh hưởng gì đến Ātman. Nếu y phục người này để lộ thân thể nhiều hơn người khác thì điều đó không tạo nên sự khác biệt nào trong thân thể họ, mà sự khác biệt chỉ nằm trong y phục mà thôi.
Ở đây, ta nên nhớ rõ một điều là xuyên suốt trong triết học Vedānta, không hề có khái niệm tốt xấu, thiện ác, chúng tuy hai mà một, sự khác biệt chỉ nằm trong mức độ. Cũng điều mà hôm nay tôi gọi là khoái lạc thì ngày mai, trong một hoàn cảnh khác, tôi có thể gọi là khổ đau. Ngọn lửa sưởi ấm ta cũng có thể đốt cháy ta, đó có phải là lỗi của ngọn lửa đâu. Cũng thế, do Linh Hồn bản lai thuần tịnh và viên mãn, nên kẻ làm điều ác đang lừa dối mình, và y không nhận biết được thực tính của mình. Ngay trong kẻ sát nhân, Linh Hồn thuần tịnh vẫn tồn tại. Do vô minh, nên y không biết biểu lộ nó ra mà lại che lấp mất đi. Đối với người nghĩ rằng mình bị giết thì Linh Hồn vẫn không bị giết; Nó thường tồn bất diệt. Linh Hồn không bao giờ có thể bị giết hại hay bị hủy hoại. “Vô cùng nhỏ hơn cái nhỏ nhất, vô cùng lớn hơn cái lớn nhất, đấng Chúa Tể của tạo vật ngự trị trong tận cùng sâu thẳm của mọi trái tim người. Kẻ vô tội và thoát khỏi mọi phiền não, khổ đau thấy Ngài qua ân huệ của đấng Chúa Tể; Ngài là đấng Vô Thể nhưng lại ngự trị trong thân thể; Ngài là đấng Vô Biên Vô Tế nhưng lại ngự trị trong không gian; Ngài là đấng Vô Tận, đấng Vô Sở Bất Tại; khi biết được Linh Hồn như thế, các vị hiền triết không bao giờ phiền não khổ đau”.
” Ātman không thể được thể hội bằng tài biện thuyết, bằng kiến văn uyên bác hay bằng sự nghiên cứu kinh Veda”. Đây là câu phát ngôn vô cùng táo bạo. Như tôi đã nói với các bạn trước đây, các vị hiền triết này là những nhà tư tưởng táo bạo, và bao giờ chịu dừng trước bất cứ điều gì. Các bạn nên nhớ rằng ở Ấn Độ, những kinh Veda này được nhìn trong ánh linh quang còn cao hơn cả ánh linh quang của Kinh Thánh đối với tín đồ Cơ Đốc giáo. Quan niệm của các bạn về khải thị là một người nhận được thiên khải từ Thượng Đế, còn ở Ấn Độ thì quan niệm đó là : muôn vật tồn tại bởi vì chúng đã có ở trong kinh Veda. Toàn bộ sự sáng thế diễn ra trong kinh Veda và thông qua kinh Veda. Toàn bộ cái gọi là Tri Thức cũng nằm trong kinh Veda. Từng chữ trong kinh Veda đều linh thiêng và có giá trị vĩnh hằng, vĩnh hằng như linh hồn, vô thủy vô chung. Có thể nói rằng toàn bộ Tâm Trí của đấng Tạo Hóa đều nằm cả trong kinh Veda. Đó là ánh linh quang mà trong đó kinh Veda được giữ gìn. Tại sao việc này là đạo đức? Vì kinh Veda đã dạy thế. Tại sao việc này là vô đạo đức? Vì kinh Veda đã dạy thế. Mặc dù vậy, hãy nhìn vào sự táo bạo của những vị hiền triết đã tuyên bố rằng không thể tìm ra chân lý bằng cách miệt mài nghiên cứu các kinh Veda. “Thượng Đế hiện thân ra với kẻ nào làm đẹp lòng Ngài”.
Nhưng rồi lại có thể có ý kiến phản đối, cho rằng như thế thì hơi giống như óc bè phái. Nhưng Yama giải thích : “Kẻ nào làm điều ác, kẻ nào tâm trí không an lạc thì không bao giờ thấy được Ánh Linh Quang đó. Đối với kẻ nào giữ tâm thành tín, hành động trong sạch, chế ngự được các giác quan thì Tự Ngã đó mới hiện lộ tự thân”.
Đây là một hình ảnh đẹp đẽ. Hãy hình dung Tự Ngã là người cưỡi ngựa, thể xác là cỗ xe, trí năng là người đánh xe, tâm là dây cương và các giác quan là ngựa. Người nào khéo léo điều khiển ngựa, có dây cương chắc chắn nằm trong tay người đánh xe điêu luyện (trí năng) sẽ đạt đến mục tiêu là Ngài – đấng Vô Sở Bất Tại. Còn kẻ nào không khéo léo điều khiển ngựa, buông lỏng dây cương thì sẽ đi đến diệt vong.
Ātman này – ẩn kín trong tâm mỗi chúng sinh – không hiển lộ trong mắt của người trần hay trước các giác quan, mà chỉ những người giữ tâm thuần tịnh vô nhiễm mới thể hội được Nó. Ātman vượt qua cảnh giới của thanh âm, sắc tướng, không biến hoại, vượt qua phạm vi của vị giác và xúc giác, Nó là vô biên, vô thủy vô chung, siêu quá thế giới tự nhiên và như như bất động – ai thể hội được Ātman này thì vượt qua được cõi tử sinh. Nhưng điều đó cực kỳ khó khăn. Có thể nói là giống như đi trên lưỡi dao cạo; con đường thì rất dài và đầy nguy hiểm, nhưng hãy tinh tấn tiến bước, đừng tuyệt vọng. Hãy thức giấc, đứng lên, và không dừng bước cho đến khi đạt được mục tiêu.
Tư tưởng trọng tâm xuyên suốt trong tất cả kinh thư Upanishad là sự thực chứng đó. Từ thời đại này đến thời đại khác, có vô số câu hỏi được đặt ra về vấn đề này, nhất là đối với người hiện đại. Sẽ có những câu hỏi về lợi ích, sẽ có nhiều câu hỏi khác, nhưng trong tất cả những câu hỏi đó, chúng ta sẽ thấy rằng những mối liên kết với quá khứ đã nhắc nhở chúng ta. Chính mối liên kết về tư tưởng mới có được sức mạnh khủng khiếp trên tâm trí chúng ta. Người nào mà từ thuở bé luôn được nghe nói về một Thượng Đế Nhân Thể và bản sắc của tâm trí thì những tư tưởng đó chắc chắn sẽ hiện ra rất khắt khe và hung bạo; nhưng nếu họ lắng nghe chúng và tư duy về chúng thì chúng biến thành một phần trong đời sống của họ, và họ không còn sợ hãi nữa. Câu hỏi lớn nhất thường được nêu ra là câu hỏi về sự lợi ích của triết học. Đối với những người đó thì chỉ có một câu trả lời duy nhất : nếu lợi ích là nền tảng tốt đẹp để con người mưu cầu khoái lạc thì tại sao những người thấy được niềm vui trong tôn giáo lại không đi tìm điều đó? Bởi vì sự hưởng thụ dục lạc có thể làm thỏa mãn được nhiều người, họ đi tìm chúng, nhưng vẫn có nhiều người không tìm thấy thõa mãn trong những dục lạc đó, họ cần đến sự hỷ lạc cao cả hơn. Con chó chỉ thấy sung sướng khi ăn uống, nhưng nó không thể hiểu được sự sung sướng của một nhà khoa học từ bỏ tất cả, sống cô đơn trên đỉnh núi để quan sát các vì sao. Có thể con chó mỉm cười trước nhà khoa học, và cho rằng ông ta là một kẻ điên rồ. Có thể nhà khoa học nghèo nàn đó không bao giờ có đủ tiền để cưới vợ, và sống rất đạm bạc. Và có thể con chó đang cười nhạo ông ta. Nhưng nhà khoa học lại bảo : “Này chú cẩu thân mến, lạc thú của chú nằm trong phạm vi của giác quan, nên ngoài các thứ đó ra, chú không thể biết gì đến cái gì khác nữa. Còn ta hưởng lạc thú của riêng ta, cho nên nếu chú có quyền đi tìm lạc thú của mình thì ta cũng có quyền đi tìm lạc thú của ta”.
Điều sai lầm của chúng ta là cứ muốn buộc cả thiên hạ phải suy nghĩ như mình, và cứ đem những suy nghĩ của mình làm thước đo cho toàn vũ trụ. Đối với các bạn, những lạc thú của giác quan có thể là những lạc thú to lớn nhất, nhưng lạc thú của tôi đâu nhất thiết phải giống như vậy; và khi các bạn cứ khăng khăng yêu cầu điều đó thì tôi lại khác biệt với bạn. Đó là điểm phân biệt giữa một người theo chủ nghĩa thực dụng của nhân gian với một người có tinh thần tôn giáo. Người thứ nhất bảo : “Hãy nhìn tôi hạnh phúc biết mấy. Tôi làm ra tiền, nhưng không bận tâm gì tới tôn giáo. Tôn giáo là thứ không sao hiểu được, tôi đây vẫn hạnh phúc mà chẳng cần gì đến nó”. Cho đến tận lúc này thì điều đó thật là tốt đẹp đối với tất cả những người thực dụng. Nhưng thế gian này rất kinh khủng. Nếu một người tìm thấy hạnh phúc bằng mọi cách, trừ việc gây tổn thương cho đồng loại, thì cầu mong Thượng Đế cho anh ta được thành công; nhưng khi người đó tìm đến với tôi và bảo : “Anh cũng phải làm những điều này, nếu không thì anh là thằng ngu”, thì tôi sẽ đáp : “Bạn sai lầm rồi, bởi vì những điều khiến bạn thích thú lại chẳng có chút hấp dẫn gì đối với tôi cả. Nếu tôi phải lo chạy theo những túi vàng nhỏ bé thì đời tôi chẳng còn đáng sống nữa! Tôi thà chết còn hơn”. Đó là câu trả lời mà một người có tinh thần tôn giáo sẽ nói. Thực tế là chỉ những người đã đoạn tuyệt được với những thứ tầm thường thấp kém đó mới có thể hiểu được tôn giáo. Chúng ta phải có sự trải nghiệm của riêng mình, và phải đi trọn con đường. Chỉ khi nào chúng đã ta đi trọn con đường thì một thế giới khác mới mở ra cho ta.
Hưởng thụ lạc thú giác quan đôi khi ẩn chứa nguy cơ trong một thời điểm khác. Trong thời đại nào ngày trước, trong bất kỳ tôn giáo nào các bạn cũng luôn nghe đề cập đến ý tưởng cho rằng sẽ đến lúc mọi phiền não, khổ đau trên đời đều kết thúc, chỉ còn lại niềm vui và lạc thú, và lúc đó trần gian biến thành một thiên đàng. Tôi không tin điều đó. Trái đất này vẫn cứ mãi mãi y nguyên như thế, chẳng có gì thay đổi. Nói lên điều đó thật là khủng khiếp, nhưng tôi chẳng thấy có một lối thoát nào. Nỗi khốn khổ trên thế gian như căn bệnh thấp khớp kinh niên trong người; chữa được chỗ này thì nó lại chạy sang chỗ khác; xua nó ra khỏi chỗ này thì các bạn lại cảm nhận nó chạy đến chỗ kia. Dù các bạn có làm gì đi nữa thì nó vẫn còn đó. Thời cổ đại, con người sống trong rừng và ăn thịt lẫn nhau; trong thời hiện đại, con người không còn ăn thịt lẫn nhau, nhưng lại lừa đảo, dối gạt nhau. Toàn thể các quốc gia và thành phố đều bị điêu tàn bởi sự dối lừa. Điều đó không chứng minh được có sự tiến bộ lớn lao. Tôi thấy rằng cái mà các bạn gọi là tiến bộ chỉ là sự gia tăng tham dục chứ chẳng có gì khác. Nếu có cái gì đó tôi thấy được rõ ràng thì đó là điều này : tham dục mang đến mọi thứ khổ đau. Đó là trường hợp của gã ăn mày cứ luôn đi xin một thứ gì đó; vì gã không thể thấy bất cứ thứ gì mà lại không thèm chiếm hữu, nên cứ khát khao, khát khao thêm mãi. Nếu năng lực đáp ứng được tham vọng của ta tăng theo cấp số cộng thì sức mạnh của tham vọng tăng theo cấp số nhân. Tổng số niềm hạnh phúc và nỗi bất hạnh trên thế gian này ít nhất là tương đương nhau ở khắp mọi nơi. Khi một con sóng dâng cao lên trong lòng đại dương thì nó lại tạo ra một chỗ lõm ở đâu đó. Nếu hạnh phúc đến với người này thì bất hạnh phải đến với người kia, và có lẽ còn đến với cả một số loài vật. Số lượng loài người gia tăng, và số lượng một vài loài vật phải giảm đi; chúng ta đang tiêu diệt chúng và đang giành lấy đất đai của chúng; chúng ta tìm đủ mọi cách để biến chúng thành thức ăn. Vậy thì làm sao ta có thể nói rằng hạnh phúc đang gia tăng? Chủng tộc hùng mạnh tiêu diệt lần hồi chủng tộc yếu đuối, nhưng các bạn có cho rằng chủng tộc hùng mạnh đó sẽ rất hạnh phúc? Không có đâu; họ sẽ quay sang để tự giết lẫn nhau. Tôi không thấy một cơ sở thực tế nào để thế gian này có thể biến thành một thiên đàng. Mà thực tế đang chứng minh điều ngược lại. Ngay cả trên phương diện lý thuyết, tôi cũng thấy điều đó là không thể.
Sự hoàn hảo luôn luôn nằm trong Cái Vô Biên. Chúng ta cũng vô biên và đang cố gắng hiển hiện tính vô biên đó. Các bạn và tôi, cũng như tất cả chúng sinh, đều đang cố gắng thực hiện điều đó. Cho đến nay thì mọi chuyện điều tốt đẹp. Nhưng từ sự kiện này mà một số triết gia Đức đã khởi xướng một lý thuyết đặc thù – cho rằng sự biểu hiện này sẽ mỗi lúc được nâng cao dần, cho đến khi chúng ta đạt đến sự biểu hiện trọn vẹn và trở thành những người hoàn hảo. Như thế nào là biểu hiện toàn mỹ? Hoàn hảo có nghĩa là vô biên vô tận, còn biểu hiện có nghĩa là giới hạn, bởi vậy điều đó có nghĩa là chúng ta trở thành kẻ bị giới hạn một cách vô hạn, điều đó mâu thuẫn. Lý thuyết kiểu đó có thể làm hài lòng đám trẻ con, nhưng lại đầu độc chúng bằng những điều dối trá, và đó là điều vô cùng tồi tệ đối với tôn giáo. Nhưng ta biết rằng thế giới này đang suy đồi, con người là sự suy đồi từ Thượng Đế, và Adam thì sa đọa. Ngày nay, không có một tôn giáo mà lại không dạy rằng con người là sự suy đồi. Chúng ta đã bị suy đồi thành loài vật, và giờ đây lại đang vươn lên để thoát khỏi cảnh nô lệ ấy. Nhưng ta sẽ không bao giờ biểu hiện được trọn vẹn Cái Vô Biên ở tại thế giới này. Chúng ta sẽ đấu tranh vất vả, nhưng đến lúc nào đó ta sẽ thấy rằng không thể nào trở thành người hoàn hảo ở trần gian này được, vì đây là nơi mà chúng ta bị trói buộc trong phạm vi của giác quan. Và cuộc hành quân quay ngược về trạng thái ban sơ của tính vô biên sẽ rất rộn ràng.
Đây là sự buông xả. Chúng ta sẽ phải thoát ra khỏi vấn nạn này bằng cách đảo ngược tiến trình mà ta đã theo đó để tiến vào, lúc đó đạo đức và lòng nhân hậu sẽ bắt đầu. Khẩu hiệu của mọi chuẩn mực đạo lý là gì? “Không phải tôi, mà là anh”. Cái “Tôi” này là gì? Đó là Cái Vô Biên đang cố gắng tự biểu hiện ra thế giới bên ngoài. Cái “Tôi” nhỏ bé này là kết quả, và nó sẽ quay về để kết hợp với Cái Vô Biên, tức tự tính [own nature] của nó. Mỗi khi các bạn nói : “Này người anh em, không phải tôi mà là anh” là các bạn đang cố gắng quay về; và mỗi khi các bạn nói : “Tôi, chứ không phải anh” là các bạn đang đi từng bước sai lầm, khi cố gắng biểu hiện Cái Vô Biên thông qua thế giới giác quan. Điều đó mang đấu tranh và tội ác vào cõi thế, nhưng cuối cùng thì sự buông xả phải đến, sự buông xả vĩnh viễn. Cái “Tôi” nhỏ bé này sẽ chết đi và biến mất. Vậy thì sao lại phải bận tâm quá nhiều cho cuộc sống nhỏ bé này? Tất cả những khát vọng muốn sống và hưởng thụ cuộc đời này, dù ở nơi đây hay ở nơi nào khác, cũng đều mang đến cái chết.
Nếu chúng ta tiến hóa từ loài vật thì loài vật cũng có thể là con người bị thoái hóa. Làm sao ta biết được rằng không phải thế? Các bạn đã thấy chứng cứ về sự tiến hóa chỉ đơn giản như vầy : các bạn tìm ra một loạt các thể xác từ thấp nhất đến cao nhất phát triển dần dần theo bậc thang tiến hóa. Nhưng từ đó, làm sao các bạn có thể khẳng định rằng sự vật luôn tiến hóa từ thấp đến cao, mà không bao giờ từ cao xuống thấp? Lý luận này áp dụng cho cả hai chiều, và nếu có điều gì đúng thì tôi tin đó là : một loạt các thể xác đó đang tự lặp đi lặp lại sự tiến hóa từ thấp lên cao, rồi từ cao xuống thấp. Làm sao các bạn có thể có được sự tiến hóa không theo đường trôn ốc? Chúng ta đấu tranh để vươn đến đời sống cao hơn, điều đó chứng tỏ chúng ta đã bị thoái hóa từ một trạng thái cao hơn. Chắc chắn là vậy, chỉ khác nhau ở chi tiết mà thôi. Tôi luôn luôn tin tuyệt đối vào tư tưởng được đề xướng bằng tiếng nói của đấng Christ, của đức Phật và của triết học Vedānta, rằng sớm muộn gì chúng ta cũng đạt đến cảnh giới hoàn hảo, chỉ bằng cách từ bỏ sự bất toàn này mà thôi.
Thế gian này là hư không. Giỏi lắm thì nó cũng chỉ là một
bức biếm họa gớm ghiếc, một cái bóng của Thực Tại. Chúng ta phải đến với Thực
Tại. Sự buông xả sẽ đưa ta đến với Nó. Buông xả là nền tảng của đời sống chân
thực; mỗi phút giây chúng ta không còn nghĩ đến mình nữa là mỗi phút giây chúng
ta hưởng thụ được tinh túy của một cuộc sống thực sự. Cái tự ngã nhỏ bé chia
cách này phải chết đi. Lúc đó, chúng ta sẽ thấy mình đứng trong cõi Thực Hữu,
và Thực Tại đó chính là Thượng Đế, và Ngài chính là tự tính của ta; Ngài luôn ở
trong ta và cùng ta. Chúng ta hãy sống trong Ngài và đứng trong Ngài. Đó là
niềm hỷ lạc duy nhất của hiện hữu. Cuộc sống trên bình diện Tinh Thần là cuộc
sống duy nhất. Tất cả chúng ta hãy cố gắng đạt đến cảnh giới thực chứng đó.
(Diễn thuyết tại London, 29 tháng 10, 1896)
“Cái Tự Hữu phóng chiếu giác quan ra ngoài, cho nên con người cũng nhìn ra thế giới bên ngoài chứ không nhìn vào nội tâm. Một vị hiền triết nào đó, vì muốn được bất tử, đã đảo ngược giác quan để nội quán và nhận thức được Tự Ngã bên trong. Như tôi đã nói, cuộc tìm tòi đầu tiên mà chúng ta thấy trong kinh Veda có liên quan đến sự vật bên ngoài; rồi một tư tưởng mới xuất hiện, cho rằng ta không thể tìm thấy thực tại tính của sự vật trong thế giới bên ngoài, mà phải – theo cách diễn đạt văn vẻ –nhìn ngược vào bên trong nội tâm. Và danh từ dùng để chỉ cái Linh Hồn này rất có ý nghĩa : là Đấng đã đi vào thế giới nội tâm; là thực tại tính sâu thẳm nhất trong hiện hữu chúng ta; là trung tâm, là cốt lõi xuất phát ra muôn vật – có thể nói như thế; là mặt trời trung tâm – nơi mà tâm trí, thể xác, ngũ quan và tất cả những gì ta có đều là những tia nắng tỏa sáng ra từ đó.
“Những người lớn mang kiến thức trẻ con, kẻ ngu đua nhau chạy theo những dục vọng bên ngoài, rồi sa vào bẫy của cái chết lan tỏa mọi nơi; còn kẻ trí, do hiểu được sự bất tử, không bao giờ tìm kiếm Vĩnh Cửu trong đời sống của những sự vật hữu hạn”. Trong câu nói này, một quan niệm tương tự được làm sáng tỏ, đó là trong cái thế giới ngoại tại ngập tràn những sự vật hữu hạn này, ta không thể nào tìm và thấy được Cái Vô Biên. Cái Vô Biên chỉ có thể được tìm thấy trong cái gì vô biên vô tận; và cái vô biên vô tận duy nhất lại nằm trong tâm, trong linh hồn chúng ta. Thể xác, tâm trí, thậm chí tư tưởng hay thế giới ngoại tại đều không vô biên. đấng Tiên Tri – đấng mà tất cả những thứ đó lệ thuộc vào, Linh Hồn của con người, đấng luôn tỉnh thức trong con người nội tâm, chỉ có đấng đó mới là vô biên vô tận; và chúng ta phải đi sâu vào nơi ấy để tìm ra Căn Nguyên Vô Tận của toàn thể vũ trụ này. Chỉ trong Linh Hồn Vô Biên chúng ta mới tìm thấy căn nguyên đó.
“Cái gì ở đây thì cũng ở đó, cái gì ở đó thì cũng ở đây. Kẻ nào thấy sự đa thù sai biệt thì đi từ cái chết đến cái chết”.
Ta đã thấy trước tiên là khát vọng lên thiên đàng như thế nào rồi. Khi những người Āryan cổ đại không thấy thỏa mãn với thế giới chung quanh, theo lẽ tự nhiên thì họ cho rằng sau khi chết, họ sẽ đến một nơi hoàn toàn hạnh phúc chứ không có khổ đau; họ gia tăng cõi đó lên nhiều lần và gọi là svarga –từ này có thể được được dịch là “cõi trời”. Đó là nơi mà họ hưởng lạc thú vĩnh viễn, thể xác trở nên toàn hảo, tâm trí cũng thế; và họ sống ở đó mãi mãi với ông bà tổ tiên. Nhưng đến khi triết học ra đời thì con người mới thấy rằng đó là điều bất khả thi và vô lý. Ngay ý tưởng về một cõi vô biên trong không gian đã tự mâu thuẫn trong thuật ngữ rồi, vì nơi đó phải có khởi đầu và liên tục trong thời gian. Do đó, họ đành phải từ bỏ ý tưởng này. Họ lại thấy rằng chư thần sống trên các cõi trời đó cũng là con người từng sống nơi trần thế, những người này nhờ tu nhân tích đức mà thành thần, và bản chất thần của họ khác nhau về trạng thái và địa vị.
Không một vị thần nào trong kinh Veda có được bản sắc vĩnh viễn. Chẳng hạn thần Indra và Varuna không phải là tên của những vị thần cụ thể, mà là tên dùng để chỉ những chức vụ cai quản v.v…. Thần Indra thời cổ không giống với thần Indra ngày nay; vị thần cũ đã qua đi và một người khác từ trần gian lên thế chỗ của ngài. Tất cả những vị thần khác cũng vậy. Có những vị trí của chư thần được người trần thế thay nhau chiếm giữ; những người này tự nâng mình lên địa vị của chư thần, thậm chí sau khi họ chết.
Trong kinh Rig-Veda cổ, chúng ta thấy từ “bất tử” được dùng cho chư thần, nhưng về sau nó được phát triển rộng rãi, vì người ta thấy rằng cái khái niệm bất tử vượt thời gian và không gian đó không thể được dùng để nói về bất kỳ hình thể vật lý nào, dẫu hình thể đó có vi diệu đến mấy. Dù có tinh tế đến đâu chăng nữa thì khái niệm bất tử vẫn phải có sự khởi đầu trong thời gian và không gian, bởi vì những sự kiện cần thiết tham gia vào việc cấu tạo nên hình thể đều ở trong không gian. Thử tư duy về một hình thể không có không gian, điều đó hoàn toàn không thể. Có thể nói không gian cũng là một loại chất liệu tạo nên hình thể, và hình thể này liên tục biến đổi. Không gian và thời gian đều nằm trong māyā, và tư tưởng này được diễn đạt bằng câu : ” Cái gì ở đây thì cũng ở đó”. Nếu có những vị thần này thì họ cũng phải chịu sự chi phối theo cùng những quy luật áp dụng nơi trần gian này, và tất cả những quy luật này đều liên quan đến chu trình sinh sinh diệt diệt vô tận. Những quy luật này nung đúc vật chất thành những hình thể khác nhau, rồi lại đập chúng vỡ tan tành. Cái gì có sinh thì có diệt, cho nên nếu có thiên đàng thì nơi đó cũng phải chịu sự chi phối chặt chẽ của những quy luật này.
Trong thế gian này, ta thấy khổ đau đi theo hạnh phúc như hình với bóng. Sự sống cũng có bóng mờ của nó, đó là cái chết. Sinh và tử, hạnh phúc và khổ đau, thiện và ác phải sóng vai đi cạnh bên nhau, vì chúng không mâu thuẫn, không phải là hai thực thể biệt lập, mà chỉ là hai mặt khác nhau của cùng một nhất thể. Quan niệm nhị nguyên cho rằng thiện ác là hai thực thể biệt lập, và vĩnh viễn chúng vẫn cứ thế, quan niệm đó rõ ràng vô lý. Chúng là những biểu hiện khác nhau của cùng một sự kiện, lúc thì thiện, lúc thì ác. Sự khác biệt chỉ nằm ở mức độ chứ không phải ở bản chất. Chúng khác nhau là do cường độ.
Trên thực tế, ta thấy cũng một hệ thần kinh như nhau nhưng có thể đem lại cho ta cảm giác êm dịu hay khó chịu, và khi hệ thần kinh bị tổn thương thì ta chẳng còn cảm nhận được gì. Nếu một dây thần kinh nào đó bị tê liệt thì ta không nhận được những cảm giác dễ chịu do nó truyền lại, nhưng đồng thời cũng không nhận được những cảm giác đớn đau. Chúng không nhất thiết phải khác nhau. Cũng thế đó, cùng một sự việc nhưng lại có thể đem đến vui sướng hay khổ đau, tại hai thời điểm khác nhau trong đời. Cùng một hiện tượng nhưng có thể giúp người này vui sướng và khiến kẻ khác đau khổ. Con người thấy khoái khẩu khi ăn thịt, nhưng đó lại là sự đớn đau của con vật bị ăn thịt. Chưa bao giờ có một điều gì có thể đem lại hạnh phúc như nhau cho tất cả mọi người. Một số người hài lòng, số khác lại bực mình. Sự việc cứ sẽ diễn ra như thế.
Do đó, ta phải phủ nhận quan niệm nhị nguyên về sự vật. Vậy thì cái gì sẽ tiếp theo? Trong bài giảng vừa rồi, tôi đã nói rằng các bạn không bao giờ có thể tìm thấy một điều toàn thiện hay toàn ác trong thế gian này. Điều đó đã khiến một số các bạn đâm ra bất mãn và sợ hãi, nhưng tôi cũng không thể làm khác đi; và tôi công khai thừa nhận rằng tôi có thể mâu thuẫn, nhưng tôi không thể chấp nhận cho đến khi nào các bạn chứng minh được điều đó,
Lập luận mang tính thuyết phục thường được dùng để phản bác lại phát biểu của tôi, đó là : trong quá trình tiến hóa, mọi điều xấu xa mà ta thấy quanh ta, nhìn chung là đang giảm thiểu, và kết quả là nếu đà giảm thiểu này kéo dài thêm vài triệu năm nữa thì đến một lúc nào đó mọi điều xấu xa sẽ bị tuyệt diệt, và chỉ lại những gì tốt đẹp. Lập luận đó thoạt nhìn có vẻ rất hấp dẫn. Cầu mong Thượng Đế là nó đúng! Nhưng lập luận đó mắc phải một ảo tưởng, đó là nó mặc nhiên cho rằng thiện ác là hai thực thể muôn đời tách biệt. Nó mặc nhiên cho rằng có một khối lượng cụ thể những điều xấu xa lên đến hàng trăm, cũng thế đối với những điều tốt đẹp, và điều xấu xa cứ giảm đi từng ngày, chỉ còn lại những điều tốt đẹp. Nhưng có thực thế không? Lịch sử thế giới chứng minh điều xấu xa cứ liên tục gia tăng, và điều tốt đẹp cũng thế. Hãy lấy một người sống hoang dã trong rừng làm ví dụ. Cảm thụ khoái lạc của anh ta rất kém và năng lực chịu khổ đau cũng vậy. Sự khốn khổ của anh ta chỉ hoàn toàn nằm trên bình diện giác quan. Nếu không có được nhiều thức ăn thì anh ta sẽ rất đau khổ, nhưng nếu cho anh ta thật nhiều thức ăn, rồi để anh ta tự do đi lang thang và mặc tình săn bắn thì anh ta sẽ cực kỳ hạnh phúc. Nhưng nếu người đó có thêm kiến thức thì hạnh phúc anh ta sẽ tăng lên, trí năng sẽ mở rộng cửa cho anh ta và niềm vui của giác quan sẽ chuyển hóa thành niềm vui tri thức. Anh ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi đọc một bài thơ hay, và say sưa giải một bài toán khó. Nhưng cùng với những điều này thì thần kinh anh ta sẽ trở nên nhạy cảm hơn với những nỗi thống khổ tinh thần – điều mà con người man dã không hề nghĩ đến.
Hãy dùng một hình ảnh đơn giản khác để minh họa. Tại một số địa phương ở Tây Tạng không có hôn nhân theo cách ta hiểu ngày nay, cho nên không hề có chuyện ghen tuông, nhưng ta biết rằng hôn nhân là tình trạng cao hơn nhiều. Người Tây Tạng không hề biết đến lạc thú tuyệt vời của sự trinh trắng, cũng không biết đến hạnh phúc có được người chồng hay người vợ thủy chung, đoan chính. Những người này không thể cảm nhận được điều đó. Cũng tương tự như vậy, họ không có cảm giác ghen tuông của một người chồng hay người vợ thủy chung khi bị kẻ đầu ấp tay gối của mình phản bội, một điều mà những tín đồ của sự trinh trắng đều thấy tan nát ruột gan. Những người này một mặt thì cảm nhận hạnh phúc, nhưng mặt khác lại cảm thấy khổ đau.
Hãy lấy ngay nước Anh của các bạn để ví dụ. Đất nước các bạn giàu có nhất và xa hoa hơn bất kỳ nước nào khác trên thế giới, nhưng hãy nhìn xem nỗi khốn khổ khắc nghiệt như thế nào, hãy nhìn xem đất nước các bạn có nhiêu kẻ mắc bệnh tâm thần khi so sánh với các dân tộc khác, lý do chỉ vì tham dục quá ư kịch liệt. Người nào cũng phải giữ nếp sinh hoạt thượng lưu, và số tiền mà anh ta tiêu xài trong một năm bằng ngang với tài sản của một người Ấn Độ. Các bạn không thể thuyết giảng để anh ta sống đơn giản, vì xã hội yêu cầu ở anh ta quá nhiều. Bánh xe xã hội cứ xoay vòng mãi, nó không hề dừng lại vì giọt nước mắt của một góa phụ hay tiếng la khóc của một em bé. Đó là tình trạng của sự vật ở khắp mọi nơi. Năng lực hưởng thụ của các bạn phát triển, xã hội các bạn đẹp đẽ hơn nhiều, so một số xã hội khác. Các bạn có quá nhiều thứ để hưởng thụ, nhưng kẻ nào càng có ít điều hưởng thụ thì càng ít khổ đau.
Các bạn có thể lập luận như thế một cách xuyên suốt. Bộ não bạn có lý tưởng càng cao thì niềm vui các bạn càng lớn, nhưng nỗi đau khổ càng sâu sắc. Cái này theo sát cái kia như hình với bóng. Có thể là điều xấu xa đang thực sự giảm dần, nhưng nếu thế thì điều tốt đẹp cũng đang hấp hối. Há không phải là điều xấu xa đang tăng quá nhanh, còn điều tốt đẹp đang giảm dần, nếu như tôi có thể diễn đạt như thế? Nếu điều tốt đẹp tăng theo cấp số cộng thì điều xấu xa tăng theo cấp số nhân. Và đây là māyā.
Điều này chẳng phải là bi quan hay lạc quan. Triết học Vedānta không quan niệm rằng thế giới này chỉ là nơi thuần đau khổ. Điều đó không đúng. Mặt khác, nếu cho rằng thế giới này chỉ toàn là hạnh phúc và may mắn thì cũng sai lầm nốt. Bởi vậy thật vô ích khi bao trẻ em rằng thế giới này là hoàn hảo, chỉ toàn hoa, mật, và sữa – đó là những gì mà chúng ta mơ ước. Đồng thời cũng thật lầm lẫn khi thấy người này chịu nhiều khổ đau hơn người kia mà cho rằng thế giới này toàn là điều xấu xa. Đó là tính nhị nguyên, một trò chơi giữa thiện và ác, và trò chơi đó tạo nên cái thế giới kinh nghiệm của chúng ta. Tuy nhiên, triết học Vedānta lại bảo không nên nghĩ rằng thiện ác là hai yếu tính phân biệt, vì chúng là một và tương đồng nhau, cùng hiện thị trong những mức độ khác nhau, trong những lớp vỏ khác nhau và tạo nên những cảm xúc khác nhau trong cùng một tâm trí. Bởi vậy, tư tưởng đầu tiên của triết học Vedānta là tìm ra tính thống nhất trong thế giới ngoại tại – cái Tồn Tại Duy Nhất hiển thị tự thân, mặc dù Nó có thể hiển thị dưới nhiều hình tướng khác nhau.
Hãy nhớ đến một lý thuyết cũ của người Ba Tư : có hai vị thần cùng nhau sáng tạo thế giới. Vị thần thiện thì sáng tạo nên toàn những điều tốt đẹp, còn vị thần ác thì sáng tạo nên toàn những điều xấu xa. Mới nhìn qua, các bạn đã thấy phi lý rồi; vì mọi quy luật tự nhiên đều phải có hai mặt, cho nên nếu sáng tạo thế giới theo cách đó thì mỗi mặt sẽ do một vị thần đảm trách, khi vị thần này làm xong mới đến lượt vị thần kia. Vấn đề nằm ở điểm này : cả hai vị thần đều tạo chung một thế giới, và cả hai phải kết hợp ăn ý với nhau bằng cách làm tổn hại đến phần này và làm tốt cho phần kia. Dĩ nhiên đây là một trường hợp thô thiển, là sự diễn tả tính nhị nguyên của sự tồn tại theo cách thô thiển nhất. Nhưng thử lấy một lý thuyết tiến bộ hơn, trừu tượng hơn, cho rằng thế giới này gồm một phần thiện và một phần ác. Thì điều đó cũng vô lý, với lập luận như quan điểm trên. Sức mạnh đem lại cho chúng ta thực phẩm cũng chính là sức mạnh giết biết bao người bằng tai nạn và rủi ro.
Như vậy, chúng ta thấy rằng thế giới này không tốt đẹp, cũng chẳng xấu xa mà là sự trộn lẫn của cả hai. Khi tiến xa hơn, ta sẽ thấy rằng triết học Vedānta mang toàn bộ lỗi lầm của tự nhiên đặt trên vai chúng ta. Đồng thời triết học đó chỉ ra con đường giải thoát, không phải bằng cách chối bỏ điều xấu xa, bởi vì nó dũng cảm phân tích sự kiện y như thực và không tìm cách giấu diếm điều gì. Triết học đó không phải là tín điều của tuyệt vọng, cũng không phải là thuyết bất khả tri. Nó đã tìm ra giải pháp cho vấn đề thiện ác, và đặt giải pháp đó trên một nền tảng rắn như kim cương, không phải áp đặt cho con người theo kiểu “cả vú lấp miệng em”, xem con người chỉ là trẻ con, và đem những điều giả dối che mắt mọi người, để rồi đến một ngày nào đó họ phát hiện ra.
Tôi còn nhớ khi còn bé, bố của một anh thanh niên nọ qua đời, để lại anh ta trong cảnh túng quẫn với một gia đình đông người cần trợ giúp. Anh thấy bạn của bố mình chẳng một ai sẵn lòng giúp đỡ, nên trò chuyện với một vị tu sĩ để tìm an ủi. Vị tu sĩ nói : “Ồ, điều đó thật là tốt đẹp! Mọi sự đều được thực hiện vì lợi ích cho chúng ta”. Đó là phương pháp cổ lỗ cố đem miếng vàng lá phủ lên trên một vết lở loét kinh niên. Đó là lời thú nhận về sự yếu đuối, và sự vô minh. Người thanh niên bỏ đi. Sáu tháng sau, vị tu sĩ sinh một đứa con trai, nên làm một lễ tạ ơn và mời anh thah niên đến dự. Vị tu sĩ cầu nguyện : “Xin cảm tạ ơn lành của Thượng Đế”. Anh thanh niên liền đứng dậy và nói : “Ngừng đi! Chuyện này hoàn toàn là điều khốn khổ”. Vị tu sĩ hỏi “Vì sao?”. “Vì khi bố tôi mất, ông bảo rằng điều đó tốt đẹp, mặc dù rành rành đó là điều tồi tệ; bây giờ cùng thế, chuyện này rõ ràng là điều tốt đẹp nhưng thực sự là không may”. Đó có phải là phương thức chữa trị nỗi thống khổ của thế gian? Đừng có cố gắng vá víu cái thế giới này, nó vô phương cứu chữa. Hãy vượt qua khỏi nó.
Đây là thế giới của thiện và ác. Nơi đâu có thiện thì nơi đó có ác, nơi đâu có điều tốt đẹp thì nơi đó có điều xấu xa; triết học Vedānta vượt lên và vượt qua những biểu hiện này cùng tất cả những mâu thuẫn đó, và đã tìm ra Tính Thống Nhất. Nó bảo : “Hãy từ bỏ những điều tốt đẹp và hãy từ bỏ những điều xấu xa”. Vậy thì còn lại gì? Đứng đằng sau thiện ác là một cái gì thuộc về các bạn, thực sự là “bạn”, vượt trên tất cả những điều ác cũng như tất cả những điều thiện – nó là cái tự hiển thị như là thiện và ác.
Trước tiên hãy biết điều đó; đến lúc ấy và chỉ đến lúc ấy, chứ không phải trước đó, bạn mới là người lạc quan thực sự, bởi vì bạn có thể chế ngự được vạn vật. Hãy chế ngự được những sự biểu hiện đó, rồi bạn tự do biểu hiện cái thực sự là “bạn”. Trước tiên hãy làm chủ bản thân, đứng lên và ung dung tự tại, vượt qua rào chắn của những quy luật này, vì những quy luật đó không chi phối các bạn một cách tuyệt đối, chúng chỉ là một phần trong hiện thể của các bạn mà thôi. Trước hết, các bạn phải thấy được rằng các bạn không phải là nô lệ của tự nhiên, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ; rằng thế giới tự nhiên này, dù bạn nghĩ rằng nó mênh mông vô tận, cũng hữu hạn, chỉ là một giọt nước trong đại dương, và Linh Hồn bạn chính là đại dương đó. Các bạn vượt qua khỏi trăng sao và mặt trời. Chúng chỉ là những bọt bong bóng khi so với Hiện Thể vô biên của các bạn. Hãy biết điều đó, rồi các bạn sẽ chế ngự được cả thiện lẫn ác. Rồi toàn thể nhãn giới của các bạn sẽ thay đổi, các bạn sẽ đứng lên và nói : “Thiện đẹp biết bao và Ác tuyệt diệu biết ngần nào!”
Đó là giáo lý của triết học Vedānta. Nó không đề xuất bừa một phương thuốc chữa trị theo kiểu dùng vàng lá che đậy vết thương, và vết thương càng lở loét thì càng dùng nhiều vàng lá. Cuộc đời này là một thực tế khắt khe. Hãy dũng cảm làm việc để vạch một con đường đi xuyên qua nó, dù nó có rắn như kim cương; không hề gì, vì linh hồn còn mạnh mẽ hơn. Triết học Vedānta không đặt ra trách nhiệm nào đối với những vị thần nhỏ bé, vì chính các bạn là người tự tạo nên vận mệnh cho mình. Các bạn tự làm khổ cho mình, các bạn tạo ra thiện ác, và chính các bạn lấy tay che mắt rồi bảo rằng tối om. Hãy lấy bàn tay đi và nhìn thấy ánh sáng; các bạn vốn đã rạng ngời, viên mãn từ thuở ban sơ.
Bây giờ, chúng ta hiểu được câu thơ này : “Kẻ nào thấy sự đa thù ở thế gian này, kẻ đó đi từ cái chết đến cái chết”. Hãy nhìn thấy Nhất Thể và đạt đến cảnh giới tự do tự tại. Ta phải thấy Nhất Thể như thế nào? Tâm trí này – vốn mang vọng tưởng và vô cùng bạc nhược, vốn bị dẫn dắt dễ dàng – có thể trở nên mạnh mẽ và nhìn thoáng thấy Chân Trí đó, hay Nhất Thể Tính đó, tức là cái cứu độ chúng ta thoát khỏi cảnh sinh tử trầm luân.
Giống như cơn mưa từ đỉnh núi, trôi theo nhiều con suối chảy xuống sườn núi; tất cả những năng lực mà các bạn thấy tại nơi đây cũng trôi chảy từ Trung Tâm như thế đó. Trung Tâm đó trở nên sai biệt đa thù khi gặp phải māyā. Đừng có chạy theo cái đa thù, hãy quay về với về Nhất Thể.
“Ai chuyển động, Người đó hiện hữu trong tất cả; ai giữ được tâm thuần tịnh, Người đó hiện hữu trong tất cả; Người đó lấp đầy vũ trụ; Người đó hiện hữu trong lễ hiến tế; Người đó là khách trong nhà; Người đó hiện hữu trong loài người, trong loài vật, trong lẽ thật; Người đó là đấng Vĩ Đại. Giống như lửa đi vào vũ trụ này đang tự biểu hiện qua nhiều hình tướng, thì Linh Hồn của mọi linh hồn, của mọi sinh thể cũng đang biểu hiện tự thân qua mọi hình tướng như thế”.
Chỉ đến khi nào các bạn hiểu được sự Hợp Nhất này thì điều đó mới trở thành chân thực đối với các bạn. Đến lúc này thì các bạn hoàn toàn lạc quan, vì thấy Thượng Đế hiện hữu khắp nơi.
Vấn đề đặt ra là : nếu điều đó là thực – rằng Bản Thể Thuần Tịnh Vô Nhiễm đó, Thực Ngã đó, Cái Vô Biên đó đã dung nhập trong vạn hữu – thì làm sao Nó phải chịu đau đớn, làm sao Nó có thể trở nên khốn khổ và ô nhiễm? Các kinh thư Upanishad nói rằng không phải thế.
“Như mặt trời là tác nhân để mắt có thể nhìn thấy mọi sự vật, nhưng lại không bị khiếm khuyết bởi những khiếm khuyết trong đôi mắt; thì cũng thế, Thực Ngã của muôn vật không hề bị ảnh hưởng bởi sự khốn khổ của thể xác, hay bởi bất kỳ sự khốn khổ nào trong thế gian”.
Tôi có thể bị bệnh và nhìn thấy mọi vật đều có màu vàng, nhưng mặt trời không vì thế mà bị ảnh hưởng theo.
“Ngài là Nhất Thể, là Hóa Công sáng tạo nên vũ trụ, là đấng Cai Quản muôn loài, là Linh Hồn vĩnh cửu của vạn vật. Ngài biến Nhất Thể Tính của mình thành cảnh giới sai biệt đa thù. Các bậc hiền triết chứng ngộ Ngài như là Linh Hồn của linh hồn họ, cho nên tâm họ – và chỉ tâm họ thôi chứ không phải là tâm một ai khác – luôn được an lạc. Ai sống trong cõi thế vô thường mà thấy được Ngài thì không bao giờ biến đổi, ai sống trong vũ trụ tử diệt phù du này mà thấy Sự Sống Duy Nhất, ai sống trong thế giới đa thù này mà thấy được Nhất Thể Tính, và tất cả những ai thực chứng được Ngài như là Linh Hồn của linh hồn mình thì tâm người đó – và chỉ tâm họ thôi chứ không phải là tâm một ai khác – luôn được an lạc. Biết tìm Ngài ở đâu trong thế giới ngoại tại? Biết tìm Ngài ở đâu trong mặt trời, mặt trăng và muôn vì tinh tú?”
“Nơi đó, mặt trời không thể chiếu sáng; nơi đó, trăng sao cũng không thể chiếu sáng; tia chớp sấm sét cũng không chiếu sáng được Ngài, thì còn nói gì đến ánh lửa phù du tử diệt. Nhờ hào quang của Ngài mà muôn vật được tỏa sáng. Những vật đó mượn ánh hào quang của Ngài, và Ngài tỏa ánh linh quang xuyên qua chúng”.
Đây là một đoạn kinh văn hay khác, trích từ Katha Upanishad :
“Đây là cây Bồ Đề (Aśvattha) vĩnh cửu, với rễ ở trên và cành nhánh ở dưới. Quả thực, rễ nó được gọi là Minh Giác; Cái Đó là Brahman; chỉ có Cái Đó là Bất Tử. Tất cả các thế giới đều được bao hàm trong Cái Đó, và không có gì có thể vượt qua khỏi Nó”.
Phần Brāhmana trong kinh Veda có bàn đến nhiều cõi trời khác nhau, nhưng phần triết lý trong kinh thư Upanishad lại làm nản lòng những ai có ý tưởng muốn đến nơi đó. Hạnh phúc không ở trong cõi trời này hay cõi trời nọ, mà ở ngay trong linh hồn ta. Chỗ này chỗ nọ đều chẳng có ý nghĩa gì.
Đây là một đoạn kinh văn khác cho thấy những cảnh giới thực chứng khác nhau : “Tại cõi trời của tổ tiên, con người thấy sự vật trong giấc mơ như thế nào thì thấy Chân Lý như thế đấy”. Tại cõi trời này, chúng ta thấy Thực Tại hiện ra mơ hồ, không rõ ràng, như thấy sự vật trong giấc mơ. Còn một cõi trời khác gọi là Gandharvaloka, tại đó Thực Tại hiện ra còn mơ hồ hơn nữa, giống như một người nhìn bóng mình soi trong nước. Cõi trời cao nhất, theo quan niệm của tín đồ Hindu, gọi là Brahmaloka; tại đây Thực Tại hiện ra rõ hơn, như sáng và tối, dù chưa rõ hẳn. Một người nhìn thấy khuôn mặt của mình hiện ra trong tấm kính rõ rệt và hoàn hảo như thế nào thì Chân Lý chiếu sáng trong linh hồn con người cũng rõ rệt và hoàn hảo như thế ấy.
Do đó, cõi trời cao nhất nằm ngay trong linh hồn con người; đền thờ vĩ đại nhất là linh hồn con người, vĩ đại hơn mọi cõi trời, triết học Vedānta bảo thế; bởi vì không ở một cõi trời nào mà ta có thể hiểu rõ ràng và rạch ròi Thực Tại như trong cuộc sống này, trong chính linh hồn của chúng ta.
Những nơi chốn thay đổi không giúp được gì nhiều. Khi còn ở Ấn Độ, tôi ngỡ rằng cái hang sẽ cho tôi một tầm nhìn rõ ràng hơn, Nhưng tôi thấy không phải vậy. Rồi tôi lại nghĩ rằng một khu rừng sẽ cho tôi một tầm nhìn rõ ràng hơn. Rồi đến thành phố Benares. Nhưng ở đâu cũng có khó khăn như nhau, bởi vì chúng ta tự tạo ra thế giới riêng cho chính mình. Nếu tôi là người xấu xa thì toàn bộ thế giới này đối với tôi đều xấu xa. Đó là lời dạy của Upanishad. Đối với tất cả những thế giới khác cũng vậy. Nếu tôi chết đi và lên thiên đàng thì tôi thấy vẫn vậy; chừng nào tâm tôi chưa tịnh thì có vào hang, lên rừng, đến Benares hay lên thiên đàng vẫn vô ích. Nếu tôi biết chùi sáng tấm kính thì dù có sống ở bất cứ nơi đâu, tôi vẫn thấy Thực Tại hiện ra y như thực. Cho nên bươn bã ngược xuôi chỉ tốn công vô ích, chỉ nên tập trung năng lực để chùi sáng tấm kính. Ý tưởng tương tự được diễn tả trong câu sau : “Không một ai thấy được Thực Tại, không một ai thấy hình tướng của Thực Tại bằng mắt. Chỉ trong tâm trí, tâm trí thuần tịnh, ta mới thấy được Thực Tại và đạt đến sự bất tử”.
Các bạn nào đã tham dự khóa giảng mùa hè về pháp môn rāja-yoga sẽ rất hứng thú khi biết rằng những điều đã được thuyết giảng là một loại yoga khác. Loại yoga mà lúc này chúng ta đang nghiên cứu đặt trọng tâm vào việc chế ngự giác quan. Khi giác quan được chế ngự để trở thành nô lệ cho linh hồn con người thì tâm trí không còn bị nhiễu loạn nữa và hành giả yogi đạt đến mục tiêu. “Khi từ bỏ hết mọi tham vọng phù phiếm trong tâm thì chính con người phù du tử diệt này sẽ trở thành bất tử, thậm chí hợp nhất với Thượng Đế ngay tại thế gian này. Khi mọi nút thắt trong tâm được tháo gỡ thì con người phù du tử diệt trở thành bất tử, và cảm thụ được Brahman ngay trong thế gian này”. Ngay ở thế gian này, chứ không đâu khác.
Cũng cần phải nói thêm vài lời. Các bạn thường nghe nói rằng triết học Vedānta và những hệ thống triết học phương Tây chỉ lo đi tìm cái gì đó ở thế giới bên kia, chứ chẳng hề đoái hoài gì đến những lạc thú cũng như sự đấu tranh nơi trần thế. Ý tưởng này sai lầm hoàn toàn. Chỉ có những người ngu dốt không hiểu gì về tư tưởng phương Tây và không có đầu óc để hiểu đúng nội dung thực sự của nó mới bảo các bạn như thế. Trái lại, chúng tôi đọc trong những kinh thư Ấn Độ và thấy rằng những triết gia của chúng tôi không muốn đi đến những thế giới khác, trái lại còn tỏ ý khinh thường, xem đó chỉ là nơi mà con người sống để cười một lúc, khóc một hồi, rồi chết. Chừng nào chúng ta còn yếu đuối thì chúng ta sẽ phải trải nghiệm cho hết mọi cảnh thiên đàng, địa ngục; những điều chân thực lại ở nơi đây, trong linh hồn con người. Cũng cần phải nhấn mạnh điểm này : dù có tự tử thì chúng ta vẫn không thoát khỏi vòng tròn tất định của sinh tử luân hồi. Nhưng khó mà tìm ra con đường đi đúng.
Người Ấn cũng thực tế như người phương Tây, chỉ có khác ở nhân sinh quan mà thôi. Người phương Tây nói : “Xây nhà cửa đẹp, mặc quần áo đẹp, ăn thức ăn ngon, trau dồi kiến thức v.v…, cuộc đời chỉ có vậy thôi”, điều đó cho thấy anh ta vô cùng thực tế. Nhưng người Ấn lại bảo : “Tri thức chân thực về thế giới là tri thức về linh hồn, đó là siêu hình học”, và họ muốn hưởng thụ đời sống đó.
Ở Mỹ, có một người theo thuyết bất khả tri, đó là một nhân vật vĩ đại, một quý ông, một người nhân hậu và là một nhà diễn thuyết tài ba. Ông ta giảng về tôn giáo, mà ông ta cho là vô ích, vậy sao cứ đem những thế giới khác để làm phiền chúng tôi? Ông ta dùng ẩn dụ này : ” Ở đây chúng ta có một trái cam, và chúng ta cần phải vắt cho hết nước”[24]. Có lần tôi gặp ông ta, và bảo :
– Tôi hoàn toàn đồng ý với ông. Tôi có một ít trái cây cũng muốn vắt cho hết nước. Chúng ta chỉ khác nhau ở chỗ chọn trái cây. Ông cần cam, tôi lại thích xoài. Ông cho rằng sống trên đời này, chỉ cần ăn uống và có một ít kiến thức khoa học là đủ, nhưng ông không có quyền cho rằng điều đó đáp ứng được cho tất cả mọi người. Một quan niệm như thế đối với tôi hoàn toàn vô nghĩa. Nếu tôi chỉ phải học trái táo rơi xuống đất như thế nào, và dòng điện giật dây thần kinh tôi ra làm sao thì chắc tôi phải tự tử quá. Tôi muốn hiểu cốt lõi của sự vật, hiểu phần tinh túy nhất của chúng. Ông nghiên cứu những biểu hiện của cuộc sống, còn tôi nghiên cứu chính bản thân của cuộc sống. Triết học của tôi bảo rằng ông cần phải biết điều đó, và cần phải gạt bỏ ra khỏi tâm trí ông mọi tư tưởng về thiên đàng địa ngục, cũng như mọi điều mê tín dị đoan, cho dù chúng có tồn tại y như thế giới này. Tôi cần phải biết trọng tâm của cuộc sống, biết phần tinh yếu cốt tủy của nó, biết được nó là gì, không phải là chỉ biết nó hoạt động như thế nào và hiểu hiện ra làm sao. Tôi cần biết cái vì sao của vạn hữu, còn cái thế nào thì tôi để lại cho thế hệ con em. Một người đồng hương của tôi bảo : ‘Nếu tôi viết được một cuốn sách về những cảm xúc khi đang hút thuốc thì đó là khoa học về thuốc lá’. Trở thành nhà khoa học là điều tốt đẹp và vĩ đại, Cầu Thượng Đế ban phước lành cho những khoa học đang nghiên cứu! Nhưng nếu người đó bảo rằng ngần ấy là tất cả thì anh ta nói năng ngu ngốc, vì anh ta không quan tâm đến việc tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống, không bao giờ nghiên cứu đến chính bản thân của sự tồn tại. Ông đang nghiên cứu những trạng thái biểu hiện của cuộc sống, và khi tôi hỏi ông cuộc sống là gì thì ông lại bảo rằng không biết. Ông được tự do với công việc nghiên cứu của ông, nhưng hãy để mặc tôi với công việc nghiên cứu của tôi.
Tôi là người thực tế, rất ư thực tế theo cách của riêng tôi. Bởi vậy, các bạn quan niệm rằng chỉ người phương Tây mới có đầu óc thực tế thì điều đó vô nghĩa. Các bạn thực tế theo cách này, còn tôi thực tế theo cách khác. Có nhiều loại người và nhiều loại tâm trí. Ở phương Đông, nếu một người nghe bảo rằng cứ đứng một chân suốt đời sẽ tìm ra chân lý thì anh ta sẽ theo thực hành pháp môn đó. Còn ở phương Tây, nếu nghe nói có một mỏ vàng ở đâu đó tại một đất nước man di mọi rợ thì hàng ngàn người sẽ vượt qua bao cảnh gian nguy để đến đó, với hy vọng kiếm được vàng; và có lẽ chỉ một vài người thành công. Cũng những con người đó, khi nghe nói rằng mình có một linh hồn thì họ lại vui vẻ để chuyện ấy cho nhà thờ lo liệu. Một người phương Đông không muốn đi đến gần những nơi hoang dã, vì sợ nguy hiểm. Nhưng nếu ta bảo anh ta rằng trên đỉnh núi cao kia có một vị hiền triết có thể dạy cho anh ta hiểu về linh hồn thì anh ta lập tức trèo đèo vượt suối để tìm đến tận nơi, dẫu có chết cũng cam lòng. Cả hai loại người đó đều có đầu óc thực tế, nhưng điểm sai lầm nằm ở chỗ xem thế giới này là toàn bộ cuộc sống. Quan điểm của các bạn là hưởng thụ những lạc thú phù du trên cõi thế; không có gì vĩnh viễn trong điều đó, nó chỉ mang lại thêm bao phiền não khổ đau trong khi quan điểm của chúng tôi đem lại sự an lạc vĩnh hằng.
Tôi không bảo rằng quan điểm các bạn là sai. Các bạn được tự do với nó. Quan điểm đó đã đem lại cho các bạn biết bao điều tốt đẹp và hạnh phúc, cho nên các bạn đừng có lên án quan điểm của chúng tôi. Quan điểm của chúng tôi cũng thực tế theo cách riêng của nó. Tất cả chúng ta hãy cùng làm việc theo kế hoạch của mình. Xin cảm tạ Thượng Đế là tất cả chúng ta đều thực tế như nhau! Tôi đã thấy một số nhà khoa học và một số nhà tâm linh có đầu óc thực tế như nhau, và tôi hy vọng rằng theo thời gian, toàn thể nhân loại sẽ đạt được hiệu quả theo cách như nhau.
Khi một bình nước sắp sôi, nếu quan sát, trước tiên các bạn
sẽ thấy hiện tượng nổi bọt, bọt này nối tiếp bọt kia, cho đến khi tất cả đều
hòa lẫn vào nhau, tiếp theo đó là nước sôi dữ dội. Thế giới này cũng vậy. Mỗi
cá nhân đều giống như một bọt nước, mỗi quốc gia đều giống như nhiều bọt nước.
Dần dần, các quốc gia đều hòa lẫn vào với nhau, và tôi tin chắc rằng đến một
ngày nào đó, sự khác biệt sẽ không còn nữa và Nhất Thể Tính – mà tất cả chúng
ta đang hướng tới – sẽ hiển lộ. Phải đến lúc mọi người ai nấy đều có đầu óc
thực tế mạnh mẽ, trong thế giới khoa học cũng như trong thế giới tâm linh, và
Nhất Thể Tính, sự hòa điệu của Nhất Thể Tính, sẽ ngự trị trên thế gian này.
Toàn thể nhân loại sẽ biến thành những jivanmukta – người đạt được giải thoát
ngay khi còn tại thế. Tất cả chúng ta đang đấu tranh để hướng đến cứu cánh đó
thông qua sự ghen tỵ và hận thù, thông qua thương yêu và hợp tác. Một con suối
khổng lồ đang tuôn chảy về đại dương, mang theo tất cả chúng ta; và giống như
những cọng rơm hay mảnh giấy, chúng ta đôi khi có thể trôi giạt vô định, nhưng
đến cuối cùng, chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhau trong Đại Dương Cuộc Sống đầy Lạc
Phúc.
(Diễn thuyết tại London, 5 tháng 10, 1896)
Katha Upanishad, mà chúng ta đã nghiên cứu, được viết rất muộn sau tác phẩm Chhāndogya, mà bây giờ chúng ta bắt đầu nghiên cứu. Trong Katha Upanishad, ngôn ngữ hiện đại hơn, và tư tưởng được sắp xếp mạch lạc hơn. Còn trong các Upanishad xưa hơn thì ngôn ngữ vô cùng cổ kính, giống như phần tụng ca trong các kinh Veda; và ta phải vất vả nhọc nhằn để đọc cho hết một đống kinh văn hoàn toàn không cần thiết mới đạt đến được phần giáo lý tinh yếu. Văn chương nghi lễ, mà tôi đã trình bày cùng các bạn, đã ảnh hưởng rất lớn đến cuốn cổ thư Upanishad này, cho nên hơn một nửa nội dung trong đó là phần nghi lễ. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu các kinh thư Upanishad cổ xưa, ta vẫn thu hoạch được nhiều điều. Các bạn sẽ lần ra được, có thể nói như vậy, lịch sử phát triển của những ý tưởng tâm linh. Trong những Upanishad về sau, những ý tưởng tâm linh được kết tập và gom về một chỗ; chẳng hạn trong Bhagavad Gitā – mà ta có thể xem là phần cuối cùng của những Upanishad – ta không tìm thấy bất kỳ một ý tưởng mơ hồ nào về nghi thức cúng tế nữa. Gitā giống như một một bó hoa đẹp gồm toàn những chân lý tâm linh được tuyển chọn từ các Upanishad. Nhưng trong Gitā, các bạn không thể nghiên cứu sự phát khởi của những ý tưởng tâm linh, các bạn không thể lần theo chúng đến tận nguồn. Để làm được điều đó, như nhiều người chỉ dẫn, các bạn phải nghiên cứu các kinh Veda.
Ý tưởng linh thánh vĩ đại được gán cho những tác phẩm này đã giữ gìn chúng không bị sửa đổi, hơn bất kỳ một cuốn sách nào trên thế giới. Trong các tác phẩm này, mọi tư tưởng cao siêu nhất và thấp kém nhất đều được bảo toàn; những tư tưởng trọng yếu và không trọng yếu, những giáo lý cao nhã cùng những chi tiết đơn giản nhất cùng đứng cạnh nhau, vì không một ai dám động đến chúng. Những nhà chú giải về sau cố gắng sắp xếp lại các tác phẩm đó và phát hiện ra những ý tưởng mới mẻ diệu kỳ từ giáo lý cổ; họ cố gắng tìm ra những ý tưởng tâm linh ngay trong những câu kinh bình thường nhất; nhưng kinh văn vẫn được giữ nguyên, do đó chúng là công trình sử học tuyệt diệu nhất. Tất cả chúng ta đều biết rằng kinh điển của bất kỳ tôn giáo nào cũng đều được sửa đổi cho phù hợp với sự phát triển tâm linh của những thế hệ sau; chữ này bị đổi, chữ khác được đưa thêm vào, và cứ như thế. Điều này có lẽ không xảy ra với nền văn học Veda, hoặc nếu có xảy ra thì cũng rất là tế vi, hầu như không thể nhận ra. Nhờ vậy mà chúng ta có điểm thuận lợi to lớn là có thể nghiên cứu những tư tưởng này trong ý nghĩa nguyên thủy của chúng, ghi nhận chúng phát triển như thế nào, tiến hóa từ những tư tưởng duy vật đến những tư tưởng tâm linh ngày càng tinh tế ra làm sao, cho đến khi chúng đạt đến đỉnh cao vĩ đại nhất trong triết học Vedānta. Cũng có những nội dung mô tả một số phong tục tập quán cổ xưa, nhưng chúng không xuất hiện nhiều trong các Upanishad, vốn là loại kinh thư mang ngôn ngữ đặc thù, súc tích và gợi nhớ.
Tác giả của những cuốn kinh thư này chỉ ghi vắn tắt những câu văn để gợi nhớ những sự kiện mà họ xem như ai cũng đã biết rõ cả rồi. Trong lối văn kể chuyện, họ mặc nhiên xem như tất cả người nghe đều hiểu rõ điều đó. Do đó, có nhiều điểm rất khó hiểu, chúng ta khó lòng biết rõ ý nghĩa thực sự của những câu chuyện này, bởi vì các truyền thuyết hầu như đã mất hết, còn một ít sót lại thì bị phóng đại quá mức. Có nhiều bản chú giải mới, cho nên khi các bạn tìm thấy chúng trong các Purāna thì chúng đã biến thành thơ ca cả rồi.
Ở phương Tây, ta thấy sự kiện nổi bật trong sự kiện chính trị của những dân tộc phương Tây là họ không chịu sự cai trị tuyệt đối, họ luôn vùng lên đấu tranh chống lại sự cai trị của người khác, rồi dần dần tiến đến khái niệm dân chủ mỗi ngày một cao hơn, khái niệm tự do mỗi ngày một cao hơn; ở Ấn Độ cũng thế về phương diện siêu hình học, hiện tượng y như vậy cũng xuất hiện trong đời sống tâm linh. Số lượng đông đảo các vị thần dần nhường chỗ cho một Thượng Đế duy nhất trong vũ trụ, và trong các Upanishad thậm chí còn có cả cuộc phản kháng chống lại vị Thượng Đế duy nhất đó. Không những người ta không chấp nhận có nhiều vị thần đồng thời cai quản số phận mình, mà còn phản bác luôn cả quan điểm có một vị thần duy nhất cai quản vũ trụ. Đó là điều đầu tiên làm cho chúng ta kinh ngạc. Ý tưởng này phát triển dần dần cho đến khi đạt tới cực đỉnh. Trong hầu hết các Upanishad, ta thấy cực đỉnh đó xuất hiện sau cùng, đó là việc lật đổ cả Thượng Đế trong vũ trụ. Tính chất người của Thượng Đế biến mất, thay vào đó là tính chất siêu nhân. Thượng Đế không còn là một con người nữa, mà được cường điệu và phóng đại; Ngài vẫn cai quản vũ trụ nhưng đã biến thành một nguyên lý hóa thân trong mọi sự vật, vốn luôn tồn tại trong toàn thể vũ trụ.
Thật là phi lý khi đi từ một Thượng Đế Nhân Thể [Personal God] đến một Thượng Đế Phi Nhân Thể [Impersonal God], và xem con người như một nhân thể [personal]. Con người theo nhân thể đã sụp đổ, và con người theo nguyên lý được dựng lên. Nhân thể chỉ là một hiện tượng, đằng sau đó mới là nguyên lý. Như thế, từ cả hai phía, ta thấy những tính nhân thể [personalities] và sự tiếp cận các nguyên lý, sự tiếp cận của Thượng Đế Nhân Thể với Thượng Đế Phi Nhân Thể, sự tiếp cận của con người nhân thể [personal man] với con người phi nhân thể [impersonal man], tất cả những khái niệm đó đều đồng thời sụp đổ. Những giai đoạn tiếp theo là sự hội tụ dần dần của hai đường thẳng : Thượng Đế Phi Nhân Thể với Con Người Phi Nhân Thể. Kinh thư Upanishad thể hiện các giai đoạn, qua đó hai đường thẳng trên tiến dần đến chỗ hợp nhất làm một, và lời cuối cùng của mỗi Upanishad là “Ngươi là Cái Đó”. Chỉ có một Nguyên Lý lạc phúc vĩnh hằng duy nhất, và Nhất Thể đang tự hiển thị như là vạn hữu sai biệt đa thù.
Tiếp theo đó là giai đoạn của các triết gia. Công việc của các Upanishad dường như đã kết thúc tại điểm này; bước tiếp theo do các triết gia đảm nhận. Kinh thư Upanishad đã trao cho các triết gia một dàn bài, và họ có nhiệm vụ điền đầy đủ chi tiết. Bởi vậy, nhiều vấn đề nảy sinh là chuyện tất nhiên. Nếu mặc nhiên chấp nhận chỉ có một Nguyên Lý Phi Nhân Thể đang tự hiển thị trong muôn ngàn hình tướng thì làm thế nào mà Cái Một – hay Nhất Thể – lại biến thành sai biệt đa thù? Đây là cách khác để nêu ra cùng một câu hỏi cũ đã đi vào tâm hồn con người trong hình thức thô sơ, đó là tìm hiểu căn nguyên của điều xấu xa, tội lỗi v.v… Vì sao những điều xấu xa lại tồn tại trong cõi thế, và căn nguyên của nó là gì? Nhưng cũng chính câu hỏi đó giờ đây lại trở nên tinh tế, gọn ghẽ. Vì sao chúng ta bất hạnh, câu hỏi không còn được đặt ra trên cơ sở của cảm giác mà trên cơ sở triết học. Do đâu mà Nguyên Lý duy nhất đó lại biến thành sai biệt, đa thù? Và câu trả lời, như ta đã thấy, câu trả lời hay nhất mà đất nước Ấn Độ đã tạo nên là thuyết về māyā, cho rằng Cái Đó thật ra không hề biến thành sai biệt đa thù, rằng Cái Đó không hề đánh mất đi thực tính. Hiện tượng sai biệt đa thù chỉ là biểu tướng, chỉ là cái biểu hiện bên ngoài. Nhìn bề ngoài thì con người chỉ là một nhân thể, nhưng trong thực tế thì con người là đấng Phi Nhân Thể [Impersonal Being]. Nhìn bề ngoài thì Thượng Đế chỉ là một nhân thể, nhưng trong thực tế thì Ngài là đấng Phi Nhân Thể.
Ngay trong câu trả lời này cũng có nhiều giai đoạn, và các triết gia đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Không phải mọi triết gia Ấn Độ đều công nhận thuyết māyā. Có thể phần lớn bọn họ không công nhận. Có những triết gia nhị nguyên chủ trương một loại nhị nguyên luận thô thiển, họ không những không công nhận cách đặt ra câu hỏi đó, mà còn tìm cách dập tắt nó ngay khi mới khởi xướng. Họ tuyên bố : “Các bạn không có quyền đặt ra câu hỏi như vậy, các bạn cũng không có quyền yêu cầu giải thích, vì đơn giản đó chỉ là ý muốn của Thượng Đế, và chúng ta phải lặng yên chấp nhận. Không có sự tự do cho linh hồn con người. Tất cả những gì ta làm hay sở hữu, vui sướng hay buồn khổ đều đã được tiền định; và khi đau khổ đến thì ta có trách nhiệm phải kiên nhẫn chịu đựng, nếu không ta còn bị trừng phạt nặng nề hơn nữa. Làm sao biết được điều đó? Vì kinh Veda đã dạy thế”. Họ trích kinh văn như thế đó, gán ý nghĩa cho chúng và buộc mọi người nghe theo.
Còn có những triết gia khác giữ quan điểm trung lập, dù không chấp nhận thuyết māyā. Họ bảo toàn thể vũ trụ này, có thể nói thế, tạo nên hình hài của Thượng Đế. Thượng Đế là Linh Hồn của mọi linh hồn và của toàn bộ thế giới tự nhiên. Trong trường hợp của những cá nhân đơn lẻ, linh hồn co rút lại là do làm điều xấu. Khi con người làm điều gì xấu thì linh hồn họ bắt đầu co rút lại, năng lực sút giảm dần, cho đến khi nào họ làm điều tốt thì linh hồn mới giãn nở ra lại.
Một quan niệm có vẻ phổ biến trong tất cả hệ thống triết học Ấn Độ, và tôi cho là cả trong nền triết học trên thế giới, cho dù họ có biết hay không, đó là cái mà tôi muốn gọi là thần tính [divinity] của con người. Không một hệ thống triết học nào trên thế giới, không một tôn giáo đích thực nào – dù được diễn đạt bằng ngôn ngữ của thần thoại, ẩn dụ hay triết học – lại không cho rằng linh hồn con người, dù nó có là gì đi nữa hay có quan hệ với Thượng Đế theo cách gì nữa, thì tất yếu vẫn thuần tịnh và hoàn hảo. Thực tính của linh hồn là sức mạnh và hạnh phúc, chứ không phải là bạc nhược và khốn khổ. Nhưng bằng cách này hay cách khác, sự khốn khổ vẫn đến với ta. Các triết học thô thiển gọi đó là Tội Lỗi hiện thân, là Quỷ Sứ hay Ahriman để giải thích lý do tội lỗi đến với thế gian. Những hệ thống triết học khác lại muốn biến Thượng Đế và Quỷ Sứ thành một, Thượng Đế đem hạnh phúc đến cho con người, còn Quỷ Sứ thì đem đến khổ đau, chẳng hiểu vì lý do gì. Còn những hệ thống khác nữa, cân nhắc hơn, đề xuất thuyết māyā v.v…. Nhưng có một sự kiện rõ ràng, nằm trong phạm vi thảo luận của chúng ta. Đó là những quan niệm triết học đó, những hệ thống triết học đó rốt cuộc cũng chỉ là môn thể thao của tâm trí, hoặc là các bài tập rèn luyện trí năng. Quan niệm vĩ đại duy nhất, mà tôi thấy hiện rõ ràng giữa bao điều mê tín dị đoan tại mọi quốc gia và trong mọi tôn giáo, là quan niệm thần tính nơi con người, cho rằng con người mang bản chất thần thánh.
Bất cứ những gì khác tiếp theo đều chỉ là sự gia tăng của các ấn tượng, theo cách nói của triết học Vedānta. Một số ấn tượng đã được gia tăng, nhưng không thể làm chết đi bản chất thần linh. Nơi người thánh thiện nhất cũng như nơi kẻ tội lỗi nhất, bản chất đó vẫn luôn hiện hữu. Ta kêu gọi đến nó, và nó sẽ lộ diện. Ta phải hỏi, và nó sẽ hiển thị tự thân. Người cổ đại biết lửa nằm trong viên đá lửa và miếng gỗ khô, nhưng cần phải có sự ma sát mới gọi được nó xuất hiện. Bởi vậy, ngọn lửa giải thoát và thanh khiết là bản chất, chứ không phải là phẩm tính [quality], của mọi linh hồn; vì các phẩm tính có thể thu hoạch được, nên có thể bị mất đi.
Linh hồn là một với Giải Thoát, linh hồn là một với Hiện Hữu, linh hồn là một với Tri Thức. Satchidānanda – Cảnh giới Tuyệt Đối của Hiện Hữu -Tri Thức – Hỷ Lạc – là bản chất, là đặc quyền của linh hồn; và tất cả những biểu hiện mà ta thấy quanh ta đều là những cách diễn đạt để Nó xuất lộ tự thân, rõ rệt hoặc mơ hồ. Ngay cả cái chết cũng chỉ là sự biểu hiện của cái Chân Hiện Hữu hay cái Thực Tồn [Real Existence]. Sinh và tử, sự sống và hoại diệt – tất cả đều là sự biểu hiện của Nhất Thể Tính [Oneness] đó. Bởi vậy, Tri Thức – dù có biểu hiện dưới hình thức ngu muội hay uyên bác – thì vẫn là sự biểu hiện chúng của Chit, tức Tinh Túy của Tri Thức; sự khác biệt chỉ là mức độ chứ không phải thể loại. Sự khác biệt tri thức giữa một con sâu thấp kém nhất đang bò dưới chân ta với một thiên tài vĩ đại nhất mà nhân loại có thể tạo ra chỉ là sự khác biệt về mức độ, chứ không phải về thể loại. Các triết gia Vedānta bạo dạn tuyên bố rằng mọi lạc thú trên thế gian này, ngay cả lạc thú thấp hèn nhất, cũng chỉ là sự biểu hiện của Lạc Phúc Thần Thánh duy nhất, tức Tinh Túy của linh hồn.
Đây có lẽ là tư tưởng trác việt nhất trong triết học Vedānta và, như tôi đã nói, dường như mọi tôn giáo đều chấp nhận. Tôi chưa được biết đến một tôn giáo nào lại phủ nhận nó. Nó là tư tưởng phổ quát duy nhất xuyên suốt mọi tôn giáo.
Hãy lấy Kinh Thánh làm thí dụ. Trong đó, các bạn thấy điều phát biểu bằng ẩn dụ rằng Adam là người trong trắng, và sự trong trắng đó bị hủy hoại do những hành động tội lỗi về sau. Ẩn dụ đó cho thấy người Do Thái cổ quan niệm rằng bản tính nguyên thủy của con người là toàn thiện. Sự ô nhiễm mà ta thấy, sự yếu đuối mà ta cảm nhận, chỉ là những ấn tượng gia tăng thêm trên bản tính đó. Và lịch sử tiếp theo của Cơ Đốc giáo cho thấy họ tin vào khả năng phục hồi lại được trạng thái toàn thiện ban sơ đó. Đó là toàn bộ lịch sử của Kinh Thánh – cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.
Đối với các tín đồ Hồi giáo cũng vậy. Họ cũng tin vào Adam và sự hồn nhiên vô tội của Adam, và tin rằng thông qua con đường mà Mohammed đã chỉ, họ có thể phục hồi lại được trạng thái ban đầu đã mất.
Đối với các Phật tử cũng không khác. Họ tin vào một cảnh giới gọi là Niết Bàn ở thế giới bên kia. Nó hoàn toàn giống với Brahman của các Vedāntist; và toàn bộ giáo lý Phật giáo được xây dựng trên nền tảng tìm lại Niết Bàn.
Trong mọi hệ thống triết học và tôn giáo ta đều thấy điều này : các bạn không thể lấy được cái nguyên không phải là của mình. Các bạn chẳng mắc nợ gì ai trong vũ trụ này. Các bạn đòi hỏi đặc quyền của mình, giống như một triết gia Vedānta vĩ đại đã diễn tả một cách thơ mộng trong nhan đề một cuốn sách của ông Swārājyasiddhi: “Tìm được vương quốc của riêng mình“. Vương quốc đó là của ta, ta đã đánh mất nó, và giờ đây ta tìm lại được. Tuy nhiên, các māyāvādin lại cho rằng việc đánh mất vương quốc chỉ là vọng tưởng, ta chưa bao giờ đánh mất nó. Đó là sự khác biệt duy nhất.
Mặc dù cho đến nay, mọi hệ thống triết học đều nhất trí là chúng ta đã từng có một vương quốc, rồi chúng ta đã đánh mất nó đi, nên các nền triết học đó cho chúng ta nhiều phương tiện khác nhau để tìm lại nó. Đạo này thì bảo rằng chúng ta phải thực hiện một số nghi thức nào đó, phải cúng một món tiền cho các tượng thần, ăn một số thức ăn nào đó, sống theo một cách thức nào đó thì mới có thể tìm lại vương quốc ngày trước. Đạo kia lại bảo ta cần phải khóc than, hành xác và cầu xin ân huệ của một đấng Siêu Nhiên nào đó thì sẽ tìm lại được vương quốc đó. Tất cả những phương tiện khác nhau này đều có trong các Upanishad. Khi tôi tiếp tục trình bày, các bạn sẽ thấy đúng là như vậy.
Nhưng lời khuyên cuối cùng và vĩ đại nhất là : các bạn không cần phải khóc than chi hết. Các bạn cũng không cần phải thực hành bất kỳ nghi lễ nào, cũng chẳng cần quan tâm đến việc làm thế nào để giành lại vương quốc đó, vì các bạn chưa hề mất nó. Vì sao các bạn lại phải đi tìm cái mà mình chưa hề bị mất? Các bạn vốn đã thuần tịnh, vô nhiễm rồi; vốn đã tự do, giải thoát rồi. Nếu các bạn nghĩ rằng mình tự do thì các bạn tự do ngay lúc đó, nếu các bạn nghĩ rằng mình bị trói buộc thì các bạn bị trói buộc tức thời.
Đó là lời phát biểu vô cùng táo bạo, và như tôi đã nói với các bạn từ đầu khóa giảng, tôi sẽ phải mạnh dạn nói điều đó với các bạn. Có thể nó khiến các bạn kinh hãi, nhưng hãy trầm tư về nó và thực chứng được nó trong đời mình, rồi các bạn sẽ hiểu rằng những gì tôi nói đều chân thực. Nếu tự do không phải là bản chất tự nhiên của các bạn thì các bạn không thể nào tìm lại được tự do bằng bất cứ cách nào. Hoặc nếu các bạn vốn đã tự do, rồi vì lý do nào đó đã đánh mất tự do thì các bạn không có tự do để khởi đầu. Nếu các bạn vốn đã tự do thì điều gì có thể khiến cho các bạn mất nó? Cái gì độc lập tự tại thì không thể bị biến thành phụ thuộc, nếu như nó thực sự phụ thuộc thì sự độc lập tự tại của nó chỉ là ảo tưởng.
Bạn chọn điều nào, trong cả hai quan niệm? Nếu cho rằng linh hồn tự bản chất đã tự do và vô nhiễm thì hệ quả tất yếu là không có gì trong vũ trụ có thể ràng buộc và hạn chế được nó. Còn nếu cho rằng có cái gì đó trong tự nhiên có thể ràng buộc được linh hồn thì hệ quả tất yếu là nó không được tự do, và câu nói của các bạn cho rằng nó tự do chỉ là ảo tưởng. Bởi vậy, nếu chúng ta có thể đạt đến tự do thì kết luận tất yếu là linh hồn ta tự bản chất đã tự do. Không thể nào khác được.
Tự do có nghĩa là độc lập tự tại với tất cả mọi thứ bên ngoài; điều đó có nghĩa là không có tác nhân nào bên ngoài có thể tác động lên nó. Linh hồn vốn vô nhân [causeless], và mọi tư tưởng vĩ đại nhất mà ta có được đều bắt nguồn từ đó. Các bạn không thể xây dựng nên sự bất tử của linh hồn, trừ phi bạn mặc nhiên thừa nhận rằng nó tự do tự bản chất, hay nói khác đi, nó không bị tác động bởi bất kỳ nhân tố ngoại tại nào. Cái chết là hậu quả được tạo ra bởi nhân tố ngoại tại nào đó. Chẳng hạn tôi uống thuốc độc và tôi chết, điều đó cho thấy thể xác tôi chịu tác động bởi một nhân tố ngoại tại gọi là thuốc độc. Nhưng nếu linh hồn được tự do thì dĩ nhiên là không có gì có thể tác động lên nó, và nó không thể chết. Giải thoát, bất tử, và lạc phúc của linh hồn chỉ có ý nghĩa nếu như chúng vượt lên trên quan hệ nhân quả.
Trong hai quan điểm này, các bạn chọn cái nào? Xem quan điểm thứ nhất là ảo tưởng hay xem quan điểm thứ hai là ảo tưởng? Chắc chắn tôi sẽ xem quan điểm thứ hai là ảo tưởng. Nó phù hợp với cảm xúc và cảm hứng của tôi hơn. Tôi hoàn toàn ý thức được tôi tự do từ bản chất, và tôi không chấp nhận rằng sự ràng buộc là có thực và tự do của tôi chỉ là ảo tưởng.
Cuộc tranh luận này diễn ra, dưới hình thức này hay hình thức khác, trong mọi nền triết học. Thậm chí trong những triết học hiện đại nhất, ta cũng thấy cuộc tranh luận tương tự. Có hai trường phái. Một trường phái cho rằng không hề có linh hồn; đó chỉ là ảo tưởng về sự di chuyển của các phân tử vật chất nào đó, chúng kết hợp với nhau để tạo nên cái mà ta gọi là thể xác hay bộ não; và ấn tượng về tự do là kết quả của những rung động và chuyển dịch liên tục của những phân tử đó. Có những tông phái Phật giáo cũng đồng quan điểm đó, và minh họa bằng hình ảnh : Nếu ta cầm bó đuốc quay thật nhanh thì sẽ xuất hiện một vòng tròn lửa. Vòng tròn lửa đó không có thực, bởi vì bó đuốc liên tục thay đổi vị trí tại từng thời điểm. Chúng ta cũng chỉ là một bó các phân tử tý hon, khi quay tròn thật nhanh sẽ tạo ra ảo tưởng về linh hồn vĩnh cửu. Trường phái kia lại chủ trương rằng trong dòng tư tưởng di chuyển nối tiếp thật nhanh, vật chất hiện ra như là ảo ảnh và không hề có thực. Như vậy ta thấy, một bên tuyên bố tinh thần là ảo tưởng, còn bên kia thì chủ trương vật chất là ảo tưởng. Các bạn chọn bên nào? Dĩ nhiên, chúng ta sẽ chọn tinh thần và phủ định vật chất. Cả hai phe đều có những lập luận tương tự, chỉ có điều bên phe tinh thần lập luận vững vàng hơn đôi chút. Bởi vì chưa có ai thấy được vật chất thực sự là gì. Chúng ta chỉ cảm nhận vậy thôi. Tôi chưa từng biết đến một người nào có thể cảm nhận được vật chất bên ngoài mình. Không ai có thể nhảy ra khỏi mình. Bởi vậy, lập luận bên phe tinh thần vững vàng hơn đôi chút. Thứ hai, thuyết tinh thần giải thích được vũ trụ, trong khi thuyết duy vật không thể. Do đó, cách giải thích của thuyết duy vật là không lôgic. Nếu gộp tất cả các nền triết học lại để đem ra tóm tắt và phân tích, các bạn sẽ thấy chúng quy kết thành một trong hai quan điểm này.
Cho nên ở đây, trong một hình thức phức tạp hơn, mang dáng dấp triết học hơn, ta tìm thấy một câu hỏi tương tự về sự thuần tịnh và tự do tự nhiên. Một bên cho thuần tịnh là ảo tưởng, bên kia lại cho tự do là ảo tưởng. Và dĩ nhiên là ta đứng về phe thứ hai, vì tin chắc rằng tình trạng nô lệ của ta chỉ là ảo tưởng.
Giải pháp của triết học Vedānta là : chúng ta không hề bị trói buộc, mà vốn đã tự do rồi. Không chỉ thế, nói rằng hoặc nghĩ rằng chúng ta bị trói buộc là điều nguy hiểm – đó là một lầm lẫn, một cách tự thôi miên. Ngay khi các bạn vừa nói “Tôi bị trói buộc “, “Tôi yếu đuối”, “Tôi bất lực” thì tai họa đã đổ ập xuống bạn ngay; các bạn đang đúc thêm xiềng xích để trói buộc mình. Đừng nói điều đó, đừng nghĩ tới điều đó. Tôi nghe kể có một người sống trong rừng, suốt ngày đêm cứ lặp đi lặp lại câu “Shivoham” – Ta là đấng hưởng Lạc Phúc”. Một hôm, một con cọp nhảy tới tha ông đi, và giết chết ông. Mọi người trên bờ sông đều chứng kiến cảnh đó, và nghe tiếng cầu nguyện “Shivoham” vang lên, ngay cả khi ông đã nằm trong miệng cọp. Đã có nhiều người như thế. Có những trường hợp, nhiều người bị chém đứt từng mảnh mà vẫn cầu nguyện cho kẻ thù. “Ta là Ngài, Ta là Đấng Ấy, cho nên ta là ngươi. Ta thuần tịnh và toàn hảo, tất cả kẻ thù của ta cũng vậy. Ngươi là Ngài, cho nên ngươi là ta”. Đó là lập trường của sức mạnh.
Hiển nhiên là có những điều vĩ đại và tuyệt vời trong tôn giáo nhị nguyên. Quan niệm về một Thượng Đế Nhân Thể tách biệt với thiên nhiên, mà chúng ta sùng bái và thương yêu, thật là tuyệt diệu. Đôi khi quan niệm này đem lại cho chúng ta rất nhiều an ủi. Nhưng triết học Vedānta bảo sự an ủi đó giống như tác dụng của thuốc phiện, nó không tự nhiên. Về lâu về dài, nó mang đến sự bạc nhược, trong khi cái mà thế giới ngày nay đang cần – đang cần hơn bao giờ hết – là sức mạnh. Theo triết học Vedānta, sự bạc nhược là nguyên nhân gây nên bao khổ não cho thế gian này. Bạc nhược là một trong những nguyên nhân gây ra đau khổ. Chúng ta trở nên khốn khổ vì chúng ta yếu đuối. Chúng ta nói dối, trộm cắp, giết chóc và phạm bao tội ác khác là vì chúng ta yếu đuối. Chúng ta đau khổ vì chúng ta yếu đuối. Chúng ta chết vì chúng ta yếu đuối. Khi không còn thứ gì làm cho ta yếu đuối nữa thì sẽ không còn cái chết hay phiền não. Chúng ta khốn khổ vì ảo tưởng. Hãy từ bỏ ảo tưởng, rồi toàn bộ sự vật sẽ tan biến mất. Điều đó quả thực rõ ràng và giản dị. Thông qua tất cả những tranh luận triết học và những môn thể thao trí não này, ta đi đến một ý tưởng tôn giáo duy nhất, một ý tưởng giản dị nhất thế gian.
Nhất nguyên luận Vedānta là chân lý mang hình thức đơn giản nhất mà các bạn có thể tìm thấy. Dạy nhị nguyên luận là một sai lầm kinh khủng tại Ấn Độ và nhiều nơi khác, bởi vì con người không nhìn được những nguyên lý tối hậu, mà chỉ tư duy về tiến tình phức tạp. Những mệnh đề lôgic mang tính triết học khủng khiếp này đang làm nhiều người hoảng sợ. Họ nghĩ rằng không thể phổ biến những điều này, không thể đem áp dụng chúng trong đời sống hàng ngày, và cho rằng dưới vỏ bọc của một triết học như thế, cuộc sống sẽ bị đưa đến chỗ phóng đãng buông tuồng.
Những tôi không tin rằng tất cả những tư tưởng nhất nguyên luận được truyền giảng trên thế giới lại tạo ra tình trạng vô luân và bạc nhược. Trái lại, tôi có lý do để tin rằng nó mới chính là phương thuốc chữa trị duy nhất. Nếu đây là chân lý thì tại sao cứ bắt con người uống nước cống rãnh, trong khi dòng suối tươi mát của cuộc đời đang tuôn chảy bên cạnh? Nếu đây là chân lý, rằng tất cả chúng sinh đều thuần tịnh thì tại sao giờ đây lại không mang ra dạy cho toàn thế giới? Tại sao không dùng giọng nói sấm sét để giảng dạy triết học này cho mọi người sinh ra trên đời, cho các bậc hiền triết cùng những kẻ tội lỗi, cho nam phụ lão ấu, cho vua chúa trên ngai vàng và cho những kẻ đang khóc than ngoài đường phố?
Đó là một công việc vô cùng vĩ đại và nặng nề; đối với nhiều người, dường như nó rất đáng kinh ngạc. Nhưng đó là vì mê tín chứ không phải gì khác. Do phải ăn toàn những thứ tồi tệ khó tiêu, hoặc phải chịu cảnh đói khát nên chúng ta không còn khả năng ăn cao lương mỹ vị nữa. Từ hồi nhỏ, chúng ta đã nghe quá nhiều những lời dạy làm ta yếu đuối. Các bạn nghe thiên hạ nói rằng họ không tin ma quỷ, nhưng đồng thời cũng chẳng mấy ai lại không có cảm thấy rợn người khi ở trong bóng tối. Đơn giản là điều đó chỉ là mê tín. Mọi điều mê tín trong tôn giáo cũng vậy đấy. Tại đất nước này[25], có những người, khi nghe tôi nói không hề có cái gọi là Ma Quỷ, sẽ cho rằng như thế thì tất cả tôn giáo đều tiêu ma. Nhiều người nói với tôi : “Đã là tôn giáo thì làm sao không có ma quỷ được? Làm sao có một tôn giáo mà không có người dẫn dắt chúng tôi? Làm sao chúng tôi có thể sống mà không có một ai đó cai quản? Chúng tôi thích được đối xử như thế, vì đã quen rồi. Chúng tôi không cảm thấy hạnh phúc, cho đến khi nào có ai đó quở trách chúng tôi hàng ngày”. Cùng một sự mê tín như nhau! Nhưng giờ đây, sẽ đến lúc mỗi người trong chúng ta sẽ nhìn ngược lại, dù điều đó có khủng khiếp đến mấy, và chúng ta sẽ mỉm cười từng điều mê tín đã che lấp cái linh hồn thuần tịnh và vĩnh hằng này, và chúng ta sẽ lặp lại – bằng sự vui mừng, bằng sự thật và bằng sức mạnh rằng : “Tôi tự do, đã tự do và mãi mãi sẽ tự do”.
Tư tưởng nhất nguyên sẽ xuất phát từ triết học Vedānta, và nó là một tư tưởng đáng để trường tồn. Mai đây, các kinh điển này có thể bị mai một. Tư tưởng này lóe sáng lần đầu tiên trong đầu của những người Do Thái cổ, hay dân tộc sống ở vùng Bắc Cực, điều đó chẳng ai cần quan tâm. Bởi vì đây là chân lý, mà chân lý thì vĩnh cửu; và tự thân chân lý cũng dạy rằng nó không hề là thuộc tính riêng của bất kỳ một cá nhân nào hay một quốc gia nào. Con người, muông thú và chư thần, tất cả đều đón nhận chân lý duy nhất này như nhau. Hãy để tất cả đều đón nhận nó. Tại sao phải biến cuộc đời thành cảnh khốn khổ? Sao lại phải để mọi người sa vào đủ loại mê tín nhảm nhí thế kia? Không chỉ tại đất nước này, mà ngay tại xứ sở khai sinh ra nó[26], nếu các bạn nói chân lý này với người dân, họ sẽ kinh hãi. Họ bảo : “Tư tưởng này chỉ dành cho các Sannyāsin, là những người đã từ bỏ thế gian và sống trong rừng, với họ thì sao cũng được. Còn chúng tôi là những chủ người gia đình tội nghiệp, chúng tôi phải biết kính sợ và phải có nghi lễ cúng bái”, đại loại như thế.
Tư tưởng nhị nguyên thống trị thế gian này đủ lâu rồi, và đây là hậu quả. Tại sao không làm một thử nghiệm mới? Tất cả tâm trí của nhân loại phải trải qua bao thời kỳ mới đón nhận được tư tưởng nhất nguyên, nhưng sao lại không bắt đầu từ bây giờ? Nếu trong đời mình mà chúng ta đã nói được điều này với hai mươi người thì chúng ta đã làm được một điều vĩ đại.
Có một tư tưởng thường bị phản bác. Nó như vầy : Thật điều vô cùng tốt đẹp khi nói “Tôi là đấng Thuần Tịnh, đấng Hưởng Lạc phúc”, nhưng tôi không thể lúc nào cũng biểu hiện được nó trong đời. Đó là sự thực, lý tưởng này luôn luôn rất khó thực hành. Quay về lại với sự mê tín liệu có cải thiện được vấn đề? Nếu ta không có được thánh dược thì uống thuốc độc liệu có cải thiện được vấn đề? Đi vào trong bóng tối, và quỳ gối đầu hàng sự yếu đuối cùng điều mê tín, chỉ vì ta không thể trực tiếp thực hiện được chân lý, liệu điều đó có ích gì không?
Tôi không phản bác nhị nguyên luận trong nhiều hình thức của nó. Hầu hết những hình thức đó, tôi đều ưa thích; mà tôi chỉ phản bác mọi hình thức giáo lý nhồi sọ con người bằng sự bạc nhược yếu hèn. Đây là một câu hỏi mà tôi đặt ra cho mọi người – cho nam nữ hoặc trẻ em – khi họ tập luyện thể xác, trí não và tâm linh. “Quý vị thấy sao? Có thấy mạnh mẽ hơn không?” – vì tôi biết rằng chỉ có Chân Lý mới cho ta sức mạnh. Tôi biết rằng chỉ có Chân Lý mới cho ta sự sống, và chỉ có tiếp cận Thực Tại – chứ không có gì khác – mới khiến chúng ta trở nên mạnh mẽ, và không một ai có thể đạt đến Chân Lý cho đến khi nào anh ta mạnh mẽ. Do đó, bất kỳ hệ thống triết học nào làm cho tâm trí yếu đuối, khiến con người trở thành kẻ mê tín, u sầu ủ rũ, thèm khát mọi điều bất khả, thần bí và mê tín thời mông muội thì tôi đều không thích, vì hậu quả của chúng thật là nguy hiểm. Những loại triết học đó chẳng bao giờ mang lại điều gì tốt đẹp; những điều như thế chỉ tạo nên tình trạng bệnh hoạn nơi tâm trí, khiến nó trở nên bạc nhược; bạc nhược đến mức, theo dòng thời gian, nó hầu như không thể đón nhận được Chân Lý hoặc sống theo Chân Lý đó. Sức mạnh, do đó, là điều cần thiết. Sức mạnh là liều thuốc cho căn bệnh thế giới. Sức mạnh là liều thuốc mà người nghèo phải có, khi bị bọn nhà giàu chà đạp. Sức mạnh là liều thuốc mà kẻ ngu phải có, khi bị đám trí thức áp bức; và nó là liều thuốc mà những kẻ tội lỗi phải có, khi bị những kẻ tội lỗi khác chà đạp. Không có gì đem lại sức mạnh nhiều cho bằng tư tưởng nhất nguyên; không có gì giúp chúng ta trở nên đạo đức cho bằng tư tưởng nhất nguyên; và không có gì khiến chúng ta tận lực làm việc với tất cả sức mình, khi mà mọi trách nhiệm đều đổ dồn lên ta.
Tôi thách từng người trong các bạn đấy. Các bạn sẽ xử lý ra sao nếu tôi đặt một đứa bé vào tay các bạn? Kể từ phút đó, cuộc đời các bạn sẽ thay đổi. Dù có là gì đi nữa thì kể từ phút đó, các bạn sẽ không còn ích kỷ nữa. Các bạn sẽ từ bỏ mọi ý niệm tội ác ngay khi trách nhiệm đổ dồn lên đời mình – toàn bộ tính cách các bạn sẽ thay đổi. Như vậy, nếu toàn bộ trách nhiệm đều đổ dồn lên đôi vai chúng ta thì chúng ta sẽ tận lực làm việc với tất cả sức mình; khi không còn ai để chúng ta mò mẫm hướng tới, không còn ma quỷ để đổ lỗi, không có Thượng Đế Nhân Thể để đỡ lấy gánh nặng cho ta; khi phải một mình gánh lấy trọng trách thì chúng ta sẽ vươn đến cảnh giới cao siêu tối diệu. “Tôi chịu trách nhiệm về số phận mình, tôi là người đem điều tốt đẹp đến cho tôi, tôi là người mang điều xấu xa đến cho tôi. Tôi là đấng Thuần Tịnh và Hưởng Lạc Phúc. Ta phải vất bỏ mọi tư tưởng nói điều ngược lại. Tôi không chết và không sợ hãi, tôi không thuộc giai cấp nào và không có tín điều nào, tôi không cha không mẹ, không anh em, không kẻ thù, bởi vì tôi là Sự Hiện Hữu, là Tri Thức, là Cái Tuyệt Đối đầy Lạc Phúc; tôi là Nhất Thể đầy Lạc Phúc; tôi là Nhất Thể đầy Lạc Phúc. Tôi không bị ràng buộc bởi đức hạnh hay tội lỗi, bởi hạnh phúc hay khốn khổ. Những cuộc hành hương, kinh sách và nghi lễ đều không thể ràng buộc được tôi. Tôi không đói cũng không khát, thân xác này không thuộc về tôi, tôi không bị ràng buộc bởi mê tín, thân xác này cũng không bị hư hoại. Tôi là Tồn Tại, là Tri Thức, là Cái Tuyệt Đối đầy Lạc Phúc; tôi là Nhất Thể đầy Lạc Phúc, tôi là Nhất Thể đầy Lạc Phúc”.
Triết học Vedānta bảo rằng đó là lời cầu nguyện duy nhất mà
ta nên có. Đây là cách duy nhất để đạt đến mục tiêu : tự nhủ với mình, và bảo
với những người khác rằng chúng ta là thần thánh. Khi ta lặp đi lặp điều này
thì sức mạnh sẽ đến. Kẻ nào nản chí ngay từ đầu sẽ dần dần trở nên mạnh mẽ hơn,
và tiếng nói đó sẽ càng ngày càng lớn dần cho đến khi Chân Lý chiếm trọn tâm
hồn ta, lan tỏa theo từng mạch máu và thấm sâu vào thân xác ta. Ảo tưởng sẽ tan
biến khi ánh sáng càng ngày càng rực rỡ, từng khối ngu si lần lượt tan biến, và
sẽ đến lúc mọi thứ khác đều biến mất, chỉ còn lại Vầng Thái Dương ngời sáng.
(Diễn thuyết tại Newyork, 19 tháng 1, 1896)
Những đóa hoa ta nhìn thấy quanh ta thật là đẹp, cảnh mặt trời mọc thật là đẹp, sắc màu đa dạng trong thế giới tự nhiên thật là đẹp. Toàn thể vũ trụ thật là đẹp, và con người đã hưởng thụ nó kể từ khi họ xuất hiện trên trái đất. Những ngọn núi thật tôn nghiêm hùng vĩ; những con sông lớn ào ạt tuôn về biển cả, những sa mạc không một dấu chân người, những đại dương bao la vô tận, bầu trời lấp lánh ngàn sao – tất cả những thứ đó quả thật tôn nghiêm hùng vĩ và xinh đẹp vô cùng. Toàn bộ sự vật mà ta gọi là thế giới tự nhiên đã tác động lên tâm trí con người kể từ thời vô thủy. Nó đã và đang tác động lên tư tưởng con người, và phản ứng của tư tưởng làm phát sinh câu hỏi : “Tất cả những thứ này là gì? Chúng từ đâu đến?”.
Lần ngược về thời kỳ những sáng tác cổ xưa nhất của loài người, tức kinh Veda, ta thấy một câu hỏi tương tự được đặt ra : “Cái này từ đâu ra? Khi nào không có cả hữu lẫn vô, khi nào bóng tối được giấu kín trong bóng tối? Ai đã làm xuất sinh ra vũ trụ này? Xuất sinh như thế nào? Ai biết được điều huyền mật đó?”. Và câu hỏi đó đã truyền đến chúng ta ngày nay. Hàng triệu nỗ lực đã đổ ra để tìm lời giải đáp, và hàng triệu lần, câu hỏi đó vẫn cứ phải tìm lại lời giải đáp. Không phải mỗi lời giải đáp là một thất bại; mỗi lời giải đáp đều chứa một phần chân lý, và theo thời gian, chân lý đó dần thu thập được thêm sức mạnh. Tôi xin tình bày với các bạn nét đại cương của lời giải đáp mà tôi thu thập được từ những triết gia Ấn Độ cổ đại, phù hợp với tri thức hiện đại.
Chúng ta thấy rằng trong câu hỏi cổ xưa nhất của mọi câu hỏi này, có một vài điểm đã được giải quyết. Điểm đầu tiên là mốc thời gian khi “không có cả hữu lẫn vô”, khi thế giới này chưa tồn tại; khi muôn vì tinh tú và ánh sáng của chúng, khi mẹ đất của chúng ta với biển cả đại dương, với núi non sông suối, với thành phố thôn làng, với loài người và cầm thú – toàn bộ sự sáng tạo vô biên này – chưa hề tồn tại. Chúng ta sẽ truy nguyên cái kết luận này xuất hiện như thế nào.
Con người thấy gì quanh mình? Lấy một cái cây nhỏ để minh họa. Anh ta gieo một hạt giống xuống đất, rồi sau đó thấy hạt nhú mầm, phát triển dần dần trên mặt đất, lớn mãi lớn mãi cho đến khi thành một thân cây hùng vĩ. Rồi cây chết đi, chỉ để lại hạt giống. Cái cây vận hành theo đường tròn – nó nhú mầm ra khỏi hạt giống, biến thành cây, rồi lại kết thúc bằng hạt giống. Hãy nhìn con chim, xem nó chui ra khỏi vỏ trứng như thế nào, sống rồi chết ra làm sao, để lại trứng – những hạt giống cho những con chim trong tương lai. Loài vật đã thế thì con người cũng không khác. Mọi vật trong thiên nhiên đều khởi đầu, có thể nói như vậy, từ những hạt giống nào đó, từ những nguyên sinh vật thô sơ nào đó, trong một hình thức tế vi nào đó, rồi ngày càng phát triển và trở nên thô dần, tiếp tục theo cách đó trong một khoảng thời gian, sau đó lại quay về lại với hình thức tế vi và giảm dần.
Hạt nước mưa, mà trong đó ánh nắng mặt trời xinh đẹp đang long lanh tỏa sáng, được thành hình từ hơi nước của đại dương, bay cao lên không trung, đến nơi nó biến thành nước, rồi lại rơi xuống trong hình dạng hiện giờ – để rồi chuyển hoá trở lại thành hơi nước. Tất cả sự vật quanh ta trong thế giới tự nhiên cũng vậy. Chúng ta biết rằng những ngọn núi khổng lồ kia đang bị bào mòn từ từ bởi những băng hà và sông suối, chúng bào mòn từ từ nhưng chắc chắc sẽ biến những ngọn núi kia thành cát bụi. Cát bụi đó sẽ lại bị cuốn trôi ra biển, chúng sẽ trầm tích xuống đáy biển, lớp này chồng lên lớp khác, dần dần rắn chắc như đá, rồi lại chồng cao lên thành núi trong tương lai. Rồi chúng lại bị bào mòn, và quy trình đó lại cứ tái diễn. Những ngọn núi đó nhô lên từ cát bụi rồi trở lại thành cát bụi.
Nếu đúng là thiên nhiên đồng dạng ở khắp mọi nơi, nếu đúng là – và nếu cho đến nay không một kinh nghiệm nào của con người đối nghịch lại với điều đó – từ những thiên thể khổng lồ trong toàn thể vũ trụ như mặt trời, mặt trăng cùng muôn vì tinh tú cho đến một hạt cát nhỏ bé đều được tạo thành theo phương thức như nhau; nếu đúng là toàn thể vũ trụ được cấu tạo theo phương thức như một nguyên tử; nếu đúng là toàn thể vũ trụ này đều bị chi phối bởi cùng một định luật, nếu quả đúng là như vậy thì khi lấy một cây nhỏ và nghiên cứu đời sống của nó, ta cũng hiểu được điều bí ẩn của toàn thể vũ trụ y như thực, như kinh Veda đã nói : “Biết một cục đất thì ta biết được bản chất của tất cả các loại đất trong vũ trụ”. Nếu biết được một hạt cát thì ta hiểu được sự huyền ẩn của toàn thể vũ trụ. Vận dụng phương thức lý luận này vào hiện tượng giới, trước hết ta thấy rằng tự thủy chí chung vạn hữu đều đồng dạng, nhất như. Núi được tạo ra từ cát rồi trở về với cát, sông được tạo ra từ hơi nước rồi trở về với hơi nước, cây được tạo ra từ hạt giống rồi trở về với hạt giống, con người sinh ra từ mầm sống rồi trở về với mầm sống. Vũ trụ này với trăng sao tinh tú xuất phát từ trạng thái tinh vân rồi trở về với trạng thái tinh vân. Chúng ta học hỏi được gì từ điều này? Đó là : trạng thái hiển lộ và thô sơ hơn là quả [effect], còn trạng thái tế vi hơn là nhân [cause].
Cách đây hàng ngàn năm, Kapila – người cha vĩ đại của nền triết học – đã chỉ ra rằng hoại diệt có nghĩa là quay ngược về nhân. Nếu cái bàn này bị phá hủy thì thì nó sẽ quay ngược về nhân, quay về với những hình thức tế vi và những phân tử ban đầu – là những thứ kết hợp nhau để cấu tạo nên hình thể mà ta gọi là cái bàn. Nếu con người chết đi thì nó sẽ quay về với những nguyên tố đã nên thể xác; nếu trái đất này bị hủy diệt thì nó sẽ quay về với những nguyên tố đã nên hình thể của nó. Quay về lại với nhân, đó là cái mà ta gọi là hoại diệt. Do đó, chúng ta biết rằng quả tương đồng với nhân, chứ không khác. Nó chỉ ở trong một hình thể khác. Cái ly này là quả; nó có nhân, và nhân đó đang hiện diện trong hình thể này. Một khối lượng chất liệu nào đó được gọi là thủy tinh, cộng thêm sức mạnh từ đôi bàn tay của người thợ, đó là các nhân; công cụ và chất liệu kết hợp lại với nhau tạo nên cái hình thể có tên gọi là cái ly. Lực trong đôi tay của người thợ hiện diện trong cái ly như là năng lực kết dính, nếu không có nó thì các phân tử sẽ tách rời nhau ra; và chất liệu thủy tinh cũng hiện diện. Cái ly chỉ là sự biểu hiện của những nhân tế vi trong một hình thể mới; nếu nó bị vỡ ra từng mảnh thì lực vốn đã hiện hữu dưới hình thức kết dính sẽ quay ngược lại, và kết hợp với nguyên tố riêng của nó, rồi những phân tử thủy tinh sẽ giữ nguyên hình trạng cho đến khi chúng tạo nên những hình thể mới. Do đó, ta thấy rằng quả không bao giờ khác với nhân. Nó chỉ là sự tái tạo của nhân dưới hình thức thô sơ hơn.
Tiếp theo đây, chúng ta học hỏi một điều là mọi hình thể đặc thù – mà ta gọi là cây cối, muông thú hay con người – đều đang được tái diễn đến vô tận, cứ hết nhô lên rồi lại chìm xuống. Hạt giống tạo ra cây. Cây lại tạo ra hạt giống để nảy sinh thành một cây khác, rồi cứ tiếp tục như thế, không bao giờ ngừng. Hạt nước rơi dọc theo triền núi để ra đại dương, bốc lên thành hơi nước, quay về lại với núi, rồi lại rơi dọc theo triền núi để ra đại dương. Bay lên rồi rơi xuống, chu trình này cứ tiếp diễn mãi như thế.
Mọi sự sống, mọi sự tồn tại mà chúng ta có thể nhìn thấy, cảm nhận, nghe ra hay tưởng tượng ra cũng đều thế cả. Tất cả mọi điều nằm trong phạm vi kiến thức của chúng ta cũng đang diễn ra theo phương thức tương tự, giống như hơi thở vào ra trên cơ thể con người. Tất cả tạo vật đều tiến hành theo hình thức này, con sóng cứ nhô lên rồi lại rơi xuống, nhô lên rồi lại rơi xuống hoài hoài. Mỗi con sóng đều có một chỗ lõm, mỗi chỗ lõm đều có một con sóng.
Vũ trụ – xét như một chỉnh thể – phải được áp dụng cùng một quy luật như nhau, vì nó đồng nhất. Vũ trụ này phải được phân giải thành những nhân của nó; mặt trời, mặt trăng, tinh tú, và trái đất, thể xác và tâm trí cũng vạn vật trong vũ trụ đều phải quay về với những nhân tế vi hơn của chính nó, tan biến đi, bị hủy diệt như đúng ra phải thế. Nhưng chúng sẽ sống trong các nhân dưới những hình thức tế vi. Rồi từ những hình thức tế vi này, chúng sẽ lại hiện ra thành những trái đất, mặt trời, mặt trăng cùng muôn vì tinh tú mới lạ.
Còn có một sự kiện cần phải học hỏi nhiều hơn nữa về chu trình sinh diệt này : chu trình nhô lên rồi rơi xuống. Hạt giống phát sinh từ cây; nó không trở thành cái cây ngay, mà có một giai đoạn thụ động, hay đúng hơn là một giai đoạn hoạt động tế vi rất khó nhận ra. Hạt giống phải hoạt động một thời gian dưới lòng đất. Nó vỡ ra thành các mẫu nhỏ, thoái hóa đi, rồi từ trạng thái thoái hóa đó, sự sống hồi sinh. Thoạt kỳ thủy, vũ trụ phải hoạt động trong một thời gian trong hình thức nhỏ bé đó, hình thức tế vi vô hình mà chúng ta gọi là sự hỗn mang; rồi từ đó xuất sinh một hiện tượng mới. Toàn bộ giai đoạn hiện hình của vũ trụ – đi xuống hình thức tế vi hơn, duy trì trong hình thức đó một thời gian rồi xuất sinh trở lại – được gọi là kalpa, tức là kiếp hay chu kỳ, trong tiếng Phạn.
Tiếp theo là một câu hỏi vô cùng quan trọng, nhất là đối với thời hiện đại. Chúng ta thấy rằng những hình thức tế vi hơn phát triển chậm chạp, và dần dần trở nên thô thiển hơn. Chúng ta đã thấy rằng nhân quả đồng nhất, và quả chỉ là nhân trong hình thức khác. Do đó, toàn thể vũ trụ này không thể được sinh ra từ hư không. Không có gì được sinh ra mà không có nhân, và nhân là quả trong hình thức khác.
Vậy thì vũ trụ được sinh ra từ đâu? Từ một vũ trụ tế vi trước đó. Con người được sinh ra từ đâu? Từ một hình thức tế vi trước đó. Cái cây được sinh ra từ đâu? Từ hạt giống; toàn bộ cái cây đã nằm trong hạt giống rồi. Nó xuất lộ và hiện hình. Bởi vậy, toàn thể vũ trụ đã được sáng tạo từ chính vũ trụ đó trong một hình thức nhỏ hơn, rồi được làm cho hiển lộ ra.
Giờ đây, chúng ta đã thấy được rằng những hình thức tế vi hơn phát triển chậm chạp, và dần dần trở nên thô thiển hơn, cho đến khi chúng đạt đến giới hạn; và khi đạt đến giới hạn rồi thì chúng lại quay về mỗi lúc một xa hơn, càng ngày lại càng trở nên tế vi hơn nữa. Quá trình thoát ra khỏi cái tế vi và trở nên thô sơ đã làm biến đổi một cách đơn giản sự sắp xếp của những thành phần – có thể nói vậy, quá trình đó là cái là thời đại hiện nay gọi là sự tiến hóa. Điều đó là chân thực, hoàn toàn chân thực, chúng ta cũng chứng kiến nó trong đời sống. Có lẽ không một người có lý trí nào lại đi cãi nhau với những người theo thuyết tiến hóa.
Nhưng ta còn phải học hỏi thêm một điều nữa. Chúng ta còn phải bước một bước xa hơn nữa, và đó là gì? Đó là : trước mọi sự tiến hóa là sự nội trưởng [involution]. Hạt giống là cha của cây, nhưng một cây khác lại là cha của hạt giống đó. Hạt giống là hình thức tế vi làm nảy sinh một cây lớn, rồi một cây lớn khác lại là cái hình thức nội trưởng của hạt giống đó. Toàn bộ vũ trụ này đã hiện hữu trong một vũ trụ tế vi khác. Tế bào nhỏ bé –mà về sau phát triển thành con người – chỉ là một tế bào được nội trưởng, và tiến hóa thành con người. Nếu chấp nhận điều này thì chúng ta không cần phải tranh cãi với những người theo thuyết tiến hóa nữa, vì nếu họ chấp nhận bước này thì thay vì phá hoại tôn giáo, họ sẽ là những vị hộ pháp vĩ đại nhất.
Như vậy, ta thấy rằng không có gì được tạo ra từ hư không. Muôn vật tồn tại thông qua vĩnh cửu, và sẽ tồn tại thông qua vĩnh cửu. Chỉ những chuyển động mới kế tục nhau như con sóng nhấp nhô, quay về với hình thể tế vi, và xuất sinh để hiển lộ ở dạng thô. Quá trình nội trưởng và tiến hóa diễn ra khắp thế giới tự nhiên. Toàn bộ quá trình tiến hóa – khởi đầu từ hình thức biểu hiện thô thiển nhất của cuộc sống và đạt đến hình thức cao nhất là con người hoàn hảo – phải là quá trình nội trưởng của một cái gì đó. Câu hỏi là : Sự nội trưởng của cái gì? Cái gì được nội trưởng? Thượng Đế. Những người theo thuyết tiến hóa sẽ bảo quan niệm của các bạn – cho rằng cái được nội trưởng là Thượng Đế – là quan niệm sai lầm. Vì sao? Họ đáp : vì các bạn thấy Thượng Đế thông minh, nhưng chúng tôi thấy trí thông minh phát triển muộn màng về sau trong quá trình tiến hóa; chỉ nơi con người và động vật cao cấp ta mới thấy trí thông minh, mà trước khi trí thông minh xuất hiện thì thế giới này đã trải qua hàng triệu năm rồi.
Tuy nhiên, sự phản bác của những người theo thuyết tiến hóa không vững vàng, như ta sẽ thấy sau đây, khi vận dụng lý thuyết của họ. Cái cây sinh ra từ hạt giống, rồi lại trở về với hạt giống, khởi đầu và kết thúc là như nhau. Trái đất sinh ra từ nhân [cause] của nó rồi trở về với nhân. Chúng ta biết rằng nếu tìm được khởi đầu thì sẽ tìm được kết thúc. Ngược lại, nếu tìm được kết thúc thì chúng ta sẽ tìm được khởi đầu. Nếu quả là vậy thì hãy xem lại quá trình tiến hóa, từ chất nguyên sinh ở cực này đến con người hoàn hảo ở cực kia. Toàn bộ quá trình này là một cuộc sống. Ở phần kết thúc, ta thấy một con người hoàn hảo thì ở phần khởi đầu cũng phải vậy. Do đó, chất nguyên sinh là sự nội trưởng của trí thông minh cao nhất. Có thể các bạn không thấy được nó, nhưng trí thông minh nội trưởng đó là cái tự cuốn mình lại, cho đến khi nó hiển lộ nơi con người hoàn hảo nhất. Điều đó có thể được chứng minh bằng toán học. Nếu định luật bảo toàn năng lượng là đúng thì các bạn không thể nhận được gì từ cỗ máy, nếu như trước đó các bạn không nạp năng lượng đó vào. Công năng mà ta nhận được từ một cỗ máy đúng là số năng lượng mà ta đã nạp vào đó dưới dạng nước và than, không hơn không kém. Công năng mà tôi đang thực hiện lúc này chỉ là những gì tôi nạp vào cơ thể dưới hình thức không khí, thức ăn cùng những thứ khác. Vấn đề chỉ là biến đổi và biểu hiện. Không thể thêm được vào trong nền kinh tế của vũ trụ này một phân tử vật chất hoặc một foot-pound[27] lực nào, mà cũng chẳng thể có một phân tử vật chất hoặc một foot-pound lực nào, được lấy từ đó. Nếu vấn đề là thế thì trí thông minh là gì? Nếu nó không hiện hữu trong chất nguyên sinh thì chắc hẳn nó phải được sinh ra từ một biến cố đột biến phát sinh từ hư không, điều này vô lý. Do đó, một điều tuyệt đối chính xác là con người hoàn hảo, con người tự do, con người-Thượng Đế – người đã vượt qua khỏi quy luật tự nhiên và siêu nhiên ngoại vật, người không còn đi qua quá trình tiến hóa không còn trầm luân sinh tử, người mà tín đồ Cơ Đốc giáo gọi là “Con Người Chúa” [Christ-man], Phật tử gọi là “Con Người Phật” [Buddha-man], và các Yogi gọi là “Người giải thoát”, con người toàn thiện ở cuối chuỗi tiến hóa – đã được nội trưởng trong tế bào của nguyên sinh động vật, tức là sinh vật ở cực bên kia của cùng một chuỗi tiến hóa.
Vận dụng lập luận này cho toàn thể vũ trụ, ta thấy rằng trí thông minh phải là Chúa Tể sáng tạo, là nhân. Ý niệm tiến hóa cao nhất mà con người có được về vũ trụ là gì? Đó là trí thông minh, là sự hiệu chỉnh phần này phần khác, là sự phô bày trí thông minh mà thuyết thiết kế cổ đại đã cố gắng trình bày. Do đó, khởi thủy là trí thông minh. Tại khởi thủy, trí thông minh đó được nội trưởng và cuối cùng nó tiến hóa. Tổng số trí thông minh phô bày trong vũ trụ, do đó, phải là trí thông minh phổ quát được nội trưởng, đang hiển lộ tự thân. Trí thông minh phổ quát đó là cái mà ta gọi là Thượng Đế. Có gọi nó bằng một danh xưng khác đi nữa thì chắc chắn một điều là : tại khởi thủy đã có một trí thông minh vô biên bao trùm cả vũ trụ. Trí thông minh bao trùm vũ trụ đó được nội trưởng, rồi nó tự hiển lộ và tiến hóa cho đến khi trở thành con người hoàn hảo – “Con Người Chúa” hoặc “Con Người Phật”. Kế đó, nó lại quay về nguồn cội. Đó là lý do vì sao kinh điển nói : “Chúng ta sống, di chuyển và tồn tại trong Ngài”. Đó là lý do vì sao kinh điển thuyết giảng rằng chúng ta đến từ Thượng Đế và trở về với Thượng Đế. Đừng để các thuật ngữ thần học làm cho sợ hãi, nếu các thuật ngữ đó làm cho các bạn sợ hãi thì các bạn không xứng đáng là các triết gia. Trí thông minh bao trùm vũ trụ đó được các nhà thần học gọi là Thượng Đế.
Người ta nhiều lần hỏi tôi : “Vì sao ông lại sử dụng danh từ Thượng Đế [God] cũ kỹ đó?”. Bởi vì nó là danh từ hay nhất cho mục đích của chúng ta. Các bạn không thể tìm được một danh từ nào hay hơn thế, bởi vì mọi hy vọng, khát khao và hạnh phúc của nhân loại đều tập trung vào đó cả. Không thể đổi bằng một danh từ nào khác. Những ngôn từ như thế được các vị hiền triết đặt ra trước tiên, các vị này đã thực chứng được nội dung và hiểu rõ ý nghĩa của chúng. Nhưng khi những ngôn từ đó được lưu hành trong xã hội, để cho những kẻ ngu dốt sử dụng thì hậu quả là chúng đánh mất đi tinh thần và ánh hào quang. Danh từ Thượng Đế đã được con người sử dụng từ thời thượng cổ, và ý tưởng về trí thông minh bao trùm vũ trụ, cùng tất cả những gì vĩ đại thiêng liêng đều được bao hàm trong đó. Ý các bạn cho là : vì có những kẻ ngu ngốc bảo danh từ đó không ổn mà chúng ta nên vất nó đi chăng? Một kẻ khác có thể đến và bảo : “Hãy dùng danh từ của tôi”, rồi một kẻ khác nữa lại bảo : “Hãy dùng danh từ của tôi”. Cứ thế thì sẽ không có hồi kết cho các danh từ ngu xuẩn đó. Hãy dùng các danh từ cũ, chỉ dùng nó bằng tinh thần chân chính, gột sách hết mọi thứ mê tín dị đoan, và thực chứng trọn vẹn ý nghĩa của danh từ xưa cũ này. Nếu các bạn hiểu được sức mạnh của luật liên tưởng, các bạn sẽ biết rằng những danh từ này được liên kết với vô số những ý tưởng mạnh mẽ và tôn nghiêm; hàng triệu người đã sử dụng và sùng bái chúng, và kết hợp chúng với tất cả những điều cao siêu và tốt đẹp nhất, những điều hợp lý nhất, đáng yêu nhất, những gì vĩ đại trong bản tính con người. Chúng gợi lên ý tưởng kết hợp này, nên ta không thể từ bỏ chúng.
Nếu như tôi cố gắng diễn đạt tất cả những điều này bằng cách nói với các bạn rằng Thượng Đế đã sáng tạo nên vũ trụ thì điều đó chẳng đem đến được ý nghĩa nào cho các bạn. Thế nhưng, sau tất cả cuộc đấu tranh này, chúng ta đã quay về với Ngài – đấng Cổ Sơ Tối Thượng.
Bây giờ, ta thấy rằng tất cả những hình thức khác nhau của năng lượng vũ trụ như vật chất, tư tưởng, lực, trí thông minh v.v… chỉ là những biểu hiện của trí thông minh bao trùm vũ trụ, hoặc đấng Chúa Tể Tối Cao – như ta sẽ gọi kể từ đây về sau. Tất cả những gì các bạn thấy, cảm nhận hoặc nghe – nghĩa là toàn thể vũ trụ này – đều là sự sáng tạo của Ngài, hoặc chính xác hơn một chút nữa là sự phóng chiếu của Ngài, hoặc chính xác hơn nữa là Tự Thân Ngài. Ngài tỏa sáng như mặt trời và muôn ngàn tinh tú, Ngài là đất mẹ. Ngài chính là đại dương. Ngài đến nhẹ như một trận mưa rào, Ngài là không khí dịu dàng mà ta hít thở, và Ngài là lực đang hoạt động trong thể xác ta. Ngài là lời nói mà chúng ta thốt ra, Ngài là kẻ đang nói. Ngài là khán giả đang ngồi ở nơi đây. Ngài là cái bục nơi tôi đang đứng. Ngài là ánh sáng giúp tôi thấy rõ gương mặt các bạn. Ngài là tất cả. Ngài vừa là tác nhân vật chất, vừa là tác nhân tạo hiệu năng trong vũ trụ này, Ngài là cái được nội trưởng trong từng tế bào li ti và tiến hóa đến cực bên kia, rồi lại biến thành Thượng Đế. Ngài là cái đang đi xuống và biến thành nguyên tử thấp kém nhất, từ từ hiển lộ bản chất mình ra, rồi tái kết hợp với chính mình.
Đây là điều huyền mật của vũ trụ.”Người là nam, Người
là nữ, Người là người khỏe mạnh đang bước đi trong niềm kiêu hãnh của tuổi
thanh xuân, Người là ông già lọm khọm đang chống gậy. Người ở trong tất cả,
Người là tất cả, hỡi Thượng Đế”. Đây là giải pháp duy nhất về vũ trụ có
thể làm thỏa mãn được trí năng con người. Tắt một lời, chúng ta sinh ra từ
Ngài, sống trong Ngài và quay về lại với Ngài.
(Diễn thuyết tại Newyork, 26 tháng 1, 1896)
Theo lẽ tự nhiên, tâm trí con người muốn hướng ngoại, muốn săm soi nhìn ra ngoài thể xác, có thể nói như vậy, thông qua các giác quan. Mắt phải nhìn, tai phải nghe, giác quan phải cảm thụ thế giới bên ngoài; và theo lẽ tự nhiên thì những cảnh tượng tươi đẹp và hùng vĩ của thiên nhiên quyến rũ sự chú tâm của con người trước hết. Câu hỏi đầu tiên nảy sinh trong tâm hồn con người là câu hỏi về thế giới bên ngoài. Người ta đi tìm lời giải đáp cho những điều bí ẩn về bầu trời, cùng muôn vì tinh tú, về trái đất, về sông nước, núi non, về đại dương; và trong mọi tôn giáo cổ xưa, chúng ta tìm thấy dấu tích mò mẫm của tâm trí con người khi lần đầu tiên tiếp xúc với thế giới chung quanh. Có thần sông, thần bầu trời, thần mây, thần mưa; mọi sự vật ngoại tại, tất cả những gì mà hiện nay chúng ta gọi là sức mạnh trong thiên nhiên đều biến hóa thành thần thánh, thành những quyền năng của trời.
Khi tìm hiểu sâu hơn thì những biểu hiện bên ngoài không còn làm thỏa mãn tâm trí con người, và cuối cùng năng lượng tra vấn đó quay ngược vào nội tâm, và câu hỏi về tâm hồn con người được đặt ra. Từ thế giới vi mô, câu hỏi phản chiếu ngược về thế giới vĩ mô; từ thế giới ngoại tại, câu hỏi phản chiếu ngược về thế giới nội tâm. Việc phân tích thế giới tự nhiên bên ngoài đã đưa con người quay vào khám phá thế giới nội tâm. Việc tra vấn thế giới nội tâm con người đã xuất hiện cùng với một nền văn minh cao hơn, với một kiến giải về tự nhiên sâu sắc hơn, với một trạng thái phát triển cao hơn.
Chủ đề thảo luận chiều hôm nay là con người nội tâm. Không một câu hỏi nào lại gần gũi và thân thiết với tâm hồn con người như câu hỏi về con người nội tâm. Câu hỏi này đã được nêu ra không biết bao nhiêu triệu lần, tại không biết bao nhiêu quốc gia! Hiền nhân và vua chúa, kẻ giàu cùng người nghèo, người thánh thiện và kẻ tội lỗi, nam và nữ, ai ai cũng đã hỏi đi hỏi lại câu hỏi này. Có phải không có gì vĩnh hằng trong cõi thế vô thường này? Có phải không có gì còn lại, họ đặt câu hỏi, khi thể xác này chết đi? Có phải không có gì tiếp tục sống sót, khi thân xác này biến thành cát bụi? Có phải không có gì tiếp tục sống sót, khi ngọn lửa thiêu thể xác này thành tro? Và nếu vậy thì số phận của con người là gì? Nó đi về đâu? Từ đâu đến? Những câu hỏi này cứ được hỏi đi hỏi lại; và chừng nào tạo vật vẫn còn tồn tại, chừng nào trí não con người vẫn còn tư duy thì câu hỏi này vẫn phải được đặt ra.
Không phải là không có lời giải đáp. Mỗi thời đại đều có một lời giải đáp, và cứ mỗi thời đại trôi qua, lời giải đáp đó sẽ mạnh mẽ hơn lên. Trên thực tế, câu hỏi đó đã được nêu ra một cách dứt khoát hơn hàng ngàn năm qua; và qua mọi thời kỳ kế tiếp nhau, nó lại được nêu ra, được giải minh, giúp trí năng ta hiểu rõ hơn. Điều chúng ta phải làm, do đó, là phát biểu lại lời giải đáp. Chúng tôi không giả bộ rọi một luồng ánh sáng mới lên những vấn đề cực kỳ hấp dẫn này, mà chỉ đặt trước mặt các bạn cái chân lý cổ xưa được diễn dạt bằng ngôn ngữ hiện đại, chỉ nói những tư tưởng cổ xưa bằng ngôn ngữ hiện đại, chỉ nói những tư tưởng của các triết gia bằng ngôn ngữ bình dân, nói tư tưởng của thánh thần bằng ngôn ngữ của người phàm, nói những tư tưởng của Thượng Đế bằng ngôn ngữ của loài người đáng thương, để con người có thể hiểu được; bởi vì tự bản lai, chính cái bản thể tinh túy thiêng liêng làm phát sinh ra những tư tưởng đó cũng đã hiện hữu trong con người; do đó, con người luôn luôn hiểu được chúng.
Tôi đang nhìn các bạn. Có bao nhiêu thứ cần thiết cho việc nhìn này? Trước hết là đôi mắt. Vì dầu tôi có hoàn hảo về mọi phương diện khác mà không có đôi mắt thì cũng không thể nào nhìn thấy các bạn được. Thứ hai là cơ quan thực sự của việc nhìn. Đôi mắt không phải là cơ quan đó, chúng chỉ là khí cụ để nhìn, và đằng sau chúng là một cơ quan thực sự, đó là trung khu thần kinh trong bộ não. Nếu trung khu đó bị tổn thương thì dù có đôi mắt sáng nhất, con người vẫn không thể thấy được bất cứ thứ gì. Do vậy, phải cần có trung khu đó, hay cơ quan thực sự. Các giác quan khác cũng vậy. Đôi tai chỉ là khí cụ để truyền dao động âm thanh vào bên trong đến trung khu đó. Thế nhưng chừng đó vẫn chưa đủ. Giả sử các bạn đang chăm chú đọc sách trong thư phòng, tiếng đồng hồ điểm giờ vang lên nhưng có thể bạn không nghe thấy. Âm thanh có đó, dao động trong không khí có đó, cả đôi tai và trung khu thần kinh đều tồn tại đó, và những dao động âm thanh đó vẫn được truyền vào bên trong đến trung khu đó qua đôi tai, nhưng các bạn vẫn không nghe thấy chi hết. Thiếu cái gì? Tâm trí không có ở đó[28]. Vậy thì ta thấy điều cần thiết thứ ba nữa là tâm trí phải ở đó. Trước hết là khí cụ bên ngoài, kế đó là cơ quan thọ nhận cảm giác do khí cụ bên ngoài truyền vào, và cuối cùng là bản thân cơ quan đó phải kết hợp với tâm trí. Khi tâm trí không kết hợp với cơ quan thì cơ quan và đôi tai có thể cảm nhận được ấn tượng, nhưng ta lại không hề hay biết. Tâm trí cũng chỉ là công cụ truyền tải; nó phải truyền tải cảm giác đi xa hơn nữa, và đệ trình cảm giác đó ra trước trí năng. Trí năng là khả năng quyết định, và xác định cái gì được mang đến cho nó. Vậy vẫn còn chưa đủ. Trí năng còn phải tiếp tục tải cảm giác đó đi xa hơn nữa, và đệ trình toàn thể sự vật trước vị chúa tể của thể xác, tức linh hồn con người, vị vua ngồi trên ngai vàng. Sự việc được đệ trình trước vị chúa tể, vị này sẽ ban hành mệnh lệnh cho biết những gì nên làm và những gì không nên làm; mệnh lệnh truyền xuống cũng theo quy trình đó đến trí năng, đến tâm trí, đến các cơ quan, và các cơ quan chuyển tiếp đến các khi cụ, và sự nhận thức được hoàn tất.
Những khí cụ nằm trong thể xác bên ngoài, tức phần thô của con người; còn tâm trí và trí năng thì không thế. Chúng nằm ở trong cái mà triết học Ấn Độ gọi là thể xác tế vi hơn, và là cái mà thần học Cơ Đốc giáo gọi là thể xác tâm linh [spiritual body] của con người – tế vi hơn, tế vi hơn thể xác rất nhiều, nhưng chưa phải là linh hồn. Linh hồn này vượt trên tất cả những thứ đó. Thể xác bên ngoài này chỉ trong vòng vài năm thì tàn lụi, bất kỳ nguyên nhân đơn giản nào cũng có thể hủy diệt nó. Thể xác tế vi hơn thì không dễ bị tàn lụi như vậy; nhưng có lúc thì nó suy đồi, có lúc thì nó mạnh mẽ. Ta đã thấy, nơi người già, tâm trí mất đi sức mạnh như thế nào, khi thể xác tráng kiện thì tâm trí minh mẫn như thế nào, thuốc men dược liệu tác động đến thể xác như thế nào, những sự vật bên ngoài tác động đến nó như thế nào, và nó phản ứng lại thế giới ngoại tại ra làm sao. Thể xác có phát triển và suy sụp thì tâm trí cũng vậy, cho nên tâm trí không phải là linh hồn, vì linh hồn thì không bao giờ suy nhược hay thoái hóa.
Làm sao mà chúng ta biết được điều đó? Làm sao mà chúng ta biết được rằng có một cái gì đó đằng sau tâm trí? Bởi vì tri thức vốn mang bản chất tự khai minh [self-illuminating] và là nền tảng của trí thông minh, nên nó không thể thuộc về thứ vật chất đờ đẫn vô tri, vật chất chết được. Chúng ta chưa bao giờ thấy một loại vật chất thô sơ nào mà bản thể tinh yếu [essence] của nó lại có thể là trí thông minh được. Cũng không có một loại vật chất đờ đẫn vô tri, vật chất chết nào mà có thể tự khai minh được. Chính trí thông minh mới khai minh cho tất cả vật chất. Căn phòng này chỉ hiện hữu được ở đây là nhờ vào trí thông minh, bởi vì, hiểu theo nghĩa là một căn phòng thì sự tồn tại của nó hẳn là một điều xa lạ, nếu không có một trí thông minh nào đó xây dựng nó lên. Thể xác này không thể tự tỏa sáng [self-luminous]; nếu nó tự tỏa sáng được thì hẳn nó đã làm thế trong một xác chết rồi. Cả tâm trí và thể xác tâm linh cũng không thể tự tỏa sáng được. Bản thể tinh yếu của chúng không phải là trí thông minh. Cái gì tự tỏa sáng được thì không thể bị hư hoại. Sự vật nào tỏa sáng được bằng cách nhờ vào ánh sáng của sự vật khác thì sự tỏa sáng đó đến rồi đi; còn sự vật nào tự tỏa sáng được thì cái gì có thể khiến ánh sáng đó đến rồi đi, rực sáng lên rồi lụi tàn? Ta thấy vầng trăng hết tròn rồi lại khuyết, vì nó vay mượn ánh sáng của mặt trời. Nếu nung đỏ một khối sắt trong lửa thì nó sẽ nóng rực lên và tỏa sáng, nhưng ánh sáng đó sẽ tan biến, vì đó là thứ ánh sáng vay mượn. Do đó, sự lụi tàn chỉ có thể xảy ra với thứ ánh sáng vay mượn, vì đó không phải là bản thể tinh yếu của nó.
Bây giờ, ta thấy rằng thể xác này, cái hình hài bên ngoài này không hề có ánh sáng trong bản thể tinh yếu, không thể tự tỏa sáng, không thể biết được chính mình; tâm trí cũng vậy. Tại sao lại không? Bởi vì tâm trí khi thì tròn đầy khi thì khiếm khuyết, lúc thì tráng kiện lúc thì suy nhược, bởi vì nó có thể bị tác động bởi bất kỳ sự vật nào và bởi mọi sự vật. Do vậy, ánh sáng tỏa sáng qua tâm trí không phải là ánh sáng của chính nó. Vậy thì ánh sáng đó là của ai? Chắc chắn nó phải thuộc về cái mà bản thể tinh yếu là ánh sáng, và như thế thì nó không thể lụi tàn hay bị hủy diệt, không bao giờ mạnh hơn hay yếu hơn; nó tự tỏa sáng, chính nó là ánh sáng tỏa chiếu đó. Không thể nói rằng Linh Hồn hiểu biết, mà Nó chính là tri thức. Không thể nói rằng Linh Hồn tồn tại, mà Nó chính là sự tồn tại. Không thể nói rằng Linh Hồn hưởng lạc phúc, mà Nó chính là lạc phúc. Cái gì hưởng lạc phúc đều vay mượn lạc phúc đó, cái gì có tri thức đều thọ nhận tri thức đó, cái gì có sự tồn tại tương đối thì chỉ có sự tồn tại được phản chiếu [reflected existence] mà thôi. Bất kỳ nơi nào có phẩm tính thì những phẩm tính đó đã được phản chiếu trên bản chất. Nhưng tri thức, tồn tại, lạc phúc không phải là phẩm tính của Linh Hồn, mà là bản chất tinh yếu của Linh Hồn.
Người ta lại còn thể hỏi, vì sao chúng ta cho rằng điều này là đúng? Vì sao chúng ta chấp nhận rằng Linh Hồn có tri thức, tồn tại, lạc phúc như là bản chất tinh yếu của nó chứ không vay mượn? Có thể lập luận rằng : vì sao không bảo ánh sáng của Linh Hồn, lạc phúc của Linh Hồn, tri thức của Linh Hồn cũng được vay mượn theo cách thức mà thể xác đã vay mượn từ tâm trí? Tính ngụy biện của lối lập luận này sẽ không bao giờ có giới hạn. Những thứ này được vay mượn từ đâu chứ? Nếu ta bảo là từ một nguồn gốc nào đó thì câu hỏi đó cứ sẽ được lặp đi lặp lại. Như thế, cuối cùng ta sẽ đến một cái gì đó tự tỏa sáng. Để đơn giản hóa vấn đề, cách hợp lôgic là dừng tại nơi mà ta nhận được sự tự tỏa sáng, và không đi xa hơn nữa.
Như vậy, chúng ta thấy rằng con người được cấu tạo thứ nhất là lớp vỏ bọc bên ngoài, tức thể xác; thứ hai là một thể xác tế vi hơn, bao gồm tâm trí, trí năng và tự ngã. Đàng sau chúng là Thực Ngã [real Self] của con người. Chúng ta đã thấy rằng mọi phẩm tính và năng lực của thể xác thô đều được vay mượn từ tâm trí, và tâm trí – tức phần thể xác tế vi hơn – lại vay mượn từ năng lực và ánh sáng từ Linh Hồn đứng ở đằng sau.
Lúc này, rất nhiều câu hỏi được nêu ra về bản tính của Linh Hồn. Nếu ta công nhận sự tồn tại của Linh Hồn bằng cách dựa trên lập luận rằng nó tự tỏa sáng, rằng tri thức cùng sự tồn tại và lạc phúc là bản thể tinh yếu của nó, thì kết luận tất nhiên là Linh Hồn không thể được sáng tạo ra từ hư không. Một sự tồn tại tự tỏa sáng, và độc lập với bất kỳ sự vật tồn tại nào khác thì không thể được sinh ra từ bất kỳ một thứ gì. Nó luôn luôn tự tồn tại. Không có lúc nào mà Linh Hồn lại không tồn tại; vì nếu như Linh Hồn không tồn tại thì thời gian ở tại nơi đâu? Thời gian nằm trong Linh Hồn, khi Linh Hồn phản chiếu năng lực của Nó trên tâm trí và tâm trí tư duy thì thời gian xuất hiện. Nơi nào không có Linh Hồn thì chắc chắn không có tư tưởng, mà không có tư tưởng thì không có thời gian. Bởi vậy, làm sao có thể bảo là Linh Hồn tồn tại trong thời gian, trong khi bản thân thời gian lại tồn tại trong Linh Hồn? Linh Hồn bất sinh bất diệt, mà Nó chỉ trải qua tất cả những giai đoạn khác nhau. Nó hiển lộ từ từ và dần dần, từ giai đoạn thấp hơn đến giai đoạn cao hơn, rồi cứ tiếp tục như thế. Nó đang biểu hiện sự vĩ đại tôn nghiêm của tự thể, đang tác động trên thể xác thông qua tâm trí, và thông qua thể xác, Nó đang nắm bắt và thấu hiểu thế giới bên ngoài. Nó chọn lấy một thể xác và sử dụng nó, rồi khi thể xác này đã suy nhược và cạn kiệt năng lực thì Nó lại chọn lấy một thể xác khác, và cứ tiếp tục như thế.
Bây giờ thì đến lượt một câu hỏi vô cùng lý thú, câu hỏi này thường được biết đến như là sự tái sinh của Linh Hồn. Đôi khi người ta lại sợ hãi ý tưởng này, và lòng mê tín mạnh đến nỗi ngay những người biết suy nghĩ cũng tin rằng họ sinh ra từ hư không, và rồi bằng một loại lôgic cao siêu nhất, họ cố suy diễn rằng dù họ có đến từ con số không đi nữa thì từ đây về sau họ sẽ được vĩnh viễn trường tồn. Những gì đến từ con số không chắc phải phải quay về lại với con số không. Bạn hay tôi hoặc bất kỳ một người nào, không một ai đến từ con số không để rồi sẽ quay về lại với con số không cả. Chúng ta đã và đang tồn tại vĩnh viễn, và sẽ tiếp tục tồn tại; không một quyền năng nào dưới ánh mặt trời có thể xóa bỏ sự tồn tại của tôi hay của các bạn, hoặc trả chúng ta về với con số không được cả. Bây giờ, ý tưởng tái sinh này không chỉ là ý tưởng gây kinh hãi, mà là một ý tưởng thiết yếu nhất cho sự yên ổn về đạo đức của con người. Đó là kết luận hợp lý duy nhất mà những người thích tư duy đều có thể đạt tới. Nếu các bạn sắp được tồn tại đời đời trong tương lai thì chắc chắn các bạn đã từng tồn tại đời đời trong quá khứ; không thể khác được.
Tôi sẽ cố gắng giải đáp một số ý kiến thường được nêu ra để phản bác thuyết này. Dù nhiều người trong số các bạn cho rằng đó là những ý kiến phản bác ngốc nghếch, nhưng chúng ta vẫn phải giải đáp; bởi vì đôi lúc chúng ta thấy rằng những người uyên bác nhất lại sẵn sàng đưa ra những ý kiến ngốc nghếch nhất. Có một câu nói rất hay là : chưa bao giờ có một ý tưởng nào vô lý đến mức không tìm ra được một triết gia để biện hộ cho nó.
Ý kiến phản bác đầu tiên là như vầy : vì sao chúng ta không nhớ đến quá khứ? Vậy chúng ta có nhớ lại được tất cả những chuyện cũ trong đời này hay không? Có bao người trong số các bạn còn nhớ được những gì mình làm khi còn bé? Không một ai trong các bạn nhớ lại được thời thơ ấu; và nếu như sự tồn tại của các bạn tùy thuộc vào ký ức thì lập luận này chứng minh rằng các bạn không hề tồn tại như là đứa bé, vì các bạn không còn nhớ được tuổi thơ của mình. Nếu bảo rằng sự tồn tại của chúng ta tùy thuộc vào khả năng hồi tưởng lại nó thì điều đó cực kỳ vô nghĩa. Vì sao chúng ta phải nhớ lại quá khứ? Bộ não đã tiêu ma, vỡ tan thành từng mảnh vụn, và một bộ não mới khác được tạo ra. Những gì đến được với bộ não này là kết quả, là tổng số những ấn tượng đã thu hoạch được trong quá khứ, và chúng đã cùng tâm trí đến cư ngụ trong một thể xác mới. Tôi – như tôi đang đứng nơi đây – là thành quả, là kết quả của quá khứ vô tận đã gán chặt vào tôi.
Đó là sức mạnh của lòng mê tín mà nhiều người, trong số những người phủ nhận giáo lý tái sinh, tin rằng chúng ta sinh ra từ loài khỉ. Nhưng họ lại không có cam đảm hỏi vì sao chúng ta lại không nhớ lại quãng đời khi còn là khỉ! Khi một bậc đại hiền triết thời xưa, một nhà tiên tri thấu thị, hay một đấng tiên tri thời cổ – những vị đã đối diện với chân lý – nói ra một điều gì đó thì những con người hiện đại đứng lên, bảo : “Ồ, y là một thằng điên”. Nhưng chỉ cần dùng một cái tên khác – Huxley hoặc Tyndall – thì điều đó ắt phải đúng, và họ mặc nhiên chấp nhận. Những người đó đã dựng lên những điều mê tín mới để thay cho những điều mê tín cũ, đã tạo ra những giáo hoàng khoa học hiện đại để thay cho những giáo hoàng tôn giáo cổ sơ.
Bởi thế, ta thấy rằng ý kiến phản bác dựa vào ký ức này không có giá trị gì, và đó gần như là ý kiến nghiêm túc nhất được nêu ra để phản bác thuyết này. Mặc dầu chúng ta đã thấy rằng để chấp nhận được thuyết tái sinh này không nhất thiết cần phải nhớ lại được quá khứ; nhưng đồng thời chúng ta lại đứng trên lập trường khẳng định rằng có những trường hợp hồi ức này xuất hiện, và mỗi người trong chúng ta sẽ quay ngược về với hồi ức đó tại thời điểm được giải thoát, khi đó chúng ta sẽ thấy rằng trần gian chỉ là giấc mộng. Rồi chỉ các bạn mới thực chứng được, trong tận cùng sâu thẳm của linh hồn, rằng các bạn chỉ là diễn viên và cuộc đời này là sân khấu; rồi chỉ lúc đó ý tưởng xả ly, vô luyến cảm [non-attachment] mới đến với các bạn bằng sức mạnh như sấm sét; rồi mọi khát khao hưởng thụ, mọi luyến cảm vào cuộc sống và trần gian này sẽ vĩnh viễn tan biến; rồi tâm trí sẽ thấy rõ như ban ngày rằng tất cả những chuyện này đã từng tồn tại bao nhiêu lần rồi với các bạn, đã hàng triệu lần các bạn đã có cha mẹ, con cái, có vợ chồng, người thân và bè bạn, tài sản và quyền lực. Chúng đến rồi đi. Đã biết bao lần các bạn đứng trên đỉnh cao của ngọn sóng, và cũng biết bao lần các bạn chìm xuống dưới đáy sâu của tuyệt vọng! Khi ký ức mang tất cả những thứ này đến với các bạn thì chỉ đến lúc đó, các bạn mới đứng lên và mĩm cười; khi thế giới này cau mày nhìn các bạn thì chỉ đến lúc đó, các bạn mới đứng lên và nói : “Hỡi Tử Thần, ngay cả ngươi, ta cũng chẳng thèm quan tâm đến nữa. Ngươi có gì nữa để khủng bố ta?” Điều này sẽ đến với tất cả mọi người.
Liệu có lập luận nào, có chứng cứ hợp lý nào cho thuyết tái sinh của linh hồn? Cho đến lúc này thì chúng ta chỉ mới đưa ra được khía cạnh tiêu cực, chỉ mới chứng minh được rằng lập luận trái ngược dùng để phản bác nó là không giá trị. Có chứng cứ tích cực nào hay không? Có, và vô cùng giá trị là đằng khác. Không một thuyết nào ngoài thuyết tái sinh lại có thể giải thích được sự khác biệt lớn lao về khả năng tiếp thu kiến thức nơi con người. Trước hết, ta hãy xét tiến trình của phương thức thu hoạch kiến thức. Giả sử tôi đi ngoài đường và thấy một con chó. Làm sao tôi biết được đó là con chó? Tôi đối chiếu nó với tâm trí tôi, và trong tâm trí tôi đã có sẵn nhiều nhóm của tất cả những loại kinh nghiệm trong quá khứ, được sắp xếp ngăn nắp theo từng ngăn kéo, có thể nói như vậy. Ngay khi một ấn tượng mới xuất hiện, tôi nắm bắt lấy nó và đối chiếu với các ngăn kéo cũ, khi vừa tìm được một nhóm ấn tượng tương tự đã có sẵn rồi thì tôi đặt ngay ấn tượng mới vào nhóm đó, và thấy hài lòng. Tôi biết nó là con chó, vì nó trùng khớp với những ấn tượng đã có sẵn ở đó rồi. Khi tôi không tìm thấy bên trong đó một thứ gì tương tự với kinh nghiệm mới này thì tôi đâm ra bực bội. Khi không tìm được thứ tương tự với ấn tượng mới này, chúng ta đâm ra bực bội, trạng thái tâm trí đó được gọi là “ngu muội”; nhưng khi tìm được thứ đã có sẵn tương tự với ấn tượng mới này, chúng ta thấy hài lòng, trạng thái tâm trí đó được gọi là “kiến thức”. Khi trái táo rơi, người ta thấy bực bội. Rồi dần dần họ phát hiện ra một loạt các ấn tượng tương tự, hình thành nên một chuỗi sự kiện, có thể nói như vậy. Chuỗi sự kiện mà họ phát hiện đó là gì? Đó là : tất cả trái táo đều rơi. Và người ta gọi đó là “lực hấp dẫn”.
Bây giờ, chúng ta thấy rằng nếu không có sẵn một số vốn kinh nghiệm thì không thể nào có được kinh nghiệm mới, bởi vì không có gì để đối chiếu với ấn tượng mới. Do đó, nếu theo quan điểm của một số triết gia châu Âu, một đứa bé ra đời với cái cái mà họ gọi là tabula rasa (tâm hồn như tờ giấy trắng) thì nó sẽ không đạt đến năng lực nhận thức ở bất kỳ trình độ nào, vì nó không có gì để đối chiếu với kinh nghiệm mới. Ta thấy rằng khả năng tiếp thu kiến thức khác nhau theo từng người, và điều này cho thấy mỗi người trong chúng ta đều ra đời với một số vốn kiến thức của riêng mình. Kiến thức chỉ có thể được thu hoạch theo một phương thức duy nhất, đó là phương thức của kinh nghiệm; không có một phương thức nào khác cả. Nếu ta không trải nghiệm được nó trong kiếp sống này thì chắc chắn đã trải nghiệm nó trong những kiếp sống khác.
Tâm lý sợ chết hiện diện ở khắp mọi nơi như thế nào? Một chú gà con vừa mới chui ra khỏi trứng, một con diều hâu bay tới, thế là nó sợ hãi nấp ngay vào bụng mẹ. Có một cách giải thích đã cũ (lẽ ra tôi cũng không nên đề cao nó với tên gọi như thế), cách đó được gọi là bản năng. Điều gì đã khiến cho con gà vừa mới chui ra khỏi trứng đã sợ chết? Vì sao một chú vịt con – do con gà mẹ ấp nở ra – khi đến bên dòng nước lại nhảy xuống để bơi? Nó chưa từng học bơi trước đó, mà cũng chưa từng thấy một con vật nào bơi bao giờ. Người ta gọi đó là bản năng. Đó là một danh từ thật to tát, nhưng nó vẫn bỏ mặc chúng ta đứng ở ngay tại vị trí như trước đó.
Chúng ta hãy nghiên cứu hiện tượng bản năng. Một cô bé bắt đầu học dương cầm. Trước tiên nó phải chú ý đến từng phím đàn mà ngón tay đang đánh; và cứ thế hết tháng này sang năm khác, khả năng chơi đàn trở nên hầu như vô thức, chỉ theo bản năng. Cái mà ban đầu được thực hiện bằng ý chí tỉnh táo thì về sau không còn đòi hỏi đến sự cố gắng của ý chí nữa. Đây cũng chưa phải là chứng cứ trọn vẹn. Vẫn còn lại một nửa, đó là : hầu như mọi thao tác mang tính bản năng lúc này đều có thể đặt dưới sự kiểm soát của ý chí. Mỗi cơ bắp trong thân thể đều có thể nằm trong vòng kiểm soát. Điều này thì ai nấy cũng đều biết rất rõ. Như thế, nhờ vào phương pháp song trùng này mà chứng cứ đó được trọn vẹn, ấy là cái mà ta giờ đây chúng ta gọi là bản năng chính là sự thoái hóa của những hành vi ý chí; do đó, nếu đem vận dụng luật tương tự cho toàn thể tạo vật, nếu thiên nhiên là đồng thể thì cái được xem là bản năng nơi loài vật cấp thấp, cũng như nơi con người, chắc chắn phải là sự thoái hóa của ý chí.
Từ việc nghiên cứu thế giới vi mô, chúng ta khám phá được rằng mọi quá trình nội trưởng đều giả định trước một quá trình tiến hóa, và mọi quá trình tiến hóa đều giả định trước một quá trình nội trưởng. Bản năng được giải thích như thế nào dưới ánh sáng của kiến thức này? Cái mà chúng ta gọi là bản năng là kết quả của hành vi ý chí. Bản năng nơi con người và loài vật, do đó, phải được tạo ra từ những hành vi ý chí trước đó. Khi nói về những hành vi ý chí, chúng ta chấp nhận có kinh nghiệm đã qua. Kinh nghiệm này tạo nên bản năng như thế đó. Chú gà con sợ chết, chú vịt con nhảy xuống bơi trong nước, cùng tất cả những hoạt động vô thức nơi con người – vốn là kết quả của những kinh nghiệm trong quá khứ – giờ đây đều trở thành bản năng.
Cho đến lúc này thì chúng ta đã tiến hành công việc một cách rõ ràng, và cho đến nay, nền khoa học tân tiến nhất đã đứng về phía chúng ta. Các nhà khoa học tân tiến nhất đang quay về với những bậc hiền triết cổ xưa nhất, và chừng nào họ đã làm được thế thì không còn khó khăn nào nữa. Họ thừa nhận mỗi con người hay mỗi con vật đều được sinh ra với một số vốn kinh nghiệm, và mọi bản năng trong tâm trí đều là kết quả của những hành vi ý chí. Họ đặt câu hỏi : “Có ích gì khi nói rằng kinh nghiệm thuộc về linh hồn? Sao không bảo rằng nó thuộc về thể xác, và chỉ thể xác mà thôi? Sao không nói rằng nó mang yếu tố di truyền?” Đây là câu hỏi cuối cùng. Sao không nói rằng mọi kinh nghiệm mà tôi có được khi sinh ra đời đều là kết quả từ tất cả những kinh nghiệm trong quá khứ của tổ tiên tôi? Tổng số kinh nghiệm từ chất nguyên sinh bé nhỏ cho đến con người cao siêu nhất đều có ở trong tôi, nhưng nó đã chuyển từ thể xác này sang thể xác khác trong quá trình di truyền. Khó khăn sẽ nằm ở đâu?
Câu hỏi rất là hay, và chúng ta chấp nhận một phần nào thuyết di truyền. Đến mức độ nào? Trong phạm vi cung cấp chất liệu. Chúng ta, bằng những hành động trong quá khứ, tự thích ứng với một nơi sinh nào đó, trong một thể xác nào đó; và chất liệu duy nhất thích hợp với thể xác đó xuất phát từ những cặp cha mẹ nào đã tự biến mình cho phù hợp để nhận linh hồn đó làm con cái. Nhưng thuyết di truyền đơn giản đó lại mặc nhiên công nhận một mệnh đề kỳ dị nhất mà không cần đến bất kỳ chứng cứ nào, đó là : kinh nghiệm tinh thần có thể được ghi lại trong vật chất, và kinh nghiệm tinh thần có thể được nội trưởng trong vật chất.
Khi tôi nhìn các bạn thì hồ nước trong tâm trí tôi gợn lên một con sóng. Con sóng đó lắng xuống, nhưng nó vẫn còn lại lưu lại trong hình thức tế vi, như là một ấn tượng. Chúng ta hiểu được ấn tượng vật lý lưu lại trong thể xác. Nhưng có chứng cứ nào để thừa nhận rằng ấn tượng vật lý đó có thể còn tồn tại trong thể xác, khi mà thể xác đã rã tan từng mảnh? Cái gì mang nó đi? Cho dù mặc nhiên chấp nhận rằng mọi ấn tượng tinh thần đều có thể tồn tại trong thể xác – rằng mọi ấn tượng, bắt đầu từ người đầu tiên đến cha tôi, đều tồn tại nơi thể xác cha tôi – thì nó di truyền qua tôi bằng cách nào? Thông qua tế bào nguyên sinh chất [bioplasmic cell] chăng? Làm sao có thể xảy ra điều đó? Bởi vì thể xác người cha đâu có truyền toàn bộ sang người con. Cũng một cha mẹ có thể có nhiều người con, vậy thì từ thuyết di truyền này – cho rằng ấn tượng và vật chịu ấn tượng (tức là vật chất) là một – ta đi tới một kết luận chặt chẽ rằng mỗi khi sinh một đứa con thì cha mẹ đều phải mất đi một phần ấn tượng của riêng mình; hoặc nếu cha mẹ phải truyền toàn bộ ấn tượng sang đứa con thì sau khi đứa con đầu lòng, tâm trí họ sẽ trở nên trống rỗng.
Lại nữa, nếu số lượng vô tận những ấn tượng từ hồi nào tới giờ đều nhập vào trong tế bào nguyên sinh chất thì chúng có thể tồn tại ở chỗ nào trong đó và bằng cách nào? Đây là một luận điểm hoàn toàn bất khả thi; và chừng nào những nhà sinh lý học còn chưa thể chứng minh được những ấn tượng đó sống ở đâu trong tế bào và sống như thế nào, và chưa thể giải thích được ý nghĩa của điều mà họ gọi là giấc ngủ của ấn tượng tinh thần trong tế bào vật chất thì chúng ta vẫn không thể chấp nhận luận điểm đó là đúng được.
Như vậy, cho đến nay, rõ ràng là ấn tượng này hiện hữu trong tâm trí, còn tâm trí thì cứ sinh rồi tái sinh, và sử dụng chất liệu phù hợp nhất với nó, và tâm trí – chỉ tự thích ứng với một dạng thể xác đặc thù nào đó – sẽ phải chờ đợi cho đến khi nó nhận được chất liệu đó. Điều này thì chúng ta hiểu. Như vậy, thuyết di truyền lại đi đến điều này : có hiện tượng di truyền trong phạm vi liên quan đến việc truyền chất liệu cho linh hồn. Nhưng linh hồn di trú và tạo nên hết thể xác này đến thể xác khác; mỗi ý tưởng ta tư duy, mỗi hành vi ta thực hiện đều được lưu giữ trong linh hồn dưới một hình thức tế vi, sẵn sàng bung ra và nhận một hình thức mới. Khi tôi nhìn các bạn thì một con sóng gợn lên trong tâm trí tôi. Nó lắng xuống, có thể nói như vậy, và trở nên nhỏ dần, rồi nhỏ dần hơn nữa, nhưng không tan biến hẳn. Nó sẵn sàng khởi động trở lại, như là con sóng, dưới hình dạng của ký ức. Như thế, mọi ấn tượng đều hiện hữu trong tâm trí tôi, và khi tôi chết thì sức mạnh phát sinh từ chúng sẽ tác động lên tôi. Ở đây có một trái banh, mỗi người trong chúng ta cầm một cái vồ trên tay và đánh vào nó từ mọi hướng; trái banh văng từ điểm này sang điểm khác trong căn phòng, và khi nó văng đến cánh cửa lớn thì nó bay ra ngoài. Cái gì mang nó đi? Kết quả phát sinh từ tất cả những cú đánh này. Nó sẽ điều khiển hướng đi của trái banh. Như thế, cái gì hướng dẫn linh hồn khi thể xác chết đi? Kết quả phát sinh, tổng số những hành vi mà nó đã làm, những ý tưởng mà nó đã tư duy. Nếu kết quả phát sinh này lớn mạnh đến mức cần phải tạo ra một thể xác mới cho những kinh nghiệm sâu xa hơn, nó đi đến những cặp cha mẹ nào sẵn sàng cung cấp cho nó chất liệu thích hợp để tạo nên thể xác đó.
Như thế, linh hồn sẽ di chuyển từ thể xác này sang thể xác khác, có lúc thì nó lên các cõi trời, rồi quay về lại trần gian để làm người hoặc làm một con vật thấp kém nào đó. Nó sẽ đi mãi theo lộ trình này cho đến khi hoàn tất mọi kinh nghiệm và kết thúc chu trình. Như vậy thì nó sẽ biết được bản tính mình, biết được nó là gì, vô minh tan biến; năng lực của nó hiện ra, và nó trở nên hoàn hảo. Linh hồn không còn cần phải hành động thông qua thể xác vật chất, cũng không còn cần phải hành động thông qua thể xác tế vi hơn hay thể xác tinh thần nữa. Nó tỏa sáng trong hào quang của chính nó và đạt đến giải thoát, không còn sinh, không còn tử nữa.
Bây giờ thì chúng ta sẽ không đi sâu vào những điểm đặc thù của vấn đề này. Mà tôi sẽ trình bày với các bạn một điểm nữa, có liên quan với thuyết tái sinh. Chính thuyết này đã thúc đẩy sự tự do của linh hồn con người. Nó là một lý thuyết duy nhất không hề đổ lỗi cho bất kỳ ai về sự yếu kém của chúng ta, theo thói xấu thường có ở con người. Chúng ta không thấy được lỗi của chính mình; đôi mắt không tự nhìn thấy chúng, mà chỉ thấy đôi mắt của bao người khác. Con người chúng ta thường rất chậm nhận ra khuyết điểm của mình, sai lầm của mình, chúng nào ta còn có thể đổ lỗi được cho người khác. Con người thường hay đổ mọi lỗi lầm của đời mình lên người khác, nếu không được thế thì đổ lỗi cho Thượng Đế, hoặc họ gọi một hồn ma nào đó lên, và gọi đó là số phận.
Đâu là số phận, và ai là số phận? Chúng ta gieo gì gặt nấy. Chúng ta là những người tạo ra số phận của chính mình. Không có ai khác hơn để trách cứ, không có ai khác hơn để ngợi khen. Gió đang thổi, chiếc thuyền nào giương buồm thì đón được gió và thẳng tiến theo lộ trình của chúng, còn chiếc thuyền nào để buồm cuốn lại thì không đón được gió. Đó có phải là lỗi của gió đâu? Đó có phải là lỗi của người Cha nhân từ chăng– người đang để ngọn gió khoan dung của mình thổi suốt ngày đêm không ngớt, người mà lòng nhân hậu không hề sút giảm? Đó có phải là lỗi của Ngài chăng, nếu như một số trong chúng ta hạnh phúc, còn một số trong chúng ta bất hạnh?
Chúng ta tự tạo nên số phận của chính mình. Mặt trời của Ngài tỏa sáng như nhau cho kẻ yếu cũng như người mạnh. Ngọn gió của Ngài thổi như nhau cho bậc thánh nhân cũng như người tội lỗi. Ngài là Chúa Tể của vạn hữu, là người Cha của muôn loài, nhân từ và công chính. Các bạn có ý muốn nói rằng Ngài – đấng Chúa Tể của tạo vật – cũng nhìn những chuyện nhỏ nhặt trong đời chúng ta bằng một thứ ánh sáng mà chúng ta nhìn chúng chăng? Thật là một quan niệm quá ư suy đồi về Thượng Đế! Chúng ta như những con búp-bê, đấu tranh nhau chí mạng ở nơi đây, và điên rồ ngỡ rằng cho đến cả Thượng Đế cũng xem những thứ đó là nghiêm trọng như chúng ta. Ngài nào biết trò chơi của những con búp-bê đó có ý nghĩa gì. Chúng ta cố đổ lỗi cho Ngài, biến Ngài thành người thưởng phạt, điều đó chỉ là thứ điên rồ. Ngài không bao giờ phạt hay thưởng bất kỳ ai. Lòng nhân từ vô lượng của Ngài luôn mở rộng ra với tất cả chúng sinh, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện, không bao giờ cùng tận, không bao giờ đổi thay. Lợi dụng được điều đó như thế nào là tùy thuộc ở ta. Đừng oán trách người hay Thượng Đế, cũng đừng đổ lỗi cho bất kỳ ai trong thế gian[29]. Khi gặp đau khổ, hãy tự trách mình và cố gắng làm tốt hơn. Đó là giải pháp duy nhất cho vấn đề này.
Những kẻ oán trách người khác – than ôi! số lượng bọn họ gia tăng từng ngày – thường là những kẻ khốn khổ mang đầu óc bất lực yếu hèn; họ sa vào tình cảnh đó là do lỗi lầm của chính bản thân. Họ oán trách kẻ khác, nhưng điều đó chẳng thay đổi được tình cảnh của họ. Nó chẳng giúp ích được cho họ bất kỳ điều gì. Mưu toan đổ lỗi cho người khác chỉ làm cho họ thêm yếu hèn bất lực. Bởi vậy, đừng bao giờ đổ lỗi cho bất kỳ ai vì lỗi lầm của mình, hãy đứng trên đôi chân của chính mình, và chịu hoàn toàn trách nhiệm về bản thân mình. Hãy nói : “Khốn khổ mà tôi đang gánh chịu là do tự tôi gây ra, và chính điều đó chứng minh rằng chỉ có tôi mới có thể gỡ bỏ được chúng mà thôi. Cái gì do tôi đã tạo ra thì tôi có thể phá hủy, còn cái gì do người khác tạo ra thì tôi sẽ không bao giờ có thể phá hủy được cả”. Bởi vậy, hãy đứng lên, hãy dũng cảm, hãy mạnh mẽ lên. Hãy gánh vác toàn bộ trách nhiệm trên chính đôi vai các bạn, và hãy biết rằng các bạn là người tạo ra số phận cho chính bản thân mình.
Tất cả sức mạnh và sự trợ giúp mà các bạn cần đều ở trong
chính bạn. Bởi vậy, hãy tạo nên tương lai cho chính mình. “Hãy để quá khứ
chết chôn cất người chết”. Tương lai vô tận đang mở ra trước mặt các bạn,
và các bạn phải luôn nhớ rằng mỗi lời nói, mỗi suy nghĩ, mỗi hành vi đều chồng
chất thành một kho chứa cho bạn; những suy nghĩ xấu xa và hành vi xấu xa – như
đàn cọp dữ – đều sẵn sàng nhảy chồm vào bạn như thế nào, song vẫn có niềm hy
vọng gợi nhiều cảm hứng như thế ấy, đó là : những suy nghĩ tốt đẹp và hành vi
tốt đẹp sẵn sàng bảo vệ bạn, luôn luôn và mãi mãi, bằng sức mạnh của muôn vạn
thiên thần.
(Diễn thuyết tại Mỹ)
Có câu hỏi nào được trầm tư suy ngẫm nhiều lần hơn, có ý tưởng nào đã đưa con người đi tìm trong vũ trụ một lời giải đáp nhiều lần hơn, có vấn đề nào gần gũi hơn và thân thiết hơn với tâm hồn con người, có vấn đề nào gắn bó không rời với sự tồn tại của chúng ta mãnh liệt hơn vấn đề này : sự bất tử của linh hồn con người? Nó đã từng là chủ đề cho các nhà thơ và các vị hiền triết, của giới tăng lữ cùng các nhà tiên tri; những ông vua ngồi trên ngai báu đã bàn thảo về nó, đám ăn mày ngoài đường cũng mơ màng đến nó. Người thánh thiện nhất cũng tiếp cận với nó, kẻ xấu xa nhất cũng hy vọng có nó. Mối quan tâm đến chủ đề này vẫn không chết, và nó sẽ không bao giờ chết chừng nào bản tính người còn tồn tại.
Biết bao nhiêu người đã đưa ra rất nhiều lời giải đáp cho thế giới. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, lại có hàng ngàn người từ bỏ cuộc thảo luận này, và câu hỏi đó vẫn mãi luôn mới tinh khôi. Thường thì vào những giai đoạn xáo trộn và tất bật đấu tranh trong đời mình, chúng ta dường như quên bẵng nó đi, nhưng khi có ai đó chết –người mà ta yêu mến, một người gần gũi, thân thiết trong trái tim ta đột nhiên bị cướp khỏi tay ta – thì cuộc đấu tranh đó, sự xáo trộn đó của cuộc sống quanh ta chợt dừng lại một lúc, và tâm hồn ta nêu lại câu hỏi cũ : “Sau điều này là cái gì?” “Linh hồn rồi sẽ ra sao?”
Mọi tri thức loài người đều xuất phát từ kinh nghiệm, ta không thể biết được bất cứ điều gì nếu không nhờ vào kinh nghiệm. Mọi lập luận của chúng ta đều dựa trên kinh nghiệm được phổ quát hóa, tất cả kiến thức của chúng ta chỉ là kinh nghiệm được sắp xếp hài hòa. Thử nhìn quanh mình, chúng ta thấy được gì? Cảnh tượng biến đổi liên tục. Cái cây sinh ra từ hạt giống, hạt giống lơn lên thành cây, kết thúc một chu trình và trở về thành hạt giống. Con vật ra đời, sống một thời gian, chết đi và kết thúc một chu kỳ. Con người cũng vậy. Núi non đang sụp đổ từ từ, nhưng chắc chắn rồi sẽ sụp đổ; dòng sông đang khô cạn từ từ, nhưng chắc chắn rồi sẽ khô cạn; mưa đến từ biển rồi quay về lại với biển. Ở đâu đâu, những chu trình này cũng đang hoàn tất : các giai đoạn sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau theo độ chính xác của toán học. Đây là kinh nghiệm thường ngày của chúng ta.
Bên trong tất cả những chuyện đó, đằng sau cái khối lượng đồ sộ của cái mà ta gọi là cuộc sống, của hàng triệu triệu hình hài sắc tướng, của hàng triệu triệu những thứ biến dịch đa thù, bắt đầu từ nguyên tử thấp bé nhất cho đến con người tâm linh cao siêu nhất, ta tìm ra một mối nhất thống nào đó đang tồn tại. Hàng ngày, ta thấy rằng những bức tường, được cho là dùng để chia cách vật này với vật khác, đang bị sụp đổ; tất cả mọi thứ vật chất đều được các nhà khoa học công nhận là có chung một bản chất, nhưng biểu hiện theo nhiều phương thức khác nhau trong vô vàn hình thể, giống như có cùng một sự sống duy nhất chạy xuyên suốt qua muôn vật như một sợi xích, mà tất cả những hình thể đa dạng trên đó đều tượng trưng cho các mắc xích nối liền nhau hết cái này đến cái kia, trải dài cho đến vô cùng, nhưng đều thuộc chung một sợi xích. Đây là cái được gọi là sự tiến hóa. Nó là ý tưởng cũ mèm, xưa như trái đất, chỉ có điều là nó mang hình thức ngày càng tươi mới hơn, bởi vì kiến thức loài người đang tiến bộ. Có một điều nữa, mà người xưa đã nhận ra nhưng trong nền khoa học hiện đại lại không được nhận thức rõ ràng, đó là sự nội trưởng. Hạt giống đang biến thành cái cây, hạt cát không bao giờ biến thành cái cây. Chỉ có người cha mới trở thành đứa con nít, chứ đống đất thì không thể nào trở thành được đứa con nít được. Thuyết tiến hóa này từ đâu mà có? – vấn đề nằm ở đó. Hạt giống là gì? Nó cũng tương tự như cái cây. Mọi khả năng của cái cây trong tương lai đều có sẵn trong hạt giống cả rồi; mọi khả năng của một con người trong tương lai đều có sẵn trong đứa bé cả rồi; mọi khả năng của một bất kỳ sự sống nào trong tương lai đều có sẵn trong mầm sống [germ] cả rồi. Đó là gì? Các triết gia Ấn Độ cổ đại gọi đó là sự nội trưởng. Vậy thì, chúng ta thấy rằng mọi quá trình tiến hóa đều giả định trước một quá trình nội trưởng. Không có gì có thể tiến hóa nếu chúng không có sẵn ở đó rồi.
Ở điểm này, một lần nữa, khoa học hiện đại lại giúp chúng ta. Bằng lý luận toán học, các bạn biết rằng tổng số năng lượng hiển thị trong vũ trụ luôn không đổi. Bạn không thể lấy đi một nguyên tử vật chất hay một foot-pound lực nào. Bạn cũng không thể thêm vào một nguyên tử vật chất hay một foot-pound lực nào. Như vậy, sự tiến hóa không đến từ con số không, thế thì nó đến từ đâu? Từ sự nội trưởng trước đó. Đứa bé là người lớn đã nội trưởng, còn người lớn là đứa bé đã tiến hóa. Hạt giống là cái cây đã nội trưởng, còn cái cây là hạt giống đã tiến hóa. Mọi khả năng của sự sống đều có sẵn trong mầm sống cả rồi.
Vấn đề này trở nên rõ ràng hơn một chút. Đưa thêm ý tưởng đầu tiên vào nó, ý tưởng về sự tương tục của đời sống. Từ chất nguyên sinh thấp kém nhất đến con người hoàn hảo nhất thực ra chỉ có một cuộc sống. Giống như trong một cuộc đời, chúng ta có nhiều giai đoạn biểu hiện khác nhau, chất nguyên sinh phát triển thành trẻ sơ sinh, rồi thành đứa bé, thanh niên, người già; thì cũng vậy, từ chất nguyên sinh đến con người hoàn hảo nhất, chúng ta cũng chỉ có một cuộc sống liên tục, một sợi xích. Đây là sự tiến hóa. Nhưng chúng ta đã thấy rằng mỗi quá trình tiến hóa đều giả định trước một quá trình nội trưởng. Trọn cuộc sống này, vốn đang từ từ hiển lộ tự thân, đang tiến hóa từ chất nguyên sinh thấp kém nhất đến con người hoàn hảo nhất – hóa thân của Thượng Đế ở trần gian – toàn bộ chuỗi xích của quá trình tiến hóa chỉ là một cuộc sống duy nhất, và toàn bộ sự biểu hiện chắc chắn phải được nội trưởng trong chính chất nguyên sinh đó. Trọn cuộc sống này, kết thúc nơi Thượng Đế nhân [God-man] tức con người thành Thượng Đế tại thế gian, được nội trưởng trong chất nguyên sinh, và xuất hiện từ từ, hiển thị một cách chậm rãi, từ từ, từ từ. Biểu hiện cao nhất chắc chắn đã hiện hữu trong trạng thái mầm sống dưới hình thức tế vi. Bởi vậy, cái lực duy nhất này, trọn chuỗi xích này, là sự nội trưởng của sự sống trong vũ trụ vốn tồn tại ở khắp mọi nơi. Chính khối lượng thông minh duy nhất này, từ chất nguyên sinh cho đến con người hoàn hảo nhất, đang chậm chậm, chậm chậm xuất lộ tự thân. Chứ không phải nó phát triển lớn dần. Hãy vất bỏ hết mọi ý niệm về tăng trưởng ra khỏi tâm trí các bạn. Cái Vô Biên – vốn tàng ẩn trong mọi sự sống – vốn độc lập với tất cả những điều kiện bên ngoài, đó là chân lý; còn ý niệm về tăng trưởng chỉ liên quan đến cái gì đến từ bên ngoài, một cái gì ngoại tại. Không bao giờ Cái Vô Biên có thể tăng trưởng; Nó luôn luôn hiện hữu ở đó, và chỉ hiển lộ Tự Thân.
Quả là nhân được hiển lộ. Không có sự khác biệt thiết yếu nào giữa quả và nhân. Hãy dùng cái ly này làm ví dụ. Có chất liệu, và chất liệu đó cộng thêm với ý chí của người thợ đã tạo nên cái ly này, cả hai thứ đó là nhân của nó và đang hiện hữu trong nó. Dưới hình thức nào? Sự kết dính. Nếu lực đó không tồn tại thì từng phân tử sẽ tách rời nhau. Vậy thì cái gì là quả? Nó cũng giống hệt như nhân, chỉ có điều là nó mang một hình thức khác, có một cấu trúc khác. Khi nhân bị biến đổi và giới hạn trong một khoảng thời gian thì nó biến thành quả. Chúng ta phải nhớ điều đó. Vận dụng nó vào quan niệm của chúng ta về cuộc sống thì toàn bộ quá trình hiển lộ của chuỗi tiến hóa, từ chất nguyên sinh đến con người hoàn hảo nhất, phải giống hệt như cuộc sống trong toàn vũ trụ. Đầu tiên nó được nội trưởng và trở nên tế vi hơn, từ đó xuất sinh ra một cái tế vi gọi là nhân; nhân này tiếp tục tiến hóa, tiếp tục hiển lộ tự thân và trở nên thô dần.
Nhưng vấn đề bất tử vẫn chưa được giải quyết. Chúng ta đã thấy rằng vạn vật trong vũ trụ đều bất hoại. Không có cái gì mới; và sẽ không có gì mới. Chuỗi tương tự của các hình thức hiển lộ cứ luân phiên nhau xuất hiện như một bánh xe, hết lên lại xuống. Mọi chuyển động trong vũ trụ này đều có dạng sóng, cứ nối tiếp nhau nổi lên rồi chìm xuống. Hết hệ thống này đến hệ thống khác xuất phát từ những hình thức tế vi, tự thân tiến hóa, khoác những hình thức thô thiển, rồi tan chảy ra – có thể nói như vậy – và quay về lại với những hình thức tế vi. Rồi chúng lại thoát khỏi hình thức đó, tiến hóa trong một thời gian và từ từ quay về lại với nhân. Mọi sự sống đều như vậy cả. Mọi hình thức biểu hiện của sự sống đều nhô lên rồi chìm xuống. Cái gì chìm xuống? Hình tướng. Hình tướng tan vỡ thành nhiều mảnh, nhưng rồi nó lại nhô lên.
Theo một nghĩa nào đó thì cả thể xác lẫn hình tướng đều trường tồn bất tử. Sao? Giả sử chúng ta nắm vài con súc sắc rồi gieo ra, chúng rơi xuống theo thứ tự : 6 – 5 – 3 – 4. Chúng ta gom chúng lại và gieo nhiều lần, đến một lúc nào đó thứ tự kia sẽ xuất hiện trở lại, tổ hợp đó sẽ quay lại. Bây giờ, tôi xem mỗi phân tử, mỗi nguyên tử là một con súc sắc, chúng được gieo đi gieo lại nhiều lần và tổ hợp lại. Mọi hình thể trước mặt các bạn là một tổ hợp. Đây là cái ly, kia là cái bàn, đó là bình nước v.v…. Đây là một tổ hợp, sớm muộn gì rồi tất cả cũng đều sẽ vỡ ra. Nhưng chắc chắn đến một lúc nào đó các tổ hợp này sẽ xuất hiện trở lại, lúc đó các bạn cũng ở nơi đây, hình thể này cũng ở nơi đây, đề tài cũng được thuyết giảng, bình nước này cũng ở nơi đây v.v… Điều này đã được tái diễn vô số lần, và sẽ được tái diễn vô số lần. Cho nên, xét về hình thể vật chất, chúng ta tìm thấy điều gì? Đó là : ngay cả những hình thể vật chất cũng được lặp đi lặp lại đến vô cùng.
Kết luận thú vị nhất rút ra được từ thuyết này là cách giải thích những dữ kiện như vầy : một số trong các bạn đây có lẽ đã gặp được người có khả năng biết được quá khứ và tiên đoán tương lai. Làm sao một người có thể biết được tương lai sẽ ra sao, trừ phi tương lai đó đã được an bài? Quả trong quá khứ sẽ tái diễn trong tương lai, và chúng ta thấy rằng sự thực là vậy. Chúng ta đã thấy bánh xe đu quay [Ferris Wheel] khổng lồ đầu tiên tại Chicago[30]. Bánh xe quay tròn, và những cái ghế nhỏ trên bánh xe cứ xuất hiện đều đặn hết cái này đến cái khác; một nhóm người vào ngồi trên các cái ghế đó, và sau khi bánh xe quay hết một vòng thì họ ra ngoài, để nhóm người khác vào. Mỗi một nhóm người đó giống như một hình thức biểu hiện, từ con vật thấp hèn nhất đến con người cao siêu nhất. Thiên nhiên giống như chuỗi quay trong bánh xe đu quay đó, bất tận và vô hạn; và những cái ghế nhỏ này là thể xác hoặc hình thể, trong đó những nhóm linh hồn đang điều khiển lên cao, lên cao mãi cho đến khi chúng trở nên hoàn hảo, và ra khỏi bánh xe. Nhưng rồi bánh xe lại tiếp tục quay. Và chừng nào mà thể xác còn ở trong bánh xe thì ta có thể tiên đoán chính xác một cách tuyệt đối như toán học là chúng sẽ đi đến vị trí nào, nhưng đối với linh hồn thì không thế. Do vậy, có thể đọc được quá khứ và tương lai của thế giới tự nhiên một cách chính xác.
Như thế thì chúng ta thấy rằng một hiện tượng vật chất tương tự có thể tái diễn tại nhiều thời điểm nào đó, và những tổ hợp tương tự đã diễn ra trong cõi thiên thu bất tận. Nhưng đó không phải là sự bất tử của linh hồn. Chúng ta đã quan sát thấy rằng không một lực nào có thể bị mất đi, không một vật chất nào có thể bị hủy diệt. Vậy thì cái gì sẽ xảy đến với linh hồn? Nó tiếp tục biến hóa, hết tiến rồi thoái, cho đến khi nó quay về lại với cội nguồn phát sinh ra nó. Không có chuyển động theo đường thẳng, mà mọi vật đều chuyển động theo đường tròn. Một đường thẳng, khi kéo dài đến vô hạn, sẽ biến thành đường tròn. Nếu đúng là thế thì không thể có sự suy thoái vĩnh viễn cho bất kỳ linh hồn nào. Không thể nào có được. Tất cả sự vật đều phải hoàn tất chu trình và quay về lại với cội nguồn.
Các bạn và tôi cũng tất cả những linh hồn đó là gì? Trong phần bàn về sự tiến hóa và nội trưởng, chúng ta đã thấy rằng các bạn và tôi phải là một phần của ý thức vũ trụ, cuộc sống vũ trụ, tâm trí vũ trụ – vốn là những thứ được nội trưởng; và chúng ta phải hoàn tất chu trình và quay về lại với trí thông minh bao trùm vũ trụ này, tức là về với Thượng Đế. Trí thông minh bao trùm vũ trụ này là cái mà người ta gọi là đấng Chúa Tể, hay Thượng Đế, hay Christ, hay Phật, hay Brahman, là cái mà người theo thuyết duy vật quan niệm như là lực, còn những người theo thuyết bất khả tri thì xem như là cái vô biên, bất khả tư nghì. Và tất cả chúng ta đều là thành phần của cái đó.
Đây là ý tưởng thứ hai, nhưng điều này vẫn chưa đủ, vẫn còn nhiều nỗi hoài nghi. Bảo rằng không có lực nào bị hoại diệt, điều đó rất tốt. Nhưng tất cả những lực và hình thức mà chúng ta nhìn thấy đều là các tổ hợp. Hình thức trước mắt chúng ta đây được cấu tạo từ một số thành phần, cho nên mọi lực mà chúng ta thấy được đều được hợp thành theo cách tương tự. Nếu các bạn xét lực theo quan điểm khoa học, và gọi lực nào cũng là tổng số, là kết quả của nhiều lực khác, vậy thì cái gì sẽ xảy đến với bản sắc cá nhân của các bạn? Bất kỳ thể phức hợp [compound][31] nào cũng phải quay về với những thành phần cấu tạo nên nó, không sớm thì chầy. Bất kỳ sự vật nào trong vũ trụ này, được cấu thành từ tổ hợp vật chất hay lực, sớm muộn gì cũng phải quay về với những thành phần cấu tạo nên nó. Bất kỳ sự vật nào là quả của một số nhân thì đều phải diệt vong, đều phải bị hủy hoại. Nó tan vỡ, phân tán và chuyển ngược thành những thành phần cấu tạo nên nó.
Linh hồn không phải là một lực, tư tưởng cũng vậy. Linh hồn tạo ra tư tưởng, nhưng nó không phải là chính tư tưởng; linh hồn tạo ra thể xác, nhưng nó không phải là chính thể xác. Vì sao như thế? Chúng ta thấy rằng thể xác không thể là linh hồn. Vì sao không? Bởi vì nó không thông minh. Thể xác không thông minh, miếng thịt trên quầy thịt cũng không thông minh. Thông minh với chúng ta có nghĩa là gì? Đó là năng lực phản ứng. Chúng ta cần đi sâu thêm chút nữa về vấn đề này.
Đây là lọ nước; tôi nhìn thấy nó. Sao? Các tia sáng từ lọ nước đi vào đôi mắt tôi, và tạo nên một hình ảnh trên võng mạc tôi, rồi hình ảnh đó được truyền tới não. Nhưng vẫn chưa phải là thị giác. Cái mà các nhà sinh lý học gọi là thần kinh cảm giác sẽ truyền ấn tượng này vào sâu hơn nữa. Nhưng đến lúc này vẫn chưa có phản ứng. Trung khu thần kinh trong não truyền ấn tượng nào đến tâm trí, và tâm trí phản ứng; ngay khi có sự phản ứng từ tâm trí thì lọ nước lóe sáng lên trước tâm trí.
Thử lấy một ví dụ tầm thường hơn nữa. Giả sử các bạn đang chăm chú nghe tôi, một con muỗi bay đến đậu trên mũi các bạn, đem đến cho bạn cái cảm giác khó chịu mà loại muỗi có thể làm; nhưng các bạn lại chú tâm quá mức, đến nỗi không hay biết gì đến con muỗi đó nữa. Điều gì đã xảy ra? Con muỗi đã cắn một chỗ nào đó trên da bạn, và các dây thần kinh vẫn có đó. Chúng truyền cảm giác nào đó đến não, và tạo ra ấn tượng, nhưng tâm trí lúc này đang tập trung vào chuyện khác nên không phản ứng lại, vì thế các bạn không hề biết đến sự có mặt của con muỗi.
Khi một ấn tượng mới truyền đến mà tâm trí không phản ứng thì chúng ta sẽ biết gì về nó; nhưng khi xuất hiện phản ứng thì chúng ta cảm thấy, nhìn thấy, nghe thấy v.v… Cùng với phản ứng này là sự khai minh [illumination], theo cách gọi của các triết gia học phái Sāmkhya (Số luận). Chúng ta thấy rằng thể xác không thể khai minh, bởi vì khi không chú tâm thì không có cảm giác.
Người ta còn biết đến những trường hợp này : một người chưa từng học qua một ngôn ngữ nào đó, nhưng lại có thể nói được nó trong những điều kiện đặc biệt. Những cuộc điều tra theo đây đã chứng minh rằng người đó, khi còn bé, đã sống chung với những người sử dụng ngôn ngữ đó,và những ấn tượng đó đã lưu lại trong não anh ta. Những ấn tượng cứ tích chứa nơi đó, cho đến lúc tâm trí phản ứng lại vì một nguyên nhân nào đấy, và xuất hiện hiện tượng khai minh, thế là anh ta nói được ngôn ngữ đó. Điều này cho thấy chỉ một mình tâm trí thôi thì không đủ, bản thân tâm trí chỉ là khí cụ trong tay một người nào khác. Tâm trí đứa bé chứa ngôn ngữ đó nhưng nó không hề biết, nhưng đến một thời điểm về sau thì nó biết. Điều này cho thấy có một người nào khác ngoài tâm trí; và khi cậu ta còn nhỏ, “người nào khác” đó không sử dụng năng lực này; nhưng khi lớn lên thì đứa bé nắm được nó và đem ra sử dụng.
Ở đây, trước tiên là thể xác; thứ hai là tâm trí hay khí cụ của tư tưởng; và thứ ba, đứng đằng sau tâm trí, là Chân Ngã của con người. Tiếng Sanskrit là Ātman. Các triết gia hiện đại đã đồng hóa tư tưởng với những quá trình trao đổi phân tử trong bộ não, nên họ không biết giải thích trường hợp này như thế nào, và họ thường phủ nhận nó. Tâm trí liên hệ mật thiết với não, mà não thì chết bất cứ khi nào thể xác biến đổi. Chân Ngã là kẻ khai minh, và tâm trí là khí cụ trong tay của Nó; thông qua khí cụ đó, Chân Ngã nắm bắt được khí cụ bên ngoài, và xuất hiện khả năng nhận thức. Những khí cụ bên ngoài nắm bắt những ấn tượng rồi truyền chúng đến các giác quan; bởi vì các bạn phải luôn nhớ rằng tai, mắt chỉ là những công cụ thu nhận, chính cơ quan bên trong, tức bộ não trung tâm, mới hoạt động. Trong tiếng Sankrit, những trung tâm này được gọi là indriya. Các indriya này truyền những cảm xúc đến tâm trí, và tâm trí truyền tiếp chúng đến một trạng thái khác của tâm trí nữa, mà trong tiếng Sanskrit gọi là chitta (tâm), và ở đó chúng được tổ chức thành ý chí; rồi tất cả cùng đệ trình những cảm xúc đó đến vị Vua của các vua ở bên trong, đấng Cai Trị trên ngôi báu, tức Ātman của con người. Vị vua này thấy và ban hành mệnh lệnh. Lúc đó, tâm trí lập tức tác động trên các giác quan, và các giác quan tác động trên thể xác bên ngoài. Người Thọ Nhận thực sự, người Cai Trị thực sự, người Điều Hành, người Sáng Tạo, người Xử Lý của tất cả quá trình này là Chân Ngã con người.
Như vậy, chúng ta thấy rằng Chân Ngã con người không phải là thể xác, cũng không phải là tư tưởng. Nó không thể là một thể phức hợp. Vì sao không? Bởi vì mọi thể phức hợp đều có thể bị nhìn thấy hoặc hình dung được. Cái gì mà ta không thể hình dung hay nhận thức được, ta không thể kết hợp lại với nhau được thì cái đó không phải là lực hay vật chất, không phải là nhân hay quả, và không thể là một thể phức hợp. Lãnh vực của các thể phức hợp chỉ nằm trong phạm vi mà vũ trụ tinh thần của ta, vũ trụ tư tưởng của ta vươn tới. Vượt ra ngoài phạm vi đó, nó không tồn tại. Thể phức hợp phải nằm trong trong phạm vi chi phối của quy luật, nếu có cái gì đó tồn tại bên ngoài quy luật thì nó không còn là thể phức hợp nữa.
Chân Ngã con người, do vượt ngoài quy luật nhân quả, nên không phải là thể phức hợp. Nó vốn tự do và là người Cai Trị tất cả sự vật trong phạm vi quy luật. Nó sẽ không bao giờ chết, bởi vì chết có nghĩa là quay về lại với những thành phần cấu tạo; còn cái gì không bao giờ là thể phức hợp thì không bao giờ chết. Nói rằng Chân Ngã chết là điều hoàn toàn vô nghĩa.
Giờ đây, chúng ta đang giẫm lên một mảnh đất mỗi lúc một tinh tế hơn, và có lẽ một số trong các bạn đâm ra sợ hãi. Chúng ta đã thấy rằng Chân Ngã này, do vượt qua được cái vũ trụ vật chất nhỏ bé của lực và tư tưởng, là một thực thể đơn nhất, không phức hợp; bởi vậy Nó bất tử. Cái gì bất tử thì bất sinh. Bởi vì sinh tử chỉ là mặt phải và mặt trái của cùng một đồng xu. Sinh là tên gọi khác của tử, và tử là tên gọi khác của sinh. Cùng một sự vật, nhưng trong cách biểu hiện đặc thù này thì ta gọi là sinh, còn trong cách biểu hiện đặc thù khác thì ta gọi là tử. Khi ngọn sóng nhô cao đến đỉnh thì đó là sự sống, và khi nó chìm xuống chỗ lõm thì đó là cái chết. Nếu có cái gì đó vượt ra ngoài cõi chết thì tất nhiên nó cũng phải vượt ra ngoài cõi sống.
Tôi cần phải nhắc lại cho các bạn câu kết luận đầu tiên : Linh Hồn con người là một phần của năng lượng vũ trụ, năng lượng đó chính là Thượng Đế. Bây giờ, chúng ta thấy rằng Linh Hồn vượt ra ngoài sống chết, siêu quá tử sinh. Các bạn chưa hề sinh ra, và các bạn sẽ không bao giờ chết. Sống và chết, mà ta thấy quanh ta, là gì? Chúng chỉ thuộc về thể xác, bởi vì Linh Hồn thì hiện hữu khắp nơi, vô sở bất tại. “Sao lại thế được?”, các bạn có thể đặt câu hỏi, “Biết bao nhiêu người đang ngồi ở đây, vậy mà ông lại bảo Linh Hồn hiện hữu khắp nơi”. Cho tôi hỏi, “Có cái gì có thể giới hạn được cái vượt ra ngoài quy luật, ngoài quan hệ nhân quả? Cái ly này bị giới hạn, nó không hiện hữu khắp nơi, bởi vì vật chất bao quanh nó đã ép nó thành hình dạng này, không cho nó khoáng trương thêm ra. Nó bị quy định bởi tất cả những sự vật chung quanh, và do đó, bị giới hạn. Còn cái vượt ra ngoài quy luật, không có gì có thể tác động lên nó thì làm sao nó có thể bị giới hạn được? Nó phải hiện hữu khắp nơi. Các bạn cũng hiện hữu khắp nơi trong vũ trụ.
Vậy thì chuyện tôi sinh ra, rồi tôi sẽ chết, tất cả những thứ đó nghĩa là sao? Đó là câu chuyện ngu ngốc, là ảo tưởng của bộ não. Các bạn chưa hề ra đời, các bạn cũng sẽ không chết đi. Các bạn không được sinh ra, cũng sẽ không có chuyện tái sinh, các bạn không sống không chết cũng chẳng có bất cứ thứ gì. Các bạn hiểu đến và đi theo nghĩa nào? Toàn là những điều nhảm nhí vô nghĩa. Các bạn hiện hữu khắp nơi. Vậy thì đến và đi có nghĩa là gì? Đó là ảo tưởng phát sinh do sự biến đổi của một thể xác tế vi mà các bạn gọi là tâm trí. Đó là cái được gọi là đến và đi – chỉ giống như một vệt mây nhỏ bay lướt qua bầu trời. Khi nó chuyển động, nó có thể tạo ra ảo tưởng là bầu trời đang chuyển động. Đôi khi các bạn nhìn thấy một đám mây bay qua trước mặt trăng, và các bạn cứ ngỡ là mặt trăng đang chuyển động. Khi ngồi trên xe hỏa, các bạn cứ ngỡ là mặt đất đang chạy, hoặc khi ngồi trên thuyền, các bạn cứ ngỡ là dòng nước đang trôi. Trên thực tế, các bạn không đến mà cũng chẳng đi; các bạn chưa hề sinh mà cũng sẽ không tái sinh; các bạn vốn vô biên, vĩnh viễn hiện hữu, vượt ngoài nhân quả, vốn đã tự do. Làm sao có thể có sự bất tử khi không có sự sinh? Câu hỏi như thế bị đặt sai chỗ, đó là điều cực kỳ nhảm nhí.
Để tiến đến một kết luận hợp lý, chúng ta sẽ phải bước thêm bước nữa. Không có ngôi trường đình nào để nghỉ chân dọc đường. Các bạn là những nhà siêu hình học, không có chỗ để các bạn than khóc. Như vậy, nếu chúng ta vượt qua quy luật nhân quả thì chúng ta chắc chắn phải hiện hữu khắp nơi, hưởng lạc phúc vĩnh viễn; tất cả tri thức, quyền năng và lạc phúc đều có cả trong ta. Đó là điều chắc chắn. Các bạn là Đấng vô sở bất tại, là Hằng Hữu vô sở bất tại [omnipresent Being] trong vũ trụ. Nhưng những Hằng Hữu như thế có nhiều không? Có thể nào có đến hàng trăm triệu Hằng Hữu vô sở bất tại như thế chăng? Chắc chắn là không. Vậy thì, điều gì xảy ra với tất cả chúng ta? Bạn là kẻ duy nhất, chỉ có duy nhất một Chân Ngã như thế, và Chân Ngã duy nhất đó là chính bạn. Đứng đằng sau bản tính nhỏ bé này là cái mà ta gọi là Linh Hồn. Chỉ một Hằng Hữu duy nhất, một Tồn Tại duy nhất, chỉ có một đấng Hưởng Lạc Phúc, Vô Sở Bất Tại, Bất Sinh Bất Diệt. Nhờ quyền năng cai quản của Ngài mà bầu trời rộng thêm ra, và gió thổi; nhờ quyền năng cai quản của Ngài mà mặt trời tỏa sáng, muôn loài được sống. Ngài là Thực Tại trong tự nhiên. Ngài là Linh Hồn của linh hồn bạn, và hơn thế nữa, bạn chính là Ngài; bạn hợp nhất với Ngài.
Nơi nào có tư tưởng nhị biên thì nơi đó có sợ hãi, hiểm nguy, xung đột, đấu tranh. Ở nơi mà tất cả là Một thì có ai để hận thù, có ai để đấu tranh? Khi tất cả đều là Ngài thì các bạn còn đấu tranh với ai? Cái Một này giải thích bản tính của cuộc sống, giải thích bản tính của muôn vật; Cái Một này là sự hoàn hảo, và Cái Một này là Thượng Đế. Chừng nào mà các bạn còn thấy Cái Nhiều, thấy hiện tượng sai biệt đa thù thì các bạn còn đang mắc ảo tưởng. “Trong thế giới sai biệt đa thù này mà kẻ nào thấy được Nhất Thể, trong thế giới chuyển biến vô thường này mà kẻ nào thấy được Ngài là đấng Như Như Bất Động, là Linh Hồn của linh hồn mình, là Chân Ngã của mình – thì kẻ đó được giải thoát, đã đạt đến đích rồi”.
Bởi vậy, hãy biết rằng bạn là Ngài, bạn là Thượng Đế của vũ trụ này – “Tat Tvam Asi” (Bạn là Cái Đó). Tất cả những ý tưởng khác nhau, cho rằng ta là nam hay nữ, bệnh hoạn hay khỏe mạnh, cứng cỏi hay yếu đuối, rằng tôi yêu hay tôi ghét, rằng tôi có chút quyền lực, tất cả đều là ảo tưởng. Vất bỏ tất cả chúng đi! Điều gì khiến các bạnyếu đuối? Điều gì khiến các bạn sợ hãi? Các bạn là Hằng Hữu Duy Nhất trong vũ trụ. Cái gì khiến các bạn sợ hãi?
Hãy đứng lên và hãy tự do. Hãy biết rằng tư tưởng và lời nói nào trong thế gian này làm cho các bạn yếu đuối thì đó chính là điều xấu xa duy nhất đang tồn tại. Bất cứ điều gì làm cho con người yếu đuối và sợ hãi thì đó là những thứ tồi tệ cần phải tránh xa. Cái gì có thể khiến các bạn sợ hãi? Dù mặt trời có sụp đổ, dù mặt trăng có tan tành thành cát bụi, dù hết hệ thống này đến hệ thống khác đều bị cuốn vào vòng hủy diệt thì tất cả những thứ đó có nghĩa gì với các bạn? Hãy đứng vững như một tảng đá, các bạn bất khả hủy diệt. Các bạn là Chân Ngã, là Thượng Đế của vũ trụ này. Hãy nói : “Ta là Tồn Tại Tuyệt Đối, Lạc Phúc Tuyệt Đối, Tri Thức Tuyệt Đối, ta là Ngài” Và như con mãnh sư phá vỡ chuồng giam, hãy bẻ gãy xích xiềng và tự do vĩnh viễn. Điều gì khiến cho các bạn sợ hãi? Điều gì đè nén các bạn? Chỉ có vô minh và ảo tưởng, ngoài ra chẳng có gì khác trói buộc các bạn cả. Các bạn là đấng Thanh Tịnh Vô Nhiễm, là đấng hưởng Lạc Phúc Đời Đời.
Người kẻ điên rồ ngu xuẩn nói với các bạn rằng các bạn là
những kẻ tội lỗi, rồi các bạn ngồi trong xó nhà mà than khóc. Bảo các bạn là
những kẻ tội lỗi, việc đó thật là điên rồ, độc ác, quá đỗi bất lương! Tất cả
các bạn đều là Thượng Đế. Há các bạn không thấy Thượng Đế, và gọi Ngài là con
người đó hay sao? Bởi vậy, nếu dũng cảm thì các bạn hãy đứng lên, hãy định hình
toàn bộ cuộc đời mình theo điều đó. Nếu có người cắt cổ các bạn, đừng có từ
chối, vì các bạn đang tự cắt cổ mình. Khi giúp đỡ một người nghèo khổ, đừng nên
có chút mảy may hãnh diện, vì các bạn đang tự sùng bái mình, nên chẳng có
nguyên cớ gì để tự hào. Các bạn chẳng phải là toàn thể vũ trụ này đó hay sao? Ở
nơi đâu còn có người nào không là các bạn? Các bạn là Linh Hồn của vũ trụ này.
Các bạn là mặt trời, mặt trăng, và muôn vì tinh tú, chính các bạn đang chiếu
sáng khắp nơi nơi. Toàn thể vũ trụ này là các bạn. Các bạn còn ghét bỏ ai hoặc
chiến đấu với ai? Hãy hiểu rằng các bạn chính là Ngài, và hãy định hình toàn bộ
cuộc đời mình theo điều đó. Người nào biết được điều đó và định hình toàn bộ
cuộc đời mình theo điều đó thì không còn bò lê trong đêm tối nữa.
(Diễn thuyết tại Brooklyn, 2 tháng 2, 1896)
Nhiều người trong các bạn có lẽ đã đọc tác phẩm nổi tiếng “Ba bài giảng về triết học Vedānta” của Max Müller, và một số trong các bạn có lẽ đã đọc sách tiếng Đức của giáo sư Deussen cùng bàn về nền triết học đó. Trong những gì được viết và giảng dạy tại phương Tây về tư tưởng tôn giáo của Ấn Độ, có một trương phái tư tưởng Ấn Độ được trình bày như là tư tưởng chủ đạo, đó là Advaitism hay nhất nguyên luận trong tôn giáo Vedānta; và đôi khi người ta ngỡ rằng mọi lời giảng của kinh Veda đều nằm trong hệ thống triết học đó cả. Tuy nhiên, còn có những giai đoạn khác nhau trong tư tưởng Ấn Độ; và có lẽ hình thức phi nhị nguyên này chỉ là một phần nhỏ khi so sánh với triết học trong những giai đoạn đó.
Tại thời kỳ xa xưa nhất, tại Ấn Độ đã có nhiều học phái tư tưởng; và bởi vì không hề có một giáo hội có tổ chức hay được thừa nhận nào, cũng không có một tập thể nào đứng ra chỉ định giáo lý của từng học phái cần phải tin theo, cho nên dân chúng được quyền tự do chọn lựa hình thức tín ngưỡng để biến thành triết học riêng, và thành lập nên tông phái của riêng mình. Do đó, chúng ta thấy rằng ngay từ thời kỳ xa xưa nhất, nhiều tông phái đã tràn lan khắp Ấn Độ. Tại thời điểm hiện nay, tôi cũng không biết có tới mấy trăm tông phái tại Ấn Độ, và hàng năm lại có thêm bao nhiêu tông phái mới nữa ra đời. Hoạt động tôn giáo của xứ sở này tựa hồ như không bao giờ cạn kiệt.
Trước hết, trong những tông phái khác nhau đó, cho hai nhánh chính : chính thống và phi chính thống. Những tông phái nào tin vào kinh điển Hindu, tin kinh Veda là sự khải thị chân lý vĩnh cửu thì được xem là chính thống; còn những tông phái nào dựa vào những thẩm quyền khác, phủ nhận kinh Veda thì được xem là phi chính thống ở Ấn Độ. Những tông phái phi chính thống chủ yếu hiện nay là Jaina giáo và Phật giáo. Trong những tông phái chính thống, một số tuyên bố rằng kinh điển có thẩm quyền cao hơn rất nhiều so với lý trí, còn một số thì lại cho rằng chỉ có một bộ phận kinh điển đó là hợp lý cần giữ lại, phần còn lại thì nên bỏ đi. Trong số ba tông phái chính thống – Sāmkhya (Số luận), Naiyāika (Chính lý học phái) và Mimāmsaka (Di mạn sai) – thì hai tông phái đầu dù tồn tại như là hai trường phái triết học, nhưng lại không phát triển để tạo thành một tông phái. Tông phái duy nhất, mà ảnh hưởng thực sự bao trùm cả Ấn Độ, là Mimāmsaka thời hậu kỳ. Triết học của họ được gọi là triết học Vedānta.
Tất cả những trường phái triết học Ấn Độ đều xuất phát từ triết học Vedānta hoặc kinh thư Upanishad, nhưng các triết gia nhất nguyên luận tự gán danh hiệu đó cho mình như là đặc điểm, bởi vì họ muốn đặt toàn bộ nền thần học và triết học của họ trên các Upanishad, chứ không trên một thứ gì khác. Theo thời gian, triết học Vedānta ngày càng chiếm ưu thế, và mọi tông phái khác nhau, hiện đang tồn tại ở Ấn Độ, có thể được coi là một trong những trường phái của nó. Tuy nhiên, những trường phái này lại không nhất trí với nhau về giáo lý.
Chúng ta thấy đó là ba dòng chủ lưu khác nhau của các triết gia Vedānta. Chỉ một điểm duy nhất mà tất cả đều nhất trí, đó là cả ba đều tin vào Thượng Đế. Mọi triết gia Vedānta đều tin rằng kinh Veda là lời khải thị của Thượng Đế, nhưng có lẽ không hoàn toàn giống như cách tín đồ Cơ Đốc giáo hay Hồi giáo tin vào Kinh Thánh của họ, mà theo một nghĩa rất đặc thù. Họ cho rằng kinh Veda là sự biểu hiện của tri thức về Thượng Đế, và bởi vì Thượng Đế là vĩnh cửu, Chân Trí của Ngài cùng vô cùng như Ngài, cho nên kinh Veda cũng có giá trị vĩnh cửu.
Còn có một nền tảng tín ngưỡng chung khác – đó là sự sáng tạo theo chu kỳ : toàn bộ sự sáng tạo cứ sinh rồi diệt, nó được phóng chiếu ra, mỗi lúc trở nên một thô hơn, đến giai đoạn cuối của một thời gian vô lượng thì nó trở nên tế vi dần lên, nó tan rã dần và bước vào thời kỳ yên nghỉ. Rồi nó lại xuất hiện, và lại đi xuyên suốt qua chính quá trình đó. Các triết gia Vedānta xác lập một bản thể vật chất mà họ gọi là ākāśa, hơi giống với khái niệm ether của các nhà khoa học, và một năng lực mà họ gọi là prāna. Về cái prāna này thì họ tuyên bố rằng dao động của nó đã tạo nên vũ trụ. Khi một chu kỳ kết thúc, tất cả sự hiển lộ của thế giới tự nhiên dần trở nên tế vi hơn, rồi tan biến vào ākāśa vô hình vô ảnh, nhưng ākāśa này chính là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Tất cả những lực mà ta thấy thế giới tự nhiên, chẳng hạn như lực hút của quả đất, lục hút và lực đẩy, thậm chí đến cả tư tưởng, cảm xúc và dao động thần kinh – tất cả những thứ lực khác nhau đó đều dung hóa trong prāna, và dao động của prāna ngừng lại. Nó ở mãi trong trạng thái đó cho đến khi bắt đầu một chu kỳ kế tiếp. Lúc đó, prāna bắt đầu dao động trở lại, dao động đó tác động trên ākāśa, và rồi tất cả mọi hình thể cứ đều đặn kế tục nhau được ném ra ngoài.
Trường phái đầu tiên mà tôi sẽ trình bày cùng các bạn là trường phái được định hình theo quan điểm nhị nguyên. Những triết gia nhị nguyên tin rằng Thượng Đế – đấng Sáng Tạo nên vũ trụ và đấng Cai Quản vũ trụ – vĩnh viễn tách biệt với thiên nhiên, vĩnh viễn tách biệt với linh hồn con người. Thượng Đế vĩnh cửu, thiên nhiên vĩnh cửu, và mọi linh hồn cũng đều vĩnh cửu. Thiên nhiên và linh hồn hiển lộ và biến chuyển, còn Thượng Đế thì như như bất biến. Theo các nhà nhị nguyên luận đó, Thượng Đế mang bản chất người vì Ngài có những phẩm tính, chứ không phải vì có một thể xác. Ngài mang những thuộc tính của con người, Ngài nhân từ, công chính, có quyền lực, toàn năng, ta có thể đến gần Ngài, cầu nguyện với Ngài, yêu thương Ngài và được Ngài yêu thương lại v.v…. Tóm lại, Ngài là một Thượng Đế mang bản chất người, chỉ khác ở điểm là vĩ đại hơn con người đến vô biên vô tận. Ngài không có một nết xấu nào của con người. “Ngài là kho vô tận những phẩm tính đầy lạc phúc” – đó là định nghĩa của họ về Thượng Đế. Ngài không thể sáng tạo mà không dùng tới chất liệu, và thiên nhiên là chất liệu mà Thượng Đế dùng để sáng tạo nên toàn thể vũ trụ.
Còn có những nhà tư tưởng Vedānta phi nhị nguyên, được gọi là là triết gia nguyên tử luận [Atomist], họ tin rằng thế giới tự nhiên chỉ là vô số những hạt nguyên tử, ngoài ra chẳng có gì khác; và ý chí của Thượng Đế tác động trên những nguyên tử để sáng tạo nên vũ trụ. Các triết gia Vedānta phản bác thuyết nguyên tử, vì cho rằng nó hoàn toàn phi lý. Những nguyên tử bất khả phân đó giống như khái niệm điểm trong hình học, không có độ lớn hay thành phần cấu tạo; mà cái gì không có độ lớn hay thành phần cấu tạo thì dù có được nhân bội lên vô số lần cũng vậy thôi. Bất cứ cái gì đơn thể, không có thành phần cấu tạo thì sẽ không bao giờ tạo nên được một thể phức hợp; tống số của một số lượng số không bất kỳ cũng sẽ không bao giờ tạo ra được một con số đơn lẻ nào. Do đó, nếu những nguyên tử này không có độ lớn hay thành phần cấu tạo thì chúng hoàn toàn không thể tạo ra vũ trụ được. Do đó, theo các triết gia Vedānta nhị nguyên thì có một bản tính bất khả phân hay vô sai biệt, mà Thượng Đế dùng để sáng tạo nên vũ trụ.
Đông đảo người Ấn đều tin theo thuyết nhị nguyên. Bản tính con người, theo lẽ thường, không thể quan niệm được một cái gì cao siêu hơn. Chúng ta thấy rằng chín mươi phần trăm dân số trên thế giới, dù sống ở bất cứ nơi nào, cũng đều tin theo thuyết nhị nguyên. Tất cả tôn giáo ở châu Âu và Tây Á đều theo thuyết nhị nguyên; chúng phải như vậy. Một người bình thường không thể tư duy về một cái không cụ thể. Theo lẽ tự nhiên, anh ta sẽ bám chặt vào cái mà trí năng anh ta có thể hiểu được. Điều đó có nghĩa là anh ta chỉ có thể quan niệm được những ý tưởng tâm linh cao siêu bằng cách kéo chúng xuống ngang tầm với mình. Anh ta chỉ có thể lãnh hội được những tư tưởng trừu tượng bằng cách biến chúng thành cụ thể. Đó là tôn giáo của quần chúng trên khắp thế giới. Họ tin vào một Thượng Đế hoàn toàn tách biệt với họ, xem đó là một ông vua vĩ đại, một đấng quân vương toàn năng, cao cả, có thể nói như vậy. Đồng thời họ lại biến Ngài trở nên trong sạch hơn các ông vua trên trái đất; họ gán cho Ngài mọi phẩm tính tốt đẹp, và loại bỏ đi tất cả những phẩm tính xấu xa – làm như có thể có chuyện : chỉ có toàn điều tốt đẹp tồn tại mà không hề có điều xấu xa, chỉ có quan niệm về ánh sáng mà không hề có quan niệm về bóng tối!
Với tất cả những nhị nguyên luận đó thì điều khó khăn đầu tiên là như vầy : dưới sự cai quản của một Thượng Đế công bình và nhân hậu, là kho công đức vô lượng, làm sao lại có thể có biết bao nhiều điều tội lỗi, xấu xa trên cõi thế? Câu hỏi này được nêu ra trong tất cả các tôn giáo nhị nguyên, nhưng người Ấn không hề phát minh ra một Satan để giải đáp nó. Người Ấn nhất trí đổ lỗi cho con người, và đối với họ thì làm điều đó thật dễ. Vì sao? Vì như tôi đã nói với các bạn, họ không tin rằng linh hồn được tạo ra từ hư không.
Trên đời này, chúng ta thấy rằng ta có thể định nên tương lai; từng ngày, mỗi người trong chúng ta lại cố gắng chuẩn bị kế hoạch cho ngày hôm sau; hôm nay chúng ta chuẩn bị kế hoạch cho ngày mai, ngày mai chúng ta lại chuẩn bị kế hoạch cho ngày mốt, và cứ tiếp tục hoài như thế. Kiểu lý luận này có thể bị đẩy lùi lại về sau, điều đó cũng hoàn toàn hợp lý. Nếu những hành động của chính chúng ta định nên số phận của chúng ta trong tương lai thì cớ sao lại không vận dụng quy luật đó vào quá khứ? Giả sử có một chuỗi xích dài vô tận, với những mắc xích luân phiên nhau thay đổi, và được chia thành các nhóm. Nếu giải thích được một nhóm mắc xích này thì ta có thể giải thích được toàn bộ chuỗi xích[32]. Cũng vậy, trong chuỗi thời gian vô tận, nếu chúng ta có thể cắt ra một bộ phận để giải thích và hiểu được nó, và nếu giả định rằng thiên nhiên đồng nhất thì chúng ta có thể vận dụng cách giải thích tương tự cho toàn bộ thời gian. Nếu đúng là chúng ta vạch ra số phận của của mình ở nơi đây, trong một quãng thời gian ngắn ngủi; nếu đúng là mọi sự vật đều có một nhân, như giờ đây ta đang nhìn thấy thì điều này cũng phải đúng : ta bây giờ là gì thì đó là quả của toàn bộ quá khứ của chính mình.
Do đó, không cần thiết phải có một ai khác định hình nên tương lai cho con người, trừ chính họ. Những điều xấu xa tồn tại trong thế gian này đều do chính chúng ta tạo ra, chứ chẳng phải do một ai khác. Chúng ta đã gây ra tất cả những điều xấu xa này, và chỉ khi thường xuyên nhìn thấy cảnh khốn khổ phát sinh từ những hành vi xấu xa thì chúng ta có thể hiểu rằng biết bao điều thống khổ trong thế gian này đều là hậu quả của sự tàn độc của chúng ta trong quá khứ. Do đó, theo thuyết này, chỉ có con người chịu trách nhiệm. Đừng đổ lỗi cho Thượng Đế. Ngài – người Cha muôn đời nhân hậu – không thể bị đổ lỗi. “Chúng ta gieo gì gặt nấy”.
Một thuyết quan trọng khác của những triết gia nhị nguyên luận là rốt cuộc mọi linh hồn đều được cứu rỗi. Sẽ không để sót một ai. Trải qua bao thăng trầm sóng gió, trải qua bao buồn vui sướng khổ, cuối cùng thì người nào cũng thoát được ra ngoài. Thoát ra ngoài cái gì? Quan niệm chung duy nhất của mọi tông phái Ấn Độ là tất cả linh hồn đều phải thoát ra khỏi cái thế giới vật chất này; bởi vì cái thế giới mà chúng ta có thể nhìn thấy và cảm nhận, cho dù nó có lộng lẫy đến đâu chăng nữa thì cũng không phải là thế giới đúng đắn, thế giới chân thực, bởi vì nó là nơi thiện ác bất phân, thị phi hỗn tạp. Theo các triết gia nhị nguyên luận thì bên ngoài thế giới này có một cõi chỉ toàn hạnh phúc và điều tốt đẹp; khi đạt đến cõi đó thì không còn sống chết, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi; và họ rất trân trọng quan niệm đó. Ở nơi đó không còn bệnh tật, không còn cái chết. Chỉ có hạnh phúc đời đời, lúc nào họ cũng sẽ được gặp Thượng Đế và chiêm ngưỡng Ngài mãi mãi. Những triết gia đó tin rằng mọi sinh linh, từ loại sâu bọ thấp hèn nhất cho đến chư thiên tôn quý nhất, sớm muộn gì cũng đều đi đến thế giới đó, nơi không còn khốn khổ đau buồn.
Nhưng thế giới của chúng ta sẽ không bao giờ kết thúc, nó vẫn tiếp tục như thế mãi cho đến thiên thu. Mặc dù vận hành theo chu kỳ, nhưng nó sẽ không bao giờ kết thúc. Số lượng linh hồn cần được cứu rỗi, cần được hoàn thiện, là vô số. Một số ở trong cây cỏ, một số ở trong loài vật thấp kém hơn, một số ở trong loài người, một số ở trong chư thiên, nhưng tất cả, kể cả những vị thần tối cao, đều bất toàn và bị ràng buộc. Điều gì ràng buộc? Sự ràng buộc tất yếu của tử sinh. Ngay cả những vị thần tối cao cũng phải chết.
Những vị thần này là gì? Họ mang nghĩa tượng trưng cho những trạng thái nào đó, những chức vụ nào đó. Chẳng hạn, thần Indra – vua của chư thần – có nghĩa là một chức vụ nào đó. Một vài linh hồn, sau khi lập được công trạng cao cả ở thế gian, đã đến cõi trời để đảm nhận chức vụ đó trong chu kỳ này; sau chu kỳ này thì người đó lại xuống thế gian để tái sinh làm người trở lại; và trong chu kỳ này, người nào làm được điều tốt sẽ đến cõi trời để đảm nhận chức vụ đó trong chu kỳ tiếp theo. Tất cả chư thần đều như thế cả : họ là những chức vụ nào đó được hàng triệu triệu những linh hồn kế tiếp nhau đảm nhận; những linh hồn này, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lại xuống thế gian để trở lại làm người. Người nào làm được những điều tốt đẹp trong thế gian này và giúp đỡ kẻ khác, nhằm mục đích được đáp đền, hy vọng đến được cõi trời hay được đồng loại ngợi khen thì, khi chết đi, sẽ gặt hái được thành quả của những hành động tốt đẹp đó. Họ trở thành các vị thần.
Nhưng đó không phải là sự cứu rỗi. Sự cứu rỗi không bao giờ đến do hy vọng được đáp đền. Con người ước điều gì thì đấng Chúa Tể ban cho điều đó. Con người ước ao quyền lực, uy tín, họ ước ao được hưởng thụ như thần thánh, và họ được toại nguyện. Nhưng không một hiệu quả nào của công việc có giá trị vĩnh cửu, mà chúng sẽ cạn kiệt dần sau một khoảng thời gian nào đó, có thể là một vô lượng kiếp, nhưng rồi sau đó thì nó sẽ mất đi; và những vị thần này lại phải quay xuống trần gian để làm người, và tìm một cơ hội khác để giải thoát. Những con vật thấp kém sẽ phát triển thành người, có thể thành cả chư thần, nhưng rồi thành người trở lại hoặc quay về làm thú vật, cho đến khi nào chúng thoát ra khỏi ước ao hưởng thụ, không còn khát khao được sống, và thôi bám vào “tôi” và “của tôi”.
“Tôi” và “của tôi” chính là căn nguyên của mọi điều xấu xa, tội lỗi trong thế gian này. Nếu các bạn hỏi một người theo thuyết nhị nguyên : “Đứa nhỏ này có phải là con của bạn không?” thì anh ta sẽ đáp : “Không! Nó là con của Thượng Đế. Tài sản của tôi cũng thực là của tôi, mà nó là của Thượng Đế”. Bất cứ thứ gì cũng đều được xem là thuộc về Thượng Đế.
Hiện nay, tín đồ các tông phái nhị nguyên luận này ở Ấn Độ là những người ăn chay vĩ đại, những nhà truyền giáo vĩ đại về giới luật không sát sinh. Nhưng họ quan niệm chuyện này khác hẳn với các tín đồ Phật giáo. Nếu các bạn hỏi một Phật tử : “Vì sao bạn thuyết giảng không nên sát sinh?” thì anh ta sẽ trả lời : “Ta không có quyền lấy đi bất kỳ sinh mạng nào”. Còn nếu các bạn hỏi một tín đồ theo thuyết nhị nguyên : “Vì sao bạn không giết bất kỳ con vật nào?” thì anh ta sẽ trả lời : “Bởi vì nó thuộc về Thượng Đế”.
Bởi thế, người theo thuyết nhị nguyên bảo rằng “Tôi” và “của tôi” chỉ áp dụng được cho Thượng Đế, và chỉ cho Thượng Đế mà thôi. Ngài là “Tôi” duy nhất, và mọi thứ đều thuộc về Ngài. Khi một người tiến đến cảnh giới không còn “Tôi” và “của tôi”, xem mọi vật đều thuộc về Thượng Đế, yêu thương mọi người và sẵn sàng hiến dâng cuộc sống cho cả loài vật thì tâm anh ta sẽ thuần tịnh, và tràn ngập tình yêu Thượng Đế.
Thượng Đế là trung tâm hấp dẫn của mọi linh hồn, và người theo thuyết nhị nguyên nói : “Cây kim phủ đầy bùn đất thì không bị nam châm hút, nhưng ngay khi rửa sạch bùn đất đi thì nó sẽ hút ngay”. Thượng Đế là nam châm, và linh hồn con người là cây kim, và những hành vi xấu xa tội lỗi là lớp bùn đất che phủ bên ngoài. Khi linh hồn thuần tịnh thì tự nhiên nó sẽ bị hút về Thượng Đế, và sẽ ở đó với Ngài mãi mãi, nhưng vẫn đời đời tách biệt.
Linh hồn thuần tịnh, nếu muốn thì nó có thể nhận mang bất kỳ hình tướng nào; nó có thể mang một trăm thể xác nếu muốn, hoặc không mang thể xác nào nếu thích. Nó hầu như trở nên toàn năng, trừ một việc là không thể sáng tạo ra vũ trụ, vì quyền năng sáng tạo chỉ thuộc về Thượng Đế. Nhưng dù hoàn hảo đến mấy thì cũng không một linh hồn nào có thể quản lý công việc trong vũ trụ, chức năng đó chỉ thuộc về Thượng Đế. Những mọi linh hồn, khi đã trở nên hoàn hảo, sẽ được hạnh phúc đời đời và sống cùng Thượng Đế mãi mãi. Đó là lời phát biểu của thuyết nhị nguyên.
Những người theo thuyết nhị nguyên còn thuyết giảng một điều khác nữa. Họ phản đối thói quen cầu nguyện Thượng Đế : “Hỡi đấng Chúa Tể, hãy cho con cái này, cho con cái nọ”. Họ khẳng định không nên làm thế. Nếu con người muốn cầu xin món quà vật chất thì nên cầu xin những nhân vật thấp bé hơn Ngài, anh ta nên cầu xin với một vị thần, hay một vị hiền triết ban cho những đồ vật phù du. Còn Thượng Đế chỉ để yêu thương mà thôi. Thật là tội báng bổ Thượng Đế khi cầu nguyện : “Hỡi đấng Chúa Tể, hãy cho con cái này, cho con cái nọ”. Theo các nhà nhị nguyên luận, con người cần thứ gì thì trước sau gì cũng có, bằng cách cầu xin với một trong các chư thần, nhưng nếu anh ta muốn được cứu rỗi thì phải sùng bái Thượng Đế. Đó là tôn giáo của đám đông quần chúng tại Ấn Độ.
Triết học Vedānta bắt đầu với những người được xem là theo thuyết phi nhị nguyên hạn chế [qualified non-dualist]. Những người này phát biểu thuyết nhân quả tương đồng, cho rằng quả không khác với nhân; quả chỉ là nhân được tái tạo dưới hình thức khác. Nếu vũ trụ là quả và Thượng Đế là nhân thì vũ trụ phải chính là Thượng Đế – không thể nào khác được. Họ khởi đầu bằng lời khẳng định rằng Thượng Đế vừa là nhân vật chất vừa là nhân hiệu năng của vũ trụ; Ngài chính là đấng Tạo Hóa, và Ngài chính là chất liệu mà từ đó toàn thể thế giới tự nhiên được phóng chiếu ra ngoài. Danh từ “sáng tạo” trong tiếng Sanskrit không có danh từ tương đương nào trong ngôn ngữ các bạn[33], bởi vì không một tông phái nào ở Ấn Độ lại tin vào sự sáng tạo theo cách được mô tả trong Kinh Thánh, xem như có một cái gì đó được sinh ra từ hư không. Dường như tại một giai đoạn nào đó cũng có một đôi người mang ý tưởng như thế, nhưng họ nhanh chóng bị buộc phải im lặng. Hiện nay, tôi không biết có tông phái nào lại tin như thế hay không. Chúng tôi hiểu sáng tạo theo nghĩa là sự phóng chiếu của cái đã hiện hữu trước đó rồi.
Giờ đây, toàn thể vũ trụ, theo tông phái này, là chính Thượng Đế. Ngài là chất liệu của vũ trụ. Chúng ta đọc trong kinh Veda : “Như con nhện nhả tơ ra khỏi cơ thể nó …toàn thể vũ trụ này cũng được sinh ra từ đấng Hằng Hữu kia như vậy đó”. Nhưng nếu quả là nhân được tái tạo thì câu hỏi đặt ra là : “Vấn đề sẽ ra sao nếu ta thấy cái vũ trụ vật chất đần độn, đờ đẫn này lại được sinh ra từ một Thượng Đế không phải là vật chất, mà là trí thông minh vĩnh hằng? Vấn đề sẽ ra sao nếu nhân thì thuần tịnh và hoàn hảo, liệu quả có thể hoàn toàn khác biệt hay không?” Những triết gia phi nhị nguyên hạn chế này nói gì? Học thuyết của họ vô cùng đặc thù. Họ cho rằng cả ba sự tồn tại này – Thượng Đế, thế giới tự nhiên và linh hồn – chỉ là một. Có thể nói rằng Thượng Đế là Linh Hồn, còn thế giới tự nhiên và những linh hồn là thể xác của Ngài. Giống như tôi có một thể xác và một linh hồn thì cũng vậy, toàn thể vũ trụ và mọi linh hồn đều là thể xác của Thượng Đế, và Thượng Đế là Linh Hồn của mọi linh hồn. Do đó, Thượng Đế là nhân vật chất của vũ trụ. Thể xác có thể biến đổi – có thể già nua hay trẻ trung, mạnh khỏe hay yếu ớt – nhưng điều đó chẳng hề có ảnh hưởng gì đến linh hồn. Thể xác đến rồi đi, nhưng linh hồn thì bất biến. Cho đến toàn thể vũ trụ này cũng là thể xác của Thượng Đế, và theo nghĩa đó thì nó chính là Thượng Đế. Nhưng những biến đổi trong vũ trụ không hề ảnh hưởng gì đến Thượng Đế. Từ chất liệu này Ngài đã tạo ra vũ trụ, và đến cuối chu kỳ thì thể xác Ngài dần trở nên tế vi hơn, nó co rút lại; đến thời điểm khởi đầu của một chu kỳ khác thì nó lại giãn nở ra, rồi nó tiến hóa thành tất cả những thế giới khác.
Đến lúc này thì cả những người theo thuyết nhị nguyên lẫn những người phi nhị nguyên hạn chế đều công nhận rằng linh hồn vốn thuần tịnh từ bản chất, nhưng chính những hành động của nó làm cho nó trở nên ô nhiễm. Những người phi nhị nguyên hạn chế diễn tả điều này hoa mỹ hơn những người theo thuyết nhị nguyên, họ bảo rằng sự thuần tịnh và hoàn hảo của linh hồn bị co rút lại và hiển lộ ra ngoài; và tất cả những gì ta cần phải làm tái hiển lộ trí thông minh, sự thuần tịnh cùng năng lực vốn có của linh hồn. Linh hồn có vô số phẩm tính, trừ sự toàn năng và nhất thiết trí. Mỗi hành vi độc ác đều làm co rút bản chất của linh hồn lại, còn từng hành vi tốt đẹp lại khiến nó giãn nở thêm ra, và những linh hồn này là tất cả những thành phần của Thượng Đế. “Giống như hàng triệu đốm lửa cùng bản chất bắn ra khỏi ngọn lửa rực sáng, những linh hồn này cũng bắn ra khỏi đấng Hằng Hữu Vô Biên – tức Thượng Đế – như vậy đó”. Mỗi linh hồn đều có một mục đích chung. Thượng Đế của những người phi nhị nguyên hạn chế cũng là một Thượng Đế Nhân Thể, cũng là kho vô tận các phẩm tính hưởng lạc phúc, chỉ có Ngài mới thấu nhập vào lòng vạn hữu trong vũ trụ. Ngài tự tại trong muôn vật và hiện hữu mọi nơi. Khi kinh điển nói rằng Thượng Đế hiện hữu trong muôn vật thì có nghĩa là Ngài đang thấu nhập trong lòng vạn hữu; không phải Thượng Đế trở thành bức tường này mà ngài đang hiện hữu trong bức tường. Không có một phân tử nào, không có một nguyên tử nào trong vũ trụ mà Ngài lại không hiện hữu ở bên trong. Mọi linh hồn đều bị giới hạn, chúng không thể hiện hữu ở khắp nơi. Khi chúng khoáng trương năng lực và trở nên hoàn hảo thì chúng sẽ vượt ra ngoài vòng sinh tử, và sống với Thượng Đế đời đời.
Bây giờ, chúng ta đến với Advaita hay nhất nguyên luận Vedānta, trường phái cuối cùng của triết học Vedānta, mà chúng tôi cho là bông hoa rực rỡ nhất của triết học và tôn giáo của mọi xứ sở ở mọi thời đại, trong đó tư tưởng con người đã được biểu hiện đến mức tối cao, vượt qua cả sự huyền nhiệm bất khả lý giải. Đây là thuyết phi nhị nguyên Vedānta. Nó quá thâm thúy, quá cao siêu để có thể trở thành tôn giáo của quần chúng. Thậm chí tại Ấn Độ là nơi khai sinh ra nó, là nơi nó đã giữ uy quyền tối thượng, triết học này cũng không thể nào phổ cập được cho quần chúng.
Càng nghiên cứu sâu hơn, chúng ta sẽ thấy rằng ngay cả những người thâm thúy, sâu sắc nhất tại bất kỳ nước nào cũng khó lòng hiểu được Advaita. Chúng ta đã tự biến mình thành những kẻ bạc nhược, chúng ta đã tự hạ mình quá mức. Chúng ta có thể phô diễn sức mạnh, nhưng lại phải dựa vào một kẻ khác. Chúng ta như những thân cây nhỏ nhoi yếu ớt, luôn cần đến một giá đỡ. Đã biết bao lần, người ta hỏi tôi về một “tôn giáo dễ chịu”! Rất ít người hỏi về chân lý, số người dám học hỏi chân lý càng ít hơn nữa, và ít nhất là những người dám cưu mang chân lý. Đó không phải là lỗi của họ, mà tất cả là do sự bạc nhược của đầu óc. Bất kỳ tư tưởng mới nào, nhất là những tư tưởng cao siêu, đều gây nên xáo trộn, đều cố gắng tạo ra một thông lộ mới, có thể nói như vậy, trong bộ não và làm chao đảo hệ thống, và làm con người mất cả thăng bằng. Họ đã quen với những lớp tường rào vây bọc chung quanh, và giờ đây phải vượt qua khối lượng khổng lồ những điều mê tín xa xưa, những điều mê tín của tổ tiên, của giai cấp, của thành phố, của đất nước, và đằng sau tất cả những thứ đó là lòng mê tín bẩm sinh của mỗi con người. Tuy nhiên, vẫn có một vài người dũng cảm dám cưu mang chân lý, đảm nhận chân lý, và dám dấn thân theo nó đến cùng.
Một triết gia Advaita tuyên bố điều gì? Ông ta nói rằng nếu có Thượng Đế thì Thượng Đế đó phải vừa là nhân vật chất, vừa là nhân hiệu năng của vũ trụ. Ngài không chỉ là Hóa Công mà còn là Tạo Vật. Ngài chính là vũ trụ này.
Làm sao mà Thượng Đế, đấng Thuần Tịnh, là Tinh Thần lại có thể trở thành vũ trụ? Vâng, có lẽ là thế. Cái mà tất cả kẻ ngu đều nhìn thấy như là vũ trụ thực ra không tồn tại. Bạn và tôi, hay tất cả những gì chúng ta thấy, là gì? Chỉ là sự tự thôi miên. Chỉ có duy nhất một Tồn Tại, một đấng Vô Biên, một đấng Hưởng Lạc Phúc Vĩnh Viễn. Trong Tồn Tại đó, chúng ta mơ tới tất cả những giấc mơ khác. Nó là Ātman, siêu việt tất cả, là Cái Vô Biên, vượt quá cái sở tri, cái khả tri; trong Cái Đó và thông qua Cái Đó, chúng ta thấy được vũ trụ này. Nó là Thực Tại duy nhất. Nó là cái bàn này; Nó là thính giả trước mặt tôi; Nó là bức tường này; Nó là vạn vật – trừ đi hình thể và tên gọi[34]. Lấy hình thể ra khỏi cái bàn này, lấy đi tên gọi thì cái còn lại chính là Nó.
Một triết gia Vedānta không gọi Ātman là Nam hay Nữ – giới tính chỉ là thứ hư cấu hoang đường trong bộ não con người –không hề có giới tính trong Linh Hồn. Những kẻ nào đang mắc ảo tưởng, những kẻ nào đã biến thành như loài vật, mới thấy có nam có nữ; chư thần sinh động không hề thấy có nam hay nữ. Làm sao một kẻ đã vượt ra ngoài vạn hữu lại có ý niệm về giới tính? Một người và mọi vật đều là Ātman, là Chân Ngã – không giới tính, thuần tịnh, luôn hưởng lạc phúc.
Chính hình thể và tên gọi – do māyā tạo ra – tạo ra tất cả sự khác biệt mà chúng ta nhìn thấy trong thế giới này giữa những sự vật với nhau. Nếu các bạn loại bỏ đi sự khác biệt về tên gọi và hình thể thì toàn thể vũ trụ này là một. Không có hai, mà chỉ là một, ở khắp mọi nơi. Các bạn và tôi là một. Không có thế giới tự nhiên, không có Thượng Đế mà cũng chẳng có vũ trụ; mà chỉ có một Tồn Tại Vô Biên Duy Nhất, từ đó mà vạn vật được tạo dựng, thông qua hình thể và tên gọi.
Làm sao các bạn biết được Chủ Thể Biết [Knower]? Chủ Thể Biết là bất khả tri. Làm sao các bạn có thể thấy được Chân Ngã của mình? Các bạn chỉ có thể tự phản chiếu chính bản thân mình. Cho nên vũ trụ này là sự phản chiếu của Hằng Hữu Vĩnh Viễn Duy Nhất – tức Ātman. Và khi sự phản chiếu này rơi trên những vật phản chiếu tốt hay xấu như thế nào thì những hình ảnh tốt hay xấu được tạo ra như thế ấy. Bởi vậy, trong kẻ sát nhân, vật phản chiếu có bản chất xấu xa chứ không phải là Chân Ngã. Nơi bậc hiền triết, vật phản chiếu có bản chất thuần tịnh. Chân Ngã – hay Ātman – đã thuần tịnh trong tự tính. Cũng chính Tồn Tại Duy Nhất đó, cũng chính Ātman đó đang phản chiếu trong Tự Thân từ loài sâu bọ thấp hèn nhất cho đến con người cao nhất, và hầu như hoàn hảo.
Toàn thể vũ trụ là Nhất Thể duy nhất, là Tồn Tại duy nhất cả về phương diện vật chất, đạo đức lẫn tâm linh. Chúng ta đang nhìn Tồn Tại duy nhất này trong nhiều hình tướng khác nhau, và đang sáng tạo nên mọi hình ảnh trên Nó. Đối với những người tự giới hạn mình vào thân phận con người thì Nó xuất hiện như là thế giới con người. Đối với những người ở trong cảnh giới tồn tại cao hơn thì nó có thể xuất hiện như là thiên đàng. Nhưng chỉ có một Linh Hồn duy nhất trong vũ trụ, không hề có hai. Nó không đến cũng không đi, bất lai bất khứ. Nó không sinh cũng chẳng tái sinh. Làm sao Nó có thể chết được? Nó có thể đi đâu sau khi chết? Mọi cõi trời, mọi cõi đất đều là trí tưởng tượng hão huyền của tâm thức. Chúng không tồn tại, chưa từng tồn tại trong quá khứ, cũng không bao giờ tồn tại trong tương lai.
Tôi vô sở bất tại, tôi hiện hữu khắp nơi, và thường tồn vĩnh cửu. Tôi có thể đi đâu được? Tôi đang đọc cuốn sách của thế giới tự nhiên. Tôi đang đọc hết trang này sang trang khác, và hết giấc mộng đời này đến giấc mộng đời khác cứ nối tiếp nhau lần lượt ra đi. Một trang đời khác được giở ra, một giấc mộng đời khác lại đến, và mọi sự cứ trôi chảy hoài như thế. Và khi đã đọc xong, tôi gác hết mọi chuyện lại và đứng qua một bên; tôi vất cuốn sách đó đi, và mọi chuyện chấm dứt.
Triết gia Advaita đó truyền giảng điều gì? Ông ta lật đổ ngai vàng của tất cả những chư thần đã từng tồn tại, hoặc sẽ tồn tại trong vũ trụ, và trên ngôi báu đó, ông đặt Chân Ngã con người – tức Ātman, cao siêu hơn mặt trời, mặt trăng, cao siêu hơn những cõi trời, vĩ đại hơn chính cái vũ trụ vĩ đại này. Không sách vở nào, không kinh điển nào, không khoa học nào có thể hình dung được sự huy hoàng chói lọi của Chân Ngã đang xuất hiện như là con người – đó là Thượng Đế rực rỡ nhất đã từng tồn tại, Thượng Đế duy nhất đã từng tồn tại, và sẽ tồn tại vĩnh viễn. Bởi vậy, tôi không sùng bái ai ngoài chính Chân Ngã của tôi. “Tôi sùng bái Chân Ngã của mình”, Triết gia Advaita nói, “Tôi sẽ cúi đầu trước ai? Tôi cúi đầu trước Chân Ngã. Tôi sẽ cầu xin ai giúp đỡ? Ai có thể giúp được tôi – đấng Hằng Hữu Vô Biên của vũ trụ này?”. Đừng mơ tưởng đến những giấc mơ xuẩn ngốc. Ai có thể giúp được ai? Không một ai cả. Có khi các bạn thấy một người bạc nhược, một kẻ theo thuyết nhị nguyên, đang khóc lóc cầu xin trời cao phù hộ, đó là vì anh ta không hiểu rằng các cõi trời kia đều đã ở cả trong anh ta rồi. Anh ta muốn trời cao giúp đỡ, và sự giúp đỡ đó xuất hiện. Chúng ta thấy rằng nó đến, nhưng đến từ bên trong anh ta, và anh ta nhầm lẫn là nó đến từ bên ngoài. Đôi khi, một người bệnh nằm trên giường có thể nghe tiếng gõ cửa. Anh ta đứng dậy, đi ra mở cửa nhưng chẳng thấy ai. Anh ta quay vào giường, lại nghe tiếng gõ của. Anh ta lại đứng dậy, và đi ra mở cửa. Chẳng có một ai. Cuối cùng, anh ta phát hiện ra đó chính là tiếng đập của trái tim mình, mà anh ta tưởng lầm là tiếng gõ cửa.
Con người cũng vậy, sau khi tìm tòi vô vọng những thần linh ở bên ngoài, sau khi hoàn tất một chu kỳ và quay về lại điểm xuất phát, tức linh hồn con người, anh ta mới phát hiện ra rằng vị Thượng Đế mà anh ta đi tìm ở khắp chân trời góc biển, trong mọi hang cùng ngõ hẻm, trong tất cả đền thờ, chùa chiền, tu viện, vị Thượng Đế mà anh tưởng tượng là đang ngự trị trên thiên đàng và cai trị thế gian, vị đó chính là Chân Ngã của anh ta. Ta là Ngài, và Ngài là Ta. Chỉ có ta mới chính là Thượng Đế, cái “Tôi” hèn mọn nhỏ bé này chưa hề tồn tại.
Làm thế nào một Thượng Đế hoàn hảo lại có thể bị lừa gạt? Không bao giờ. Làm thế nào một Thượng Đế hoàn hảo lại có thể ước mơ? Không bao giờ. Chân lý không bao giờ ước mơ. Ngay câu hỏi về vọng tưởng phát sinh từ đâu cũng đã là phi lý. Vọng tưởng chỉ phát sinh từ vọng tưởng. Sẽ không còn vọng tưởng ngay khi ta thấy được chân lý. Vọng tưởng luôn dựa vào vọng tưởng;nó không bao giờ dựa vào Thượng Đế, Chân Lý hay Ātman. Các bạn không bao giờ ở trong vọng tưởng; mà vọng tưởng ở trong các bạn, trước mắt các bạn. Giả sử ở đây đang có một đám mây, một đám mây khác đến và đẩy dạt nó đi để chiếm chỗ; rồi một đám mây khác nữa cũng đến và đẩy dạt đám mây đó đi. Giống như bầu trời mãi mãi xanh lơ, cho dù có vô số các đám mây đủ màu xuất hiện trước nó, rồi tan; Ātman cũng thế, vẫn mãi mãi thuần tịnh, vẫn vĩnh viễn hoàn hảo; đó là Chân Ngã của các bạn.
Bạn là Thượng Đế chân chính của vũ trụ này; vâng, không hề có hai, chỉ có Nhất Thể. Thật là lầm lẫn khi nói : “Bạn” và “Tôi”. Chính Tôi đang ăn trong muôn triệu cái miệng; làm sao tôi có thể đói được? Chính Tôi đang làm việc qua vố số bàn tay; làm sao tôi có thể thụ động được? Chính Tôi đang sống xứ sở của toàn thể vũ trụ; đâu là cái chết dành cho tôi? Tôi vượt qua sống chết, thoát khỏi tử sinh. Tôi sẽ tìm giải thoát ở nơi đâu? Bởi vì tôi đã giải thoát, đã tự do từ bản tính. Ai có thể ràng buộc được tôi – vị Thượng Đế của vũ trụ này? Tất cả kinh điển của thế gian chỉ là những tấm bản đồ nhỏ bé, đang cố gắng miêu tả sự vinh quang rực rỡ của tôi; tôi là sự tồn tại duy nhất. Vậy thì những cuốn sách đó là gì đối với tôi? Triết gia Advaita đã nói như thế.
“Hãy nhận biết Chân Lý và giải thoát trong chốc lát”. Lúc đó, tất cả bóng đêm đều sẽ tan biến. Khi con người thấy mình đã hợp nhất với Hằng Hữu Vô Biên của vũ trụ rồi, khi mọi sự phân cách không còn nữa, khi tất cả nam nữ, chư thần, thú vật, cây cỏ và toàn thể vũ trụ đều viên dung tương nhập trong Nhất Thể Tính đó thì mọi sợ hãi đều tan biến. Tôi có thể xúc phạm đến tôi chăng? Tôi có thể giết tôi chăng? Tôi có thể làm tổn thương tôi chăng? Tôi phải sợ ai? Các bạn có thể nào sợ hãi chính mình chăng? Lúc đó, mọi phiền não ưu sầu đều biến sạch. Điều gì có thể khiến tôi ưu ầu? Tôi là Tồn Tại duy nhất. Mọi sự ganh tỵ, do vậy, cũng sẽ tan biến hết. Tôi ganh tỵ với ai đây? Với chính tôi sao? Mọi ác cảm, do vậy, cũng sẽ tan biến hết. Tôi ác cảm với ai đây? Với chính tôi sao? Không còn gì trong vũ trụ ngoài tôi.
Đây là con đường duy nhất dẫn đến Tri Thức, triết gia Advaita nói như thế. Hãy trừ tuyệt tâm phân biệt, hãy trừ tuyệt óc mê tín cho rằng có sai biệt đa thù. “Người nào thấy được Nhất Thể trong thế giới sai biệt đa thù này; người nào thấy được kẻ Hữu Tình [sentient Being] giữa đám đông vô cảm, vô tình này; người nào nắm bắt được Thực Tại trong thế giới tối tăm này thì tâm người đó được an lạc vĩnh cửu, và chỉ người đó thôi, chứ không phải một ai khác”.
Đây là những điểm nổi bật trong ba bước, mà tư tưởng tôn giáo Ấn Độ dùng để hình dung Thượng Đế. Chúng ta đã thấy rằng quan niệm đó bắt đầu với một Thượng Đế Nhân Thể ở bên ngoài vũ trụ. Nó đi từ một Thượng Đế ở thế giới bên ngoài đến một Thượng Đế trong thế giới nội tâm, một Thượng Đế nội tại trong vũ trụ; và hoàn tất bằng sự đồng nhất chính tự ngã với Thượng Đế đó; và biến tất cả những biểu hiện trong vũ trụ thành một Linh Hồn, một Đơn Thể. Đó là giáo lý tối hậu của các kinh Veda. Nó khởi đầu bằng thuyết nhị nguyên, kinh qua thuyết phi nhị nguyên hạn chế, và hoàn tất bằng thuyết phi nhị nguyên hoàn hảo.
Chúng ta biết rằng, trong đời này, hiếm có ai có thể đi đến tận cùng, thậm chí hiếm có ai tin vào tư tưởng đó, số người dám hành trì theo tư tưởng đó lại càng hiếm hoi hơn nữa. Tuy vậy, chúng ta đều biết rằng trong tư tưởng đó chứa đựng cách giải thích về toàn bộ nền luân lý, đạo đức, cũng như tâm linh trong vũ trụ. Tại sao mọi người đều nói ” Hãy làm điều tốt cho người khác”. Đâu là cách giải thích? Vì sao những người vĩ đại đều truyền giảng về tình huynh đệ giữa con người? Và tại sao những người vĩ đại hơn lại truyền giảng về tình huynh đệ giữa muôn loài sinh vật? Bởi vì, từ đằng sau tất cả mọi sinh linh, dù họ có biết được điều đó hay không, vẫn tỏa sáng lên – xuyên qua tất cả những điều mê tín phi lý hoặc mang tính cá nhân của họ – ánh linh quang muôn đời của Chân Ngã, phủ nhận mọi sự sai biệt đa thù, và khẳng định toàn thể vũ trụ này là nhất thể.
Lại nữa, lời tối hậu đó ban cho chúng ta một vũ trụ, mà thông qua các giác quan, ta thấy như là vật chất; thông qua trí năng, ta thấy như là các linh hồn; và thông qua Tâm Linh, ta thấy như là Thượng Đế. Đối với những kẻ tự che lấp mình bằng những thứ mà thế gian gọi là sự độc ác hay tội lỗi thì vũ trụ này sẽ biến đổi và trở thành một nơi kinh tởm; đối với những người cần đến niềm vui thì vũ trụ này sẽ thay đổi hình tướng và trở thành một thiên đàng; đối với một người hoàn hảo thì toàn bộ sự vật sẽ tan biến, để hiển lộ như là Chân Ngã của anh ta.
Giờ đây, trong xã hội hiện đại, cả ba giai đoạn đó đều cần
thiết; giai đoạn này không phủ nhận mà chỉ đơn giản là tựu thành giai đoạn kia.
Các triết gia Advaita hay triết gia Advaita hạn chế không bảo rằng thuyết nhị
nguyên là sai; nó là một quan điểm đúng, nhưng thấp hơn. Quan điểm đó đang trên
đường đi đến Chân Lý. Bởi vậy, hãy để mọi người xác lập quan điểm riêng của
mình về vũ trụ, tùy theo ý tưởng của từng người. Đừng làm tổn thương bất kỳ ai,
đừng phủ nhận bất kỳ ai. Hãy đón nhận con người nơi anh ta đứng, và nếu có thể
thì các bạn hãy chìa tay ra để giúp anh ta bước lên bậc cao hơn; chớ đừng làm
tổn thương, cũng đừng phá hủy. Cuối cùng, ai nấy cũng đều đến được với Chân Lý.
“Khi chế ngự được mọi tham dục trong tâm thì con người bình thường cũng sẽ
trở thành bất tử”, chính con người đó sẽ trở thành Thượng Đế.
(Diễn thuyết tại Mỹ)
Theo triết học Advaita thì trong vũ trụ chỉ có một thứ duy nhất có thực, đó là Brahman. Mọi sự vật khác đều không thực, đều được phô bày và tạo tác từ Brahman do sức mạnh của māyā. Mục đích của chúng ta là quay ngược về lại với Brahman. Mỗi người trong chúng ta đều là Brahman đó, Thực Tại đó, cộng thêm với māyā. Nếu chúng ta có thể có thể thoát khỏi māyā hay vô minh thì chúng ta trở về nguyên tính. Theo triết học này thì mỗi người gồm có ba phần : thể xác, cơ quan nội tại hay tâm trí, và đằng sau đó là cái được gọi là Ātman, hay Chân Ngã. Thể xác là lớp vỏ bọc bên ngoài, còn tâm trí là lớp vỏ bọc bên trong của Ātman; Ātman mới là kẻ nhận thức thực sự, hưởng thụ thực sự, là đấng Chân Hữu [real Being] trong thể xác, nó điều khiển thể xác làm việc thông qua phương tiện là các cơ quan bên trong hay tâm trí.
Ātman là cái tồn tại duy nhất trong thể xác con người, và phi vật chất. Bởi vì Nó phi vật chất, nên Nó không thể là một thể phức hợp, và vì không phải là một thể phức hợp nên Nó không bị chi phối bởi quan hệ nhân quả, do đó Nó bất tử. Cái gì bất tử thì không có khởi đầu, bởi vì tất cả cái gì có khởi đầu thì phải có kết thúc. Do đó, Nó cũng phải vô hình tướng, bởi vì không có thứ gì có hình tướng mà không phải là vật chất. Mọi vật có hình tướng đều phải có khởi đầu và kết thúc. Tất cả chúng ta đây, không một ai thấy được hình thể nào không có khởi đầu lẫn kết thúc. Hình thể sinh ra từ sự kết hợp của lực và vật chất. Cái ghế này có một hình thể riêng biệt, điều đó có nghĩa là một số lượng lực nào đó đã tác động lên một số lượng vật chất nào đó để tạo ra cái hình thể riêng biệt đó. Hình thể này là sự kết hợp của lực và vật chất. Sự kết hợp đó không vĩnh viễn; đến một lúc, tất cả những sự kết hợp đó đều tan rã. Cho nên mọi hình thể đều có khởi đầu và kết thúc. Nhưng Chân Ngã, do không có hình thể, nên không thể có khởi đầu và kết thúc. Nó đã tồn tại từ vô thủy.
Thứ hai, Chân Ngã phải phổ hiện khắp nơi. Chỉ có những thứ gì bị quy định và giới hạn bởi không gian mới có hình thể, những gì vô thể thì không thể bị quy định trong không gian. Bởi thế, theo triết học Advaita thì Chân Ngã – hay Ātman – trong các bạn, trong tôi, trong tất cả mọi người, đều toàn nhiên phổ hiện. Giờ đây, các bạn hiện hữu trong mặt trời cũng nhiều như ở trên trái đất, có mặt ở nước Anh cũng nhiều như ở châu Mỹ. Nhưng khi Chân Ngã tác động thông qua một tâm trí và thể xác cụ thể thì hoạt động của Nó mới hiển lộ ra ngoài.
Mỗi hành động ta làm, mỗi tư tưởng ta tư duy đều tạo ra một ấn tượng –trong tiếng Sanskrit gọi là samskāra (hành) – lên tâm trí, và tổng số những tượng ấn đó biến thành một sức mạnh khủng khiếp gọi là “tính cách”. Tính cách của mỗi người là những gì họ tạo ra cho chính bản thân mình, nó là kết quả của những hành động thể xác và tinh thần mà họ đã thực hiện trong đời mình. Tổng số các samskāra tạo thành nghiệp lực dẫn dắt con người trong kiếp sau. Một người khi chết thì thể xác tan rã và trở về các thành tố ban đầu, nhưng samskāra thì còn lại, dính chặt vào tâm trí và không tan ra vì tâm trí được cấu tạo bằng những chất liệu tế vi, mà chất liệu càng tế vi thì càng bền bỉ. Nhưng cuối cùng thì tâm trí cũng tan rã, và đó chính là mục tiêu của chúng ta.
Trong mối quan hệ này, hình ảnh minh họa hay nhất nảy ra trong tâm trí tôi là hình ảnh cơn lốc. Nhiều dòng không khí từ nhiều hướng khác nhau cũng thổi tới và gặp nhau, chúng hội tụ tại giao điểm đó và tiếp tục xoáy tròn; khi cơn lốc xoáy, nó tạo nên một cột bụi, cuốn đi giấy vụn, rơm rác v.v… thả những thứ đó xuống chỗ này và chuyển đến chỗ khác; và nó cứ tiếp tục cuốn xoáy, lên cao và tạo thành những cột bụi từ những thứ nó gặp trên đường đi. Có những lực như thế ấy, trong tiếng Sanskrit gọi là prāna, cùng hội tụ lại và tạo nên thể xác cùng tâm trí từ vật chất, rồi tiếp tục di chuyển cho đến khi thể xác tan rã thì chúng lại dựng những chất liệu khác lên để tạo nên một thể xác khác; khi thể xác này tan rã thì thể xác khác đứng lên, và tiến trình này cứ tiếp tục như thế.
Lực không thể di chuyển nếu không có vật chất. Cho nên khi thể xác tan rã thì chất liệu của tâm trí vẫn còn, prāna vẫn tác động trong đó, rồi nó tiếp tục di chuyển đến một vị trí khác, dựng lên một cơn lốc khác từ những chất liệu mới, và khởi đầu một chuyển động mới; cứ thế, nó di chuyển từ nơi này đến nơi khác, cho đến khi lực đó cạn kiệt thì nó tan rã và chấm dứt. Do đó, khi tâm trí kết thúc, bị tan vỡ toàn bộ, không để lại một ấn tượng (samskāra) nào thì chúng ta sẽ hoàn toàn tự do; nhưng trước khi đến được thời điểm đó thì chúng ta vẫn bị trói buộc, Ātman vẫn bị bao phủ trong cơn lốc của tâm trí, và cứ vọng tưởng rằng Nó đang bị mang đi từ nơi này đến nơi khác. Khi cơn lốc dịu lại, Ātman phát hiện ra Nó phổ hiện khắp nơi. Nó có thể đi đến bất cứ nơi nào Nó thích, hoàn toàn tự do, và có thể tạo nên các thể xác và tâm trí mà Nó muốn với một số lượng bất kỳ. Nhưng trước khi đến thời điểm đó thì Nó chỉ có thể đi chung cùng cơn lốc. Cảnh giới tự do này là mục tiêu mà tất cả chúng ta đang hướng tới.
Giả sử, có một trái banh trong phòng này, mỗi người trong chúng ta cầm một cái vồ trên tay và đánh vào nó hàng trăm cú; khiến nó văng từ điểm này sang điểm khác, cho đến khi nó bay ra ngoài. Cái gì mang trái banh đi, và nó đi theo hướng nào? Những điều này được xác định bởi những lực đã tác động lên nó trong khắp căn phòng này. Tất cả những cú đánh khác nhau đó sẽ làm phát sinh hiệu quả. Mỗi hành động, mỗi suy nghĩ của chúng ta là những cú đánh như thế, và tâm trí con người như trái banh bị đánh đó. Chúng ta luôn nhận những cú đánh từ tứ phía, trong căn phòng thế giới này, và con đường thoát ra khỏi căn phòng đó tùy thuộc vào lực của tất cả những cú đánh kia. Trong mỗi trường hợp, tốc độ và hướng của trái banh được quyết định bởi những cú đánh mà nó đón nhận; như thế thì tất cả những hành động của chúng ta trong thế giới này sẽ quyết định kiếp sống tương lai. Kiếp này, do đó, là kết quả của kiếp sống trong quá khứ.
Xin đơn cử một ví dụ : Giả sử tôi đưa cho các bạn một sợi dây xích dài vô tận, không đầu không đuôi, cứ một khoan đen nối với một khoen trắng, và hai khoen tạo thành một đơn vị. Nếu tôi hỏi các bạn về bản chất của sợi dây xích thì ban đầu bạn sẽ thấy khó mà xác định được, vì nó kéo dài vô tận về cả hai chiều. Nhưng các bạn sẽ nhanh chóng phát hiện ra rằng sợi xích là sự lặp lại vô tận các đơn vị gồm một khoen đen và một khoen trắng. Nếu các bạn hiểu được bản chất của một trong những đơn vị này thì các bạn sẽ hiểu được toàn bộ sợi xích, bởi vì nó là sự lặp lại hoàn chỉnh. Đời sống của chúng ta cũng như vậy đấy; quá khứ, hiện tại và tương lai tạo thành – có thể nói như vậy – một sợi xích dài vô tận, vô thủy vô chung, mỗi đơn vị của nó là một cuộc sống gồm sinh và tử. Ở kiếp này, chúng ta là gì và làm gì thì đó chỉ là sự lặp đi lại lại, với khác biệt chút đỉnh. Cho nên, nếu biết được một đơn vị của cuộc sống này thì chúng ta biết được toàn bộ những kiếp sống mà chúng ta đã trải qua trong cõi thế. Bởi vậy, chúng ta thấy rằng con đường đưa chúng ta vào thế giới này hoàn toàn được quyết định bởi những con đường của chúng ta trong tiền kiếp. Tương tự như vậy, sự hiện diện của chúng ta trong thế giới này được quyết định bởi những hành động của chính chúng ta.
Chúng ta đi ra khỏi thế giới này với tổng số những ấn tượng tác động lên chúng ta trong hiện tại như thế nào thì chúng ta đi vào thế giới này với tổng số những ấn tượng đã tác động lên chúng ta trong quá khứ như thế ấy; những gì mang chúng ta ra cũng chính là cái đưa chúng ta vào. Cái gì mang chúng ta vào thế giới này? Hành vi của chúng ta trong quá khứ. Cái gì mang chúng ta ra? Hành vi của chúng ta trong hiện tại. Chúng ta cứ mãi tiếp tục như thế. Như con tằm nhả tơ và tạo nên kén, để rồi cuối cùng bị trói buộc trong kén đó, chúng ta cũng tự trói buộc mình bằng những hành vi của chính mình, chúng ta giăng lưới quanh mình bằng những hành vi của chính chúng ta. Chúng ta đã đặt ra luật nhân quả trong chuyển động, và chúng ta thấy khó lòng thoát ra khỏi nó. Chúng ta đã khởi động bánh xe, và bị bánh xe đè nát. Bởi vậy, triết học này dạy ta biết rằng tất cả chúng ta đều bị những hành vi của chúng ta trói buộc như nhau, bất kể đó là hành vi tốt hay xấu.
Ātman chưa từng đến hay đi, chưa từng sinh hay tử. Chính thế giới tự nhiên dịch chuyển trước Ātman, và Ātman phản chiếu sự dịch chuyển đó; nhưng Nó lại khờ khạo ngỡ rằng mình đang dịch chuyển, chứ không phải thế giới tự nhiên. Khi Ātman ngỡ thế thì Nó còn nằm trong vòng trói buộc; nhưng khi Nó phát hiện ra rằng Nó chưa từng dịch chuyển thì Nó toàn nhiên phổ hiện, và đạt đến cảnh giới giải thoát. Ātman còn nằm trong vòng trói buộc được gọi là jiva (sinh mạng). Do vậy, các bạn thấy rằng khi ta nói Ātman đến và đi thì đó chỉ là cách diễn đạt mang ý nghĩa tượng trưng. Cho nên jiva – linh hồn còn bị trói buộc – sẽ đi đến những trạng thái cao hơn hoặc thấp hơn. Đây là quy luật luân hồi nổi tiếng, và quy luật này trói buộc tất cả sinh linh.
Dân chúng ở đất nước này cứ nghĩ rằng một người mà bị đầu thai làm loài vật là điều quá kinh khủng. Cớ sao lại thế? Loài vật không đáng giá gì sao? Nếu chúng ta có linh hồn thì chúng cũng có linh hồn; còn nếu như chúng không có linh hồn thì ta cũng chẳng có. Thật là quá đỗi phi lý khi cho rằng chỉ con người mới có linh hồn còn loài vật thì không. Tôi đã từng thấy những người còn đê tiện hơn cả loài vật.
Linh hồn con người cư lưu trong những hình thức thấp hơn hoặc cao hơn, di chuyển từ hình thức này sang hình thức khác, tuỳ thuộc vào các samskāra hoặc ấn tượng của chính mình; nhưng với tư cách là con người, linh hồn chỉ ở trong hình thức tối cao là khi đạt đến giải thoát. Hình thức-người [man-form] thậm chí còn hơn cả hình thức-thần [man-god], và là hình thức cao nhất trong mọi hình thức. Con người là sinh thể tối cao trong tất cả tạo vật, vì chỉ con người mới đạt đến cảnh giới giải thoát.
Toàn thể vũ trụ này đã nằm trong lòng Brahman, và có thể nói rằng nó được phóng chiếu ra từ Ngài, và đang quay ngược về nguồn cội, nơi nó được phóng chiếu ra – giống như dòng điện sinh ra từ máy phát điện, hoàn tất một chu trình tối quay về lại với máy phát. Trường hợp linh hồn cũng vậy. Được phóng chiếu ra từ Brahman, linh hồn trải qua tất cả những hình thức cỏ cây, cầm thú, rồi cuối cùng thành con người; và con người là hình thức gần nhất với Brahman.
Quay về lại với Brahman – mà từ đó chúng ta được phóng chiếu ra – là cuộc đấu tranh vĩ đại nhất trong đời. Mọi người có biết được điều đó hay không thì cũng chẳng ảnh hưởng gì. Trong vũ trụ, bất kỳ một hình thức dịch chuyển hay đấu tranh nào mà chúng ta thấy được – nơi khoáng vật, cỏ cây hay muông thú – đều là sự đấu tranh để quay về lại với trung tâm, và yên nghỉ. Đã từng có một sự quân bình, nhưng nó đã bị phá hủy; và muôn vật – kể cả mọi nguyên tử hay phân tử – đều đang đấu tranh để tìm lại sự quân bình đã mất đó. Trong cuộc đấu tranh đó, chúng cùng nhau kết hợp và tái tạo hình thể, tạo nên cao trào cho mọi hiện tượng kỳ diệu của tự nhiên. Mọi sự đấu tranh và ganh đua trong đời sống loài vật, cỏ cây và ở khắp nơi khác, tất cả những cuộc đấu tranh xã hội và chiến tranh chỉ là sự biểu hiện của cuộc đấu tranh vĩnh cửu để phục hồi lại sự quân bình đó.
Đi từ cõi sinh sang cõi tử, cuộc hành trình đó là cái mà trong tiếng Sanskrit gọi là samsāra, có nghĩa là vòng sinh tử luân hồi. Mọi tạo vật, khi đã trải qua trọn vẹn vòng sinh tử luân hồi đó thì sớm muộn gì cũng đạt đến giải thoát. Có thể nêu câu hỏi : nếu rốt cuộc tất cả đều được giải thoát, thế thì chúng ta cần phải đấu tranh để làm gì? Nếu mọi người ai nấy đều sẽ được giải thoát, sao không cứ việc ngồi chờ? Đúng là tất cả chúng sinh sớm muộn gì cũng đều được giải thoát, đúng là không một ai bị bỏ sót, không có gì bị hủy diệt và vạn vật đều được giải thoát – nếu quả là thế thì sự đấu tranh của chúng ta có ích gì?
Thứ nhất, đấu tranh là phương tiện duy nhất sẽ đưa chúng ta đến trung tâm; thứ hai, chúng ta không biết được vì sao mình phải đấu tranh, mà chỉ biết cần phải đấu tranh. “Trong số hàng ngàn người, chỉ một vài người tỉnh ngộ trước ý tưởng họ sẽ được giải thoát”. Đám đông nhân loại khổng lồ vẫn thấy hài lòng với những thế giới vật chất, nhưng chỉ có một vài người thức tỉnh, muốn quay về nguồn cội, những người thấy vui chơi ở trần gian thế là đã đủ. Những người này đấu tranh một cách có ý thức, trong khi những người còn lại đấu tranh một cách vô thức.
Tư tưởng đầu tiên và cuối cùng của triết học Vedānta là “từ bỏ thế gian”, từ bỏ cái thế giới hư ảo này để tìm đến cái thế giới chân thực. Những người say mê thế giới này có thể hỏi : “Vì sao ta lại phải cố thoát ra khỏi cái thế giới này, và quay về với trung tâm? Cứ cho là tất cả chúng ta đều đến từ Thượng Đế đi, nhưng chúng tôi thấy thế giới này thật là dễ chịu và tươi đẹp; vậy thì tại sao chúng tôi lại phải cố thoát ra khỏi nó chứ?” Họ bảo : “Hãy nhìn xem thế giới này được cải thiện từng ngày – có biết bao nhiêu thứ xa xỉ được tạo ra cho chúng ta! Thiệt là thoải mái! Vậy thì việc gì chúng ta phải đi xa để tìm một cõi không được như cái thế giới này?”
Câu trả lời là thế này : thế gian này biến đổi vô thường, chúng ta đã bao nhiêu lần hưởng thụ những thú vui tương tự. Tất cả những loại lạc thú mà chúng ta đang thấy giờ đây đã từng được biểu hiện lặp đi lại lại nhiều lần, và cái thế giới mà chúng ta đang sống cũng đã từng hiện hữu trước đây bao nhiêu lần rồi. Trước đây, tôi cũng đã từng có mặt tại nơi này và nói chuyện với các bạn bao nhiêu lần rồi. Các bạn sẽ thấy rằng sự việc phải là như thế. Và những lời mà các bạn đang lắng nghe lúc này, các bạn cũng đã từng nghe nó rất nhiều lần trước đây rồi. Và những điều tương tự sẽ còn diễn ra nhiều lần nữa. Linh hồn không bao giờ thay đổi, chỉ có thể xác là thường xuyên hết tan rồi hợp. Thứ hai, những điều này cứ diễn ra theo chu kỳ. Giả sử tại đây có ba hoặc bốn con súc sắc, và khi gieo ra, chúng ta được tổ hợp gồm các mặt 5–4–3–2. Nếu các bạn cứ tiếp tục gieo nữa thì đến một lúc nào đó, tổ hợp đó sẽ xảy ra. Cứ tiếp tục gieo mãi mà không quan tâm đến thời gian thì tổ hợp đó chắc chắn sẽ lặp lại. Ta không thể khẳng định được gieo đến bao nhiêu lần thì tổ hợp được lặp lại, đó là quy luật ngẫu nhiên. Những linh hồn và sự kết hợp của chúng cũng thế. Dù các chu kỳ có diễn ra cách xa nhau bao nhiêu đi nữa thì sự kết hợp và tan rã tương tự của chúng cũng sẽ diễn đi diễn lại. Cũng sự sinh đó, cũng chuyện ăn uống đó, rồi chết, cái vòng tròn đó cứ diễn đi diễn lại hoài hoài. Có một số người không hề tìm thấy cái gì cao hơn những lạc thú trần gian, nhưng vẫn có những người muốn bay vút lên cao hơn, để thấy rằng những lạc thú đó không phải là cứu cánh, mà chỉ là những thứ qua đường.
Có thể đã nói rằng, mọi hình thể đều bắt đầu từ côn trùng nhỏ bé và kết thúc nơi con người, giống như một trong những chiếc ghế ngồi, trong vòng xe đu quay ở Chicago. Các chiếc ghế luôn chuyển động, nhưng người ngồi trên ghế thì thay đổi. Một người bước vào, ngồi trên ghế, chuyển động theo bánh xe, rồi bước ra ngoài. Bánh xe vẫn cứ tiếp tục chuyển động. Một linh hồn nhập vào thể xác nào đó, ở trong đó một thời gian, rồi bỏ nó để nhập vào thể xác khác, rồi lại bỏ để tiếp tục nhập vào thể xác thứ ba. Linh hồn cứ tiếp tục như thế, cho đến lúc nó bước ra khỏi bánh xe và giải thoát.
Ở bất cứ đất nước nào, ở bất kỳ thời đại nào, người ta cũng đều nghe nói đến năng lực kỳ diệu của những người biết được chuyện quá khứ, vị lai. Cách giải thích là như vầy : chừng nào Ātman còn nằm trong vòng chi phối của nhân quả – mặc dù sự tự do bản hữu của nó chưa hoàn toàn mất hết, và có thể khẳng định được tự thân, thậm chí đến mức độ mang được linh hồn ra khỏi vòng nhân quả, như trong trường hợp của người đã giải thoát – thì những hành động của nó vẫn bị chi phối nặng nề của luật nhân quả; do đó, những người nào có kiến giải về quan hệ nhân quả đều có khả năng biết được chuyện quá khứ, vị lai.
Chừng nào vẫn còn tham dục hay ham muốn thì đó là dấu hiệu chắc chắn về sự bất toàn. Một người hoàn hảo, tự do sẽ không còn bất kỳ tham dục nào. Thượng Đế không thể cần đến bất cứ thứ gì. Nếu Ngài còn tham dục thì không thể là Thượng Đế được, Ngài hẳn phải bất toàn. Cho nên tất cả những chuyện kể về Thượng Đế muốn điều này điều nọ, khi thì giận lúc thì vui, đều là chuyện nhảm nhí của trẻ con, hoàn toàn vô nghĩa. Cho nên tất cả các bậc đạo sư đều giảng dạy điều này : “Đừng tham dục, hãy từ bỏ mọi dục vọng, và hoàn toàn thỏa mãn”.
Một đứa bé bò vào cõi đời và không có răng, một cụ già đi ra
khỏi cõi đời cũng bò và không còn răng. Hai thái cực này rất giống nhau, nhưng
đứa bé thì không có kinh nghiệm gì về cuộc đời trước mặt nó, còn cụ già thì đã
trải nghiệm trọn cuộc đời. Khi dao động của ether quá thấp thì chúng ta không
thấy ánh sáng, chỉ toàn là bóng tối. Những thái cực thường có vẻ giống nhau, dù
chúng khác nhau một trời một vực. Bức tường không có ham muốn nào, con người
hoàn hảo cũng vậy. Nhưng bức tường thì không đủ nhận thức để ham muốn, còn con
người hoàn hảo thì không ham muốn một thứ gì. Trong đời này, có những gã khờ
không hề ham muốn điều gì, bởi vì đầu óc họ không phát triển hoàn toàn. Đồng
thời, tâm vô dục là cảnh giới cao nhất mà con người đạt đến, nhưng cả hai là
hai đối cực dù cùng tồn tại : một đàng thì gần với loài vật, một đàng thì gần
với Thượng Đế.
(Diễn thuyết tại New York)
Hiện giờ, chúng ta đang đứng đây, đưa mắt nhìn về phía trước vài dặm. Con người đã luôn làm thế từ khi họ bắt đầu tư duy. Họ luôn nhìn về phía trước, theo hướng trước mặt. Họ muốn biết mình sẽ đi đâu, sau khi xác thân này tan rã. Nhiều học thuyết đã được truyền giảng, hết hệ thống triết học này đến hệ thống triết học khác đã đưa ra nhiều cách lý giải. Một số bị chối bỏ, một số được chấp nhận, và sự việc phải là như thế, chừng nào con người còn hiện hữu ở thế gian này, chừng nào con người còn biết tư duy. Mọi hệ thống đều chứa ít nhiều chân lý. Trong tất cả những hệ thống đó có rất nhiều thứ không phải là chân lý. Tôi sẽ cố gắng trình bày cho các bạn tổng số và bản chất cùng kết quả của những cuộc tìm tòi nghiên cứu theo hướng này, đã được thực hiện tại Ấn Độ. Tôi sẽ cố gắng tạo sự hòa hài giữa các tư tưởng khác nhau về những đề tài này, vì thỉnh thoảng chúng lại được các triết gia Ấn Độ đề xướng. Tôi sẽ cố gắng tạo sự hòa hài giữa các nhà tâm lý học với các nhà siêu hình học, và nếu có thể thì sẽ tạo luôn sự hòa hài giữa họ với các nhà khoa học hiện đại.
Chủ đề duy nhất trong triết học Vedānta là đi tìm Nhất Thể. Tín đồ Ấn giáo không quan tâm đến hiện tượng sai biệt đa thù; họ luôn đi tìm cái chung, tức là cái phổ quát. “Biết được một thì biết được tất cả, cái Một đó là gì?” Đó là chủ đề duy nhất. “Biết được một nắm đất sét là biết được tất cả về đất sét; cũng vậy, cái đó là gì – cái mà khi biết được nó thì ta biết được toàn thể vũ trụ?”. Đó là cuộc tìm kiếm duy nhất.
Theo các triết gia Ấn Độ, một phần của thế giới hiện tượng này có thể được phân giải thành một dạng vật chất mà họ gọi là ākāśa. Tất cả những thứ mà ta nhìn, cảm nhận, sờ, ngửi, nếm được ở quanh ta chỉ là những biểu hiện khác nhau của ākāśa. Nó vô cùng tế vi và tràn ngập khắp nơi. Tất cả những cái mà ta gọi là thể rắn, thể lỏng hoặc thể hơi, tất cả những hình ảnh, hình thể hay thể xác, tất cả trái đất, mặt trời, mặt trăng, tinh tú cũng đều được tạo thành từ ākāśa.
Lực nào tác động trên ākāśa để tạo nên cái vũ trụ này từ nó? Cũng với ākāśa, còn tồn tại một lực phổ quát nữa. Mọi dạng năng lượng trong vũ trụ – chuyển động, lực hấp dẫn, thậm chí cả tư tưởng – cũng chỉ là những biểu hiện khác nhau của một năng lượng duy nhất, mà các triết gia Ấn Độ gọi là prāna. Prāna này, khi tác động lên ākāśa, đã tạo ra toàn bộ vũ trụ này. Vào lúc khởi đầu một chu kỳ, có thể nói là prāna ngủ say giữa lòng đại dương ākāśa vô tận. Thoạt đầu, prāna tịch nhiên bất động. Rồi do tác động của prāna, cả đại dương ākāśa chuyển động; prāna bắt đầu dịch chuyển, dao động, rồi từ đại dương ākāśa đó sinh ra vô số các thiên thể – mặt trời, mặt trăng, tinh tú – trái đất, con người, loài vật, cây cỏ, cùng sự biểu hiện của tất cả các lực và hiện tượng. Theo các triết gia này, mọi hình thức biểu hiện của năng lực đều là prāna. Mọi biểu hiện vật chất đều là ākāśa.
Khi chu kỳ kết thúc, tất cả những cái mà ta gọi là thể rắn sẽ tan chảy thành hình thức kế tiếp tế vi hơn, tức là hình thức thể lỏng; rồi thể lỏng này biến thành thể hơi, rồi thành những dao động nhiệt đồng nhất hơn; cuối cùng tất cả đều tan chảy về lại trạng thái ākāśa nguyên thủy; tất cả những cái mà hiện nay ta gọi là lực hút, lực đẩy hay sự chuyển động, sẽ từ từ tan thành trạng thái prāna nguyên thủy. Rồi người ta cho rằng prāna này lại ngủ thiếp đi một chu kỳ, rồi lại tỉnh giấc, lại ném tung muôn vật ra ngoài; và khi chu kỳ này kết thúc thì muôn vật sẽ lại thoái hóa, suy tàn. Quá trình sáng tạo này cứ diễn đi diễn lại mãi như thế, hết chìm xuống rồi lại lên cao, hết lắc lư ra sau rồi lại ra trước; nói theo ngôn ngữ hiện đại thì cứ hết một chu kỳ tĩnh lại đến một chu kỳ động. Ở chu kỳ này thì nó tiềm ẩn, đến chu kỳ tiếp thì nó hiển lộ. Sự luân phiên này cứ tiếp tục diễn ra cho đến vô cùng.
Tuy nhiên, sự phân tích này cũng không được hoàn toàn. Điều này thì nền vật lý hiện đại đã biết quá rõ rồi. Vượt qua khỏi phạm vi đó thì những nghiên cứu của vật lý hiện đại không sao vói tới được. Nhưng cuộc tìm kiếm vẫn không dừng lại. Chúng ta vẫn chưa biết được cái, mà khi biết được nó rồi thì ta có thể biết được toàn thể vũ trụ[35]. Chúng ta phân giải toàn thể vũ trụ thành hai thành tố mà chúng ta gọi là vật chất và năng lượng, giống với cái mà các triết gia Ấn Độ gọi là ākāśa và prāna. Bước tiếp theo là phân giải ākāśa và prāna trở về trạng thái nguyên thủy của chúng. Cả hai đều có thể được phân giải thành một thực thể cao hơn, gọi là tâm trí. Chính từ tâm trí –mahat, hay năng lực tư tưởng phổ hiện khắp vũ trụ – mà hai thành tố đó mới được tạo ra. Tư tưởng là một dạng hiển lộ còn tế vi hơn cả ākāśa hay prāna. Tư tưởng tự phân hóa thành hai. Tư tưởng phổ quát tồn tại từ lúc khởi thủy, rồi hiển lộ, chuyển biến và tự tiến hóa thành ākāśa và prāna. Khi hai thành tố này kết hợp lại thì tạo ra vũ trụ.
Tiếp theo, chúng ta đến với bộ môn tâm lý học. Tôi đang nhìn các bạn. Nhờ đôi mắt mà những cảm giác bên ngoài được mang đến cho tôi; những dây thần kinh cảm giác truyền cảm giác đến não. Đôi mắt không phải cơ quan thị giác. Chúng chỉ là khí cụ bên ngoài, vì nếu như cơ quan thực đứng đằng sau đó – tức cơ quan truyền cảm giác đến não – mà bị phá hủy thì dù có tới hai chục đôi mắt, tôi cũng không thể nhìn thấy các bạn được. Hình ảnh trên võng mạc có thể rất hoàn chỉnh, song tôi vẫn sẽ không nhìn thấy các bạn. Do đó, cơ quan này khác biệt với khí cụ của nó; đằng sau khí cụ, tức đôi mắt, phải có một cơ quan. Tất cả các cảm giác khác cũng đều vậy cả. Mũi không phải là giác quan để ngửi mùi; nó chỉ là khí cụ, và đằng sau nó mới là cơ quan. Với mọi giác quan mà ta có, trước hết là có một khí cụ bên ngoài trong thể xác; đằng sau đó, cũng trong thể xác ấy, là cơ quan; nhưng như thế vẫn chưa đủ.
Giả sử tôi đang nói chuyện với các bạn, và các bạn đang chăm chú lắng nghe. Có chuyện gì đó xảy ra, chẳng hạn tiếng chuông đổ, nhưng có thể các bạn không nghe thấy. Dao động âm thanh truyền đến tai bạn, đập vào màng nhĩ, ấn tượng đó được dây thần kinh truyền tới não; nếu toàn bộ quá trình được hoàn tất khi ấn tượng đó được truyền tới não, vậy thì cớ sao các bạn không nghe? Còn thiếu một điều gì đó : tâm trí các bạn không gắn bó với cơ quan. Khi tâm trí tự tách mình ra khỏi cơ quan thì dù cơ quan có truyền bất kỳ tín hiệu nào đến với nó, tâm trí vẫn không tiếp nhận được. Khi tâm trí kết nối với cơ quan thì chỉ có nó mới tiếp nhận được những tín hiệu đó mà thôi.
Song như thế vẫn chưa giải thích được sự nhận thức. Khí cụ có thể truyền cảm giác từ bên ngoài vào, cơ quan có thể truyền cảm giác đó vào bên trong, tâm trí có thể kết nối với cơ quan, nhưng sự nhận thức vẫn không hoàn tất. Còn cần đến một yếu tố nữa : phải có một phản ứng bên trong. Cùng với phản ứng này, tri thức xuất hiện. Cái ở bên ngoài truyền, có thể nói như vậy, dòng tín hiệu vào não tôi. Tâm trí tôi đón nhận nó, đệ trình nó lên trí năng, trí năng gộp nó vào chung với những ấn tượng đã tiếp nhận trước đó, và truyền một dòng các phản ứng; và cùng với phản ứng này, xuất hiện sự nhận thức. Như thế, ở đây là ý chí. Trạng thái phản ứng của tâm trí được gọi là buddhi, hay trí năng. Thế nhưng điều này vẫn chưa thực hiện được sự nhận thức hoàn chỉnh. Cần có thêm một bước nữa.
Giả sử ở đây có một máy quay phim[36], ở đằng kia là một tấm màn, và tôi muốn chiếu một hình ảnh lên tấm màn đó. Tôi cần phải làm gì? Tôi phải điều chỉnh chùm các tia sáng khác nhau đi qua máy quay để chiếu trên tấm màn và tập trung vào đấy. Muốn hình ảnh chuyển động thì cần phải có một cái gì đấy, nhưng hình ảnh không chuyển động. Tôi không thể tạo nên một hình ảnh mà trên nó có cái gì đó chuyển động; “cái gì đó” phải tĩnh tại, bởi vì những tia sáng – mà tôi chiếu trên nó – đang chuyển động, và những tia sáng đang chuyển động này phải được gom tụ, hợp nhất và được hoàn tất trên một cái gì đó tĩnh tại. Trường hợp những cảm giác được các cơ quan của chúng ta truyền vào bên trong và đệ trình lên não, rồi đến lượt não đệ trình trước trí năng cũng tương tự như vậy. Quá trình này không thể hoàn tất trừ phi có một cái gì đó tồn tại vĩnh cửu ở đằng sau, mà trên đó chúng ta có thể hợp nhất được tất cả những ấn tượng.
Cái đem lại tính thống nhất cho nhiều biến đổi trong bản thể của chúng ta, cái đó là gì? Cái duy trì được sự thống nhất cho cái được gọi là bản sắc cá nhân, luôn dịch chuyển từ thời điểm này sang thời điểm khác, cái đó là gì? Cái mà trên đó mọi ấn tượng khác nhau của chúng ta xuyên thấu qua; cái mà trên đó mọi nhận thức đều, có thể nói như vậy, hội tụ về và dung hóa nhau để tạo thành một chỉnh thể hợp nhất, cái đó là gì? Chúng ta đã thấy rằng cần phải có một cái gì đó để phục vụ cho cứu cánh này, và chúng ta cũng thấy rằng “cái gì đó” phải bất động đối với thể xác và tâm trí. Tấm màn, mà máy quay đang chiếu hình ảnh lên đó, là bất động đối với các tia sáng, nếu không thì không thể có hình ảnh nào. Điều đó muốn nói rằng, chủ thể tiếp nhận phải là một cá nhân. “Cái gì đó” này, cái mà trên đó tâm trí đang vẽ nên mọi hình ảnh, và mọi cảm giác của chúng ta – được truyền đi bởi tâm trí và trí năng – được đặt lên và hợp thành một thể thống nhất, cái đó được gọi là linh hồn con người.
Chúng ta đã thấy rằng tâm trí phổ quát bao trùm vũ trụ [universal cosmic mind] tự phân đôi thành ākāśa và prāna, và bên kia tâm trí đó, chúng ta tìm thấy linh hồn trong ta. Trong vũ trụ, đằng sau tâm trí phổ quát kia, có một Linh Hồn hiện hữu, mà chúng ta gọi là Thượng Đế. Nơi cá nhân, đó là linh hồn con người. Trong vũ trụ, tâm trí phổ quát tiến hóa thành ākāśa và prāna như thế nào, thì chúng ta thấy rằng Linh Hồn Phổ Quát cũng tự tiến hóa thành tâm trí như thế ấy. Đối với con người cá nhân thì có thực là thế chăng? Tâm trí con người có phải là chủ thể sáng tạo ra thể xác, và linh hồn có phải là chủ thể sáng tạo ra tâm trí? Điều đó muốn nói rằng : thể xác, tâm trí và linh hồn là ba thực thể tồn tại khác nhau hay chúng là ba trong một, hay chúng là ba trạng thái tồn tại khác nhau của cũng một thực thể? Chúng ta sẽ cố gắng tìm lời giải đáp cho câu hỏi này.
Bước thứ nhất mà lúc này ta đã đạt được là thế này : đây là phần thể xác bên ngoài, đằng sau nó là các cơ quan, tâm trí và trí năng; và đằng sau nữa là linh hồn. Bước đầu tiên mà chúng ta tìm thấy là, có thể nói như vậy, linh hồn tách biệt với thể xác, tách biệt với chính tâm trí. Những quan điểm trong thế giới tôn giáo sở dĩ bị phân hóa là do điểm này, và sự phân hóa đó như vầy : tất cả những tôn giáo được gọi chung là nhị nguyên thì chủ trương linh hồn là hữu vi [conditioned], nó có nhiều phẩm tính khác nhau, và mọi cảm xúc vui buồn, sướng khổ đều thực sự thuộc về linh hồn. Những người phi nhị nguyên thì phủ nhận linh hồn có những phẩm tính như thế, họ bảo linh hồn là vô vi [unconditioned].
Trước hết tôi xin chọn ra các nhà nhị nguyên luận và thử trình bày cho các bạn thấy lập trường của họ về linh hồn và số phận; sau đó là những hệ thống triết học mâu thuẫn với họ; và cuối cùng, chúng ta thử tìm ra sự hòa hài mà triết học phi nhị nguyên đem lại cho chúng ta.
Linh hồn con người, do tách biệt với tâm trí và thể xác, do không được cấu tạo từ ākāśa và prāna, nên nó phải bất tử. Vì sao? Chết đối với chúng ta có nghĩa là gì? Sự tan rã. Và điều này chỉ xảy ra với những sự vật nào là kết quả của sự cấu thành. Bất kỳ sự vật nào được cấu thành từ hai hoặc ba thành phần thì phải đến lúc tan rã. Chỉ có sự vật nào không phải là kết quả của sự cấu thành thì mới không bị tan rã, và do đó, không bao giờ chết. Nó phải bất tử. Nó phải tồn tại vĩnh viễn. Nó phải tự hữu, không do đâu sáng tạo. Bất cứ tạo vật nào cũng đều là sự vật được cấu thành, chưa ai từng thấy được một sự vật nào được tạo ra từ hư không. Tất cả những tạo vật mà chúng ta biết đều là sự kết hợp của những sự vật có sẵn để tạo thành hình thể mới. Bởi vậy, linh hồn con người, vốn thuần nhất, đã tồn tại vĩnh viễn và sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Khi thể xác này tan rã thì linh hồn vẫn tiếp tục sống. Theo các triết gia Vedānta, khi thể xác này tan rã thì các luồng sinh lực của con người sẽ quay về lại với tâm trí; còn tâm trí thì phân giải – có thể nói như vậy – vào prāna, và prāna nhập vào linh hồn con người; linh hồn con người thoát ra để khoác lấy – có thể nói như vậy – cái mà họ gọi là một thể xác tinh, hay thể xác tinh thần, thể xác tâm linh, tùy theo cách mà các bạn gọi.
Trong thể xác này có tiềm ẩn samskāra của con người. Samskāra là gì? Tâm trí như hồ nước, mỗi suy nghĩ đều như con sóng xao động trên mặt hồ. Các con sóng dao dộng xuống lên, hiện ra rồi mất đi trên mặt hồ như thế nào thì các làn sóng tư tưởng cũng dao động, hiện ra rồi mất đi trong tâm trí như vậy. Nhưng các làn sóng tư tưởng đó không mất hẳn. Chúng trở nên càng lúc càng tế vi hơn; nhưng tất cả đều nằm chờ ở đấy, sẵn sàng khởi động vào một thời điểm khác, khi chúng được gọi ra để thực hiện điều đó. Hồi ức chỉ là sự gợi lại những tư tưởng dưới dạng sóng – những tư tưởng đã tồn tại trong trạng thái tế vi. Do đó, tất cả những gì ta tư duy hay hành động đều được lưu giữ trong tâm trí, chúng nằm cả ở đó dưới dạng tế vi; rồi khi một người chết, tổng số những ấn tượng sử dụng thể xác tế vi đó như là môi trường trung gian. Có thể nói là linh hồn khoác lấy những ấn tượng và thể xác tế vi này để ra ngoài, và số phận của linh hồn được định đoạt bởi kết quả của tất cả những lực khác nhau, những lực này được đại diện bởi những ấn tượng khác nhau.
Theo các triết gia Vedānta, có ba tiêu đích khác nhau cho linh hồn. Những người sống thiên về tâm linh, khi chết đi, sẽ đi theo những tia sáng mặt trời để đến cái gọi là tinh cầu mặt trời hay nhật cầu [solar sphere]; nương theo nhật cầu, họ đi đến tinh cầu mặt trăng hay nguyệt cầu [lunar sphere]; rồi nương theo nguyệt cầu, họ đi đến tinh cầu ánh sáng hay quang cầu [sphere of lighting]; tại nơi đây họ gặp những linh hồn khác đang hưởng lạc phúc. Những linh hồn này sẽ hướng dẫn kẻ mới đến này đi tới một tinh cầu tối cao trong tất cả các tinh cầu gọi là Brahmaloka tức cõi trời của Brahmā. Tại cõi trời đó, linh hồn đạt đến cảnh giới toàn nhiên phổ hiện và sự toàn năng, linh hồn hầu như đầy quyền năng và toàn trí như chính Thượng Đế; theo các triết gia nhị nguyên thì linh hồn sẽ ở nơi đó mãi mãi; còn với các triết gia phi nhị nguyên thì các linh hồn đó hợp nhất Linh Hồn Vũ Trụ ở cuối chu kỳ.
Loại thứ hai là những người làm điều thiện vì động cơ ích kỷ; nhờ làm việc thiện nên sau khi chết đi, họ được đưa đến nơi gọi là nguyệt cầu, tại nơi đây còn có những cõi trời khác, và họ có được thể xác tế vi của chư thiên. Họ trở thành chư thiên, sống ở đó và hưởng lạc phúc trong một thời gian dài; sau khi thời gian hưởng lạc phúc chấm dứt, nghiệp (karma) cũ lại hoạt động và họ sa xuống cõi trần trở lại; họ rơi xuống xuyên qua các tinh cầu của không khí và mây cùng tất cả những vùng khác nữa; cuối cùng, họ sa xuống trần theo những hạt mưa. Trong cõi trần, họ nhập vào các loại mễ cốc, rốt cuộc họ bị con người ăn lấy, những người này cung cấp cho họ phần chất liệu để tái tạo thành một thể xác mới.
Loại cuối cùng là những người ác độc, khi chết đi thì họ biến thành ma quỷ, sống ở khoảng giữa nguyệt cầu và trái đất. Một số muốn tìm cách quấy phá con người, số khác tỏ ra thân thiện hơn. Sau khi sống ở đó một thời gian, những linh hồn này sa xuống lại trần gian và biến thành loài vật. Sau khi sống trong thể xác loại vật một thời gian, những linh hồn này được giải thoát, và quay lại làm người, như thế là có cơ hội khác để tìm đường giải thoát.
Như vậy, chúng ta thấy rằng những người nào gần như đạt đến trạng thái hoàn hảo, trong tâm chỉ còn chút ít điều bất tịnh, mới lên được cõi Brahmaloka bằng tia sáng mặt trời; người nào thuộc hạng trung, làm điều thiện vì muốn lên được cõi trời, những người đó lên được các cõi trời trong nguyệt cầu và mang thể xác tế vi, nhưng rồi họ phải quay lại làm người, và do đó có thêm nhiều cơ hội để hoàn thiện mình. Những người độc ác biến thành ma quỷ, rồi trở thành súc vật, nhưng sau thời gian đó, họ lại được làm người, và do đó có thêm nhiều cơ hội để hoàn thiện mình.
Trái đất này được gọi là karma-bhumi, hay cõi nghiệp. Chỉ ở trong cõi này, con người mới tạo ra thiện nghiệp hay ác nghiệp. Khi một người muốn thác sinh lên cõi trời, và làm điều tốt vì mục đích đó thì anh ta sẽ trở nên lương thiện và sẽ không làm điều gì để tạo ác nghiệp. Anh ta chỉ hưởng thụ được thiện quả từ việc làm của mình trong đời, và khi thiện quả đã hết thì nghiệp lực từ những hành vi xấu xa mà anh ta đã làm trong nhiều kiếp trước sẽ dồn cả lại để kéo anh ta đọa xuống trần gian. Cũng tương tự như vậy, những kẻ nào biến thành ma quỷ sẽ giữ nguyên hiện trạng mà không tạo thêm nghiệp chướng sẽ phải gánh chịu quả báo từ những hành vi xấu xa trong quá khứ, sau đó họ còn phải mang thể xác loài vật một thời gian nữa mà tạo không thêm nghiệp chướng. Sau khi mãn hạn, họ cũng được làm người trở lại. Tình trạng thưởng phạt theo thiện nghiệp hay ác nghiệp không hề có năng lực cải thiện được nghiệp, ta chỉ có thể hưởng thụ hay gánh chịu những tình trạng đó mà thôi.
Nếu như tạo ra nghiệp cực thiện hay cực ác, ta sẽ thấy ngay quả báo nhãn tiền. Chẳng hạn một người suốt đời làm nhiều điều ác, nhưng lại có làm một điều thiện thì thiện quả xuất hiện nhãn tiền, nhưng khi thiện quả đã hết thì những hành vi độc ác lại sẵn sàng tạo ra quả báo. Còn những người nào làm điều thiện và có những công đức to lớn, nhưng nếp sống nói chung không theo chánh nghiệp thì được phong thần. Sau một thời gian đã sống trong thể xác của chư thần và hưởng thụ quyền năng của chư thần thì họ trở lại làm người; đến khi thiện quả đã hết thì ác quả bắt đầu tác động. Những kẻ cùng hung cực ác đều bị biến thành ma quỷ, mang thể xác ma quỷ; đến khi ác quả đã hết thì nhờ thiện quả tích lũy từ những việc làm tốt nho nhỏ ngày trước, họ cũng được làm người trở lại.
Con đường dẫn đến cõi Brahmaloka với quả vị bất hoàn, nghĩa là không còn đầu thai nữa, được gọi là Devayāna (Thiên thừa ) có nghĩa là Con Đường đến với Chư Thiên; còn con đường dẫn đến cõi trời được gọi là Pitriyāna, có nghĩa là Con Đường đến với Tổ Tiên.
Do đó, con người, theo triết học Vedānta, là sinh thể vĩ đại nhất trong vũ trụ, và cõi thế này là nơi tốt đẹp nhất trong vũ trụ, bởi vì chỉ ở nơi đây, con người mới có cơ hội để hoàn thiện mình. Thiên thần hay chư thiên, hoặc các bạn có thể gọi bằng bất cứ tên gì, tất cả đều phải trở thành người, nếu họ muốn được toàn hảo. Đời người là một trung tâm to lớn, là thế quân bình tuyệt diệu.
Chúng ta xét tiếp đến khía cạnh triết học khác. Có những tín đồ Phật giáo phủ nhận thuyết linh hồn mà tôi vừa mới trình bày. Họ nêu câu hỏi : “Có ích gì khi giả định rằng có một chất liệu nền làm bối cảnh cho thể xác và tâm trí? Sao ta không để cho tư tưởng cứ tiếp tục vận hành? Sao cần phải chấp nhận một chất liệu nền thứ ba vượt ngoài cái tổ chức hữu cơ này – được cấu thành từ thể xác và tâm trí, một chất liệu nền thứ ba được gọi là linh hồn? Nó có tác dụng gì? Tổ chức hữu cơ này chưa đủ để giải thích chính nó sao? Sao lại phải lấy thêm một cái thứ ba nào đó?”. Lập luận này rất thuyết phục. Cách lý luận rất mạnh mẽ. Cho đến lúc này thì chỉ cần xét đến việc nghiên cứu bên ngoài thôi, chúng ta cũng thấy được tổ chức hữu cơ này đã là sự giải thích đầy đủ về chính nó rồi –ít nhất thì cũng có nhiều người trong chúng ta thấy được điều đó trong cách thuyết minh này. Vậy thì sao phải cần đến linh hồn như là chất liệu nền, như là một cái gì đó phi tâm, trí phi thể xác đứng ra làm bối cảnh cho cả tâm trí và thể xác? Chỉ có tâm trí và thể xác mà thôi. Thể xác là tên gọi của một dòng vật chất biến dịch không ngừng. Còn tâm trí là tên gọi của một dòng ý thức hoặc tư tưởng biến dịch không ngừng. Cái gì tạo nên sự thống nhất bề ngoài cho hai dòng này? Sự thống nhất này không tồn tại, chúng ta hãy nói thế. Hãy lấy ví dụ một ngọn đuốc đang quay thật nhanh trước mặt các bạn. Các bạn thấy một vòng lửa. Vòng lửa đó không hề tồn tại, mà chỉ do ngọn lửa quay liên tục nên tạo ra dạng một vòng lửa. Do đó, không hề có sự thống nhất trong cuộc sống này; nó là một khối vật chất khổng lồ đang liên tục tuôn chảy, và các bạn có thể gọi toàn thể khối vật chất đó là một khối thống nhất, chứ không hơn. Tâm trí cũng vậy, mỗi tư tưởng đều tách biệt với nhau, chỉ có dòng chảy ào ạt đó mới tạo cho ta cái ảo tưởng về sự thống nhất; do đó không cần đến chất liệu nền thứ ba. Hiện tượng phổ quát này giữa thể xác và tâm trí là tất cả những gì thực hữu; đừng đặt cái gì đằng sau nó.
Các bạn sẽ thấy rằng tư tưởng này của Phật giáo đã được một số tông phái tôn giáo và trường phái triết học hiện nay chấp nhận, và tất cả đều tuyên bố rằng đó là phát kiến mới mẻ của chính họ. Đây là quan điểm trọng tâm của hầu hết các tông phái Phật giáo : thế giới này tự nó mãn túc, ta không cần phải tra hỏi về căn nguyên của nó làm chi. Cái vũ trụ thuộc giác quan này, đó là tất cả những gì thực sự hiện hữu, có ích gì khi tư duy về một cái gì đó chống đỡ cả vũ trụ này? Muôn vật đều là sự tích hợp của những phẩm tính, sao lại phải cần đến một bản thể giả định có sẵn trong muôn vật? Khái niệm về bản thể phát sinh từ hiện tượng các phẩm tính nối tiếp nhau biến đổi quá mau chóng, chứ không phải từ một cái gì đó bất biến tồn tại đằng sau chúng.
Chúng ta thấy một số các lập luận này thật là tuyệt diệu, và chúng dễ dàng hấp dẫn những trải nghiệm thông thường của con người. Trong thực tế, trong một triệu người, không có lấy một người có thể tư duy khác với hiện tượng trên. Đối với tuyệt đại đa số, thiên nhiên hiên ra như một khối biến dịch khổng lồ, quay cuồng trong cơn lốc, kết hợp lẫn nhau. Rất ít người trong chúng ta có thể thấy được đại dương tĩnh lặng phía sau. Đối với chúng ta, đại dương đó luôn cuồn cuộn sóng, vũ trụ này hiện ra với chúng ta như những cơn ba đào dữ dội.
Do đó, chúng ta thấy có hai quan niệm : quan niệm thứ nhất cho rằng đằng sau thể xác và tâm trí là một bản thể bất biến, bất động; quan niệm thứ hai thì cho rằng trong vũ trụ không hề có cái gì là bất biến, bất động cả; tất cả đều biến dịch, và chỉ có biến dịch mà thôi.
Giải pháp cho sự khác biệt này xuất hiện trong bước tư tưởng tiếp theo, đó là thuyết phi nhị nguyên. Thuyết này bảo rằng các triết gia nhị nguyên đúng khi đi tìm một nền tảng bất biến đằng sau vạn vật; vì chúng ta không thể hình dung được sự biến dịch nếu không có cái gì đó bất biến. Chúng ta chỉ có thể hình dung được một sự vật nào đó biến dịch là nhờ biết đến một cái gì đó ít biến dịch hơn, và cái ít biến dịch hơn đó phải ít biến dịch hơn khi so sánh với một cái gì khác nữa, rồi cứ tiếp tục như thế cho đến khi chúng ta buộc phải chấp nhận là có một cái gì đó không bao giờ biến dịch. Toàn bộ sự hiển lộ này phải từng đã hiện hữu trong trạng thái không hiển lộ, tĩnh lặng tịch nhiên, có thể nói đó là thế quân bình của những lực đối kháng, khi không một lực nào tác động; bởi vì lực chỉ tác động khi thế tĩnh tại bị phá vỡ. Vũ trụ luôn vội vã hồi phục lại trạng thái tĩnh tại ban đầu. Nếu chúng ta tin chắc được một sự kiện bất kỳ nào đó trong vũ trụ thì sẽ tin chắc được điều này. Khi một triết gia nhị nguyên tuyên bố rằng có một cái gì đó không hề biến dịch thì họ hoàn toàn đúng, nhưng cách phân tích của họ lại sai khi cho rằng cái nền tảng đó không phải là thể xác hoặc tâm trí, mà tách rời cả hai. Chừng nào mà các luận sư Phật giáo còn cho rằng toàn thể vũ trụ này là một đại khối biến dịch thì họ hoàn toàn đúng, chừng nào mà tôi còn tách biệt với vũ trụ này, chừng nào mà tôi còn đứng nhìn sự vật trước mắt tôi, chừng nào mà còn có chủ thể năng tri và khách thể sở tri, còn có người quán tưởng và sự vật được quán tưởng thì vũ trụ luôn luôn hiện ra như một đại khối không ngừng biến dịch. Nhưng trong thực tế thì không hề có biến dịch hay bất biến trong vũ trụ này. Linh hồn, tâm trí và thể xác không phải là ba thực thể tồn tại độc lập, bởi vì cái tổ chức hữu cơ được cấu thành từ ba cái đó thực ra chỉ là một. Cũng cùng một thực thể nhưng lại hiển lộ lúc thì như thể xác, lúc thì như tâm trí, lúc thì như là cái gì đó vượt khỏi tâm trí lẫn thể xác, nhưng không lúc nào hiển lộ đồng thời như là cả ba. Người nào thấy được thể xác thì thậm chí không thấy được tâm trí; người nào thấy được tâm trí thì không thấy được cái gọi là linh hồn; người nào thấy được linh hồn thì không còn thấy thể xác và tâm trí, vì đối với họ cả thể xác và tâm trí đều biến mất. Người nào chỉ thấy sự chuyển động thì không bao giờ thấy được sự tĩnh lặng tuyệt đối, và người nào đã thấy được sự tĩnh lặng tuyệt đối thì còn thấy sự chuyển động nữa, vì đối với anh ta sự chuyển động đã biến mất. Nhìn sợi dây ngỡ là con rắn. Người nào nhìn sợi dây mà ngỡ là con rắn thì chỉ thấy con rắn, vì đối với người đó sợi dây đã biến mất. Chỉ khi không còn vọng tưởng thì anh ta mới nhìn thấy sợi dây, vì con rắn đã biến mất.
Như vậy, chỉ có một sự tồn tại duy nhất bao trùm vạn hữu, và nó xuất hiện như là hiện tượng sai biệt đa thù. Chân Ngã, hay Linh Hồn, hay Bản Thể, đó là tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ. Nói theo ngôn ngữ của các triết gia phi nhị nguyên thì Chân Ngã, hay Linh Hồn hay Bản Thể đó chính là Brahman, và Nó hiển lộ trong sai biệt đa thù là do sự đan xen của tên gọi và hình thể. Hãy nhìn sóng ngoài biển khơi. Không một ngọn sóng nào thực sự khác với biển, nhưng cái gì làm cho sóng biển tựa như khác biệt? Đó là tên gọi và hình thể – hình thể của sóng, và tên gọi mà ta gán cho nó : “sóng”. Đây là những cái làm cho nó khác với biển. Khi tên gọi và hình thể không còn thì sóng chính là biển. Ai có thể tìm thấy sự khác biệt thực sự giữa biển và sóng? Cho nên toàn thể vũ trụ này chỉ là một Tồn Tại duy nhất, chính tên gọi và hình thể đã tạo nên mọi sự sai biệt đa thù.
Khi mặt trời chiếu vào hàng triệu bong bóng nước, trong mỗi bong bóng hiện ra một mặt trời hầu như trọn vẹn, điều đó diễn ra như thế nào thì Linh Hồn duy nhất, Chân Ngã duy nhất, Tồn Tại duy nhất của vũ trụ này, khi được phản chiếu trong tất cả các tên gọi và hình thể khác nhau, cũng hiển lộ sự sai biệt đa thù như thế ấy; nhưng trên thực tế, Nó là nhất thể. Không hề có “Tôi” hay “Anh” mà tất cả đều là một. Hoặc tất cả đều là “Tôi”, hoặc tất cả đều là “Anh”. Ý tưởng về tính nhị nguyên, về sự phân đôi là hoàn toàn hư vọng, và toàn thể vũ trụ này, như ta thường biết, là kết quả của một tri thức hư vọng. Khi không còn sinh tâm phân biệt, và khi không còn thấy có hai mà chỉ là một thì con người thấy mình chính là cái vũ trụ này. Chính tôi là cái vũ trụ này như nó hiện đang tồn tại : một đại khối biến dịch không ngừng. Chính tôi là đấng vượt qua mọi biến dịch, mọi phẩm tính, tôi là đấng toàn mãn vĩnh viễn, là đấng hưởng lạc phúc đời đời.
Do đó, chỉ có một Ātman duy nhất, một Chân Ngã duy nhất, vĩnh viễn thuần tịnh, vĩnh viễn toàn hảo, vĩnh viễn bất khả biến và vĩnh viễn bất biến. No chưa hề biến dịch, và tất cả những biến dịch trong vũ trụ này chỉ là hiện tượng bên ngoài của Chân Ngã duy nhất đó mà thôi.
Tên gọi và hình thể đã vẽ trên Chân Ngã đó tất cả những giấc mơ, chính hình thể đã làm cho sóng khác với biển. Giả sử sóng lắng xuống thì hình thể có còn chăng? Không, nó sẽ tan biến. Sự tồn tại của sóng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tồn tại của biển, nhưng sự tồn tại của biển lại không hề phụ thuộc gì vào sự tồn tại của sóng. Hình thể còn tồn tại chừng nào sóng còn tồn tại, nhưng khi sóng rời bỏ hình thể thì hình thể cũng tan biến theo, nó không thể tiếp tục tồn tại được. Tên gọi và hình thể này được sinh ra từ cái gọi là māyā. Chính māyā này mới tạo ra từng cá thể, làm cái này khác với cái kia. Thế nhưng māyā lại không tồn tại. Māyā không thể nói là tồn tại. Hình thể không thể nói là tồn tại, bởi vì nó tùy thuộc vào sự tồn tại của sự vật khác. Nhưng cũng không thể nói là hình thể không tồn tại, bởi vì nó tạo nên sự khác biệt giữa muôn ngàn sự vật. Theo triết học Advaita thì māyā hay vô minh này – hay tên gọi và hình thể, hay theo cách gọi ở châu Âu là “thời gian, không gian và quan hệ nhân quả” – đang chứng minh cho ta thấy, từ sự Tồn Tại Vô Biên duy nhất này, tính sai biệt đa thù của vũ trụ. Xét về mặt bản thể thì vũ trụ này là một. Chừng nào ta còn nghĩ rằng có hai thực thể tối hậu thì ta còn mắc vào sai lầm. Khi hiểu được rằng tất cả là một thì ta mới tư duy đúng đắn.
Điều này đang được chứng minh trong đời sống hàng ngày, trên bình diện vật chất, trên bình diện tinh thần lẫn bình diện tâm linh. Hôm nay, điều này đã chứng minh, đó là : các bạn và tôi, mặt trời, mặt trăng, các vì sao chỉ là những tên gọi khác nhau của những đốm nhỏ khác nhau trên cùng một đại dương vật chất,và đại dương đó không ngừng thay hình đổi dạng. Một hạt năng lượng nào đó cách đấy mấy tháng còn ở trong mặt trời, giờ đây có thể đang ở nơi con người, hôm sau nó có thể ở nơi một con vật, hôm sau nữa nó có thể ở trong một cái cây. Nó cứ luôn đến và đi. Tất cả đều là một khối vật chất vô tận, duy nhất, không thể tách ly, chỉ khác biệt nhau do tên gọi và hình thể. Điểm này được gọi là mặt trời, điểm kia được gọi là mặt trăng, điểm khác là các vì sao, điểm khác là con người, điểm khác nữa là cầm thú, điểm khác là cỏ cây v.v…. Tất cả những tên gọi đó đều là hư giả, chúng không có tự tính, bởi vì toàn thể là một khối vật chất biến dịch không ngừng. Cũng vũ trụ này, nếu quán chiếu từ một quan điểm khác thì nó là một đại dương tư tưởng, trong đó mỗi người trong chúng ta là những đốm nhỏ được gọi là tâm trí đặc thù. Bạn là một tâm trí, tôi là một tâm trí, mọi người ai ai cũng đều là một tâm trí. Và cũng chính vũ trụ này, nếu quán chiếu từ quan điểm Tri Thức, khi đôi mắt gột sạch hết mê lầm, khi tâm trí trở nên thuần tịnh thì nó hiển lộ như một Hằng Hữu Tuyệt Đối nguyên vẹn, mãi mãi thuần tịnh, mãi mãi bất biến và bất tử.
Toàn bộ mạt thế luận [eschatology] ba cấp này của các triết gia nhị nguyên sẽ là gì, với quan điểm khi một người chết đi thì anh ta lên thiên đàng, hoặc đi đến cõi này cõi nọ; còn người ác thì thành ma quỷ, thành súc vật v.v…? Chẳng có cái gì đến cũng chẳng có cái gì đi cả, các triết gia phi nhị nguyên tuyên bố. Các bạn có thể đến và đi như thế nào? Các bạn là vô biên, vậy thì còn có chỗ nào cho các bạn đến?
Trong một ngôi trường nọ, người ta tổ chức kiểm tra cho một số học sinh tiểu học. Vị giám khảo đặt ra những câu hỏi khó đủ dạng cho các em học sinh một cách điên rồ. Trong số các câu đó, có câu này : “Vì sao trái đất không rơi?”. Ý đồ của ông ta là đưa ra ý tưởng về lực hấp dẫn hoặc một chân lý khoa học rối rắm nào khác cho các em học sinh này. Phần lớn các đứa trẻ đều không hiểu câu hỏi, nên chúng trả lời linh tinh đủ kiểu. Nhưng có một bé gái thông minh trả lời bằng một câu hỏi khác : “Nó sẽ rơi xuống đâu cơ chứ?”. Bản thân câu hỏi của vị giám khảo thoạt nhìn đã thấy vô nghĩa rồi. Chẳng có lên hay xuống nào trong cái vũ trụ này; ý tưởng đó chỉ có ý nghĩa tương đối. Đối với Linh Hồn cũng vậy : nêu câu hỏi tử hay sinh về Nó là điều hoàn toàn vô nghĩa. Ai đến và ai đi? Đâu là nơi mà các bạn không hiện hữu? Đâu là cõi trời mà các bạn đã chẳng từng qua? Chân Ngã con người toàn nhiên phổ hiện. Nó còn phải đến đâu? Đâu là nơi nó chưa từng đến? Nó hiện hữu khắp nơi. Do đó, tất cả những giấc mơ trẻ con cùng những ảo tưởng khờ khạo về lẽ sinh tử tồn vong, về các cõi trời, về các cõi trời cao hơn và các thế giới thấp hơn, tất cả đều lập tức tan biến hoàn toàn; và nó tan biến gần như hoàn toàn sau khi hiển lộ những cõi trời đó như là một vài cảnh tượng trên đường đi đến Brahmaloka. Nó vẫn tiếp tục đối với những người ngu dốt.
Cả thế gian này tin tưởng vào chuyện lên thiên đàng, chết đi rồi đầu thai, việc đó ra sao? Tôi đang nghiên cứu một cuốn sách, đọc hết trang này rồi lật sang trang khác. Đọc đến một trang, xong rồi lật tiếp. Ai thay đổi? Ai đến và đi? Không phải tôi mà là cuốn sách. Toàn thể thế giới tự nhiên là cuốn sách bày ra trước Linh Hồn. Cứ hết chương này đến chương khác được đọc xong rồi lại lật qua, và thỉnh thoảng một cảnh tượng lại mở ra. Cảnh đó được đọc rồi lại lật qua. Một cảnh tượng khác lại xuất hiện, nhưng Linh Hồn vẫn thế – vĩnh viễn tịch nhiên. Chỉ có cảnh tượng thiên nhiên là biến đổi, chứ không phải Linh Hồn con người. Linh Hồn đó không bao giờ biến đổi. Sinh tử chỉ diễn ra trong thế giới tự nhiên chứ không phải trong tâm hồn các bạn. Nhưng những người ngu lại mắc phải ảo tưởng, giống như chúng ta mắc phải ảo tưởng mặt trời đang chuyển động chứ không phải trái đất, y như cách chúng ta cứ ngỡ rằng mình đang chết chứ không phải thiên nhiên. Tất cả những điều này, do đó, đều là ảo giác. Giống như ảo giác khi ta ngồi trên xe lửa nhìn cánh đồng, ta ngỡ cánh đồng đang dịch chuyển chứ không phải xe lửa; ảo giác của chúng ta về lẽ sinh tử cũng y hệt như vậy.
Khi một người bị đóng khung trong một tâm trí nào đó thì họ thấy những cảnh tượng tồn tại như mặt trời, mặt trăng, tinh tú; và tất cả những người có cùng một trạng thái tâm trí đó cũng sẽ thấy những sự vật tương tự. Giữa các bạn và tôi có thể có hàng triệu sinh thể đang tồn tại trên những bình diện khác nhau. Chúng sẽ không bao giờ thấy được chúng ta, và chúng ta cũng không bao giờ thấy được chúng; ta chỉ thấy được những người có cùng trạng thái tâm trí với ta và cùng một bình diện tồn tại như ta. Những nhạc cụ này chỉ ứng họa với nhau khi có sự hòa hài trong dao động âm thanh, có thể nói như vậy. Nếu trạng thái dao động, mà những sinh thể đó gọi là “dao động-người” [man-vibration], bị thay đổi thì không còn nhìn thấy con người nữa, toàn thể “vũ trụ-người” sẽ biến mất, và thay vào đó là một cảnh tượng khác bày ra trước mắt chúng ta; có thể đó là “vũ trụ thần linh”, cũng có thể đó là thế giới của lũ ác nhân hoặc của đám yêu ma quỷ quái. Nhưng tất cả cũng chỉ là những cách nhìn khác nhau về một vũ trụ duy nhất. Vũ trụ này, khi được nhìn từ bình diện con người, thì ta thấy nào là mặt trời, mặt trăng, tinh tú cùng bao sự vật khác v.v… – nhưng cũng chính nó, khi được nhìn từ bình diện tội ác thì lại hiện ra như là một nơi trừng phạt. Những ai muốn quán tưởng vũ trụ này như là thiên đàng thì nó chính là thiên đàng. Những ai mơ tưởng tìm đến một Thượng Đế ngự trị trên ngai vàng, mong muốn đến trước mặt Ngài để ngợi ca suốt kiếp thì khi chết đi, họ chỉ thấy cảnh tượng mà họ cưu mang trong tâm trí. Chính vũ trụ này sẽ biến đổi thành một thiên đàng bao la, với đủ loại thiên thần có cánh bay lượn khắp nơi, và một Thượng Đế ngồi trên ngôi báu. Tất cả những cảnh tượng thiên đàng này đều do con người tự tạo ra.
Cho nên các triết gia Advaita nói rằng những gì người theo thuyết nhị nguyên tin tưởng đều đúng, nhưng đó chỉ thuần là sản phẩm do họ tự tạo ra. Nào là các cõi trời, ma quỷ, thần linh, nào là luân hồi, tái sinh, tất cả những thứ đó đều chỉ là thần thoại. Đời sống con người cũng vậy. Sai lầm to lớn mà con người phạm phải là cứ cho rằng chỉ đời sống này mới là thực. Họ hiểu đủ tận tường về thế giới này, khi gọi những thứ khác là thần thoại, song không bao giờ chịu chấp nhận những thứ đó có vị trí tương đương. Toàn bộ sự vật, giống như chúng đang hiển lộ, chỉ là thần thoại; và lời dối trá lớn nhất trong tất cả những lời dối trá là : chúng ta là những thể xác mà chúng ta chưa hề mang, thậm chí chưa hề có thể có. Chúng ta chỉ là con người, đó là lời dối trá lớn nhất trong tất cả những lời dối trá, vì chúng ta chính là Thượng Đế của vũ trụ này. Khi sùng bái Thượng Đế là chúng ta đang sùng bái chính cái Chân Ngã sâu kín của mình. Cho rằng các bạn sinh ra là người có tội hay là người độc ác, đó là lời dối trá tồi tệ nhất mà các bạn từng tự nhủ với mình. Kẻ có tội là kẻ nhìn thấy tội lỗi nơi người khác. Giả sử trong căn phòng này có một đứa bé, và các bạn đặt một túi vàng trên bàn. Giả sử có một tên trộm lẻn vào, lấy túi vàng đi. Đối với đứa bé thì tất cả đều như nhau; bởi vì chẳng có tên trộm nào ở trong phòng, cũng không có tên trộm nào ở ngoài phòng. Đối với những kẻ tội lỗi hay độc ác thì có những điều xấu xa đồi bại ở bên ngoài, còn đối với người tốt thì không có. Bởi vậy, những kẻ độc ác thấy thế gian này giống như một địa ngục, còn những người chính trực thì thấy nó như một thiên đàng; trong khi những người có tâm toàn thiện lại thực chứng được nó như là Thượng Đế. Chỉ khi nào con người nhìn thấy vũ trụ này như Thượng Đế thì lúc đó những tấm màn che mới rơi khỏi đôi mắt, và người đó, do giữ được tâm thuần nhiên thanh tịnh, mới thấy toàn bộ cảnh tượng đều thay đổi. Tất cả những cơn ác mộng đã từng đày đọa anh ta hàng triệu năm qua giờ đây đều tan biến; và người nào nghĩ mình là con người, hoặc là thần thánh, hoặc là quỷ sứ, người nào tự nghĩ rằng mình đang sống ở nơi thấp hèn hay cao quý, chốn trần gian hay trên thiên giới v.v… cũng đều thấy rằng họ thực sự hiện hữu khắp nơi, rằng toàn bộ thời gian đều ở trong họ, chứ không phải họ đang ở trong thời gian; rằng tất cả thiên đàng đều ở trong họ, chứ không phải họ đang ở trong bất kỳ thiên đàng nào; rằng mọi thần thánh mà con người đã từng sùng bái lâu nay đều ở trong họ, chứ không phải họ đang ở trong bất kỳ một vị thần nào. Người đó sáng tạo ra thần linh và ma quỷ, cỏ cây và cầm thú cùng đất đá, chân tính con người mở phơi lồng lộng ra trước người đó, cao siêu hơn những cõi trời, hoàn hảo hơn cái vũ trụ này của chúng ta, vô tận hơn cõi thời gian vô tận, toàn nhiên phổ hiện hơn cả cõi ê-te toàn nhiên phổ hiện.
Chỉ có như thế, con người mới đạt đến tinh thần vô úy và cảnh giới giải thoát. Thế là mọi vọng tưởng sẽ hoại diệt, bao khốn khổ sẽ tiêu tan, và tất cả nỗi sợ hãi đều chấm dứt mãi mãi. Sinh biến mất, và cùng với nó là tử; khổ đau biến mất và cùng với nó là lạc thú; trái đất biến mất, và cùng với nó là các cõi trời; thể xác biến mất, và cùng với nó là tâm trí. Bởi vì khi con người biến mất thì vũ trụ này cũng biến theo luôn, có thể nói như vậy. Cuộc đấu tranh liên tục, hăng say và luôn hoạt động của các lực ngừng lại vĩnh viễn; tất cả những gì hiển lộ như là lực và vật chất, như là những sự đấu tranh trong thế giới tự nhiên, như là chính thế giới tự nhiên, như là trời và đất, như là cỏ cây và cầm thú, như là con người và thần linh, tất cả những gì chuyển biến thành sự Tồn Tại vô biên duy nhất, nguyên vẹn, bất biến, tất cả những thứ đó đều ngừng lại vĩnh viễn, và bậc trí giả thấy mình hợp nhất với Cái Tồn Tại này. “Giống như những đám mây đủ màu trôi đến trước bầu trời, ngừng lại một lúc rồi tan đi”, tất cả những cảnh tượng trời đất, trăng sao, chư thần cùng những lạc thú và khổ đau cũng xuất hiện trước linh hồn như vậy đó; nhưng tất cả đều sẽ qua đi chỉ để lại đằng sau là Tinh Thần bất biến và vô tận. Bầu trời không bao giờ thay đổi, chỉ có những đám mây là thay đổi. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng Tinh Thần thay đổi. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng chúng ta bất tịnh, bị giới hạn và bị tách biệt. Con người chân thực là Tồn Tại duy nhất.
Có hai câu hỏi được nêu lên. Câu thứ nhất là : “Có thể thực chứng được điều đó không? Nó là học thuyết, là triết học đấy, nhưng liệu có thể thực chứng được nó không?”. Câu trả lời là có. Trong thế giới này vẫn có những người sống mà không hề mắc một vọng tưởng nào. Họ có chết ngay sau khi thực chứng hay không? Không nhanh như ta nghĩ. Hai bánh xe, được nối nhau bởi một trục, đang chạy cùng nhau. Nếu tôi giữ lại một bánh xe, và dùng rìu chặt đứt cái trục ra thì cái bánh xe tôi đang giữ sẽ ngừng lại, còn bánh xe kia sẽ tiếp tục chạy thêm một lúc nữa theo đà rồi ngã xuống. Hằng Hữu thuần tịnh và hoàn hảo này, tức Linh Hồn, là một bánh xe, và cái ảo giác bên ngoài về thể xác và tâm trí là bánh xe còn lại; cả hai được nối kết nhau qua cái trục là hành vi, là nghiệp (karma). Tri thức là cái rìu dùng để chặt đứt sự ràng buộc giữa chúng; và bánh xe linh hồn sẽ ngưng lại, nghĩa là ngưng suy nghĩ rằng Nó đang đến rồi đi, đang sống và đang chết, ngưng suy nghĩ rằng nó là một bộ phận của thế giới tự nhiên và những nhu cầu cùng khát vọng, mà sẽ thấy rằng Nó hoàn hảo và vô dục. Nhưng trong cái bánh xe kia, bánh xe của thể xác và tâm trí, vẫn còn cái đà của những hành vi trong quá khứ; do đó, nó sẽ còn sống thêm một thời gian nữa, cho đến khi cái đà của những hành vi quá khứ yếu dần đi và mất hẳn, lúc đó thể xác và tâm trí mới ngã xuống, Linh Hồn được tự do. Đâu còn chuyện lên thiên đàng rồi đầu thai trở lại, thậm chí cũng chẳng có chuyện lên đến cõi Brahmaloka, hay những cõi trời cao nhất, bởi vì Linh Hồn còn phải đến từ đâu hoặc đi về đâu?
Người nào, trong đời này, mà đạt đến trạng thái tâm linh đó, người nào thấy được cảnh tượng bình thường của thế giới biến đổi, dù chỉ trong một phút thôi, và thấy được thực tại hiển lộ thì người đó được gọi là “giải thoát khi còn sống”. Đó là mục tiêu của các triết gia Vedānta : đạt đến giải thoát khi còn sống.
Có lần, khi ở vùng Tây Ấn, tôi du hành đến một vùng sa mạc. Suốt nhiều ngày đêm, tôi đi bộ băng qua sa mạc đó, và tôi vô cùng kinh ngạc khi ngày nào cũng thấy những hồ nước xinh đẹp, có cây cối bao quanh, bóng cây phản chiếu lung linh dưới mặt hồ. Tôi tự nhủ thầm : “Trông nó đẹp biết bao – vậy mà người ta gọi đây là xứ sở sa mạc!”. Gần một tháng trời, tôi cứ đi như thế, luôn trông thấy những hồ nước tuyệt diệu với cây cối đó. Một hôm, tôi thấy rất khát, và cần phải uống nước; bởi vậy tôi liền đi đến một trong những cái hồ nước trong vắt và đẹp đẽ kia; nhưng khi tôi đến gần thì nó biến mất. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc tôi : “Đây là ảo ảnh mà mình đã đọc suốt đời”. Cùng với ý nghĩ đó, tôi chợt hiểu ra rằng suốt mấy tháng trời qua, ngày nào tôi cũng thấy ảo ảnh mà không hề hay biết. Sáng hôm sau, tôi lại lên đường. Hồ nước kia vẫn còn đó, nhưng khi vừa thấy cảnh tượng đó là trong tôi hiện ra ngay ý tưởng : đó chỉ là ảo ảnh, chứ không phải là hồ nước thực sự.
Vũ trụ này cũng vậy. Tất cả chúng ta đều đang du hành trong vũ trụ hết ngày này sang ngày khác, hết tháng này sang ngày tháng, hết năm này sang năm khác, mà không hề biết rằng nó chỉ là ảo ảnh. Một ngày kia, nó sẽ bùng vỡ, nhưng rồi nó sẽ quay về. Thể xác này vẫn phải còn lại do nghiệp lực trong quá khứ, cho nên ảo ảnh sẽ quay về. Thế giới này sẽ còn quay về chừng nào chúng ta còn bị nghiệp lực chi phối : nam nữ, cầm thú, cỏ cây, thân bằng quyến thuộc, tất cả sẽ quay về lại với chúng ta. Nghiệp lực sẽ không còn mang sức mạnh như cũ, dưới ảnh hưởng của tri thức mới, nó sẽ bị phá vỡ, độc tố của nó sẽ không còn. Nghiệp lực sẽ bị chuyển hóa, vì khi nó xuất hiện thì trong ta cũng xuất hiện ý tưởng rằng giờ đây ta đã hiểu nó quá rõ rồi, đã phân biệt rạch ròi giữa thực tại và ảo ảnh rồi. Lúc đó, thế giới không sẽ còn hiện ra như trước nữa.
Tuy nhiên, vẫn còn một hiểm họa. Chúng ta thường thấy mọi người cứ vin theo triết học này và nói : “Tôi vượt trên thiện ác, siêu quá thị phi nên không còn bị ràng buộc bởi những quy tắc đạo đức nữa, tôi có thể làm gì tùy thích”. Những kẻ khùng điên kiểu đó, hiện nay các bạn có thể gặp rất nhiều ở đất nước này, họ bảo : “Tôi không bị ràng buộc, tôi chính là Thượng Đế, hãy để mặc tôi làm gì tùy thích”. Không phải thế, mặc dù đúng là Linh Hồn vượt lên trên mọi quy luật vật lý, tinh thần và đạo đức. Bên trong quy luật là ràng buộc, bên ngoài quy luật là tự do. Đúng là tự do là bản chất của Linh Hồn, nó hưởng quyền thừa kế. Tự do chân thực đó của Linh Hồn tỏa sáng xuyên qua những lớp màn vật chất, dưới hình thức tự do bề ngoài của con người. Bất kỳ lúc nào trong đời, bạn cũng cảm thấy mình được tự do. Chúng ta không thể sống, nói, thở trong một phút chốc nếu không cảm thấy tự do; nhưng đồng thời, một tư tưởng bé nhỏ cho thấy rằng chúng ta giống như những cỗ máy, không hề có tự do. Vậy thì cái nào đúng? Có phải ý tưởng về tự do chỉ là một ảo tưởng? Một bên cho rằng tự do là một ảo tưởng, một bên lại cho rằng ràng buộc là một ảo tưởng. Điều này diễn ra như thế nào?
Thực sự là con người được tự do; con người chân thực, người-thực-sự-là-người thì chỉ có thể tự do chứ không thể là gì khác được. Chỉ khi đi vào thế giới của māyā, đi vào thế giới của danh và tướng, của tên gọi và hình thể thì con người mới bị trói buộc. Tự do ý chí là cách gọi sai lầm. Ý chí không bao giờ có thể tự do. Sao có thể thế được? Chỉ khi nào con người chân thực bị ràng buộc thì ý chí anh ta sẽ phát sinh, chứ không phải phát sinh trước đó. Ý chí con người thì bị ràng buộc, nhưng cái làm nền tảng cho ý chí lại vĩnh viễn tự do. Do đó, ngay trong trạng thái bị ràng buộc – mà ta gọi là đời sống con người hay đời sống chư thần, ở trần gian hay trên các cõi trời – chúng ta vẫn còn hồi tưởng lại sự tự do đó – sự tự do vốn là của chúng ta – bằng quyền của thần linh. Dù có ý thức hay không thì tất cả chúng ta vẫn đang đấu tranh hướng về điều đó.
Khi một người đạt đến cảnh giới tự do của chính mình thì còn quy luật nào ràng buộc anh ta được nữa? Không một quy luật nào vũ trụ này có thể trói buộc được anh ta, bởi vì vũ trụ này chính là vũ trụ của anh ta. Người đó là toàn thể cái vũ trụ này. Có thể nói người đó là toàn thể cái vũ trụ này, hoặc cũng có thể nói là không còn vũ trụ nào dành cho anh ta cả. Như vậy, làm sao anh ta có thể có những ý tưởng hẹp hòi về giới tính hoặc quốc gia? Làm sao anh ta có thể nói : “Tôi là nam”, hay “Tôi là nữ” hoặc “Tôi là đứa bé”? Những thứ đó chẳng phải là chuyện huyễn hoặc hoang đường sao? Làm sao người đó có thể bảo đây là những quyền của nam giới, kia là những quyền của nữ giới? Không một ai có quyền gì cả, không một ai tồn tại tách biệt được cả. Không hề có nam hay nữ, linh hồn không có giới tính, và mãi mãi thuần tịnh. Nói rằng tôi là nam hay tôi là nữ, nói rằng tôi thuộc về quốc gia này hay quốc gia kia, đó là những lời dối trá. Trọn thế giới này là đất nước của tôi, toàn thể vũ trụ này là vũ trụ của tôi, vì tôi đã khoác nó vào người như là thể xác của mình.
Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng trong đời này có những người sẵn sàng khẳng định giáo lý của mình, nhưng đồng thời lại làm những điều mà ta phải gọi là bẩn thỉu. Nếu ta hỏi vì sao họ lại làm thế thì họ sẽ đáp là do chúng ta mắc phải vọng tưởng, chứ họ không thể làm điều gì sai quấy cả. Bài thứ nghiệm, mà qua đó họ bị phê phán, là gì? Nó thế này đây. Mặc dù thiện ác đều được những trạng thái hiển lộ được quy định của Linh Hồn, tuy nhiên ác là lớp vỏ bọc bên ngoài cùng, còn thiện là lớp vỏ bọc gần với Con Người Chân Thực hơn, tức Chân Ngã. Trừ phi con người cắt đứt được lớp vỏ ác, bằng không thì anh ta không thể nào đạt đến lớp vỏ thiện; trừ phi anh ta cắt đứt được cả lớp vỏ ác lẫn lớp vỏ thiện, bằng không thì anh ta không thể nào đạt đến Chân Ngã. Đối với người đã đạt đến Chân Ngã, còn gì làm anh ta quyến luyến được? Một chút nghiệp, một chút đà trong quá khứ, nhưng tất cả đều là cái đà tốt. Không một ai có thể thấy và thực chứng được chân lý, cho đến khi nào cái đà xấu trong quá khứ yếu dần đi rồi chấm dứt hoàn toàn, và những điều bất tịnh trong quá khứ cũng bị thiêu sạch hoàn toàn.
Bởi vậy, đối với người đã đạt đến Chân Ngã và thấy được chân lý thì những thứ còn khiến người đó lưu luyến chỉ là phần sót lại của những ấn tượng tốt trong quá khứ, tức là cái đà tốt đẹp. Thậm chí nếu người đó còn sống trong một thể xác và làm việc không ngừng thì aanh ta chỉ làm toàn điều tốt, môi chỉ nói lời chúc phúc, tay chỉ làm điều thiện, đầu chỉ suy nghĩ điều hay; người đó đến đâu là đem hạnh phúc đến đấy. Bản thân người đó là nguồn lạc phúc sinh động. Một người như thế, chỉ cần có mặt thôi cũng đủ để cảm hóa kẻ độc ác nhất thành vị thánh. Ngay cả khi không nói gì thì sự hiện diện của người đó cũng đem lại lạc phúc cho nhân loại. Người như thế có thể làm điều gì xấu được?
Các bạn phải nhớ rằng giữa sự thực chứng và giảng thuyết suông có sự khác biệt một trời một vực. Bất kỳ gã điên rồ nào cũng có thể nói được. Thậm chí các con vẹt cũng có thể nói. Nói là một chuyện, còn thực chúng lại là chuyện khác. Triết học, giáo lý, lập luận, kinh sách, học thuyết, giáo hội, tông phái cùng tất cả những thứ khác đều tốt đẹp theo cách của chúng, nhưng một khi đã chứng ngộ thì những thứ đó đều rụng rơi hết thảy. Ví dụ bản đồ rất có ích, nhưng khi nhìn thấy một quốc gia, và nhìn lại bản đồ thì các bạn thấy sự khác biệt to lớn biết là dường nào! Bởi vậy, những người đã chứng ngộ được Chân Lý thì chẳng cần gì đến những thứ lý luận hay những trò thể thao của trí năng mới hiểu được Chân Lý; đối với với những người đó thì nó là sự sống của đời họ, được cụ thể hóa rõ ràng hơn nữa. Theo các vị hiền triết của triết học Vedānta, nó “như trái cây trong bàn tay”, các bạn có thể đứng lên và nói “Nó đây rồi”. Bởi vậy, những người chứng ngộ được Chân Lý sẽ đứng lên và nói “Chân Ngã đây rồi”. Các bạn có thể tranh luận với họ cả năm, nhưng họ sẽ mỉm cười với các bạn; họ xem điều tranh luận đó chẳng khác gì chuyện vớ vẩn của con nít, và họ để mặc đám con nít cứ bi bô thoả sức. Họ thực chứng được Chân Lý và thấy thỏa mãn. Giả sử các bạn đã nhìn thấy một xứ sở nào đó, rồi một người khác đến cố gắng tranh luận với các bạn rằng xứ sở đó không hề tồn tại, thì dù anh ta có lập luận đến vô biên vô tận song thái độ duy nhất trong tâm trí các bạn đối với kẻ đó hẳn sẽ là : nên đưa anh ta vào nhà thương điên là hợp lý nhất. Bởi vậy, người chứng ngộ nói : ” Trọn những lời thuyết giảng trong thế gian này về những tôn giáo cỏn con của nó chỉ là những lời vớ vẩn tầm phào; chỉ có chứng ngộ mới là linh hồn, mới là phần tối tinh yếu của tôn giáo”. Có thể thực chứng tôn giáo. Các bạn đã sẵn sàng chưa? Các bạn có cần nó không? Các bạn sẽ thực chứng tôn giáo nếu các bạn thực hành điều đó, và các bạn sẽ là những người có tinh thần tôn giáo thực thụ. Không có sự khác biệt nào giữa các bạn với những kẻ vô thần, cho đến khi nào các bạn thực chứng được tôn giáo. Kẻ vô thần là những người thành thực, còn ai nói rằng họ tin vào tôn giáo nhưng chẳng bao giờ nỗ lực thực chứng nó thì đó là những người không thành thực chút nào.
Câu hỏi tiếp theo là muốn biết cái gì sẽ đến sau khi chứng ngộ. Giả sử chúng ta đã chứng được cảnh giới hợp nhất cùng vũ trụ, chúng ta là Hằng Hữu Vô Biên duy nhất, và giả sử chúng ta đã thực chứng được rằng Chân Ngã này là Tồn Tại duy nhất và Nó chính là cái Chân Ngã đang tự thân hiển lộ qua muôn ngàn hình tướng trong hiện tượng giới; vậy thì cái gì sẽ xảy đến với chúng ta sau khi chứng ngộ? Phải chăng chúng ta sẽ chui vào một xó, ngồi im ở đó rồi chờ chết? “Làm điều thiện cho thế gian này thì có ích gì?” – câu hỏi thật là xưa cũ! Trước hết, vì sao phải làm điều thiện cho thế gian này? Có lý do nào để ta phải làm việc đó? Một người bất kỳ lấy quyền gì để đặt ra câu hỏi : “Làm điều thiện cho thế gian này thì có ích gì?” Điều đó có nghĩa là gì? Trẻ con thì thích kẹo. Giả sử các bạn đang nghiên cứu về hiện tượng truyền điện, và có đứa bé hỏi : “Những thứ này có mua được kẹo không?” Các bạn sẽ trả lời “Không”. Đứa bé sẽ hỏi : “Vậy thì nghiên cứu nó có ích gì chớ?”. Cũng giống vậy, con người sẽ đứng lên và nói : “Làm điều thiện cho thế gian này thì có ích gì? Nó có đem lại tiền bạc không?” “Không”. “Có chi hay ho trong việc làm đó hay không?” Đó là những gì mà con người hiểu về việc làm điều thiện cho cõi đỡi này.
Tuy nhiên, chứng ngộ sẽ đem mọi điều tốt đẹp đến với thế gian. Mọi người ngại rằng khi họ đã đạt đến cảnh giới đó, khi họ đã chứng ngộ rằng tất cả là một thì suối nguồn thương yêu sẽ khô cạn, mọi thứ trong đời sẽ kéo nhau đi sạch, và mọi thứ mà họ yêu thích sẽ tan biến hết, có thể nói như vậy, trong đời này và cả trong những đời sau. Mọi người không bao giờ ngừng suy nghĩ rằng những người hoạt động vĩ đại nhất trên thế gian là những người đã ban cấp một ý niệm nhỏ nhất trên bản sắc cá nhân của họ. Vậy thì con người chỉ yêu thương khi họ thấy đối tượng yêu thương của họ không phải là sự vật nhỏ mọn, thấp hèn và phù du tử diệt. Vậy thì con người chỉ yêu khi họ thấy đối tượng thương yêu của họ không phải là một cục đất, mà thực sự là một Thượng Đế. Người vợ sẽ yêu chồng hơn, khi nghĩ rằng chồng mình chính là Thượng Đế. Người chồng cũng sẽ yêu vợ hơn, khi biết rằng vợ mình chính là Thượng Đế. Người mẹ sẽ yêu bầy con hơn, khi nghĩ rằng chúng chính là Thượng Đế. Người ta sẽ yêu thương kẻ thù không đội trời chung của mình, khi biết rằng kẻ thù đó chính là Thượng Đế. Người ta sẽ yêu thương một bậc thánh nhân, khi biết rằng bậc thánh đó chính là Thượng Đế, chính con người đó cũng sẽ yêu thương những kẻ cùng cực xấu xa, tội lỗi bởi vì anh ta hiểu rằng nền tảng của những kẻ cùng cực xấu xa, tội lỗi đó chính là Ngài, vị Chúa Tể. Một người như thế sẽ làm rung chuyển cả thế giới. Đối với với người đó thì cái tự ngã nhỏ bé đã chết đi, và thay vào đó là Thượng Đế. Toàn thể vũ trụ sẽ chuyển biến vì người đó. Bao phiền não, khổ đau đều dứt tận; bao đấu tranh, chiến đấu đều từ giã ra đi. Thay vì là một ngục tù, vũ trụ này sẽ biến thành một sân chơi. Lúc đó cả vũ trụ sẽ diễm lệ vô ngần! Chỉ người đó mới có quyền đứng lên và nói : “Thế gian xinh đẹp biết bao!” Chỉ người đó mới có quyền nói rằng mọi sự đều tốt đẹp.
Đó là sự tốt đẹp vĩ đại mà sự chứng ngộ mang đến cho thế gian; nếu toàn thể nhân loại thực chứng được chỉ một phần vô cùng nhỏ của chân lý vĩ đại này thì bộ mặt cả thế giới sẽ thay đổi, thay vì là nơi cãi cọ đánh nhau, nó sẽ là một nơi hòa bình ngự trị. Sự vội vã thô lỗ và khiếm nhã, mà chúng ta bộc lộ ra khi cứ phải giành giật để tìm cách lấn lướt hơn người, sẽ biến mất khỏi thế gian này. Cùng với nó, tất cả sự đấu tranh, hận thù, ganh tỵ sẽ biến mất luôn, mọi tội lỗi xấu xa cũng tiêu tan vĩnh viễn. Chư thần sẽ sống trên thế gian này. Trái đất này sẽ biến thành một thiên đàng, thử hỏi còn điều gì xấu xa tội lỗi khi chư thần đùa với chư thần, khi chư thần làm việc với chư thần, khi chư thần thương yêu chư thần. Đó là lợi ích vĩ đại từ sự chứng thực thế giới tâm linh. Mọi thứ các bạn nhìn thấy trong xã hội đều thay đổi và chuyển biến. Các bạn sẽ không còn nghĩ rằng con người ác độc, đó là cái được to lớn đầu tiên. Các bạn sẽ không còn đứng lên và đưa ánh mắt diễu cợt nhìn người nghèo khổ khi họ phạm phải một sai lầm. Quý bà quý cô sẽ không còn tỏ vẻ khinh khi một bà lão nghèo khổ bước đi trên đường trong đêm tối, bởi vì quý vị sẽ thấy ở ngay nơi ấy cũng có Thượng Đế. Các bạn sẽ không còn nghĩ đến chuyện ganh tỵ hay trừng phạt. Chúng sẽ tan biến hết; và tình yêu, lý tưởng yêu thương vĩ đại sẽ mạnh mẽ đến mức không cần đến bất kỳ một loại roi vọt nào để uốn nắn con người đi đúng hướng.
Nếu một phần triệu nam nữ trong thế giới này chỉ ngồi xuống, và nói trong một vài phút : “Tất cả các bạn đều là Thượng Đế, tất cả các bạn đều là sự hiển lộ của Bản Tính Thần Linh sống động duy nhất!” thì cả thế giới này sẽ thay đổi hẳn ngay trong vòng nửa giờ. Thay vì ném những khối bom hận thù khủng khiếp vào từng ngóc ngách, thay vì khơi ngòi cho những dòng chảy ganh tỵ và tư tưởng ác độc thì ở mọi quốc gia, mọi người đều nghĩ rằng tất cả đều là Ngài. Ngài là tất cả những gì các bạn thấy và cảm nhận được. Làm sao các bạn có thể thấy được điều xấu ác, trừ phi trong tâm hồn các bạn có điều xấu ác? Làm sao các bạn có thể nhìn thấy được một tên trộm, trừ phi hắn ngồi đó, trong tận sâu thẳm của tâm hồn các bạn? Làm sao các bạn có thể nhìn thấy được một kẻ sát nhân, trừ phi chính các bạn là kẻ sát nhân? Hãy làm điều thiện, rồi điều ác tự nhiên sẽ biến mất khỏi tâm hồn các bạn. Như vậy, cả vũ trụ này đều thay đổi. Đây là cái được to lớn nhất đối với xã hội. Đây là cái được to lớn nhất đối với tổ chức loài người.
Những tư tưởng này đã được tư duy, phác họa nơi những người
Ấn Độ thời cổ đại. Vì nhiều lý do, chẳng hạn do tính độc quyền của những vị đạo
sư cùng những cuộc xâm lăng của nước ngoài, nên những tư tưởng này chưa được
truyền bá. Thế nhưng chúng là những chân lý vĩ đại, và chúng hoạt động ở bất cứ
nơi đâu thì ở đó con người biến thành thần thánh. Trọn cuộc đời tôi đã thay đổi
là nhờ tiếp xúc với một vị trong những bậc đạo sư thần thánh đó, một vị mà tôi
sẽ nói chuyện cùng các bạn vào chủ nhật tới, và đã tới lúc để những tư tưởng
này được truyền bá ra khắp thế giới. Thay vì chỉ sống trong những đền thờ, thay
vì chôn vùi mình trong những cuốn sách triết học mà chỉ các học giả mới nghiên
cứu, thay vì chỉ là sở hữu của những tông phái độc quyền và những học giả,
những tư tưởng đó sẽ được gieo rắc khắp nơi trên toàn thế giới, nhờ đó chúng sẽ
trở thành tài sản chung của vị thánh lẫn kẻ tội lỗi, của nam lẫn nữ, của bậc
thức giả lẫn người ngu dốt. Nó sẽ thấm nhuần vào bầu khí quyển của thế giới, và
ngay cả không khí mà ta đang thở cũng sẽ nói với mọi người về những nhịp đập
của nó. “Bạn là Cái Đó”. Và toàn thể vũ trụ này, với vố số mặt trời,
mặt trăng, thông mọi sự vật biết nói, sẽ cất tiếng cùng một giọng : “Bạn
là Cái Đó”.
Phần I
(Diễn thuyết tại London, 10 tháng 10, 1896)
Người ta yêu cầu tôi nói đôi điều về vai trò thực tiễn của triết học Vedānta. Như tôi đã trình bày cũng các bạn, triết học này thực sự tốt đẹp, nhưng làm thế nào để chúng ta vận dụng nó vào thực tiễn? Bất kỳ thuyết nào, nếu hoàn toàn không thể vận dụng được vào thực tiễn thì cũng chẳng có một chút giá trị gì, mà chỉ được xem là môn thể thao trí tuệ. Triết học Vedānta, do đó, hiểu theo nghĩa là một tôn giáo, mang tính thực tiễn rất cao. Chúng ta có thể vận dụng nó vào mọi sinh hoạt trong đời sống. Không chỉ thế thôi đâu. Sự khác biệt giả tạo giữa tôn giáo và đời sống phải biến mất, bởi vì triết học Vedānta dạy về Nhất Thể Tính – chỉ có một sự sống xuyên suốt tất cả. Lý tưởng tôn giáo phải bao trùm mọi lĩnh vực đời sống, chúng phải đi vào trong mọi tư tưởng của chúng ta, và đi sâu nhiều hơn nữa vào đời sống thực tế. Tôi sẽ dần dần nêu ra những khía cạnh thực tế, khi chúng ta đi sâu vào triết học này. Nhưng ý định của loạt các bài giảng này là tạo một nền tảng, do đó, chúng ta tự phải vận dụng thuyết này vào chính bản thân mình, và phải hiểu chúng được vận dụng ra sao, không chỉ nơi hang thẳm trong rừng sâu mà còn ở những thành phố náo nhiệt xô bồ. Chúng ta sẽ thấy được một nét đặc trưng, đó là những tư tưởng này, thay vì là kết quả của đời sống ẩn dật trong rừng sâu, lại xuất phát từ những người mà chúng ta thấy là bận rộn nhất : các đấng quân vương đang cai trị.
Śvetaketu, con trai của Āruni, là một bậc hiền triết, sống hầu như ẩn dật hoàn toàn. Ông lớn lên giữa rừng sâu, nhưng một hôm cậu ta đến kinh đô Panchālas và yết kiến triều đình của vua Pravāhana Jaivali. Nhà vua hỏi :
– Ngươi có biết con người chết rồi đi về đâu không?
– Tâu bệ hạ, không.
– Ngươi có biết họ quay về cõi đời này như thế nào không?
– Tâu bệ hạ, không.
– Vậy ngươi có biết con đường của tổ tiên và con đường của chư thiên không?.
– Tâu bệ hạ, không.
Rồi nhà vua hỏi tiếp những câu khác, nhưng Śvetaketu không thể trả lời được câu nào. Bởi thế, nhà vua bảo rằng cậu ta không hề biết một tý gì. Śvetaketu bèn quay về rừng gặp cha, và người cha thừa nhận rằng chính bản thân ông ta cũng không thể trả lời những câu hỏi đó. Không phải là người cha không muốn giải đáp những câu hỏi đó, cũng không phải là ông không muốn dạy cho cậu con trai. Mà chính bản thân ông ta không biết gì về những điều đó cả. Bởi vậy, Śvetaketu cũng cha quay lại triều đình, xin yết kiến nhà vua để được chỉ dạy về những điều bí ẩn đó. Nhà vua trả lời rằng những điều bí ẩn đó chỉ có những vị vua mới biết với nhau thôi, ngay cả giới tăng lữ cũng không bao giờ được biết. Tuy nhiên, nhà vua lại tiếp tục dạy cho họ những điều họ muốn biết.
Trong các kinh thư Upanishad, chúng ta thấy rằng triết học Vedānta này không chỉ là kết quả từ việc thiền quán trong rừng sâu, mà phần hay nhất của nó lại được tư duy và phô diễn bởi những đầu óc bận rộn nhất vì những công việc bề bộn hàng ngày. Ta không thể hình dung một người nào có thể bận rộn hơn một vị quân vương đúng nghĩa luôn chăm lo cai trị muôn dân, vậy mà một số trong bọn họ lại là những tư tưởng gia thâm thúy. Mọi thứ đều cho thấy rằng triết học này rất thực tiễn. Sau này, khi tiếp xúc với Bhagavad-Gitā – bản chú giải hay nhất về triết học Vedānta mà phần đông các bạn đã đọc – thật là lạ lùng khi mà bối cảnh của tác phẩm lại đặt giữa chiến trường, nơi mà thần Krishna giảng giải triết học này cho Arjuna, và những lời giáo huấn sáng chói trên từng trang Gitā đều sôi động mãnh liệt, nhưng giữa sự sôi động động đó là sự tĩnh lặng ngàn đời.
Đó là bí mật của hành động để đạt đến mục tiêu của triết học Vedānta. Trì trệ, bất động – như chúng ta hiểu theo nghĩa thụ động – chắc chắn không phải là mục tiêu này. Nếu là vậy thì những bức tường quanh ta hẳn phải thông minh nhất, vì chúng bất động. Khối đất, gốc cây hẳn phải là những bậc hiền triết vĩ đại nhất, vì chúng không hề hoạt động. Cũng không phải khi có đam mê thì bất động trở thành hoạt động. Hoạt động đích thực – mục tiêu của triết học Vedānta – được kết hợp với sự tĩnh lặng ngàn đời, một sự tĩnh lặng không thể bị làm cho xao động, đó là trạng thái quân bình của tâm trí mà không một biến cố nào có thể khuấy động được. Và từ kinh nghiệm trong đời sống, tất cả chúng ta biết rằng đó là thái độ tối ưu cho công việc.
Nhiều khi người ta hỏi tôi làm thế nào mà chúng ta có thể làm việc nếu không có niềm đam mê mà ta thường dành cho công việc đó? Nhiều năm trước đây, tôi cũng nghĩ vậy, nhưng khi đã chín chắn hơn, tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn, tôi thấy điều đó không còn đúng nữa. Càng ít đam mê, ta làm việc càng tốt hơn. Ta càng trầm tĩnh, điều đó càng tốt cho ta, và ta càng làm được nhiều việc. Khi buông lỏng cảm xúc, ta phung phí quá nhiều năng lượng, làm vỡ nát các dây thần kinh, khuấy động tâm trí, và làm được rất ít việc. Năng lượng cần dồn vào công việc đã bị tiêu tốn trong cảm xúc thuần túy, vốn không đem lại được việc gì. Chỉ khi tâm trí thật tĩnh lặng và tập trung thì toàn bộ năng lượng mới dồn hết vào công việc. Nếu đọc tiểu sử của những người hoạt động vĩ đại mà thế giới đã sản sinh ra, các bạn sẽ thấy rằng họ là những người trầm tĩnh tuyệt vời. Có thể nói là không gì có thể đẩy họ ra khỏi sự quân bình tâm trí. Đó là lý do vì sao những kẻ nóng nảy không bao giờ làm được cái gì to tát, và những người không bao giờ nóng giận thì thành tựu được rất nhiều điều. Kẻ nào không kiềm chế nổi sự nóng giận, hận thù hay những đam mê khác thì không thể làm việc được; y chỉ có thể tự vỡ tan thành những mảnh vụn, và không làm được một cái gì thực tiễn. Chỉ những tâm trí tĩnh lặng, khoan dung, điềm tĩnh, cực kỳ quân bình mới có thể làm được nhiều điều to lớn nhất.
Triết học Vedānta thuyết giảng lý tưởng, và các bạn biết đấy, lý tưởng thì luôn luôn đi trước thực tiễn, theo cách gọi của chúng ta. Có hai xu hướng trong bản tính con người : một xu hướng muốn kết hợp hòa hài lý tưởng với đời sống, còn xu hướng thứ hai thì muốn nâng cao đời sống lên ngang tầm lý tưởng. Hiểu được chuyện đó là điều vĩ đại, vì chúng ta luôn bị cám dỗ bởi xu hướng thứ nhất. Tôi nghĩ rằng tôi chỉ có thể làm được một số công việc cụ thể nào đó. Có thể là phần lớn những công việc đó thật tệ hại; có thể là có những động cơ đằng sau phần lớn những công việc đó, chẳng hạn sự giận dữ, thói tham lam hay tính ích kỷ. Bây giờ, nếu có người nào đó đến giảng cho tôi nghe về một lý tưởng nào đó, mà bước đầu tiên để thực hiện là phải từ bỏ tính ích kỷ, từ bỏ sự hưởng thụ cá nhân thì tôi sẽ cho là điều đó không thực tế. Nhưng nếu có người nào đó đem đến cho tôi một lý tưởng có thể dung hòa được với tính ích kỷ của mình, lập tức tôi sẽ vui mừng chộp lấy ngay. Đó là lý tưởng cho tôi. Từ “chính thống” đã bị bóp méo theo đủ cách như thế nào thì từ “thực tế” cũng bị bóp méo y như vậy.”Giáo lý của tôi mới là chính thống; còn giáo lý của bạn chỉ là thứ dị giáo”. Tính thực tiễn cũng như vậy đó. Cái gì mà tôi cho là thực tiễn thì đối với tôi, nó là thứ thực tiễn duy nhất trong thế gian này. Nếu tôi là một chủ tiệm thì tôi nghĩ rằng công việc trông coi cửa hàng là hoạt động thực tiễn duy nhất trong đời. Nếu tôi là kẻ trộm thì tôi cho rằng trộm cắp mới đúng là phương tiện thực tiễn nhất thế gian, những thứ khác đều không thực tiễn. Các bạn thấy chúng ta áp dụng từ thực tiễn cho những sự việc mà ta ưa thích như thế nào. Bởi vậy, tôi sẽ yêu cầu các bạn hiểu rằng triết học Vedānta, dù vô cùng thực tiễn, nhưng chỉ luôn luôn thực tiễn theo nghĩa lý tưởng. Nó không truyền giảng một một lý tưởng phi thực tiễn, dù nó rất cao siêu, mà chỉ nâng cao vừa tầm lý tưởng.
Tóm một lời, lý tưởng đó là : các bạn là thần linh. “Bạn là Cái Đó”. Đó là phần tinh yếu của triết học Vedānta. Theo dõi những tông phái và những trò thể thao trí năng của nó, các bạn sẽ biết rằng linh hồn con người vốn thuần tịnh và toàn nhiên phổ hiện, các bạn sẽ thấy rằng những điều mê tín như sinh tử đều hoàn toàn vô nghĩa, khi nói về mối liên hệ với linh hồn. Linh hồn chưa từng sinh nên nó sẽ không bao giờ chết; và tất cả những quan niệm cho rằng chúng ta sắp chết, và sợ chết chỉ là những điều mê tín nhảm nhí. Tất cả những quan niệm đó, cho rằng chúng ta có thể làm điều này, không thể làm điều nọ, cũng chỉ là những điều mê tín nhảm nhí. Chúng ta có thể làm được tất cả mọi thứ. Triết học Vedānta dạy con người trước hết phải tự tin. Giống như có một số tôn giáo trên thế giới nói rằng người nào không tin vào một Thượng Đế Nhân Thể ở bên ngoài mình thì đó là kẻ vô thần; thì cũng vậy, triết học Vedānta tuyên bố rằng người nào không tin chính mình thì đó là kẻ vô thần. Không tin vào sự huy hoàng rực rỡ của linh hồn chúng ta, đó là cái mà triết học Vedānta gọi là thuyết vô thần.
Đối với nhiều người, hiển nhiên, đây là một ý tưởng khủng khiếp; và phần lớn chúng ta đều cho rằng đó là lý tưởng không thể nào vươn tới nổi, song triết học Vedānta lại khăng khăng khẳng định bất cứ người nào cũng đều có thể thực chứng được lý tưởng đó. Dù là nam hay nữ, dù là người lớn hay trẻ con, dù thuộc bất kỳ chủng tộc nào, vẫn không có gì có thể ngăn cản một người thực chứng được lý tưởng đó, bởi vì triết học Vedānta chứng minh rằng lý tưởng đó đã được thực chứng rồi, đã hiện hữu trong ta rồi. Tất cả những nguồn lực trong vũ trụ đều hiện hữu đầy đủ cả trong ta. Chính chúng ta tự đưa tay lên bưng lấy mắt mình và la lên sao mà tối quá. Hãy biết rằng không hề có bóng tối nào quanh ta. Hãy lấy bàn tay đi, và nhìn ra ánh sáng đã có từ vô thủy. Bóng tối chưa bao giờ tồn tại, cả sự yếu đuối bạc nhược cũng chưa hề tồn tại. Chúng ta làm những kẻ điên rồ khi kêu la chúng ta yếu đuối; chúng ta làm những kẻ điên rồ khi kêu la chúng ta ô uế, bất tịnh. Bởi vậy, triết học Vedānta không chỉ khăng khăng khẳng định rằng : lý tưởng đó là thực tiễn lúc này, mà nó đã như thế tự bao giờ rồi; và lý tưởng đó, Thực Tại đó chính là tự tính của chúng ta. Tất cả những thứ khác mà các bạn nhìn thấy đều giả tạo, không thực. Ngay khi các bạn nói : “Tôi là một sinh thể nhỏ mọn” là các bạn đang nói một điều không thực, các bạn đang nói dối với chính mính, các bạn đang tự thôi miên mình là một thứ gì đó quá đỗi đê tiện, hèn hạ, bạc nhược và đáng thương. Triết học Vedānta không thừa nhận có tội lỗi, nó chỉ thừa nhận có sai lầm. Và sai lầm lớn nhất, theo triết học Vedānta, là bảo rằng các bạn là những kẻ yếu đuối, là những kẻ phạm tội, là một sinh vật khốn khổ đáng thương, rằng các bạn không có năng lực, không thể làm được điều này điều nọ. Có thể nói mỗi khi nghĩ thế là các bạn đóng thêm một cái khoen nữa vào sợi xích để kéo mình xuống, các bạn chồng thêm một trạng thái thôi miên nữa trên linh hồn mình. Bởi vậy, kẻ nào tự cho mình rằng yếu đuối, tự cho rằng mình bất tịnh, kẻ đó đã phạm sai lầm, và đang gieo những tư tưởng xấu xa vào cuộc sống.
Chúng ta phải luôn ghi nhớ điều này : trong triết học Vedānta, không hề có chuyện nỗ lực hòa giải với cuộc sống hiện tại – một cuộc sống bị thôi miên, một cuộc sống giả tạo mà chúng ta đang cưu mang – với lý tưởng đó; mà ngược lại, cuộc sống giả tạo này phải mất đi, và cuộc sống chân thực, cuộc sống vốn luôn luôn hiện hữu, phải hiển lộ tự thân, phải tỏa sáng rực rỡ. Không một ai càng ngày càng trở nên thuần tịnh, mà vấn đề lớn hơn, đó là hiển lộ sự toàn hảo đã hiện hữu trong họ. Bức màn che rơi xuống, và sự thuần tịnh bản hữu của linh hồn bắt đầu tự tỏa sáng rực rỡ. Tất cả đều là của chúng ta cả rồi : sự thuần tịnh vô biên, tự do vô biên, tình yêu vô biên và năng lực vô biên.
Triết học Vedānta cũng nói rằng lý tưởng này không chỉ có thể được thực chứng trong rừng sâu, mà trong chốn thâm sơn cùng cốc, mà còn có thể được thực chứng bởi mọi hạng người luôn phải bận rộn với những lo toan trong cuộc sống. Chúng ta đã thấy rằng những người phát hiện được những chân lý đó không phải sống trong chốn thâm sơn cùng cốc, cũng không phải là những người có nghề nghiệp bình thường, mà là những người – chúng ta có đủ mọi lý do để tin điều này – có cuộc sống bận rộn nhất, đó là những người phải chỉ huy quân đội, ngồi trên ngôi báu để chăm sóc muôn dân; và tất cả những điều này diễn ra vào những thời kỳ phong kiến tuyệt đối, chứ không phải trong những thời kỳ mà ông vua chỉ là một nhân vật bù nhìn mang tính tượng trưng. Vậy mà họ vẫn có thời giờ để nghĩ ra những tư tưởng đó, thực chứng chúng và đem dạy cho nhân loại. So với chúng ta, những người sống một đời nhàn rỗi, thì cuộc đời của những người đó thật thực tiễn biết là ngần nào! Nếu chúng ta không thể thực chứng được những chân lý đó thì thật đáng xấu hổ, bởi vì so ra thì chúng ta được tự do, nhàn rỗi suốt cả ngày, có rất ít việc để làm. Những yêu cầu của tôi chẳng là gì khi so với những yêu cầu của một bậc minh quân thời cổ. Những nhu cầu của tôi chẳng là gì khi so với những nhu cầu của một Arjuna tên bãi chiến trường Kurukshetra, đang chỉ huy một đại quân hùng mạnh; vậy mà giữa cảnh tên đạn bời bời nơi chiến trận, chàng ta cũng tìm ra được thời giờ để bàn luận về nền triết học cao siêu nhất, và vận dụng nó vào đời sống. Chắc chắn là chúng ta cũng có thể làm được rất nhiều chuyện trong đời mình – một cách tương đối tự do, dễ dàng và thoải mái. Hầu hết chúng ta đều có nhiều thời gian hơn ta nghĩ, nếu ta thực sự muốn vận dụng nó cho khéo léo. Nếu có quyết tâm thì với khoảng thời gian nhàn rỗi, ta có thể thực hiện được hai trăm lý tưởng trong đời này, nhưng ta không được làm suy đồi lý tưởng bằng cách kéo nó xuống thấp ngang tầm hiện thực. Đây là một điều vô cùng nguy hiểm. Có những người dạy chúng ta cách bào chữa đặc biệt để biện hộ cho những nhu cầu điên rồ hoặc tham vọng điên rồ của mình, và ta nghĩ rằng lý tưởng của họ là lý tưởng duy nhất mà ta cần phải có. Nhưng thực ra không phải vậy. Triết học Vedānta không dạy những điều như thế. Hiện thực nên được hòa giải với lý tưởng, cuộc sống hiện tại nên được hòa hợp với sự sống đời đời.
Các bạn cần phải nhớ rằng tư tưởng trọng tâm của triết học Vedānta là Nhất Thể Tính. Không hề có hai thực thể trong bất kỳ một sự vật nào – không hề có hai sự sống, thậm chí không hề có hai dạng sống khác nhau cho hai thế giới. Các bạn sẽ thấy rằng các kinh Veda, trước tiên là nói về các cõi trời và những sự vật tương tự; nhưng về sau, khi đạt đến những lý tưởng tối cao trong triết học thì chúng lại quét sạch tất cả những thứ đó đi. Chỉ có một Sự Sống, một Thế Giới, một Tồn Tại. Vạn hữu đều là Nhất Thể, chỉ có sự khác biệt về mức độ chứ không phải thể loại. Giữa sự sống của chúng ta có sự khác biệt với nhau về mức độ chứ không phải thể loại. Triết học Vedānta phủ nhận hoàn toàn những quan niệm cho rằng loài vật khác với loài người, và Thượng Đế tạo ra chúng là để cho loài người ăn thịt.
Một số người đã đủ từ tâm để sáng lập một hiệp hội không mổ xẻ thú vật còn đang sống. Tôi hỏi một hội viên trong đó : “Này anh bạn, vì sao bạn cho rằng giết thú vật để ăn thịt là hợp pháp, mà lại không được giết một hay hai con để làm thí nghiệm khoa học?” Anh ta đáp : “Mổ xẻ thú vật còn đang sống là điều đáng kinh tởm, nhưng thú vật sinh ra là để cung cấp thức ăn cho chúng ta”.
Nhất Thể bao hàm cả các loài cầm thú. Nếu con người bất tử thì cầm thú cũng vậy. Sự khác biệt là ở mức độ chứ không phải thể loại. Con a-míp và tôi là bình đẳng, vô sai biệt; sự khác biệt chỉ nằm ở mức độ; và xét từ quan điểm của sự sống tối cao thì hoàn toàn không còn sai biệt. Người ta có thể thấy sự khác biệt to lớn giữa ngọn cỏ và một cây nhỏ, nhưng khi trèo lên cao thì họ sẽ thấy cỏ và những cây đại thụ đều hiện ra bình đẳng như nhau. Do đó, xét từ quan điểm của lý tưởng tối cao thì loài thú thấp hèn nhất với con người cao siêu nhất đều bình đẳng, vô sai biệt. Nếu các bạn tin có một Thượng Đế thì đối với Ngài, cầm thú cùng những tạo vật tối cao đều bình đẳng, vô sai biệt. Một Thượng Đế mà đối xử công chính với những đứa con được gọi là “con người” của mình, và tỏ ra tàn ác với những đứa con được gọi là “dã thú” của mình thì Thượng Đế đó còn tồi tệ hơn cả loài quỷ dữ. Tôi thà chấp nhận chết một trăm lần, hơn là đi sùng bái một Thượng Đế như thế. Cả đời tôi hẳn phải cuộc đấu tranh chống lại một Thượng Đế như thế. Xét từ quan điểm Thượng Đế thì hoàn toàn không có sự khác biệt; và người nào nói rằng có thì đó là những kẻ vô trách nhiệm, vô cảm và thiếu hiểu biết.
Đây là một trường hợp mà từ thực tiễn bị hiểu sai. Chúng ta ăn thịt không phải vì loài vật được sinh ra để cung cấp thức ăn cho ta, mà vì chúng ta muốn vậy. Có thể bản thân tôi không phải là người ăn chay nghiêm túc, nhưng tôi hiểu lý tưởng này. Khi ăn thịt, tôi biết mình sai. Ngay cả trong những trường hợp buộc phải ăn thịt, tôi vẫn cảm thấy thật là tàn ác. Tôi không được kéo lý tưởng của mình xuống ngang tầm hiện thực và tìm cách biện hộ cho hành vi yếu đuối của mình. Lý tưởng đó là : không được ăn thịt loài vật, và không được làm tổn thương đến bất kỳ một sinh linh nào; bởi vì loài vật là những người anh em với tôi. Nếu các bạn có thể nghĩ đến loài vật như là những người anh em của mình thì các bạn đã tiến được một chút đến tình huynh đệ giữa tất cả những linh hồn, đó là chưa nói đến tình huynh đệ giữa con người! Nhưng thực hiện được điều này không phải là trò chơi trẻ con. Thường thì các bạn thấy rằng điều này khó được nhiều người chấp nhận, vì nó dạy họ phải từ bỏ hiện thực, và vươn đến lý tưởng. Nhưng nếu các bạn đề xuất một thuyết hòa giải được với những hành vi hiện tại của họ thì họ sẽ xem nó mang tính thực tiễn hoàn toàn.
Bản tính con người có xu hướng bảo thủ rất mạnh mẽ, ta không muốn tiến thêm một bước nào. Tôi nghĩ đến nhân loại giống hệt như những người bị đông cứng trong tuyết, mà tôi đã đọc trong sách. Tất cả bọn họ thèm được ngủ, và nếu các bạn cố lôi họ ra khỏi tình trạng đó thì họ bảo : “Hãy để yên cho chúng tôi ngủ; ngủ trong tuyết thật là tuyệt vời”; và thế là họ chết cóng luôn, khi say ngủ. Bản tính chúng ta cũng như vậy Đó là những gì chúng ta đang làm trong cả đời mình – bị lạnh cóng từ dưới chân lạnh lên, và thèm được ngủ. Do đó, các bạn phải đấu tranh để vươn tới một lý tưởng; và nếu có kẻ nào muốn đem lý tưởng đó xuống cho ngang tầm với các bạn, và giảng dạy một tôn giáo không thực hiện được lý tưởng cao siêu nhất đó thì đừng có nghe theo. Theo tôi, đó là loại tôn giáo phi thực tiễn. Nhưng nếu có người giảng một tôn giáo trình bày được lý tưởng cao siêu nhất thì tôi sẵn lòng tin theo.
Hãy tỉnh táo khi bất cứ người nào tìm cách biện hộ cho những sự phù phiếm và yếu đuối trong lạc thú giác quan. Nếu có bất kỳ người nào muốn thuyết giảng con đường đó cho chúng ta – sống khốn khổ, gò bó trong thế giới giác quan như cục đất – thi khi đi theo con đường đó, chúng ta sẽ không bao giờ tiến bộ. Tôi đã chứng kiến chuyện này nhiều rồi, đã có một số trải nghiệm trong đời; tại đất nước tôi, các giáo phái mọc ra như nấm. Hàng năm lại có một vài giáo phái xuất hiện. Nhưng có một điều mà tôi lưu ý, đó là chỉ những người nào không bao giờ muốn hòa giải con người theo dục lạc với con người theo chân lý thì mới tiến bộ trong tu tập. Bất cứ nơi nào có ý tưởng sai lầm muốn dung hòa sự phù phiếm trong lạc thú giác quan với lý tưởng cao siêu nhất, muốn kéo Thượng Đế xuống ngang tầm với con người thì ở nơi đó có sự băng hoại, suy đồi. Con người không nên để bị kéo xuống tình trạng nô lệ ở thế gian, mà phải vươn lên ngang tầm với Thượng Đế.
Đồng thời, vấn đề này còn một khía cạnh khác. Chúng ta không được khinh khi người khác. Tất cả chúng ta đều hướng đến một mục tiêu chung. Sự khác biệt giữa yếu đuối và sức mạnh chỉ là sự khác biệt về mức độ. Sự khác biệt giữa đức hạnh và tội lỗi chỉ là sự khác biệt về mức độ. Sự khác biệt giữa thiên đàng và địa ngục chỉ là sự khác biệt về mức độ. Sự khác biệt giữa sự sống và cái chết cũng chỉ là sự khác biệt về mức độ. Tất cả sự khác biệt trên thế gian này chỉ là sự khác biệt về mức độ, chứ không phải về thể loại, bởi vì Nhất Thể Tính là điều bí ẩn của vạn hữu. Tất Cả là Một, và Cái Một này hiển lộ tự thân như là tư tưởng, sự sống, thể xác, hoặc linh hồn. Đã vậy thì chúng ta không có quyền khinh khi những người không phát triển tới mức độ ngang bằng với chúng ta. Không được khinh khi bất cứ một ai. Nếu các bạn có thể dang rộng vòng tay để giúp đỡ người khác thì làm đi; nếu không làm được thì hãy gấp tay lại, cầu phúc cho những người anh em và để họ đi theo con đường của riêng họ. Kéo xuống thấp và nguyền rủa, đó không phải là cách thức làm việc. Làm theo cách đó thì không bao giờ thành tựu được việc gì. Chúng ta tiêu tốn năng lượng khi nguyền rủa kẻ khác. Phê phán và nguyền rủa là cách phung phí năng lượng vô ích, bởi vì càng về lâu về dài, chúng ta hiểu ra rằng tất cả đều cùng đi tìm một mục tiêu như nhau, tất cả đều ít nhiều đều cùng tiếp cận một lý tưởng như nhau, và hầu hết sự khác biệt của chúng ta chỉ sự khác biệt trong cách biểu hiện mà thôi.
Hãy lấy một ý tưởng về tội lỗi. Lúc nãy, tôi vừa mới nói cho các bạn nghe về vấn đề này từ quan điểm của triết học Vedānta, và một quan điểm khác cho rằng con người là kẻ có tội. Trên thực tế, cả hai là một, chỉ khác ở chỗ một bên thì mang yếu tố tích cực, một bên thì tiêu cực. Một bên thì cho thấy sức mạnh của con người, một bên thì phô ra sự yếu đuối. Dẫu có yếu đuối, triết học Vedānta nói, cũng đừng bận tâm, chúng ta cần phải lớn mạnh. Khi vừa chào đời thì chúng ta đã mang sẵn bệnh tật trong người. Ai nấy đều biết mình mang bệnh gì, chẳng cần đến ai nói về căn bệnh của mình. Những lúc nào cũng nghĩ mình mang bệnh thì điều đó cũng đâu có chữa được bệnh. Phải cần đến thuốc. Chúng ta có thể quên hết mọi thứ bên ngoài, chúng ta có thể giả bộ đạo đức với thế giới bên ngoài, nhưng trong tận thâm tâm, chúng ta vẫn biết được sự yếu đuối của mình. Tuy nhiên, triết học Vedānta cho rằng nhờ đến sự yếu đuối cũng chẳng giúp được gì nhiều. Hãy mạnh mẽ lên. Hãy dồn thêm sức mạnh. Và sức mạnh đó không nảy sinh từ việc lúc nào cũng nghĩ đến sự yếu đuối. Liều thuốc cho sự yếu đuối không phải là ấp ủ sự yếu đuối, mà nghĩ đến sức mạnh. Hãy dạy cho con người biết rằng sức mạnh đó đã có sẵn trong họ rồi. Thay vì bảo rằng con người là những kẻ tội lỗi, triết học Vedānta đứng trên quan điểm đối lập, và tuyên bố : “Các bạn vốn thuần tịnh và toàn hảo, và cái mà các bạn gọi là tội lỗi chẳng liên quan gì đến bạn”. Tội lỗi là mức độ hiển lộ rất thấp của Chân Ngã; hãy hiển lộ Chân Ngã ở mức độ cao. Đó là điều duy nhất các bạn cần ghi nhớ. Tất cả chúng ta đều làm được điều đó. Đừng bao giờ nói “không”, đừng bao giờ nói “tôi không thể”, bởi vì các bạn là vô biên, vô tận. Ngay cả thời gian và không gian cũng chẳng là gì khi so với chân tính của các bạn. Các bạn có thể làm bất cứ việc gì, có thể làm được mọi việc; các bạn là những người toàn năng.
Trên đây là những nguyên tắc đức lý, nhưng bây giờ chúng ta sẽ hạ bớt cho thấp hơn, và vạch ra các chi tiết. Chúng ta sẽ thấy triết học Vedānta này có thể thâm nhập vào sinh hoạt hàng ngày, vào đời sống trong thành phố, đời sống chốn nông thôn, vào sinh hoạt của quốc gia và sinh hoạt gia đình của mỗi quốc gia như thế nào. Bởi vì một tôn giáo, nếu không giúp được cho con người ở bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào thì nó cũng không có ích gì nhiều; nó sẽ mãi là một giáo lý chỉ dành cho một thiểu số được chọn lựa. Một tôn giáo, để giúp được con người, phải luôn sẵn sàng và có khả năng hộ trì con người ở trong bất kỳ điều kiện nào, dù nô lệ hay tự do, dù ở đáy sâu đồi trụy hay ở đỉnh cao đức hạnh; dù ở bất cứ nơi đâu, tôn giáo cũng đều có thể hộ trì con người như nhau, không sai biệt. Lý tưởng của triết học Vedānta, lý tưởng của tôn giáo – hay các bạn có thể gọi bằng bất cứ cái tên nào – sẽ được tựu thành viên mãn, chỉ khi nào nó có thể thực hiện được chức năng đó.
Lý tưởng về lòng tự tin là sự hộ trì lớn nhất đối với chúng ta. Nếu như lòng tự tin đã được giảng dạy và thực hành mãnh liệt hơn nữa thì tôi tin chắc rằng phần lớn những điều xấu xa và cảnh khốn cùng hẳn đã tan biến hết cả rồi. Xuyên suốt dòng lịch sử nhân loại, nếu có một lực đẩy nào mãnh liệt hơn những lực khác trong đời sống của những vĩ nhân, nam cũng như nữ, thì đó chính là lòng tự tin nơi bản thân họ. Khi sinh ra với ý thức họ là vĩ nhân thì họ trở thành vĩ nhân. Hãy để mặc con người chìm sâu đến mức tận cùng, rồi cũng phải đến lúc, từ cơn tuyệt vọng hoàn toàn, anh ta sẽ tung người lên và học cách tin vào chính bản thân mình. Nhưng tốt hơn là chúng ta nên biết điều đó ngay từ đầu. Vì sao ta lại phải trải qua trăm cay ngàn đắng mới có được lòng tự tin? Chúng ta có thể thấy rằng tất cả sự khác biệt giữa người với người là do có tự tin hay không mà thôi. Lòng tự tin sẽ giúp chúng ta làm được tất cả mọi thứ. Tôi đã trải nghiệm điều đó trong đời mình, và vẫn còn đang trải nghiệm; và khi tôi càng đứng tuổi thì lòng tự tin đó càng ngày càng mạnh mẽ. Kẻ vô thần là kẻ không tin vào bản thân mình. Các tôn giáo cũ nói rằng kẻ vô thần là kẻ không tin vào Thượng Đế. Tôn giáo mới nói rằng kẻ vô thần là kẻ không tin vào bản thân mình. Đây không phải là lòng tự tin ích kỷ, bởi vì Vedānta, một lần nữa, là triết học về Nhất Thể Tính. Nó có nghĩa là tin vào tất cả, bởi vì bạn là tất cả. Yêu bản thân có nghĩa là yêu tất cả mọi sinh linh, yêu loài vật, cỏ cây, yêu muôn loài, bởi vì bạn là tất cả. Chính lòng tin vĩ đại này làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Tôi tin chắc điều đó.
Người vĩ đại nhất là người có thể nói với chân lý : “Tôi biết được tất cả về bản thân tôi”[37]. Các bạn có biết được còn có bao nhiêu năng lượng, bao nhiêu năng lực, bao nhiêu sức mạnh còn ẩn tàng nơi bản thân mình? Nhà khoa học có biết được hết những gì nơi con người? Đã hàng triệu năm trôi qua, khi con người đầu tiên đến tại nơi này, vậy mà năng lực họ chỉ mới biểu hiện được một phần cực nhỏ. Bởi vậy, các bạn không được nói rằng mình yếu đuối. Làm sao các bạn biết được những khả năng nào còn năm ẩn đằng sau sự suy đồi bề ngoài? Các bạn chỉ mới biết được một chút ít những gì tàng ẩn trong mình. Bởi vì đằng sau các bạn là đại dương vô biên của năng lực và lạc phúc.
“Ātman này là cái đầu tiên cần phải nghe nói đến”. Hãy nghe cả ngày lẫn đêm rằng các bạn là Linh Hồn đó. Cả ngày lẫn đêm hãy lặp đi lặp lại điều đó, cho đến khi nó thấm vào từng mạch máu của các bạn, cho đến khi nó hòa tan vào từng giọt máu của các bạn, cho đến khi nó biến thành xác thịt máu xương của các bạn. Hãy để cả thể xác này ngập tràn lý tưởng duy nhất đó. “Ta là Linh Hồn bất sinh, bất tử, đầy lạc phúc, toàn nhiên phổ hiện, toàn năng, và vĩnh viễn chói ngời”. Hãy trầm tư về câu đó suốt ngày đêm, cho đến khi nó trở thành một phần trong đời sống các bạn. Hãy quán tưởng câu nói đó. Và công việc sẽ phát sinh từ đó. “Từ sự viên mãn của tâm hồn, cái miệng cất lên tiếng nói”, thì từ sự viên mãn của tâm hồn, bàn tay cũng làm việc. Hành động sẽ đến. Hãy làm tràn ngập tâm hồn các bạn bằng lý tưởng đó; hãy luôn nhớ đến nó, trước khi làm bất cứ chuyện gì. Như thế, mọi hành động của các bạn sẽ được tôn vinh, chuyển biến, sẽ trở nên thiêng liêng nhờ vào chính sức mạnh của tư tưởng này. Nếu vật chất có sức mạnh thì tư tưởng có năng lực vô song. Hãy mang tư tưởng này vào cuộc sống các bạn, hãy làm đầy tâm hồn các bạn bằng tư tưởng về sự toàn năng, sự trang nghiêm và vinh quanh chói lọi của mình.
Cầu mong Thượng Đế, xin đừng mang bất kỳ một tư tưởng mê tín nào trong đầu óc các bạn! Cầu mong Thượng Đế, từ lúc sinh ra đời, xin đừng để chúng ta bị bủa vây bởi tác dụng của những điều mê tín đó, cũng như những tư tưởng về sự yếu đuối và tội lỗi của chúng ta – những tư tưởng khiến ta tê liệt! Cầu mong Thượng Đế, loài người đã có một con đường đi dễ dàng hơn để dẫn tới những chân lý thâm huyền vô thượng! Nhưng con người phải kinh qua tất cả những điều này, đừng làm cho con đường đó trở nên gập ghềnh khó đi hơn cho những người đến sau các bạn.
Đôi khi, đây là những giáo lý khủng khiếp được thuyết giảng. Tôi biết có những người kinh hãi khi những ý tưởng này nhưng đối với người nào có tinh thần thực tiễn thì đây là giáo lý cần giảng dạy trước tiên. Đừng bao giờ tự nhủ với mình hay nói với người khác rằng các bạn yếu đuối. Hãy làm việc thiện, nếu có thể; nhưng đừng bao giờ làm tổn thương thế gian này. Trong tận thâm tâm, các bạn biết rằng nhiều tư tưởng hạn hẹp của mình – cho rằng mình là kẻ khốn khổ đáng thương, và than khóc để cầu xin ân huệ từ những thần linh tưởng tượng – đều là mê tín. Thử nói cho tôi biết có trường hợp nào cầu xin mà được đáp ứng từ bên ngoài. Tất cả những đáp ứng đó đều đến từ chính trái tim các bạn. Các bạn biết rằng không ma quỷ, nhưng ở bóng đêm cũng không khỏi thấy rợn người. Sở dĩ vậy, là vì từ lúc còn bé ta đã mang những ý tưởng đó trong đầu rồi. Nhưng chớ dạy những điều này cho người khác vì sợ hãi dư luận, vì sợ gây nên thù hận nơi bè bạn, hoặc vì sợ mất đi những điều mê tín ấp ủ bấy lâu. Hãy làm chủ tất cả những thứ đó. Trong tôn giáo, có gì đáng để dạy hơn Nhất Thể Tính của vũ trụ và lòng tự tin? Tất cả những công trình của nhân loại hàng ngàn năm qua cũng chỉ để hướng đến mục tiêu duy nhất đó, và nhân loại vẫn còn đang tiếp tục thực hiện điều này. Lúc này đến lượt các bạn, và các bạn đã biết đến chân lý đó. Bởi vì nó được giảng dạy trong mọi ngành học. Không chỉ trong triết học, tâm lý học, mà cả những bộ môn khoa học vật lý cũng tuyên bố điều đó. Hiện nay có một nhà khoa học nào sợ phải công nhận nhất thể tính của vũ trụ? Ai là người dám nói về nhiều thế giới? Tất cả đều là mê tín.
Chỉ có một Sự Sống duy nhất, một Thế Giới duy nhất; và Sự Sống duy nhất cùng Thế Giới duy nhất này hiển lộ cho chúng ta trong muôn ngàn hình tướng. Tính sai biệt đa thù này giống như một giấc mơ. Khi bạn nằm mơ thì khi giấc mơ này hết, giấc mơ khác lại đến. Không giấc mơ nào có thực. Các giấc mơ cứ nối tiếp nhau, hết cảnh này đến cảnh khác cứ mở ra trước mắt các bạn. Sự việc là thế trong cái thế giới chín có đến mươi phần trăm là khốn khổ, và chỉ mười phần trăm là hạnh phúc này. Có thể là sau một thời gian, cái thế giới này có được chín mươi phần trăm hạnh phúc thì ta gọi là thiên đàng. Nhưng đối với một nhà hiền triết thì sẽ đến lúc vạn hữu đều tan biến, và cái thế giới này hiện ra như là Thượng Đế, và linh hồn ông ta hiện ra như là vị Thượng Đế đó. Do đó, không có nhiều sự sống, cũng chẳng có nhiều thế giới. Mọi hiện tượng sai biệt đa thù đều là sự hiển lộ của Nhất Thể. Nhất Thể này tự thân hiển lộ như là cái sai biệt đa thù – như là vật chất, tinh thần, tâm trí, tư tưởng và mọi thứ khác. Cho nên bước đầu tiên mà chúng ta cần làm là dạy chân lý đó cho chính mình và cho những người khác. Hãy để thế gian vang lừng giai điệu của lý tưởng này, và hãy để cho bao điều mê tín tan biến hết. Hãy nói chân lý đó cho những người yếu đuối, và hãy kiên trì nói mãi.
“Ngươi là đấng Thuần Tịnh; hãy thức tỉnh và đứng dậy, hỡi đấng Toàn Năng! Giấc ngủ này không thuộc về ngươi. Hãy thức tỉnh và đứng dậy, giấc ngủ này không thích hợp ngươi. Đừng nghĩ rằng ngươi là kẻ yếu đuối đáng thương. Hỡi đấng Toàn Năng, hãy thức tỉnh và đứng dậy, và hiển lộ chân tính của ngươi. Nghĩ rằng mình là kẻ tội lỗi, điều đó chẳng phù hợp với người”. Hãy nói điều đó cùng thế giới, hãy nói điều đó cho bản thân mình, và hãy xem điều đó dẫn đến kết quả thực tiễn ra sao; hãy xem vạn hữu, như tia điện chớp, hiển lộ toàn thân như thế nào, hãy xem muôn vật biến đổi ra sao. Hãy nói điều đó với mọi người, và chỉ họ thấy năng lực của họ. Như vậy, mọi người sẽ học cách vận dụng chân lý đó vào đời sống hàng ngày.
Để có thể vận dụng được cái mà ta gọi là viveka, tức trí phân biệt, để có thể học được cách phân biệt được thiện ác, thị phi trong từng giây phút trong đời sống, trong từng hành vi của mình, chúng ta phải biết sự thử nghiệm chân lý : đó là sự thuần tịnh và nhất thể tính. Bất kỳ sự vật nào tạo nên nhất thể tính đều là chân lý. Tình yêu là chân lý, và hận thù là hư ngụy, bởi vì hận thù tạo nên sự phức tạp đa thù. Chính hận thù chia cách giữa người với người, cho nên nó sai lầm và hư ngụy. Nó là sức mạnh gây tan rã, nó tách ly và phá hủy. Tình yêu kết hợp tất cả, và tạo nên nhất thể tính. Các bạn trở thành một, mẹ với con trở thành một, gia đình và thành phố trở thành một, trọn thế giới này đều hợp nhất với muôn loài. Bởi vì tình yêu là Tồn Tại, là chính Thượng Đế; và tất cả điều đó là sự hiển lộ của Tình Yêu Duy Nhất, được biểu hiện ít hoặc nhiều. Sự khác biệt chỉ ở mức độ, còn sự hiển lộ của Tình Yêu Duy Nhất đó bao trùm khắp nơi. Do đó, trong mọi hành động của mình, chúng ta phải phán đoán xem nó tạo ra tình trạng sai biệt hay hợp nhất. Nếu nó tạo ra sự sai biệt thì chúng ta phải từ bỏ nó, còn nếu nó tạo nên sự hợp nhất thì ta tin chắc rằng nó tốt đẹp. Đối với tư tưởng cũng vậy, chúng ta phải quyết định xem nó tạo nên sự phân hóa, sai biệt đa thù hay hợp nhất, xem nó có hết hợp linh hồn này với linh hồn khác để tạo nên sức mạnh vĩ đại hay không. Nếu nó làm được điều đó thì chúng ta sẽ chọn nó; bằng không, chúng ta sẽ ném nó đi như một thứ xấu xa tội lỗi.
Toàn bộ quan niệm về đức lý trong triết học Vedānta là nó không lệ thuộc vào bất kỳ cái gì bất khả tri, nó chẳng dạy bất kỳ thứ gì xa lạ. Trái lại, nó dạy bằng ngôn ngữ của Thánh Paul : “Thượng Đế mà các ngươi sùng bái một cách ngu dốt, ta sẽ thuyết giảng chính Thượng Đế đó với các ngươi”. Chính nhờ Chân Ngã mà các bạn biết được mọi sự vật. Tôi thấy cái ghế này, nhưng để thấy được nó, trước hết tôi phải nhận thức được bản thân tôi, rồi sau đó mới đến cái ghế. Cái ghế được nhận thức ở bên trong và thông qua Chân Ngã. Chỉ ở bên trong và thông qua Chân Ngã mà tôi nhận biết các bạn, nhận biết được cả thế giới, bởi vậy nói rằng Chân Ngã là cái xa lạ thì điều đó thật là vô nghĩa. Bỏ Chân Ngã đi thì cả thế giới này cũng biến mất. Mọi tri thức xuất hiện ở bên trong và thông qua Chân Ngã. Do đó, Nó là cái được nhận biết rõ nhất trong tất cả. Nó là bản thân các bạn – là cái mà các bạn gọi là “tôi”. Các bạn có thể tự hỏi làm thế nào mà “tôi” của tôi lại có thể là “tôi” của các bạn. Các bạn có thể làm sao tự hỏi cái “tôi” bị giới hạn này lại có thể là Cái Vô Biên không giới hạn. Nhưng đúng là vậy. Cái “tôi” bị giới hạn này chỉ là ảo tưởng. Cái Vô Biên đã bị che lấp, có thể nói như vậy, và chỉ một phần nhỏ của Nó hiển lộ như là cái “tôi”. Giới hạn không thể xuất phát từ cái không giới hạn, đó là hư cấu. Do đó, tất cả chúng ta – nam phụ lão ấu – đều biết Chân Ngã, thậm chí cả loài vật cũng biết Chân Ngã. Nếu không biết Chân Ngã thì chúng ta không thể sống hoặc chuyển dịch, không thể tồn tại; không biết đấng Chúa Tể đó của vạn hữu, chúng ta không thể thở hoặc sống trong một giây. Thượng Đế trong triết học Vedānta được nhận biết nhiều nhất trong tất cả, và không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng.
Nếu triết học này mà không thuyết giảng về một Thượng Đế thực tiễn thì làm gì còn triết học nào khác có thể thuyết giảng cho các bạn một Thượng Đế thực tiễn? Ở đâu có một Thượng Đế thực tiễn hơn đấng Thượng Đế mà tôi nhìn thấy trước mắt tôi – một Thượng Đế toàn nhiên phổ hiện, hiện hữu trong muôn vật, một Thượng Đế còn thực hơn tất cả những gì mà giác quan tôi cảm nhận được? Bởi vì các bạn chính là Ngài, đấng Thượng Đế Toàn Năng toàn nhiên phổ hiện đó, nếu tôi bảo rằng các bạn không phải là Ngài thì tôi đang nói một điều không thực. Tôi biết điều đó, dù tôi có luôn luôn thực chứng được nó hay không. Ngài là Nhất Thể Tính, là Nhất Thể của vạn hữu, là Thực Tại của mọi sự sống và tất cả những gì tồn tại.
Những ý tưởng về đức lý trong triết học Vedānta phải được vạch rõ từng chi tiết, do đó, các bạn cần phải kiên nhẫn. Như tôi đã nói với các bạn, chúng ta cần phải vạch rõ chủ đề này một cách tỉ mỉ trong từng chi tiết, để xem những ý tưởng đó phát triển như thế nào từ một mức độ rất thấp kém, và để xem ý tưởng vĩ đại về nhất thể tính duy nhất đó đã phát triển và được định hình thành Tình Yêu Phổ Quát ra sao. Chúng ta cần phải nghiên cứu tất cả điều này để tránh những điều nguy hiểm.
Thế giới này không thể tìm ra thời gian để phát triển dần từ những bậc thấp nhất. Nhưng chúng ta đứng trên những bậc cao hơn thì có ích gì, nếu chúng ta không thể trao chân lý cho những kẻ đến sau? Do đó, tốt hơn là nên nghiên cứu triết học này trong mọi hoạt động của nó, và điều tuyệt đối cần thiết đầu tiên là lọc sạch trí năng, dù chúng ta biết rằng trí lực [intellectuality] hầu như là con số không, bởi vì chính trái tim mới điều quan trọng nhất. Chính thông qua trái tim, chứ không phải trí năng, mà chúng ta mới thấy được Thượng Đế. Tri năng chỉ là kẻ quét dọn đường sá để mở đường cho chúng ta, là nhân công loại hai, là cảnh sát mà thôi; nhưng viên cảnh sát đó không cần thiết lắm trong những hoạt động tích cực của xã hội. Anh ta chỉ có nhiệm vụ chấm dứt những chuyện lộn xộn, kiểm soát những chuyện làm sai trái. Đó là tất cả những hoạt động được yêu cầu đối với trí năng. Khi bạn đọc một cuốn sách mang tính trí tuệ, khi hiểu thông suốt được nó rồi thì các bạn cảm thấy “Cảm tạ Thượng Đế, tôi đã thoát khỏi nó rồi”, bởi vì trí năng thì mù quáng, không thể tự dịch chuyển, nó không có chân tay. Chính cảm xúc mới tác động, mới dịch chuyển với tốc độ nhanh gấp vô số lần tốc độ dòng điện hoặc bất cứ thứ gì. Các bạn có cảm nhận được điều đó không? – đó là vấn đề. Nếu có, các bạn sẽ thấy được Thượng Đế. Cảm nhận mà các bạn đang có hôm nay sẽ mạnh mẽ hơn, được thánh hóa, và được nâng lên mức độ cao nhất, cho đến khi các bạn cảm nhận được nhất thể tính trong vạn hữu, cảm nhận Thượng Đế trong chính mình và trong những người khác. Trí năng không thể làm được điều đó. “Những phương pháp thuyết giảng khác, những phương pháp giải thích kinh văn kiểu khác – những thứ đó chỉ là trò tiêu khiển của các học giả, chứ không đem đến sự giải thoát cho linh hồn”.
Người nào trong các bạn đã đọc Thomas à Kempis[38] đều thấy ông ta khẳng định điều đó trong từng trang sách, và hầu như mọi thánh nhân trên thế gian này đều khẳng định điều đó. Trí năng rất cần thiết, vì không có nó thì chúng ta mắc những lỗi thô thiển, và phạm đủ thứ sai lầm. Trí năng kiểm soát tất cả những điều này, nhưng bên ngoài phạm vi đó, đừng có xây dựng bất cứ điều gì trên nó. Nó chỉ đem lại sự giúp đỡ thụ động và thứ yếu, còn cảm xúc và tình yêu mới đem lại sự giúp đỡ thực sự. Các bạn có thể cảm nhận thay cho người khác được không? Nếu được thì các bạn đang tiến dần đến sự hợp nhất. Nếu không thể cảm nhận thay cho người khác được thì dù có là bậc trí giả vĩ đại nhất từng sinh ra trên cõi đời này đi nữa, các bạn cũng chỉ là con số không rỗng tuếch; các bạn chỉ là một bậc trí thức khô cằn, và sẽ mãi mãi như thế. Còn nếu cảm nhận được thì dù các bạn không thể đọc bất kỳ cuốn sách nào, không hề biết đến bất cứ ngoại ngữ nào, các bạn vẫn đang đi theo chánh đạo. Đấng Chúa Tể là của các bạn.
Ngay từ thời khai nguyên của lịch sử thế giới, các bạn không biết sức mạnh của các nhà tiên tri nằm ở đâu sao? Nó ở đâu? Ở nơi trí năng? Liệu có người nào trong số họ viết một cuốn sách hay ho về triết học, hay viết về môn lý luận rối rắm nhất trên đời? Không ai cả. Họ chỉ nói một đôi lời. Hãy cảm nhận như Chúa Jesus, và các bạn sẽ là Chúa Jesus; hãy cảm nhận như đức Phật, và các bạn sẽ là đức Phật. Chính cảm xúc mới là sự sống, sức mạnh và nguồn sinh lực, không có nó thì không một hoạt động tri thức nào có thể vươn đến Thượng Đế. Trí năng giống như tứ chi mất đi năng lực vận động. Chỉ khi nào cảm xúc nhập vào chúng, truyền vào đó sự vận động thì chúng mới dịch chuyển và tác động lên bộ phận khác. Điều này diễn ra như vậy ở khắp mọi nơi trên thế giới, và các bạn phải luôn luôn ghi nhớ lấy nó. Đó là một trong những điều thực tiễn nhất trong nền đạo lý Vedānta, bởi vì triết học Vedānta dạy rằng tất cả các bạn là những nhà tiên tri, và tất cả phải là những nhà tiên tri.
Kinh điển không phải là chứng cứ cho hành vi của các bạn, mà chính hành vi của các bạn mới là chứng cứ cho kinh điển[39]. Làm sao các bạn biết được cuốn kinh thư đó giảng dạy chân lý? Vì các bạn chính là chân lý và cảm nhận được điều đó. Đó là những gì triết học Vedānta muốn nói. Chứng cứ cho những đức Chúa Jesus và chư Phật trong thế gian này là gì? Ấy là : các bạn và tôi cảm nhận được như các vị đó. Đó là cách để các bạn và tôi biết rằng những điều đó là chân thực. Linh hồn tiên tri của chúng ta là chứng cứ về linh hồn tiên tri của các vị đó. Thần tính của các bạn là chứng cứ về chính Thượng Đế. Nếu các bạn không phải là những nhà tiên tri thì đã không có bất kỳ điều gì chân thực về Thượng Đế. Nếu các bạn không phải Thượng Đế thì đã không có bất kỳ một Thượng Đế nào, và sẽ không bao giờ có.
Đây là, triết học Vedānta tuyên bố, lý tưởng phải theo. Mỗi
người trong chúng ta đều phải trở thành một nhà tiên tri trong tương lai. Các
bạn là những nhà tiên tri rồi; chỉ cần biết điều đó. Đừng nghĩ có một cái gì đó
là bất khả đối với linh hồn. Nghĩ như thế là thứ tà giáo kinh khủng nhất. Nếu
có tội lỗi thì đó là tội lỗi duy nhất này : tự nhủ rằng các bạn yếu đuối và
người khác đều yếu đuối.
Phần II
(Diễn thuyết tại London, 12 tháng 12, 1896)
Tôi xin kể cho các bạn nghe một câu chuyện rất xa xưa, trong Chhāndogya Upanishad, về một đứa bé thu hoạch kiến thức như thế nào. Hình thức câu chuyện thì rất thô thiển, nhưng chúng ta sẽ thấy rằng nó hàm chứa một nguyên lý.
Một đứa bé trai nói với mẹ : “Con sẽ nghiên cứu các kinh Veda. Mẹ cho con biết tên của cha và chủng cấp[40] của con”. Người mẹ không phải là đàn bà có chồng theo hôn thú; và ở Ấn Độ, đứa con của người mẹ không hôn thú bị xem như là đồ bỏ đi; nó không được xã hội công nhận trong hệ thống chúng cấp, và không có quyền nghiên cứu kinh Veda. Bởi vậy, người mẹ đáng thương kia bảo : “Con à, mẹ không biết đến họ của mình. Mẹ đã quen phục dịch người khác. Mẹ sinh con khi đang dọn dẹp nhà cửa cho người ta. Mẹ không biết cha con là ai. Nhưng tên mẹ là Jabalā, và tên con là Satyakāma”.
Đứa bé bèn tìm đến một nhà hiền triết và xin được làm đệ tử. Nhà hiền triết mới hỏi : “Cha con tên gì và con thuộc chủng cấp nào?”. Đứa bé lặp lại lời mẹ nó nói. Nhà hiền triết liền bảo : “Chỉ có tu sĩ Brahmin mới có thể nói sự thật về mình. Con là một Brahmin, và ta sẽ dạy cho con. Con đã không đi chệch khỏi chân lý “. Bởi vậy, ông ta giữ đứa bé lại và dạy dỗ nó.
Bây giờ chúng ta đến với những phương pháp giáo dục đặc biệt trong xã hội Ấn Độ cổ đại. Vị thầy bèn sai Satyakāma dắt bốn trăm con bò gầy gò, ốm yếu vào rừng để chăm sóc. Đứa bé vào rừng và sống ở đó một thời gian. Người thầy dặn khi nào số bò tăng lên đến một ngàn con thì hãy quay về. Vài năm sau, một hôm Satyakāma nghe con bò đực to lớn trong bầy nói với mình : “Bây giờ chúng ta đã lên tới một ngàn con, hãy dẫn chúng ta về với vị đạo sư của ngươi đi. Ta sẽ dạy cho ngươi đôi điều về Brahman”. Satyakāma nói : “Xin ngài hãy nói” Con bò bèn nói : “Phương Đông là một phần của đấng Chúa Tể; các phương Tây, Nam, Bắc cũng vậy. Bốn phương là bốn phần của Brahman. Lửa sẽ dạy cho ngươi đôi điều về Brahman”. Thuở đó, lửa là biểu tượng vĩ đại, và bất kỳ người tầm sư học đạo nào cũng phải giữ gìn ngọn lửa thiêng và dâng lễ vật để cúng lửa. Ngày hôm sau, Satyakāma lên đường quay về nhà người thầy, đến chiều thì nó sửa soạn lễ vật để dâng cúng ngọn lửa. Satyakāma ngồi kề bên ngọn lửa, và nghe một tiếng nói cất lên từ ngọn lửa : “Này Satyakāma!”. Satyakāma vội nói : “Hỡi đấng Chúa Tể, xin Ngài hãy nói”. (Chắc các bạn nhớ đến một chuyện tương tự trong Cựu Ước, Samuel đã nghe ra tiếng nói bí ẩn như thế nào). “Này Satyakāma, ta đến để dạy cho ngươi đôi điều về Brahman. Trái đất này là một phần của Brahman. Cả bầu trời cùng các cõi trời cũng là một phần của Nó. Đại dương là một phần của Brahman”. Rồi ngọn lửa lại bảo có một con chim có thể dạy cho Satyakāma đôi điều khác.
Satyakāma bèn tiếp tục cuộc hành trình. Đến chiều hôm sau, khi đứa bé chuẩn bị lễ vật dâng cúng ngọn lửa thì một con thiên nga bay đến và bảo : “Ta sẽ dạy cho ngươi đôi điều về Brahman. Ngọn lửa mà ngươi đang thờ cúng, này Satyakāma, là một phần của Brahman. Mặt trời, mặt trăng, sấm chớp cũng là một phần của Brahman. Một con chim tên là Mangu sẽ nói cho ngươi nghe về Nó”. Chiều hôm sau, con chim đó bay đến, và Satyakāma lại nghe một giọng điệu tương tự : “Ta sẽ dạy cho ngươi đôi điều về Brahman. Hơi thở là một phần của Brahman, mắt nhìn, tai nghe và tâm trí cũng đều là một phần của Brahman”.
Rồi đưa bé về đến nhà thầy, và kính cẩn ra mắt thầy theo lễ nghi quy định. Vừa thấy môn đồ, vị hiền triết kia liền nói :
– Này Satyakāma, gương mặt con rạng ngời như gương mặt của một người biết được Brahman! Ai đã dạy con điều đó?
Satyakāma đáp :
– Những sinh vật không phải là người, nhưng con mong ước được thầy chỉ dạy, thưa sư phụ. Bởi vì con đã từng nghe những người như sư phụ nói rằng chỉ có tri thức học hỏi được từ một guru mới dẫn đến cảnh giới tối thiện được.
Vị hiền triết bèn dạy cho đưa bé những điều ông tiếp thu được từ người khác. “Không có gì bị bỏ sót, vâng, không có gì bị bỏ sót”.
Bây giờ, bỏ qua những ẩn dụ từ lời dạy của con bò, ngọn lửa và những con chim, chúng ta thấy được xu hướng của tư tưởng thời bấy giờ. Ở đây, ta thấy được mầm móng tế vi của một tư tưởng lớn, đó là : tất cả những tiếng nói đó đều ở bên trong chúng ta. Khi thấu hiểu chân lý hơn, chúng ta thấy rằng tiếng nói nằm ngay trong tâm chúng ta, và người tầm sư học đạo hiểu rằng lúc nào anh ta cũng nghe chân lý, nhưng cách giải thích của anh ta lại không đúng. Anh ta giải thích rằng tiếng nói đó đến từ thế giới bên ngoài, trong khi nó luôn ở trong tâm mình.
Ý tưởng thứ hai mà chúng ta rút ra từ câu chuyện này là cách biến tri thức về Brahman trở nên thực tiễn. Thế giới này luôn tìm kiếm những khả năng thực tiễn của tôn giáo; và chúng ta thấy, trong những câu chuyện này, tư tưởng đó trở nên ngày càng thực tiễn trong đời sống hàng ngày như thế nào rồi. Chân lý được chứng minh thông qua tất cả những sự vật mà tất cả các nhà tầm sư học đạo đều quen thuộc. Ngọn lửa mà họ thờ cúng là một phần của Brahman, trái đất là một phần của Brahman v.v….
Câu chuyện tiếp theo đây là câu chuyện của Upakośala Kamalāyana, một môn đồ của Satyakāma này. Upakośala Kamalāyana tìm đến Satyakāma để học đạo và sống với vị này một thời gian. Lúc bấy giờ, Satyakāma đang vân du, và người môn đồ tầm sư học đạo thấy lòng trĩu nặng. Người vợ của Satyakāma trở về, hỏi Upakośala vì sao không ăn, cậu bé đáp :
– Con đau buồn quá nên chẳng muốn ăn.
Lập tức từ ngọn lửa mà đứa bé đang thờ cúng vọng lên tiếng nói :
– Cuộc sống này là Brahman, Brahman là ākāśa, Brahman là lạc phúc. Hãy nhận biết Brahman.
Đứa bé đáp :
– Thưa ngài, con biết cuộc sống này là Brahman, nhưng Nó là ākāśa và lạc phúc thì con không biết.
Ngọn lửa bèn giảng giải hai danh từ ākāśa và lạc phúc đều có chung một nghĩa trên thực tế, đó là Trí Thông Minh Thuần Khiết ngự trị trong tâm hồn. Thế đó, ngọn lửa dạy cho Upakośala biết Brahman là cuộc sống, là ākāśa trong tâm. Rồi ngọn lửa dạy tiếp :
– Trái đất này, thức ăn này, lửa và mặt trời này mà người đang sùng bái đều là những hình thể của Brahman. Đấng hiển lộ trong mặt trời – Ta là Ngài. Kẻ nào biết được điều này và trầm tư về Ngài thì mọi tội lỗi sẽ được tiêu trừ, người đó sẽ sống đời đời trong lạc phúc. Đấng sống ở bốn phương, trên mặt trời và trăng sao – Ta là Ngài. Đấng sống trong đời này, sống trong ākāśa, các cõi trời và trong tia sấm chớp – Ta là Ngài.
Tại đây, ta thấy quan niệm tương tự về tôn giáo thực tiễn. Những sự vật mà họ sùng bái như lửa, mặt trời, mặt trăng v.v… và tiếng nói quen thuộc đó đã tạo nên chủ đề của những câu chuyện đã giải thích chúng và đem lại cho chúng một ý nghĩa cao hơn. Và đây là khía cạnh thực tiễn, chân thực của triết học Vedānta. Nó không phá hủy, mà giải thích, thế giới; nó không phá hủy, mà giải thích, con người; nó không phá hủy, mà giải thích, bản sắc cá nhân bằng cách trưng ra một bản sắc cá nhân thực sự. Nó không chứng minh rằng thế giới này là hư ảo và không tồn tại, mà nó nói rằng : “Hãy hiểu thế giới này là gì, để nó khỏi làm tổn thương các bạn”.
Tiếng nói đó không bảo Satyakāma rằng ngọn lửa mà anh ta đang sùng bái, hay mặt trời, mặt trăng, hay tia sấm chớp hay bất kỳ thứ gì khác là sai; mà nó chứng minh cho Satyakāma thấy cái Tinh Thần chung đang ngự trị trong mặt trời, mặt trăng, trong tia sấm chớp hay lửa và đất cũng chính là Tinh Thần đang ngự trị trong tâm anh ta; do đó, có thể nói là muôn vật đều biến đổi dưới đôi mắt Satyakāma. Ngọn lửa trước đây chỉ là một ngọn lửa vật chất để làm lễ hiến tế, giờ đây đã mang một dáng vẻ khác và trở thành đấng Chúa Tể. Trái đất biến đổi, cuộc sống biến đổi, mặt trời, mặt trăng, tinh tú biến đổi, sấm chớp biến đổi, tất cả vạn sự đều biến đổi và trở nên linh thiêng. Thực tính của chúng được nhận biết. Chủ đề của triết học Vedānta là kiến chiếu được Thượng Đế trong muôn vật, thấy được muôn vật trong thực tính của chúng, chứ không phải theo hình tướng bề ngoài.
Một bài học trong Upanishad : “Đấng chiếu sang qua đối mắt là Brahman; Ngài là đấng Mỹ Lệ, Kiều Diễm, Ngài là đấng tỏa sáng. Ngài chiếu sáng muôn vật trong tất cả các thế giới”. Luồng ánh sáng đặc dị khác đến với người thuần tịnh, theo lời một nhà phê bình, là muốn nói đến luồng ánh sáng chiếu sáng từ đôi mắt, và người ta bảo rằng khi một người giữ tâm thuần tịnh thì ánh sáng đó sẽ tỏa sáng từ đôi mắt, và ánh sáng đó thực sự thuộc về Linh Hồn vô sở bất tại ở bên trong. Đó cũng chính là ánh sáng chiếu sáng cho mặt trời, mặt trăng, và muôn vì tinh tú.
Bây giờ tôi sẽ đọc cho các bạn nghe một số giáo lý của các cổ thư Upanishad về lẽ tử sinh. Có lẽ các bạn sẽ thấy lý thú. Śvetaketu đến kinh đô Panchālas để yết kiến nhà vua, và nhà vua hỏi :
– Ngươi có biết con người chết rồi đi về đâu không? Ngươi có biết họ quay về cõi đời này như thế nào không? Ngươi có biết vì sao trái đất này không đầy mà không trống rỗng không?
Śvetaketu trả lời là mình không biết gì cả. Thế là Śvetaketu quay về gặp cha, và hỏi lại những câu hỏi đó. Người cha đáp :
– Cha cũng không biết.
Thế rồi hai cha con cùng đến yết kiến nhà vua. Nhà vua trả lời rằng những điều bí ẩn đó ngay cả giới tăng lữ cũng không bao giờ biết được, mà chỉ có những vị vua mới biết với nhau thôi, cho nên các vị vua mới trị vì thiên hạ. Cả hai cha con đều dốc sức phục vụ nhà vua và cuối cùng nhà vua bảo rằng ông ta muốn dạy cho họ. Đức vua bảo:
– Này Gautama, có một thế giới khác là lửa. Mặt trời là nhiêu liệu của nó, các tia sáng là khói của nó, ngày là ánh lửa của nó, mặt trăng là than hồng của nó, tinh tú là tia lửa của nó. Trong ngọn lửa này, chư thần rót rượu cúng, và đức vua Soma ra đời từ rượu cúng đó. Ngươi không cần rót rượu cúng cho ngọn lửa nhỏ bé đó; cả thế giới này là một ngọn lửa, và rượu cúng này, nghi thức sùng bái này vẫn cứ tiếp tục diễn ra như thế. Chư thần, chư thiên, và tất cả mọi người đều sùng bái nó. Con người là biểu tượng lửa vĩ đại nhất – thể xác con người.
Ở đây, chúng ta xem lý tưởng này trở thành thực tiễn như thế nào. Brahman hiện hữu trong muôn vật. Nguyên lý chạy ngầm bên dưới của tất cả những câu chuyện này là như vầy: thuyết biểu tượng được phát minh có thể tốt và có ích, nhưng đã tồn tại sẵn những biểu tượng tốt hơn bất kỳ biểu tượng nào mà chúng ta phát minh ra. Các bạn có thể phát minh ra một hình ảnh để dùng nó mà thờ Thượng Đế, nhưng đã có sẵn một hình ảnh tốt hơn rồi – đó là con người sống. Các bạn có thể dựng lên một đền thờ để dùng nó mà thờ Thượng Đế, điều đó có thể tốt đẹp, nhưng đã có sẵn một đền thờ tốt hơn rồi – đó là thể xác con người.
Các bạn nên nhớ rằng triết học Vedānta có hai phần : phần nghi lễ và phần kiến thức. Theo thời gian, nghi lễ ngày càng phát triển và trở nên rối rắm đến mức khó lòng mà gỡ rối được nó; do đó, trong các Upanishad, chúng ta thấy rằng nghi lễ hầu như dần biến mất đi, nhưng có thêm được ý nghĩa thâm huyền hơn. Chúng ta thấy rằng trong thời cổ đại, con người đã có nghi thức rót rượu cúng tế; rồi các triết gia xuất hiện, thay vì giật lấy những biểu tượng đó khỏi tay của những người dân ngu dốt, thay vì giữ một vị trí tiêu cực – mà không may là chúng ta thường thấy rất nhiều trong những phong trào cải cách hiện đại – thì họ gán cho những biểu tượng một cái gì đó để đảm nhận vai trò của chúng. “Đây là biểu tượng của lửa”, họ bảo, “Tốt lắm! Nhưng đây là một biểu tượng khác : đất. Thật là một biểu tượng vĩ đại, hoành tráng! Đây là một đền thờ nhỏ bé, nhưng cả vũ trụ này là một đền thờ, con người có thể thờ cúng ở bất cứ nơi đâu. Con người dựng lên một số tế đàn, nhưng có một tế đàn vĩ đại nhất trong các tế đàn, đó là thể xác con người có ý thức và sinh động; và cúng tế ở tế đàn này có ý nghĩa sâu xa hơn sùng bái bất kỳ một biểu tượng chết nào”.
Bây giờ chúng ta đến với một giáo lý đặc thù. Bản thân tôi cũng không hiểu nhiều về nó. Tôi sẽ mô tả nó với các bạn, và xem thử các bạn có thể tiếp thu được một chút gì từ đó hay không. Một người khi chết, nếu nhờ công phu trầm tư thiền quán mà tâm được thuần tịnh và có được tri thức thì trước tiên sẽ đi vào cõi sáng; rồi từ cõi sáng đó anh ta đi vào cõi ngày; từ cõi ngày đi vào cõi nửa sáng của mặt trăng, từ cõi nửa sáng của mặt trăng đi vào cõi sáu tháng khi mặt trời đi về phương bắc; từ cõi đó đi vào cõi năm; từ cõi năm đi vào mặt trời; từ mặt trời đi vào mặt trăng; từ mặt trăng đi vào cõi sáng; và khi đi đến tinh cầu của ánh sáng, anh ta sẽ gặp một sinh thể không phải là người và sinh thể đó dẫn anh ta đến với Brahman. Đó là Con Đường của Chư Thiên. Còn các nhà hiền triết và các học giả khi chết đi, họ sẽ đi theo con đường đó và không quay về. Năm tháng này cùng tất cả những thứ này có nghĩa là gì, không một ai hiểu rõ. Mỗi người giải thích theo một kiểu, và có người cho rằng những thứ đó hoàn toàn vô nghĩa. Đi vào thế giới mặt trời, mặt trăng, và sinh thể đi theo để giúp đỡ linh hồn đi vào cõi sáng có nghĩa là gì, cũng không một ai biết.
Người Ấn cho rằng mặt trăng là nơi có sự sống, và chúng ta sẽ xem thử sự sống đến từ nơi đó như thế nào. Những người không đạt đến trình độ hiểu biết, nhưng bình sinh đã làm nhiều điều thiện thì khi chết đi, họ sẽ đi ngang qua khói, rồi đi vào bóng đêm, từ bóng đêm họ đi vào cõi mười lăm ngày tăm tối, sau đó đi tiếp vào cõi sáu tháng, khi mặt trời đi về phương bắc; từ đó họ đi đến vùng đất của tổ tiên, rồi đi tiếp vào cõi ākāśa, rồi đi vào tinh cầu mặt trăng; tại đây họ biến thành thức ăn cho chư thần, rồi tái sinh thành chư thần, và hưởng thọ lạc phúc tùy theo công đức đã tạo. Cái này được gọi là Con Đường của Tổ Tiên. Khi quả phúc đã mãn phần, họ quay về lại thế gian cũng theo con đường đó. Trước tiên, họ rơi xuống đất như là những giọt mưa, thấm vào trong thức ăn, bị con người ăn và cuối cùng biến thành con cái loài người. Những ai thuở bình sinh làm điều thiện sẽ được sinh vào những nhà quyền quý, còn ai thuở bình sinh làm điều ác sẽ bị sinh vào những nhà hạ tiện hoặc đầu thai làm cầm thú. Cầm thú lại tiếp tục tiến hóa lên cao và thoát khỏi trái đất. Còn những kẻ nào không đi theo Con Đường của Chư Thiên cũng không đi theo Con Đường của Tổ Tiên – tức những người tạo nên ác nghiệp – sẽ biến thành côn trùng, sinh ta rồi lại chết đi ngay. Đó là lý do vì sao trái đất không đầy mà cũng không trống rỗng.
Từ thuyết này, ta có thể rút ra được một vài ý tưởng, có lẽ sau này chúng ta sẽ hiểu nó rõ hơn; và chúng ta có thể suy ngẫm một chút về ý nghĩa của nó. Phần sau cùng – phần đề cập đến những người quay về cõi trời – có lẽ rõ ràng hơn phần đầu; nhưng toàn bộ ý tưởng dường như là thế này : không có thiên đàng vĩnh cửu nếu không thực chứng được Thượng Đế. Giờ đây, một số người không thực chứng được Thượng Đế, nhưng bình sinh làm điều thiện để cầu phúc thì, khi chết đi, họ sẽ đi qua các vùng này cõi nọ, để cuối cùng đến được thiên đàng; ở đó họ cũng được sinh ra theo cách của chúng ta ở trần gian để làm con của chư thần, và họ sống ở cõi đó để hưởng lạc phúc lâu hay mau tùy theo công đức. Từ thuyết này đã phát sinh một quan niệm cơ bản của triết học Vedānta, đó là tất cả những sự vật có danh tướng (tên gọi và hình tướng) đều phù du. Trái đất phù du vì có danh tướng, các cõi trời cũng phù du vì cũng có danh tướng. Một cõi trời hằng cửu là điều mâu thuẫn trong thuật ngữ, vì bất cứ sự vật nào có danh tướng đều phải khởi đầu trong thời gian, tồn tại trong thời gian, và kết thúc trong thời gian. Đây là những giáo lý bất di bất dịch của triết học Vedānta, và những cõi trời như vậy đều bị từ bỏ.
Chúng ta đã thấy, trong các cổ thư Samhitā, quan niệm một về thiên đàng vĩnh cửu, giống như thiên đàng của những tín đồ Hồi giáo hay Cơ Đốc giáo. Các tín đồ Hồi giáo ít nhiều đã cụ thể hóa cái thiên đàng này. Họ hình dung đó là một cung điện có những khu vườn và dòng sông chảy bên dưới. Trong sa mạc xứ Á Rập, nước là thứ quý hiếm, cho nên các tín đồ Hồi giáo luôn hình dung thiên đàng của họ có rất nhiều nước. Tôi sinh ra tại một đất nước mỗi năm có đến sáu tháng mưa. Giả sử phải hình dung ra một thiên đàng thì tôi hình dung đó là một nơi khô ráo, có lẽ người Anh cũng vậy[41]. Các cõi trời trong các cổ thư Samhitā là thường hằng, vĩnh cửu, những người chết lên đến cõi đó đều có thân thể xinh đẹp, sống mãi với cha mẹ tổ tiên trong lạc phúc đời đời. Ở đó, họ gặp lại cha mẹ, con cái cùng những thân bằng quyến thuộc, cũng sống cuộc đời như ở trần gian, chỉ khác là hạnh phúc nhiều hơn. Tất cả những thứ gây khó khăn, cản trở cho hạnh phúc đều tan biến hết, chỉ còn lại những điều tốt đẹp và lạc thú.
Tuy nhiên, một số nhân loại thích sống thoải mái lại xem xét tình trạng này, vì chân lý là một chuyện, còn tiện nghi thoải mái là một chuyện khác. Có những trường hợp, chân lý không hề dễ chịu cho khi ta vươn tới cực đỉnh. Bản tính con người vốn bảo thủ. Khi làm một điều gì đó, mà đã làm xong thì họ khó lòng dứt ra. Tâm trí sẽ không đón nhận những tư tưởng mới, bởi vì những tư tưởng đó gây khó chịu.
Trong các Upanishad, ta thấy diễn ra một cuộc ly khai đáng kinh ngạc. Người ta tuyên bố rằng các cõi trời, mà nơi đó con người sống với tổ tiên sau khi chết, đều không trường cửu; bởi vì bất cứ sự vật gì có danh tướng đều phải hoại diệt. Nếu có các cõi trời mang hình tướng thì các cõi trời đó đều phải bị hoại diệt theo thời gian; chúng có thể tồn tại hàng triệu năm, nhưng cuối cùng cũng phải mất đi. Cùng với quan niệm này đã nảy sinh một quan niệm khác : những linh hồn đó phải quay về lại trần gian, và các cõi trời là nơi họ hưởng thụ lạc phúc do thiện quả, và sau khi mãn phần, họ phải quay về lại với kiếp sống ở trần gian.
Từ thuyết này có một điểm rất rõ ràng : con người đã nhận thức được triết lý nhân quả từ rất sớm. Về sau, chúng ta mới thấy các triết gia giới thiệu nó bằng ngôn ngữ triết học và lý luận, nhưng ở nơi đây, nó hầu như nằm trong ngôn ngữ của trẻ con.
Khi đọc các cổ thư này, các bạn hãy lưu ý một điều: tất cả những nhận thức này đều xuất phát từ thế giới nội tâm. Nếu các bạn hỏi tôi tất cả những điều này có thực tiễn hay không thì tôi xin trả lời : thực tiễn trước, triết lý sau. Các bạn có thể thấy rằng tất cả những điều này được nhận thức, được thực chứng rồi sau đó mới được ghi lại thành kinh văn. Thế giới này trò chuyện với những triết gia nguyên thủy. Chim chóc trò chuyện cùng họ, muông thú trò chuyện cùng họ, và mặt trời, mặt trăng trò chuyện cùng họ; dần dần họ thực chứng được sự vật, và đi vào trái tim của thế giới tự nhiên. Không phải bằng nhận thức theo khái niệm, không phải bằng sức mạnh lý luận, cũng không phải bằng cách cóp nhặt tim óc của kẻ khác để viết thành những cuốn sách đồ sộ – theo cách thức của thời hiện đại, thậm chí cũng không phải bằng cách như tôi đang làm là chọn ra một số bài trong đó để thuyết trình tràng giang đại hải; mà họ đã tìm ra chân lý bằng sự khảo cứu và khám phá đầy kiên nhẫn. Phương pháp cốt yếu của họ là tính thực tiễn, do đó nó phải luôn luôn mang tính thực tiễn. Tôn giáo vẫn luôn là một khoa học thực tiễn; không có và sẽ không bao giờ có một tôn giáo mang tính lý thuyết. Thực tiễn trước, tri thức sau.
Quan niệm linh hồn tái sinh vào cõi thế đã có sẵn rồi. Những người làm việc thiện chấp nhận quan niệm này, nhưng thiện quả không kéo dài mãi mãi. Ở đó, chúng ta thấy quan niệm nhân quả được đề xướng rất là khéo léo, đó là : quả chỉ tương ứng với nhân. Nhân nào, quả nấy. Nhân hữu hạn thì quả cũng hữu hạn. Nếu nhân vô biên thì quả sẽ vô biên; nhưng tất cả các nhân, dù là làm điều thiện hay mọi điều khác, cũng chỉ là những nhân hữu hạn, nên không bao giờ có thể sinh ta quả vô biên được.
Bây giờ chúng ta đến với một khía cạnh khác của vấn đề. Bởi vì không có thiên đàng vĩnh viễn nên, cũng theo lý luận đó, không thể có địa ngục đời đời. Giả sử tôi là người vô cùng tàn ác, bình sinh gây nên không biết bao nhiêu tội lỗi. Nhưng cả cuộc đời của tôi ở trần gian này, so với đời sống vĩnh cửu của tôi, chẳng là gì cả. Nếu có sự trừng phạt đời đời thì có nghĩa là có một quả vô biên được tạo ra bởi một nhân hữu hạn, điều này hoàn toàn không thể. Nếu tôi cả đời làm việc thiện mà lại không được hưởng một thiên đàng vĩnh cửu thì điều đó hẳn là điều sai lầm tương tự.
Chúng ta đã nói về Con Đường của Chư Thiên và Con Đường của Tổ Tiên. Nhưng còn có một con đường thứ ba áp dụng cho những người đã liễu ngộ và thực chứng được Chân Lý. Đây là con đường duy nhất để vượt qua khỏi tấm màn māyā : thực chứng được thực tính của Chân Lý. Và các Upanishad chỉ ra thực chứng Chân Lý có nghĩa là gì. Đó là giác ngộ được rằng không có thiện không có ác, mà tất cả đều xuất phát từ Chân Ngã; Chân Ngã hiện hữu trong muôn vật. Thực chứng Chân Lý có nghĩa là phủ nhận vũ trụ; nhắm mắt lại trước vũ trụ; thấy được Thượng Đế nơi địa ngục cũng như tại thiên đàng, thấy được Thượng Đế trong cái chết cũng như trong sự sống. Đó là một dòng tư tưởng trong đoạn kinh văn mà tôi đã đọc cho các bạn nghe. Trái đất này là biểu tượng của đấng Chúa Tể, bầu trời kia là đấng Chúa Tể, muôn vật là Brahman. Và điều này phải được quán chiếu, được thực chứng, chứ không phải để tư duy hay luận bàn suông. Chúng ta có thể thấy rằng – như một kết quả lý luận –khi một linh hồn đã thực chứng được muôn vật đều ngập tràn đấng Chúa Tể, ngập tràn Brahman thì nó sẽ không quan tâm đến chuyện lên thiên đàng hay xuống địa ngục, hay đi tới bất kỳ nơi đâu; mà cũng chẳng quan tâm đến chuyện sẽ tái sinh lại ở trần gian hay thác sinh lên các cõi trời. Những điều này này không còn ý nghĩa gì nữa đối với linh hồn ấy, bởi vì mọi nơi chốn đều bình đẳng như nhau, đâu đâu cũng là đền thờ đấng Chúa Tể, đâu đâu cũng linh thiêng, và nó thấy đấng Chúa Tể toàn nhiên phổ hiện trên thiên đàng hay địa ngục, hay ở bất cứ nơi đâu. Không có thiện ác, chẳng có tử sinh – chỉ có Brahman vô biên tồn tại.
Theo triết học Vedānta, khi một người nhận thức được rằng mình đã giải thoát thì chỉ người đó mới xứng đáng sống trong thế gian này. Những người khác thì không. Người nào còn thấy có tội ác – làm sao anh ta có thể sống được nơi thế gian này? Cuộc đời anh ta đầy khổ não. Kẻ nào còn thấy những sự hiểm nguy thì đời là cảnh khốn khổ, kẻ nào còn thấy cái chết thì đời là cảnh khốn khổ. Người duy nhất có thể sống trong thế gian này, người duy nhất có thể nói : “Tôi thưởng ngoạn cuộc đời này, tôi hạnh phúc trong cuộc đời này”, đó là người đã thấy được Chân Lý. Và Chân Lý hiện hữu trong muôn vật.
Từng bước một, tôi có thể nói với các bạn rằng quan niệm về địa ngục không hề xuất hiện ở bất cứ nơi nào trong triết học Vedānta. Nó xuất hiện cùng với các Purāna rất muộn về sau. Sự trừng phạt nặng nề nhất, theo triết học Vedānta, là đầu thai trở lại trần gian, sống thêm một lần nữa trong cõi đời này. Ngay từ đầu, ta đã thấy quan niệm đó tạo một bước đảo ngược về phi nhân thể. Những quan niệm về thưởng phạt mang quá nặng yếu tố vật chất, chúng chỉ hợp với quan niệm về một Thượng Đế như con người, biết yêu ghét như con người. Thưởng phạt chỉ có thể chấp nhận được với sự tồn tại của một Thượng Đế như thế. Các Samhitā quan niệm một Thượng Đế như vậy đó, và trong đó ta thấy ý tưởng sợ hãi đã len lỏi vào, nhưng đến các Upanishad thì những ý tưởng sợ hãi đều tan biến hết, và thay vào đó là những quan niệm phi nhân thể. Dĩ nhiên quan niệm phi nhân thể đó là điều khó hiểu nhất đối với con người, bởi vì họ luôn bám vào hình ảnh con người. Những người được xem là những tư tưởng gia vĩ đại đều cảm thấy kinh tởm quan niệm về Thượng Đế Phi Nhân Thể. Nhưng đối với tôi thì thấy thật vô lý khi quan niệm một Thượng Đế được thể hiện như một con người. Quan niệm nào cao cả hơn : một Thượng Đế sống hay một Thượng Đế chết? Một Thượng Đế không một ai thấy, chẳng một ai hay, hay một Thượng Đế được nhận biết?
Thượng Đế Phi Nhân Thể là một Thượng Đế sinh động, một Nguyên Lý. Sự khác biệt giữa một Thượng Đế Nhân Thể với một Thượng Đế Phi Nhân Thể là thế này : Thượng Đế Nhân Thể chỉ là một con người, còn Thượng Đế Phi Nhân Thể có thể là con người, con vật, hoặc một cái gì đó khác nữa, mà chúng ta không thể nhìn thấy, bởi vì phi nhân thể bao hàm cả nhân thể, nó là tổng số của tất cả những sự vật trong vũ trụ, và cả những sự vật vô biên vô tận khác nữa. “Khi ngọn lửa duy nhất đến thế gian này, nó tự hiển lộ trong nhiều hình tướng, và còn hiển lộ trong vô biên vô tận hình tướng khác nữa” – Thượng Đế Phi Nhân Thể cũng vậy.
Chúng ta cần phải sùng bái một Thượng Đế sống. Suốt cuộc đời, tôi chưa hề thấy một cái gì khác ngoài Thượng Đế, các bạn cũng vậy. Để nhìn thấy được cái ghế này thì trước hết các bạn nhìn thấy Thượng Đế, rồi mới thấy cái ghế trong Ngài và qua Ngài. Ngài toàn nhiên phổ hiện và nói “Ta hiện hữu”. Giây phút mà các bạn cảm nhận được “Ta hiện hữu” tức các bạn ý thức được Cái Tồn Tại. Ta sẽ đi đâu để tìm Thượng Đế, nếu như chúng ta không thể thấy được Ngài trong tận cùng sâu thẳm tâm hồn mình, và trong mọi chúng sinh? “Ngài là đàn ông, Ngài là đàn bà; Ngài là người nam, Ngài là người nữ; Ngài là ông lão đang mò mẫm với cây gậy chống; Ngài là chàng trai đang bước đi với niềm kiêu hãnh vì tuổi trẻ của mình : Ngài là tất cả những gì tồn tại” – đó là một Thượng Đế sinh động một cách kỳ diệu, là sự kiện duy nhất trong vũ trụ này.
Đối với nhiều người thì điều này tựa hồ như mâu thuẫn với một Thượng Đế theo truyền thống, sống ở đâu đó sau một tấm màn che và không một ai nhìn thấy. Giới tăng lữ chỉ đảm bảo được cho chúng ta rằng nếu ta làm theo họ, lắng nghe theo những lời răn đe của họ, và đi theo con đường mà họ đã vạch sẵn, thì khi chúng ta chết đi, họ sẽ cấp cho chúng ta tấm giấy thông hành để có thể hội kiến được Thượng Đế! Tất cả những ý tưởng về thiên đàng đó là gì, nếu chẳng phải là điều bịa đặt của cái nghề đi tu vô nghĩa?
Dĩ nhiên, ý tưởng về một Thượng Đế Phi Nhân Thể thì bất khả hoại diệt, nó lấy đi tất cả mọi chuyện kinh doanh đổi chác từ giới tăng lữ, giáo hội và những đền thờ. Ở Ấn Độ hiện nay đang có một nạn đói lớn, nhưng có những ngôi đền mà trong mỗi ngôi lại có số ngọc ngà châu báu sánh ngang với cống phẩm của một ông vua! Nếu giới tăng lữ mà giảng thuyết về vị Thượng Đế Phi Nhân Thể này thì nghề nghiệp họ cũng đi đứt. Tuy nhiên, chúng ta phải dạy điều này một cách vị tha, mà không hành nghề tu sĩ. Các bạn là Thượng Đế, và tôi cũng vậy. Ai tuân phục ai? Ai sùng bái ai? Các bạn là ngôi đền thờ Thượng Đế cao cả nhất; tôi thà sùng bái các bạn còn hơn là sùng bái bất cứ một ngôi đền nào, bất cứ ảnh tượng hay cuốn Kinh Thánh nào. Vì sao một số người lại mâu thuẫn với tư tưởng của chính họ? Họ như những con cá trườn qua ngón tay ta. Họ bảo họ những người thực tiễn cứng đầu. Tốt lắm. Nhưng có gì thực tiễn hơn việc sùng bái các bạn, ở chính nơi đây? Tôi nhìn thấy các bạn, tôi cảm nhận được các bạn, các bạn chính là Thượng Đế. Tín đồ Hồi giáo cho rằng không có Thượng Đế nào khác ngoài đấng Allah. Triết học Vedānta bảo rằng không có gì khác ngoài Thượng Đế. Điều đó có thể khiến nhiều bạn sợ hãi, nhưng các bạn sẽ hiểu nó từ từ. Vị Thượng Đế sống động đang ở trong tâm hồn các bạn, vậy mà các bạn còn xây dựng nhà thờ, đền thờ và tin vào những điều vô nghĩa bằng hình tượng đó. Vị Thượng Đế duy nhất cần sùng bái là linh hồn con người trong thể xác con người. Loài vật, dĩ nhiên, cũng là những đền thờ, nhưng con người là đền thờ cao cả nhất, vĩ đại nhất trong tất cả các đền thờ. Nếu tôi không thể sùng bái trong ngôi đền đó thì sẽ không có một ngôi đền nào thuận lợi hơn. Giây phút mà tôi thực chứng được Thượng Đế đang ngự trị trong ngôi đền thể xác của từng người, giây phút mà tôi kính cẩn đứng trang nghiêm trước mỗi con người và thấy Thượng Đế nơi họ – thì chính trong giây phút đó, tôi thoát khỏi ràng buộc, mọi thứ trói buộc tôi đều tan biến và tôi được giải thoát.
Đây là sự sùng bái thực tiễn nhất trong mọi sự sùng bái, nó không liên quan gì đến lý luận hay tư biện. Thế nhưng nó làm nhiều bạn kinh hãi. Họ nói rằng điều đó không đúng. Họ tiếp tục lý luận về những lý tưởng xưa cũ mà tổ tiên đã nói cho họ nghe, rằng có một vị Thượng Đế sống đâu đó ở trên trời bảo rằng ông ta chính là Thượng Đế. Kể từ lúc đó, chúng ta chỉ còn lý thuyết suông. Đối với những người này thì điều đó mới là thực tiễn, còn những quan niệm của chúng ta lại không thực tiễn! Rõ ràng triết học Vedānta nói rằng mỗi người đều phải có con đường đi riêng biệt của mình, nhưng con đường đó không phải là mục tiêu. Sùng bái Thượng Đế trên thiên đàng cùng tất cả những quan niệm này không phải là không phải tốt, nhưng chúng chỉ là những bậc cấp dẫn đến Chân Lý chứ không phải là bản thân Chân Lý. Những điều đó đều tốt đẹp, và một số ý tưởng rất là tuyệt vời, nhưng triết học Vedānta nói tại mọi điểm : “Này các bạn, Đấng mà các bạn sùng bái như một đấng xa lạ thì tôi sùng bái Ngài như là các bạn. Đấng mà các bạn đang sùng bái như một đấng xa lạ và đang đi tìm khắp cả vũ trụ này, đấng đó vẫn luôn ở trong tâm các bạn. Các bạn đang sống qua Ngài, và Ngài là Chứng Nhân Vĩnh Viễn của vũ trụ này”. Ngài là Đấng mà tất cả các kinh Veda đều sùng bái, không, còn hơn thế nữa, Đấng luôn hiện hữu trong cái “Tôi” vĩnh cửu này, Đấng hiện hữu trong toàn thể vũ trụ. Ngài là ánh sáng và cuộc sống của các cả vũ trụ này. Nếu cái “Tôi” không hiện hữu trong các bạn thì các bạn sẽ không nhìn thấy được mặt trời; tất cả sẽ chìm trong bóng tối, nhờ Ngài tỏa sáng mà các bạn mới thấy được thế giới này.
Ý kiến phản bác thường là vầy : thuyết này sẽ dẫn đến vố số khó khăn. Mỗi người trong chúng ta sẽ nghĩ : “Ta là Thượng Đế, bất kỳ hành vi hay ý nghĩ nào của ta cũng đều tốt đẹp, vì Thượng Đế thì không thể nào làm điều ác được”. Trước hết, dù có mặc nhiên chấp nhận nguy cơ hiểu sai, thì liệu có thể chứng minh được rằng mặt kia của cùng mối nguy cơ đó không tồn tại? Lâu nay, họ sùng bái một Thượng Đế trên thiên đàng khác biệt với họ, vị Thượng Đế mà họ vô cùng kính sợ. Lâu nay họ đang sợ run lẩy bẩy, và cả cuộc đời họ vẫn tiếp tục run lẩy bẩy. Thuyết này có làm cho thế giới tốt đẹp hơn chăng? Những người hiểu và sùng bái Thượng Đế Nhân Thể cùng những người hiểu và sùng bái Thượng Đế Phi Nhân Thể, bên nào sẽ là những kẻ xây dựng vĩ đại cho cái thế gian này. Bên nào là những người thợ khổng lồ, những sức mạnh đạo đức khổng lồ? Chắc chắn là những người hiểu và sùng bái Thượng Đế Phi Nhân Thể! Các bạn có thể nào mong đợi đạo đức phát triển từ nỗi sợ hãi? Không bao giờ. “Ở đâu con người nhìn thấy có sự khác biệt, ở đâu con người nghe thấy có sự khác biệt thì đó là māyā. Khi con người không còn nhìn thấy sự khác biệt, khi con người không còn nghe thấy sự khác biệt, khi muôn vật đã trở thành Ātman thì còn ai thấy ai, còn ai nhận thức được ai?” Tất cả đều là Ngài, và đồng thời tất cả đều là Ta. Linh hồn trở nên thuần tịnh. Đến khi đó, và chỉ đến khi đó, con người mới hiểu được tình yêu có nghĩa là gì. Tình yêu không thể đến trong sợ hãi, mà nền tảng của nó là tự do. Chỉ khi chúng ta bắt đầu thực sự yêu thương thế giới này thì chúng ta mới hiểu thế nào là tình huynh đệ hay tình nhân loại, chứ không phải trước đó. Bởi vậy, không đúng khi nói rằng quan niệm Phi Nhân Thể sẽ đem đến vô số điều xấu xa trong thế giới này, làm như giáo lý khác chưa hề tạo nên điều ác, làm như giáo lý khác chưa hề dẫn đến khuynh hướng bè phái khiến cho thế giới bị nhận chìm trong máu và nhân loại xâu xé nhau tơi tả. “Thượng Đế của tôi là Thượng Đế vĩ đại nhất, chúng ta hãy quyết định điều đó bằng cuộc chém giết tự do”. Đó là hậu quả của thuyết nhị nguyên trên toàn thế giới. Hãy bước ra giữa cảnh trời lồng lộng ánh dương, hãy tránh khỏi những con đường mòn nhỏ hẹp, bởi vì linh hồn vô biên làm sao có thể chịu sống và chết trong những lối mòn đó được? Hãy bước ra giữa vũ trụ ngập tràn ánh sáng. Muôn vật trong vũ trụ này đều là của các bạn, hãy dang tay ôm choàng lấy nó bằng sự thương yêu. Nếu các bạn cảm thấy cần phải làm điều đó thì các bạn đã cảm nhận được Thượng Đế rồi.
Các bạn nhớ một đoạn kinh trong bài thuyết pháp của đức Phật. Ngài đã phóng xuất những tư tưởng từ bi đến bốn phương đông, tây, nam, bắc, và trên trời dưới đất, cho đến khi các vũ trụ này ngập tràn bởi tâm từ bi, vĩ đại và bao la vô tận. Khi các bạn cảm nhận được điều đó thì các bạn đã có được nhân cách thực sự. Toàn vũ trụ này là một Nhân Thể duy nhất, hãy vất bỏ hết những thứ vụn vặt. Hãy từ bỏ điều vụn vặt để lấy cái Vô Biên, hãy từ bỏ những lạc thú bé nhỏ mọn để lấy Lạc Phúc Vô Biên. Tất cả những thứ đó là của các bạn, bởi vì Phi Nhân Thể bao hàm Nhân Thể. Bởi vậy, Thượng Đế vừa là Nhân Thể vừa là Phi Nhân Thể. Và Con Người – Con Người Vô Biên, Phi Nhân Thể – đang hiển lộ tự thân như là nhân thể. Chúng ta, những Cái Vô Biên, đã tự giới hạn mình – có thể nói như vậy – thành những phần nhỏ bé.
Triết học Vedānta nói rằng tự tính con người vốn Vô Biên Vô Tận, nó sẽ không bao giờ tan biến, mà mãi mãi thường trụ. Nhưng chúng ta tự giới hạn mình bằng karma (nghiệp); nghiệp này giống như sợi xích quấn vào cổ, kéo chúng ta chìm xuống tình trạng giới hạn này. Hãy bẻ gãy xích xiềng để được tự do. Hãy chà đạp quy luật xuống dưới chân ngươi. Không có quy luật nào trong bản tính con người, không có số phận hay định mệnh. Làm sao có quy luật trong cõi vô biên? Tự do là khẩu hiệu của cõi vô biên. Tự do là bản tính, là quyền thừa kế của cõi vô biên. Hãy tự do, rồi sau đó muốn mang bao nhiêu tính cách tùy thích. Rồi chúng ta sẽ như một diễn viên đóng vai làm gã ăn mày trên sân khấu. Đối chọi với vai diễn này là hình ảnh gã ăn mày thực sự trên đường phố. Trong cả hai trường hợp thì sân khấu có thể giống nhau, lời nói có thể giống nhau, nhưng lại khác nhau một trời một vực! Một người thì vui với cảnh ăn mày, còn người kia thì chịu đau khổ. Cái gì tạo nên sự khác biệt này? Một người thì tự do, một người bị trói buộc. Người diễn viên biết cảnh ăn mày của mình là không thực, nhưng anh ta vẫn đảm nhận vai trò đó; còn gã ăn mày thực sự thì nghĩ rằng cảnh ăn mày là thực trạng của mình, và y phải gánh chịu cảnh đó dù muốn hay không; bởi vì đó là quy luật.
Chừng nào chúng ta chưa nhận thức được thực tính của mình thì chúng ta chỉ là những kẻ ăn mày, để cho những sức mạnh trong thế giới tự nhiên đẩy trôi dạt khắp nơi, tự biến mình thành những kẻ nô lệ của tất cả tạo vật. Chúng ta kêu gào cả thế gian giúp đỡ, nhưng chẳng một ai giúp chúng ta; chúng ta khóc lóc cầu xin những thần linh tưởng tượng, nhưng chẳng một ai đến. Nhưng chúng ta vẫn cứ hy vọng sẽ được giúp đỡ, và do đó vẫn cứ khóc lóc, kêu gào, vẫn cứ hy vọng, cuộc đời vẫn cứ trôi qua; và cũng vở kịch đó, cũng tấn tuồng đó cứ tiếp tục diễn đi diễn lại.
Hãy tự do; đừng có hy vọng điều gì từ bất cứ ai. Tôi tin chắc nếu quay lại nhìn vào đời mình thì các bạn sẽ thấy rằng các bạn đã hoài công vô ích khi tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Tất cả sự giúp đỡ đến với các bạn đều đến từ chính thế giới nội tâm các bạn. Các bạn chỉ gặt những trái chín mà mình đã bỏ công sức gieo trồng, vậy mà lúc nào các bạn cũng vẫn cứ mong đợi được giúp đỡ, thiệt quá đỗi lạ lùng. Phòng khách của một đại gia luôn đầy ắp khách khứa; nhưng nếu để ý, các bạn sẽ thấy những người khách đó không giống nhau. Khách khứa luôn mong đợi sẽ nhận được sự giúp đỡ nào đó từ những người giàu, nhưng không bao giờ có. Đời sống chúng ta cũng trải qua như thế ấy, cứ mong đợi, mong đợi và mong đợi, không bao giờ ngưng. Triết học Vedānta bảo hãy từ bỏ hy vọng, đừng có mong đợi. Vì sao các bạn phải mong đợi? Các bạn có tất cả, không, các bạn là tất cả. Vậy các bạn còn mong đợi điều gì? Nếu ông vua lên cơn loạn trí, chạy khắp nơi để tìm vị vua của đất nước thì ông ta sẽ không bao giờ tìm thấy, bởi vì ông ta chính là vua rồi. Ông ta có thể đi qua khắp các làng mạc, thành phố của đất nước mình, sục sạo từng nhà, rồi than khóc, kêu gào nhưng sẽ không bao giờ tìm thấy, bởi vì ông ta chính là vua rồi. Tốt hơn là nên biết rằng chúng ta là Thượng Đế, và hãy từ bỏ cuộc tìm kiếm Thượng Đế của những kẻ điên rồ; khi biết mình là Thượng Đế, chúng ta sẽ hạnh phúc và mãn nguyện.
Hãy từ bỏ những cuộc tìm kiếm điên rồ đó đi, rồi diễn vai trò của mình trong vũ trụ, như một diễn viên trên sân khấu. Toàn bộ cảnh tượng đều thay đổi, thay vì là một nhà tù vĩnh viễn, thế giới sẽ trở thành một sân chơi; thay vì là nơi giành giật tranh đua, thế giới sẽ trở thành một miền cực lạc, quanh năm luôn là mùa xuân với hoa thơm bướn lượn. Chính cái thế giới này, trước kia là địa ngục, giờ đây biến thành một thiên đàng. Dưới mắt của người bị trói buộc thì cõi đời này là nơi đày đọa khốn khổ, nhưng dưới mắt của người đã giải thoát thì hoàn toàn ngược lại. Chính cuộc sống là Cuộc Sống Trong Vũ Trụ. Thiên đàng và các cõi trời đều ở cả nơi đây. Tất cả thần linh – cái gọi là nguyên mẫu của con người – cũng đều ở cả nơi đây. Thần thánh không tạo ra con người theo hình ảnh của mình, mà chính con người tạo ra thần thánh. Đây là các nguyên mẫu của chư thần, đây là thần Indra, đây là thần Varuna cùng tất cả những vị thần khác trong vũ trụ. Chúng ta đang phóng chiếu những bản sao nhỏ bé của mình, và là bản gốc của những vị thần này; chúng ta là những vị thần thực sự, những vị thần duy nhất đáng để sùng bái.
Đây là quan điểm của triết học Vedānta, là tính thực tiễn của nó. Khi đã được tự do, chúng ta đâu cần từ bỏ xã hội một cách điên rồ để lao vào chết trong những chốn thâm sơn cùng cốc; chúng ta vẫn ở nơi mình đã ở, chỉ có chúng ta mới hiểu được toàn bộ sự vật. Thế giới hiện tượng vẫn y nguyên như cũ, nhưng mang một ý nghĩa mới.
Chúng ta vẫn chưa biết được thế giới, chỉ thông qua tự do mà chúng ta mới có thể thấy được chân tướng của thế giới, và hiểu được bản tính của nó. Chúng ta sẽ thấy rằng cái gọi là quy luật, hay định mệnh, hay số phận chỉ chạm đến một phần cực nhỏ trong bản tính của ta. Đó chỉ là một mặt, còn mặt bên kia vẫn luôn luôn là sự tự do. Chúng ta không biết được điều này, đó là lý do chúng ta luôn luôn tìm cách lẩn tránh điều xấu xa bằng cách chui đầu vào đất, giống như con thỏ khi bị săn đuổi đến đường cùng. Do mắc phải ảo tưởng mà chúng ta đã cố quên đi bản tính của mình, vậy mà chúng ta vẫn không làm nỗi; bản tính đó vẫn luôn lên tiếng gọi, và tất cả những cuộc tìm kiếm Thượng Đế hay chư thần của chúng ta đều là cuộc tìm kiếm lại chân tính đó mà thôi. Chúng ta đã nhận lầm tiếng nói. Chúng ta ngỡ nó xuất phát từ lửa, từ một vị thần hay từ mặt trời, mặt trăng, từ muôn vì tinh tú. Nhưng cuối cùng chúng ta phát hiện chúng xuất phát từ bên trong ta. Bên trong ta là tiếng nói vĩnh cửu đang nói về tự do vĩnh cửu, nhạc điệu của nó mãi mãi vọng vang. Một phần của âm nhạc Linh Hồn đó đã biến thành trái đất, quy luật, vũ trụ, nhưng nó luôn luôn là của chúng ta và sẽ mãi mãi là của chúng ta.
Tóm lại, lý tưởng của triết học Vedānta là nhận biết con người y như thực, và thông điệp của nó là như vầy : nếu các bạn không thể sùng bái người anh em là Thượng Đế hóa thân thì làm sao các bạn có thể sùng bái được một Thượng Đế ẩn hình? Các bạn có còn nhớ đến lời dạy trong Kinh Thánh : “Nếu các ngươi không yêu thương được người anh em mà các ngươi trông thấy thì làm sao các ngươi có thể yêu thương được Thượng Đế mà các ngươi không trông thấy?”. Nếu các bạn không thể thấy được Thượng Đế trên khuôn mặt con người thì làm sao các bạn có thể nhìn thấy được Ngài ở trên mây, hay ở trong những hình ảnh được tạo bằng những chất liệu vô tri, hay trong những câu chuyện chỉ toàn là hư cấu? Tôi sẽ xem các bạn là người có tinh thần tôn giáo kể từ khi các bạn bắt đầu nhìn thấy được Thượng Đế nơi người nam và người nữ. Rồi các bạn sẽ hiểu ý nghĩa của hành động chìa má trái cho người ta tát, khi đã bị tát váo má phải[42]. Khi các bạn thấy được con người như là Thượng Đế thì muôn vật, kể cả loài cọp dữ, cũng được đón chào. Bất cứ điều gì đến với các bạn cũng đều là đấng Chúa Tể, đấng Hằng Cửu, đấng hưởng Lạc Phúc, xuất hiện với chúng ta trong muôn ngàn hình tướng, như là cha mẹ, bạn bè, và con cái. Tất cả đều là Linh Hồn của chúng ta đang chơi đùa với chúng ta.
Những mối quan hệ giữa con người đều có thể biến thành thiêng liêng như thế nào, thì mối quan hệ giữa chúng ta với Thượng Đế cũng có thể mang bất cứ hình thức nào như thế ấy; và chúng ta có thể xem Ngài như là cha, mẹ, hay bạn bè, hay người yêu. Gọi Thượng Đế là Mẹ là một lý tưởng cao hơn khi gọi Ngài là Cha; gọi Ngài là bạn là lý tưởng còn hơn nữa, và lý tưởng cao nhất là xem Ngài là Người Yêu. Cực đỉnh của tất cả điều này là không còn thấy sự khác biệt giữa Người Yêu và Người Được Yêu. Có lẽ các bạn còn nhớ một câu chuyện Ba Tư cổ kể về một chàng trai đến gõ cửa người yêu, và nghe hỏi : “Ai đấy?”. Chàng trai đáp : “Chính là anh “, và không có tiếng trả lời. Lần thứ hai, chàng ta lại đến, và nói : “Anh đây mà”, và cánh cửa vẫn không mở. Lần thứ ba, chàng ta lại đến, và giọng nói bên trong vọng ra “Ai đấy?”. Chàng trai đáp: “Anh là em, ôi em yêu dấu”, và cánh mở ra. Đó là mối quan hệ giữa Thượng Đế với chúng ta. Ngài ở trong muôn vật, Ngài là muôn vật. Mọi người nam mọi người nữ đều là Thượng Đế sinh động bằng xương bằng thịt và chan hòa hạnh phúc. Ai bảo Thượng Đế là đấng xa lạ? Ai bảo Thượng Đế là đấng mà ta phải đi tìm? Chúng ta vĩnh viễn đã tìm thấy Ngài, vĩnh viễn đã sống trong Ngài từ thiên thu vạn đại; ở bất kỳ nơi đâu Ngài cũng mãi mãi được nhận biết và được sùng bái.
Bây giờ đến một quan niệm khác, đó là : những hình thức sùng bái khác không phải là chuyện sai lầm. Đây là một điểm trọng đại cần ghi nhớ, những người sùng bái Thượng Đế bằng các lễ nghi, dù ta có thấy chúng thô thiển đến đâu chăng nữa, cũng không phải là chuyện sai lầm. Đó là cuộc hành trình đi từ chân lý đến chân lý, từ chân lý thấp hơn đến chân lý cao hơn. Bóng đêm có nghĩa là sự giảm thiểu ánh sáng, điều xấu xa có nghĩa là sự giảm thiểu của điều tốt đẹp, bất tịnh có nghĩa là sự giảm thiểu của thuần tịnh. Phải luôn ghi nhớ trong đầu rằng ta nên nhìn người khác bằng đôi mắt thương yêu, bằng sự cảm thông, biết rằng họ đang đi trên cùng một con đường mà ta đã đi qua. Nếu các bạn được tự do thì các bạn phải biết rằng sớm muộn gì tất cả cũng đều được tự do; nếu các bạn được tự do thì làm sao các bạn có thể thấy được một người nào ở trong vòng trói buộc? Nếu các bạn thực sự thuần tịnh thì các bạn làm sao có thể thấy được kẻ bất tịnh? Bởi vì cái gì thuộc về nội tâm thì thuộc về ngoại giới. Chúng ta không thể thấy được sự bất tịnh, nếu như nội tâm chúng ta không bất tịnh.
Đây là một trong những phương diện thực tiễn của triết học
Vedānta, và tôi hy vọng rằng tất cả chúng ta sẽ đưa chúng vào cuộc sống. Toàn
bộ cuộc đời chúng ta ở thế gian này là cơ hội để thực hành triết lý đó. Nhưng
cái được lớn nhất của chúng ta là chúng ta sẽ làm việc bằng sự hài lòng mãn
nguyện, chứ không phải với sự bất mãn; bởi vì chúng ta biết rằng Chân Lý ở bên
trong chúng ta, chúng ta có được Nó như là quyền thừa kế, và chúng ta chỉ việc
làm cho nó hiển lộ, làm cho Nó trở thành hiện thực.
Phần III
(Diễn thuyết tại London, 17 tháng 11, 1896)
Trong Chhādogya Upanishad, chúng ta đọc thấy câu chuyện một vị hiền triết tên Nārada tìm đến một vị hiền triết khác tên Sanatkumāra để hỏi một vài câu, một trong các câu hỏi đó liên quan đến căn nguyên của sự vật đúng như chúng đang hiện hữu. Và Sanatkumāra đã hướng dẫn Nārada, có thể nói là theo từng bước một, bảo rằng có một thứ cao siêu hơn trái đất, rồi có một thứ cao siêu hơn thứ cao cả đó v.v…, cuối cùng ông dẫn đến ākāśa. Ākāśa cao siêu hơn ánh sáng, bởi vì mặt trời, mặt trăng, ánh sáng và tinh tú đều ở trong ākāśa; chúng ta sống trong ākāśa, và chết trong ākāśa. Rồi Nārada đặt câu hỏi : vậy còn có cái gì cao siêu hơn ākāśa? Và Sanatkumāra trả lời đó là prāna. Ākāśa, theo triết học Vedānta, là nguyên lý của sự sống. Prāna, cũng giống như ākāśa, là một nguyên lý toàn nhiên phổ hiện; và mọi chuyển động, dù là trong thể xác hay tại bất kỳ nơi nào khác, cũng đều là hoạt động của prāna. Nó cao siêu hơn ākāśa, và nhờ nó mà muôn vật được sinh tồn. Prāna ở trong người mẹ, người cha, trong chị em, trong người thầy, prāna là bậc trí giả.
Tôi sẽ đọc một đoạn kinh văn khác, trong đó Śhvetaketu hỏi cha mình về Chân Lý. Người cha giảng giải cho ông nghe đủ điều rồi kết luận : “Cái làm nên căn nguyên tế vi của muôn vật thì muôn vật được tạo ra từ Nó. Cái Đó là Cái Toàn Thể; Cái Đó là Chân Lý; con là Cái Đó, hỡi Śhvetaketu”. Rồi ông đưa ra nhiều ví dụ : “Cũng như con ong, này Śhvetaketu, gom mật từ nhiều bông hoa khác nhau, cũng như mật không hề biết chúng được tạo từ nhiều loại cây khác nhau, từ nhiều loại hoa khác nhau; chúng ta cũng vậy, khi đến với Tồn Tại đó, chúng ta cũng không hề biết minh đang làm vậy. Bây giờ, Cái Đó – tức bản thể tế vi mà trong Nó muôn vật đều tồn tại – cũng có Chân Ngã của nó. Đó là Cái Chân Thực. Đó là Chân Ngã, và này Śhvetaketu, con là Cái Đó”. Người cha lại tiếp tục đưa ra ví dụ về dòng sông chảy ra biển : “Giống như những con sông, khi chảy về đại dương thì chúng không hề biết mình là nhiều con sông khác nhau; cũng thế, khi chúng ta ra khỏi Cái Tồn Tại đó, ta cũng không hề biết rằng mình là Cái Đó. Này Śhvetaketu, con là Cái Đó”. Người cha lại tiếp tục giảng giải như thế.
Bây giờ, có hai nguyên lý nhận thức. Nguyên lý thứ nhất như vầy: ta nhận biết là nhờ đối chiếu cái riêng [particular] với cái chung [general], rồi đối chiếu cái chung với cái phổ quát [universal]. Nguyên lý thứ hai như vầy : bất cứ sự vật nào cần đến sự giải thích đều phải được giải thích trong phạm vi liên quan đến tự tính của nó. Vận dụng nguyên lý thứ nhất, ta thấy rằng mọi kiến thức của chúng ta thực ra là sự phân loại từng bước lên cao dần. Khi một sự vật diễn ra đơn độc, có thể nói là chúng ta không được thỏa mãn; nhưng khi tất cả các trái táo đều rơi thì ta gọi đó là lực hấp dẫn và thấy hài lòng. Đó là sự kiện mà ta suy diễn từ cái riêng đến cái chung.
Khi muốn nghiên cứu tôn giáo, ta nên vận dụng phương pháp khoa học này. Cũng một nguyên lý đó, áp dụng tại đây vẫn rất tốt; và trên thực tế, ta thấy rằng đó là phương pháp bao trùm khắp mọi lĩnh vực. Khi đọc những cuốn sách này, mà tôi vẫn đang tiếp tục diễn dịch cho các bạn, ý tưởng sớm nhất về vũ trụ mà tôi có thể nêu ra chính là nguyên lý này : suy diễn từ cái riêng đến cái chung. Chúng ta thấy chư thần – các “sinh thể ngời sáng” – được hòa lẫn vào nhau thành một nguyên lý duy nhất như thế nào; và cũng tương tự như thế, trong các vũ trụ luận của những nhà tư tưởng cổ đại – từ những nguyên tố tế vi, họ đi dần đến những nguyên tố cao hơn và bao trùm hơn; và từ những cái đặc thù, những cái riêng họ đi đến khái niệm ākāśa toàn nhiên phổ hiện; rồi từ ākāśa, họ đi đến một sức mạnh bao trùm các vũ trụ, đó là prāna. Và xuyên suốt qua vạn hữu là nguyên lý này : không có sự tách biệt giữa sự vật này với sự vật kia. Chính ākāśa hiện hữu trong hình thức prāna cao hơn; và hình thức prāna cao hơn này cô đọng lại, có thể nói như vậy, và biến thành ākāśa; rồi ākāśa lại trở nên thô hơn, và cứ tiếp tục như thế.
Khái quát hóa một Thượng Đế Nhân Thể là trường hợp điển hình khác. Chúng ta đã thấy cách thức để đạt đến sự khái quát hóa đó, và vị Thượng Đế Nhân Thể đó được gọi là tổng số của mọi ý thức như thế nào. Nhưng một khó khăn khác lại nảy sinh – đó là sự khái quát hóa không trọn vẹn. Ta chỉ lấy một mặt trong những sự kiện tự nhiên, sự kiện của ý thức, rồi khái quát hóa mặt đó, mà bỏ qua mặt kia. Bởi vậy, trước hết, ta thấy đó là sự khái quát hóa phiến diện.
Còn có một điểm bất toàn khác liên quan với nguyên lý thứ hai. Muôn vật đều phải được giải thích theo bản chất của chúng. Có người cho rằng táo rơi là do ma quỷ kéo chúng xuống, nhưng cách giải thích là lực hấp dẫn; mặc dầu chúng ta thấy cách giải thích này chưa phải là hoàn hảo, nhưng nó vẫn hay hơn các cách giải thích khác, bởi vì nó dựa theo bản chất của sự vật, trong khi những cách giải thích khác lại áp đặt một nguyên nhân xa lạ bên ngoài. Xuyên suốt mọi lĩnh vực của tri thức của chúng ta, cách giải thích dựa theo bản chất của chính sự vật là cách giải thích khoa học, cách giải thích dựa vào tác nhân bên ngoài là cách giải thích phản khoa học.
Do đó, cách giải thích Thượng Đế Nhân Thể như là đấng Hóa Công sáng tạo nên vũ trụ phải đương đầu với thử thách này. Nếu bảo rằng Thượng Đế đó ở bên ngoài thế giới tự nhiên, không liên quan gì với thế giới tự nhiên, và thế giới tự nhiên này được tạo dựng từ hư không theo lệnh của Ngài thì đó là một lý thuyết cực kỳ phản khoa học, và đây là điểm yếu của mọi tôn giáo hữu thần tự cổ chí kim. Hai khuyết điểm này ta tìm thấy trong những thuyết được gọi chung là độc thần giáo, đó là thuyết về một Thượng Đế Nhân Thể mang đủ phẩm chất con người, chỉ có điều là những phẩm chất này được nhân lên vô số lần; vị Thượng Đế này dùng ý chí của mình để sáng tạo nên vũ trụ từ hư không, mà vẫn tách biệt với vũ trụ đó. Thuyết này dẫn đến hai điều nan giải.
Như chúng ta đã thấy, thuyết này là sự khái quát hóa không đầy đủ, thứ hai là nó không phải là cách giải thích thế giới tự nhiên bằng thế giới tự nhiên. Nó chủ trương có quả không nhân, và nhân đó hoàn toàn tách biệt với quả. Thế nhưng, mọi kiến thức của con người đã chứng minh rằng quả chỉ là nhân dưới hình thức khác. Những khám phá khoa học đang có xu hướng tiến đến quan niệm này từng ngày, và thuyết cuối cùng được chấp nhận trên mọi phương diện là thuyết tiến hóa với nguyên lý : quả chỉ là nhân trong hình thức khác, là sự tái điều chỉnh của nhân, và nhân mang hình thức của quả. Thuyết sáng tạo từ hư không chỉ đem lại cho các nhà khoa học hiện đại một trận cười.
Bây giờ thì tôn giáo có thể đương đầu với thử thách này không? Nếu có một giáo lý nào đó có thể đương đầu được với thử thách này thì nó sẽ được các nhà khoa học hiện đại cùng các nhà tư tưởng chấp nhận. Bất kỳ giáo lý nào yêu cầu con người hiện đại phải tin, nhân danh giới tăng lữ, giáo hội, kinh điển thì sẽ bị họ chối từ, và hậu quả là tình trạng tín ngưỡng gớm guốc diễn ra tràn lan. Ngay cả với những người làm ra vẻ có đức tin thì trong thâm tâm họ vẫn là tình trạng vô tín ngưỡng đáng sợ. Những người còn lại sẽ lánh xa tôn giáo, có thể nói như vậy, họ từ bỏ nó vì xem tôn giáo chỉ là nghề đi tu mà thôi.
Tôn giáo bị giảm trừ thành một loại hình mang tính quốc gia. Đó là một trong những phần cặn lắng tốt đẹp nhất trong xã hội chúng ta; hãy cứ để nó nguyên như thế. Nhưng nhu cầu thực sự, mà thế hệ ông cha của người hiện đại đã cảm nhận về nó, đã không còn nữa; chúng ta thấy nó không còn thỏa mãn được lý trí của mình. Quan niệm về một Thượng Đế Nhân Thể như thế, về một sự sáng tạo như thế – thường được hiểu là thuyết độc thần trong mọi tôn giáo – không chế ngự đứng vững được nữa. Tại Ấn Độ, những luận sư Phật giáo đã làm cho thuyết đó không còn đứng vững; và đó là chính là điểm mà họ giành được chiến thắng trong thời cổ đại. Các luận sư đó chỉ ra rằng nếu chúng ta chấp nhận trong thế giới tự nhiên có sức mạnh vô biên, có thể đáp ứng được mọi nhu cầu của chúng ta thì đâu cần thiết phải khẳng định có một cái gì đó bên cạnh thế giới tự nhiên. Ngay cả linh hồn cũng không cần thiết.XXXXX
Cuộc tranh luận về bản thể và phẩm tính[43] đã quá xưa cũ rồi, và đôi khi các bạn sẽ thấy rằng điều mê tín cũ vẫn còn sống mãi đến tận ngày nay. Phần lớn các bạn đã đọc thấy trong thời Trung Cổ, và tôi xin phép được nói là cả sau đó rất lâu nữa, điều đó là trong những chủ đề tranh luận như thế nào rồi, xem có phải phẩm tính tùy thuộc vào bản thể hay không, xem độ dài, độ cao và độ dày có tùy thuộc vào bản thể mà ta gọi là vật chất chết hay không, xem khi bản thể còn tồn tại thì phẩm tính còn hay mất. Về vấn đề này, các luận sư Phật giáo nói : “Không thể có một nền tảng để duy trì sự tồn tại của một bản thể như thế, phẩm tính là tất cả những gì tồn tại, ta không nhìn vượt qua chúng được”. Đó cũng chính là lập trường của hầu hết những người theo thuyết bất khả tri hiện đại. Cuộc chiến giữa bản thể và phẩm tính, trên một bình diện cao hơn, đã mang hình thức của cuộc chiến giữa nguyên thể [noumenon] và hiện tượng[44]. Có thế giới hiện tượng, vũ trụ của biến dịch không ngừng, và có một cái gì đó ở đằng sau không hề biến dịch; và một số người cho rằng tính nhị nguyên của tồn tại – nguyên thể và hiện tượng – là chân thực; một số khác – với lý tính tốt hơn – lại cho rằng ta không có quyền chấp nhận cả hai, bởi vì tất cả những gì ta thấy, cảm nhận và tư duy cũng chỉ là hiện tượng. Ta không có quyền khẳng định là có một cái gì đó ở bên kia hiện tượng giới, và vấn đề này vẫn không có lời giải đáp.
Nhất nguyên luận của triết học Vedānta đã đem đến lời giải đáp. Theo thuyết này, chỉ có một sự thể duy nhất tồn tại, và sự thể đó hoặc là nguyên thể hoặc là hiện tượng. Thật không đúng khi cho rằng có một cái biến dịch, và một cái bất biến trong biến dịch; chỉ có một sự thể duy nhất biểu hiện như là biến dịch, mà trong thực tế là bất biến. Chúng ta đi đến lập trường cho rằng thể xác, tâm trí và linh hồn là sai biệt đa thù, nhưng trong thực tế chúng chỉ là một; và cái một đó hiển lộ trong nhiều hình thể khác nhau. Ta hãy dùng ví dụ minh họa nổi tiếng của những người theo nhất nguyên luận, đó là nhận lầm sợi dây thừng là con rắn. Một số người, trong bóng tối hay vì lý do nào khác, thấy sợi dây thừng ngỡ là con rắn, nhưng khi họ hiểu ra thì con rắn biến mất, và thấy đó chỉ còn lại sợi dây. Bằng minh họa này, chúng ta thấy rằng khi con rắn tồn tại trong tâm trí thì sợi dây thừng biến mất, nhưng khi sợi dây thừng tồn tại trong tâm trí thì con rắn không còn. Khi ta nhìn thấy thế giới hiện tượng quanh ta, và chỉ nhìn thấy hiện tượng thôi thì nguyên thể biến mất; nhưng khi ta nhìn thấy được nguyên thể, tức cái bất biến, thì đương nhiên thế giới hiện tượng cũng không còn.
Bây giờ, ta hiểu rõ hơn lập trường của các triết gia thực tại luận và duy tâm luận. Các triết gia thực tại luận chỉ nhìn thấy hiện tượng, còn các triết gia duy tâm luận thì nhìn vào nguyên thể. Đối với các triết gia duy tâm luận, các triết gia duy tâm luận chân chính thật sự – những người đã thực sự đạt đến năng lực nhận thức để qua đó gạt bỏ mọi khái niệm biến dịch – thì vũ trụ biến dịch đã biến mất, và ông ta có quyền nói rằng tất cả đều là hư huyễn, không hề có biến dịch. Cùng lúc đó thì các triết gia thực tại luận lại nhìn vào thế giới hiện tượng đầy biến dịch. Đối với ông ta, cái bất biến đã biến mất, và ông ta có quyền nói rằng chỉ có thế giới hiện tượng là thực hữu.
Cuộc tranh luận này dẫn đến điều gì? Đó là : quan niệm một Thượng Đế Nhân Thể là quan niệm không đầy đủ. Chúng ta phải vươn đến một cái gì đó cao siêu hơn, một quan niệm Thượng Đế Phi Nhân Thể. Đó chỉ là một bước đi mang tính lôgic. Không phải bước đi này sẽ phá hủy quan niệm Thượng Đế Nhân Thể, cũng không phải chúng ta sẽ chứng minh rằng Thượng Đế Nhân Thể không tồn tại, mà chúng ta đi đến cách lý giải Thượng Đế Phi Nhân Thể bằng Thượng Đế Nhân Thể, bởi vì so với khái niệm Nhân Thể thì khái niệm Phi Nhân Thể mang tính phổ quát hơn rất nhiều. Thượng Đế Phi Nhân Thể chỉ có thể là Cái Vô Biên, còn Thượng Đế Nhân Thể thì bị hạn định. Do đó, chúng ta giữ lại khái niệm Thượng Đế Nhân Thể chứ không phá bỏ. Thường có sự nghi ngờ rằng nếu đạt đến khái niệm Thượng Đế Phi Nhân Thể thì khái niệm Thượng Đế Nhân Thể sẽ bị hủy bỏ; nếu đạt đến khái niệm Con Người Phi Nhân Thể [Impersonal Man] thì khái niệm Con Người Nhân Thể [Personal Man] sẽ bị hủy bỏ. Nhưng theo quan niệm của triết học Vedānta thì không có chuyện phá hủy cá nhân, mà là chứng thực nó. Chúng ta không thể chứng minh được một cá thể bằng bất kỳ phương tiện nào khác, ngoài việc đối chiếu với cái phổ quát, bằng cách chứng minh rằng cá thể thực ra là cái phổ quát. Nếu ta nghĩ rằng cá thể tách biệt với tất cả sự vật khác trong vũ trụ thì suy tưởng đó không thể trụ vững dù chỉ trong một phút. Một sự vật như thế không bao giờ tồn tại.
Thứ hai, việc vận dụng nguyên lý thứ hai, nghĩa là giải thích sự vật phải bắt đầu từ bản chất của sự vật đó, sẽ đưa chúng ta đến với một quan niệm còn táo bạo hơn, và khó hiểu hơn. Chẳng có gì ngoài điểm này : Hằng Hữu Phi Nhân Thể– tức sự phổ quát hóa tối cao của chúng ta – nằm bên trong chúng ta, và ta là Cái Đó. “Này Śhvetaketu, ngươi là Cái Đó”. Các bạn là Hằng Hữu Phi Nhân Thể đó; vị Thượng Đế, mà các bạn đi mải miết đi tìm trong khắp vũ trụ này, chính là các bạn – các bạn không phải hiểu theo nghĩa nhân thể mà theo nghĩa phi nhân thể. Con người mà chúng ta nhận biết, con người được hiển lộ, là con người được nhân thể hóa, nhưng thực chất chính là Phi Nhân Thể. Để hiểu được nhân thể, ta phải quy chiếu nó với Phi Nhân Thể, cái riêng phải được quy chiếu với cái chung, cái đặc thù phải được quy chiếu với cái phổ quát. Và cái Phi Nhân Thể đó chính là Thực Ngã của con người.
Sẽ còn một số vấn đề liên quan đến điểm này, và tôi sẽ cố gắng giải đáp khi chúng ta tiếp tục các bài giảng. Nhiều vấn nạn sẽ phát sinh, nhưng trước hết, chúng ta hãy hiểu rõ lập trường của nhất nguyên luận. Với tư cách là những sinh thể hiển lộ [manifested being], có vẻ như chúng ta tách biệt nhau, nhưng thực thể của chúng ta là một; và chúng ta càng ít nghĩ mình tách biệt với Nhất Thể càng tốt. Hễ càng nghĩ rằng mình tách biệt với toàn thể thì chúng ta càng trở nên khốn khổ.
Từ nguyên lý của nhất nguyên luận, chúng ta đạt đến nền tảng của đạo đức, và tôi dám bạo dạn nói rằng chúng ta không thể đạt đến nền tảng của đạo đức từ bất kỳ một nơi nào khác. Chúng ta biết rằng quan niệm cổ nhất về đạo đức cho rằng đó là ý chí của một người hay một số người đặc biệt, nhưng chỉ có một số người công nhận điều này, bởi vì nó chỉ là sự phổ quát hóa của một phần. Tin đồ Ấn giáo bảo chúng ta không nên làm điều này điều nọ vì kinh Veda đã nói thế, nhưng tín đồ Cơ Đốc giáo đâu có phục tùng thẩm quyền kinh Veda. Tín đồ Cơ Đốc giáo thì lại bảo chúng ta không nên làm điều này điều nọ vì Kinh Thánh đã nói thế, điều này chẳng thể ràng buộc được những người không tin Kinh Thánh. Nhưng chúng ta cần phải có một học thuyết đủ lớn để bao hàm được nhiều nền tảng khác nhau. Giống như có hàng triệu người tin vào một đấng Sáng Tạo Nhân Thể [Personal Creator], nhưng vẫn có hàng ngàn đầu óc lỗi lạc nhất trên thế giới cảm thấy những quan niệm này chưa đầy đủ đối với họ, và họ cần đến một cái gì đó cao hơn; và ở bất cứ nơi nào mà tôn giáo không đủ phổ quát để bao hàm được mọi loại tâm trí thì kết quả là những đầu óc lỗi lạc nhất trong xã hội vẫn đứng ngoài phạm vi tôn giáo; và chưa bao giờ điều đó lại nổi bật hơn thời hiện đại, nhất là ở châu Âu.
Bởi vậy, để có thể bao hàm được những đầu óc lỗi lạc này, tôn giáo phải có đủ tầm phổ quát. Tất cả những gì tôn giáo khẳng định đều phải được phán đoán từ quan điểm lý tính. Vì sao các tôn giáo đều khẳng định rằng chúng không bị ràng buộc phải trung thành với lý tính thì không một ai biết. Nếu không dựa theo tiêu chuẩn lý tính thì không thể nào có bất kỳ sự phán đoán đúng đắn nào, ngay cả trong trường hợp tôn giáo. Một tôn giáo có thể ban những quy định rất đáng ghê sợ. Chẳng hạn Hồi giáo cho phép tín đồ tàn sát những người dị giáo. Điều đó được tuyên bố rõ ràng trong kinh Koran, “Hãy giết những kẻ dị giáo nếu chúng không trở thành tín đồ Hồi giáo”. Phải đem bọn người dị giáo đặt trên lửa và lưỡi gươm. Bây giờ, nếu ta bảo với một tín đồ Hồi giáo rằng điều đó là sai trái thì họ sẽ trả lời một cách tự nhiên rằng : “Sao bạn biết điều đó? Sao bạn biết rằng điều đó không tốt? Kinh điển của tôi đã bảo vậy mà”. Nếu các bạn chỉ ra rằng Kinh Thánh của các bạn cổ xưa hơn kinh Koran thì tín đồ Phật giáo sẽ đến và bảo : “Kinh điển của tôi còn cổ xưa hơn nữa”. Rồi đến những tín đồ Ấn giáo sẽ bảo : “Kinh điển của tôi là cổ nhất”. Bởi vậy kinh điển không phải là tiêu chuẩn để tham chiếu. Như vậy các bạn so sánh dựa vào đâu? Các bạn sẽ bảo : hãy nhìn vào Bài giảng trên núi của Chúa Jesus; còn tín đồ Hồi giáo thì bảo hãy nhìn vào kinh Koran. Tín đồ Hồi giáo sẽ bảo : ai làm trọng tại để phân xử kinh nào tốt đẹp hơn? Cả kinh Tân Ước lẫn kinh Koran đều không thể là trọng tài phân xử cuộc tranh luận này. Cần phải có một thẩm quyền độc lập,và thẩm quyền đó không phải là bất kỳ cuốn kinh nào, mà phải là một cái gì đó có tính phổ quát, và có gì phổ quát hơn lý tính?
Người ta thường nói rằng lý tính không phải lúc nào cũng luôn luôn đủ mạnh để giúp ta đạt đến Chân Lý; nhiều khi nó phạm sai lầm, bởi vậy kết luận cuối cùng là chúng ta phải tin vào thẩm quyền của giáo hội! Một tín đồ Thiên Chúa giáo đã nói với tôi như vậy, nhưng tôi chẳng thấy một chút gì hợp lý trong đó cả. Trái lại, tôi có thể nói, nếu lý tính yếu đuối như vậy thì thể xác của các thầy tu còn yếu đuối hơn nữa; tôi không chấp nhận phán quyết của họ, mà trung thành với lý tính của tôi, vì cùng với tất cả sự yếu đuối của lý tính, tôi vẫn có cơ hội để đạt đến chân lý thông qua nó; trong khi đó, đối với các phương tiện khác thì tôi không có được một chút hy vọng nào như vậy.
Do đó, chúng ta phải đi theo lý tính, và cũng phải thông cảm với những người đi theo lý tính mà không có được một đức tin nào. Bởi vì thà nhân loại đi theo lý tính và trở thành những người vô thần, còn hơn là tin mù quáng vào hai trăm triệu vị thần dựa trên thẩm quyền của bất kỳ ai đó. Điều chúng ta cần là sự tiến bộ, phát triển và thực chứng. Không một giáo lý nào có thể đưa con người lên cao hơn. Không một kinh điển nào có thể đưa giúp chúng ta trở nên thuần tịnh hơn. Sức mạnh duy nhất nằm trong sự thực chứng, vốn có sẵn trong ta và xuất phát từ tư duy. Hãy để con người tư duy. Một cục đất không bao giờ tư duy, nhưng nó vẫn chỉ là một cục đất. Niềm vinh quang của con người là : anh ta là một sinh thể biết tư duy. Bản tính con người là tư duy, và do đó, họ khác với loài vật. Do đã thấy đủ những điều xấu xa tệ hại của uy quyền, nên tôi tin vào lý tính và đi theo lý tính, vì tôi sinh ra trong một đất nước, nơi mà dân chúng đã đi đến chỗ cực đoan của uy quyền.
Tín đồ Ấn giáo tin rằng sự sáng tạo bắt nguồn từ kinh Veda. Làm thế nào mà các bạn biết kia là một con bò? Bởi vì danh từ “bò” đã có trong kinh Veda. Làm thế nào mà các bạn biết kia là một con người? Bởi vì danh từ “người ” đã có trong kinh Veda. Nếu không phải vậy thì không hề có một con người nào trong thế gian. Đó là những gì họ nói. Tột đỉnh uy quyền! Một vài đầu óc có năng lực đã chọn lấy thuyết này, và dệt nên những hệ thống lý luận tuyệt vời quanh nó. Họ suy luận từ nó, và kìa, họ đã dựng lên một một hệ thống triết học hoàn chỉnh; rồi hàng ngàn nhà trí thức lỗi lạc nhất đã cống hiến suốt hàng ngàn năm để nghiên cứu thuyết đó. Sức mạnh của uy quyền là như vậy đó, và những hiểm nguy của nó cũng to lớn. Nó làm còi cọc sự phát triển của nhân loại,và chúng ta không được quên rằng chúng ta cần phát triển. Trong mọi nỗ lực tìm cầu chân lý tương đối, điều mà chúng ta cần, còn hơn là chính bản thân chân lý, đó là sự rèn luyện tâm trí. Và sự rèn luyện tâm trí đó, thật sự là cuộc sống của chúng ta.
Nhất nguyên luận có công lao là thuyết mang tính duy lý cao nhất trong tất cả những giáo lý tôn giáo mà chúng ta có thể hình dung ra. Mọi thuyết khác, mọi Thượng Đế quan khác – vốn phiến diện, manh mún và mang yếu tố nhân thể – đều không có tính duy lý. Vậy mà nhất nguyên luận lại vĩ đại đến mức bao hàm được tất cả những Thượng Đế quan phiến diện này, xem chúng là thứ cần thiết cho nhiều người. Một số người cho rằng cách giải thích mang yếu tố nhân thể này là phi lý, nhưng nó có tác dụng vỗ về, an ủi con người. Họ cần đến một tôn giáo có tác dụng vỗ về, an ủi; và chúng ta hiểu rằng điều đó cần thiết đối với họ. Rất ít người trong thế gian này có thể đón nhận nỗi ánh sáng rực rỡ của chân lý, số người sống theo chân lý đó lại càng ít hơn. Do đó, cần phải có một tôn giáo đem đến cảm giác dễ chịu; nó giúp cho nhiều người tìm ra một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những tâm trí nhỏ bé – mà phạm vi thì hạn hẹp và cần rất ít thứ để tạo thành – không bao giờ dám liều lĩnh bay cao trong lĩnh vực tư tưởng. Quan niệm của họ rất ư là tốt đẹp và hữu ích đối với họ, thậm chí có khi đó chỉ là những vị thần nhỏ bé hoặc một số biểu tượng.
Nhưng các bạn thì cần phải hiểu Cái Phi Nhân Thể, vì chỉ trong Cái Đó và thông qua Cái Đó, ta mới có thể giải thích được tất cả những thứ khác. Chẳng hạn lấy ví dụ về Thượng Đế Nhân Thể. Một người hiểu và tin vào một Thượng Đế Phi Nhân Thể – như John Stuart Mill chẳng hạn – có thể phát biểu rằng không thể có được và không thể chứng minh được một Thượng Đế Nhân Thể. Tôi đồng ý với ông ta là không thể chỉ ra được một Thượng Đế Nhân Thể. Nhưng Ngài là kiến giải cao nhất về một đấng Phi Nhân Thể mà trí năng con người có thể đạt tới; và vũ trụ là gì, nếu không phải là những kiến giải khác nhau về Cái Tuyệt Đối? Cái Tuyệt Đối như một cuốn sách trước mặt ta, mỗi người đều đem trí năng của mình ra mà đọc Nó, và mỗi người phải đọc Nó cho chính mình. Có một cái gì đó chung cho trí năng của tất cả mọi người; do đó, có những sự vật nào đó xuất hiện như nhau đối với trí năng của toàn nhân loại. Các bạn và tôi đều thấy đây là cái ghế, điều đó chứng minh có một cái gì đó chung cho tâm trí của các bạn và tôi. Giả sử có một sinh thể nào đó đến đây với một giác quan khác thì y sẽ không thấy được cái ghế, nhưng tất cả những sinh thể được cấu tạo như nhau sẽ thấy được những sự vật như nhau. Do đó, vũ trụ này chính là Cái Tuyệt Đối, Cái Bất Biến, là nguyên thể, và cách ta lý giải vũ trụ đã tạo ra thế giới hiện tượng. Bởi vì trước hết các bạn thấy rằng mọi hiện tượng đều hữu hạn. Mỗi hiện tượng – mà chúng ta có thể nhìn thấy, cảm nhận và tư duy về nó – đều hữu hạn, bị giới hạn trong phạm vi kiến thức của chúng ta; và vị Thượng Đế Nhân Thể, theo cách chúng ta hình dung về Ngài, thực ra cũng chỉ là một hiện tượng. Ngay cả quan niệm về tương quan nhân quả cũng chỉ tồn tại trong thế giới hiện tượng; và theo lẽ tự nhiên, vị Thượng Đế – mà chúng ta xem là căn nguyên tạo ra vũ trụ – cũng phải bị tư duy trong phạm vi giới hạn, vậy mà Ngài cũng chính là vị Thượng Đế Phi Nhân Thể. Thế giới hiện tượng này, như chúng ta đang nhìn thấy, cũng chính là Hằng Hữu Phi Nhân Thể được lý giải bởi trí năng. Bất cứ cái gì thực hữu trong vũ trụ này đều là Hằng Hữu Phi Nhân Thể đó, và trí năng chúng ta gán cho nó những hình thể và tên gọi. Bất cứ cái gì thực hữu trong cái bàn này đều là Hằng Hữu đó, và hình thể cái bàn cùng mọi hình thể khác đều do trí năng ta gán cho.
Bây giờ, chẳng hạn chuyển động – yếu tố gắn bó mật thiết với hiện tượng – không thể được gán thuộc tính phổ quát. Từng phân tử, từng nguyên tử trong vũ trụ đều ở trong trạng thái chuyển động và biến dịch không ngừng, nhưng vũ trụ xét như một chỉnh thể thì bất biến, bởi vì chuyển động và biến dịch đều mang tính tương đối; ta chỉ tư duy về một sự vật chuyển động khi so sánh với một sự vật bất động khác. Để hiểu được sự chuyển động thì cần phải có hai sự vật. Toàn thể vũ trụ, xét như một đại khối duy nhất, không thể chuyển động. Nó sẽ chuyển động trong mối tương quan với cái gì? Cũng không thể nói là nó biến dịch. Vì nó sẽ biến dịch trong mối tương quan với cái gì? Cho nên cái toàn thể đó là Cái Tuyệt Đối, nhưng bên trong nó thì từng phân tử đều ở trong trạng thái biến dịch không ngừng. Nó đồng thời vừa biến dịch và bất biến, vừa phi nhân thể và nhân thể trong nhất thể. Đó là quan niệm của chúng ta về vũ trụ, về chuyển động, về Thượng Đế, và là ý nghĩa của câu “Ngươi là Cái Đó”.
Như thế, ta thấy rằng khái niệm Phi Nhân Thể thay vì loại bỏ khái niệm Nhân Thể, Cái Tuyệt Đối thay vì xô ngã cái tương đối, chỉ giải thích để làm thỏa mãn trọn vẹn mọi con tim và khối óc. Thượng Đế Nhân Thể cùng tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ cũng chính là Hằng Hữu Phi Nhân Thể được nhìn thấy qua tâm trí chúng ta. Khi chúng ta thoát khỏi tâm trí, dứt bỏ được tính cách nhỏ bé của mình thì chúng ta sẽ hợp nhất với Nó. Đó là ý nghĩa của câu “Ngươi là Cái Đó”. Chúng ta phải nhận biết được chân tính của mình, tức Cái Tuyệt Đối.
Con người nhỏ bé được hiển lộ này đã quên mất cội nguồn của mình, và nghĩ rằng anh ta là một thực thể hoàn toàn tách biệt. Chúng ta, hiểu theo nghĩa là những sinh thể bị sai biệt hóa và nhân thể hóa, đã quên mất thực thể của mình, và giáo lý nhất nguyên luận đã dạy rằng chúng ta không từ bỏ những sự sai biệt này, mà phải học cách hiểu chúng là gì. Trong thực tế, chúng ta là Hằng Hữu Vô Biên đó, và những tính cách của chúng ta biểu hiện thành nhiều thông đạo, để qua đó Thực Tại Vô Biên hiển lộ tự thân; và toàn bộ đại khối biến dịch, mà ta gọi là sự tiến hóa, được nảy sinh từ một linh hồn đang cố gắng hiển lộ nhiều hơn nữa năng lượng vô biên của nó. Chúng ta không thể dừng tại bất kỳ nơi đâu ở phía bên này của Cái Vô Biên; năng lực, lạc phúc và trí tuệ của chúng ta chỉ có thể phát triển thành Cái Vô Biên đó. Năng lực vô biên, tồn tại vô biên và lạc phúc vô biên là của chúng ta, và chúng ta không cần phải thủ đắc chúng; chúng là của chúng ta, và chúng ta chỉ cần hiển lộ chúng mà thôi.
Đó là tư tưởng trọng tâm của nhất nguyên luận, rất chi là khó hiểu. Ngay từ thời thơ ấu, mọi người chúng quanh tôi đã dạy cho tôi sự yếu đuối; ngay khi vừa lọt lòng, người ta đã bảo tôi rằng tôi là một sự vật yếu đuối. Giờ đây, thật khó để tôi thể hiện được sức mạnh của mình, nhưng bằng phân tích và lập luận, tôi đạt được trí thức về sức mạnh của chính tôi, tôi thể hiện nó. Tất cả tri thức mà chúng ta có được trong thế gian này bắt nguồn từ đâu? Nó ở bên trong ta. Tri thức nào ở bên ngoài? Không có. Tri thức không nằm trong vật chất, mà lúc nào cũng ở trong con người. Không một ai có thể tạo ra tri thức, mà con người đưa nó ra từ bên trong. Nó đang nằm trong đó. Toàn bộ cây đa to lớn che phủ cả khoảng đất rộng lớn này đều nằm trong một hạt giống lớn bé xíu, không quá một phần tám hạt cải cay; trọn khối năng lượng này được đóng khung trong đó. Chúng ta biết rằng trí năng vĩ đại cuộn mình nằm trong một tế bào nguyên sinh, vậy thì tại sao năng lực vô biên lại không? Ta biết rằng thực tế là vậy. Điều này có vẻ như là một nghịch lý, nhưng đó là sự thật. Mỗi người chúng ta đều ra đời từ một tế bào nguyên sinh, và tất cả những năng lực mà chúng ta có được đều nằm cuộn mình trong đó. Các bạn không thể bảo rằng những năng lực này đến từ thức ăn, vì các bạn có chất thức ăn cao lên như núi thì có năng lực nào phát sinh không? Năng lượng nằm ở đó, hiển nhiên ở dạng tiềm năng, nhưng vẫn luôn nằm ở đó.
Năng lực vô biên trong linh hồn con người cũng thế, dù con
người có biết điều đó hay không. Sự hiển lộ của năng lực đó chỉ là vấn đề ý
thức được nó. Gã khổng lồ vô biên, có thể nói như vậy, đang từ từ tỉnh giấc và
ý thức được năng lực của mình, và đang đánh thức bản thân mình; khi ý thức ngày
càng lớn mạnh thì gông cùm vỡ tan, xích xiềng đứt đoạn; và chắc chắn ánh dương
sẽ đến, khi người khổng lồ ý thức được năng lực và trí tuệ vô biên của mình để
đứng trên đôi chân của chính mình mà vươn vai đứng thẳng. Tất cả chúng ta hãy
gấp rút thực hiện thành quả vinh quang đó.
Phần IV
(Diễn thuyết tại London, 18 tháng 11, 1896)
Từ đầu đến giờ, chúng ta đã bàn luận về cái chung hay cái phổ quát. Sáng nay, tôi sẽ cố gắng trình bày cùng các bạn quan niệm về sự tương quan giữa cái đặc thù với cái phổ quát, theo triết học Vedānta. Như chúng ta đã thấy, trong những giáo lý kinh Veda dưới hình thức nhị nguyên, tức những hình thức giáo lý nguyên thủy, có một linh hồn giới hạn và riêng biệt được xác định một cách rõ ràng cho mọi sinh thể. Có rất nhiều thuyết về linh hồn riêng biệt này trong mỗi cá nhân, nhưng cuộc tranh luận chính chỉ diễn ra trong thời cổ giữa các triết gia Vedānta và các luận sư Phật giáo. Những triết gia Vedānta tin rằng mỗi linh hồn cá biệt là một chỉnh thể trong chính nó, còn các luận sư Phật giáo thì phủ nhận hoàn toàn một linh hồn như thế. Như tôi đã từng nói với các bạn, cuộc tranh luận này cũng thú vị chẳng khác gì cuộc tranh luận của các bạn ở châu Âu về bản thể và phẩm tính : một bên chủ trương rằng đằng sau những phẩm tính có một cái gọi là bản thể, và những phẩm tính hiện hữu trong bản thể đó; một bên phủ nhận sự tồn tại của bản thể, xem như không cần thiết, bởi vì phẩm tính có thể tự tồn tại. Thuyết cổ nhất về linh hồn có lẽ dựa trên lập luận của thuyết tự đồng nhất [self-identity] – “Tôi là Tôi” –, tôi của hôm qua là tôi của hôm nay, và tôi của hôm nay sẽ là tôi của ngày mai; dù thể xác tôi có biến đổi bao nhiêu đi chăng nữa thì tôi tin rằng tôi vẫn luôn là tôi. Điều này có vẻ như là luận chứng trọng tâm của những người tin vào một linh hồn cá biệt, tuy bị giới hạn nhưng lại vô cùng hoàn hảo.
Mặt khác, các luận sư Phật giáo thời xưa phủ nhận sự cần thiết của một giả thuyết như thế. Họ đề xướng luận chứng rằng tất cả những gì ta biết, và tất cả những gì ta có thể biết, đều đơn giản là những sự biến dịch đó. Việc xác lập một bản thể bất biến và bất khả biến là điều hoàn toàn dư thừa, thậm chí nếu có một sự vật bất khả biến như vậy thì ta cũng không bao giờ có thể hiểu được nó, cũng không bao giờ có thể nhận thức được nó theo bất kỳ ý nghĩa nào của thế gian.
Hiện nay, các bạn sẽ thấy cuộc tranh luận tương tự đang diễn ra tại châu Âu giữa hai bên : một bên là những người cuồng tín và những người duy tâm, một bên là những người theo thuyết thực dụng và những người theo thuyết bất khả tri. Bên này tin rằng có một cái gì đó bất biến (đại diện mới nhất là triết gia Herbert Spencer), và ta thoáng nhìn thấy được cái bất khả biến. Bên kia là những người theo triết học August Comte[45] hiện đại và những người theo thuyết bất khả tri hiện đại. Những ai trong số các bạn quan tâm đến cuộc tranh luận giữa Herbert Spencer và Frederick Harrison cách đây mấy năm có thể nhận thấy rằng cuộc tranh luận đó cũng là vấn nạn cũ : một bên chủ trương có một bản thể đằng sau biến dịch; một bên bác bỏ giả thuyết đó, cho rằng không cần thiết. Một bên nói rằng ta không thể quan niệm được sự biến dịch nếu không quan niệm một cái gì đó bất biến; bên kia là cho rằng lập luận đó thật là phù phiếm; chúng ta chỉ có thể quan niệm được những gì đang biến dịch, còn đối với những gì bất biến thì chúng ta không thể nhận biết, cảm thụ hay có cảm giác về nó.
Tại Ấn Độ, từ thời thượng cổ, vấn nạn này đã không tìm được lời giải đáp; bởi vì, như ta đã thấy, không bao giờ có thể chứng minh được giả thuyết về một bản thể – không phải là phẩm tính – nằm đằng sau các phẩm tính; thậm chí cũng không thể chứng minh được luận chứng từ thuyết tự đồng nhất, từ ký ức – đó là : “Tôi” là tôi của ngày hôm qua, bởi vì tôi nhớ được nó, do đó tôi đã là và vẫn đang là một cái gì đó tương tục. Một ý kiến phản bác khác, vốn thường được nêu ra, chỉ thuần túy là sự lừa gạt về ngôn từ. Ví dụ một người có thể dùng một loạt các câu nói như : “Tôi làm”, “Tôi đi”, “Tôi mơ”, “Tôi ngủ”, “Tôi di chuyển”, và ở đây các bạn thấy rằng các hành vi “làm”, ” đi”, “mơ”, “ngủ” v.v… có biến đổi, nhưng có cái bất biến, đó là cái “Tôi”. Và do đó, họ kết luận rằng cái “Tôi” là cái gì đó thường hằng, và là cá thể tự thân [individual in itself], còn tất cả những biến đổi đều thuộc về thể xác. Điều này, dù có vẻ sáng sủa và thuyết phục, cũng chỉ là trò chơi chữ. Cái “Tôi” và các hành vi “làm”, ” đi”, “mơ”, “ngủ” v.v…có thể được phân biệt rõ ràng, nhưng không ai có thể phân biệt được chúng trong tâm trí. Khi tôi ăn, tôi nghĩ đến tôi như là hành vi ăn, và tự đồng nhất tôi với hành vi ăn đó. Khi tôi chạy thì tôi và hành vi chạy đó không phải là hai sự thể tách biệt nhau. Do đó, luận chứng rút ra từ tính cá thể đồng nhất có vẻ như không được vững vàng cho lắm.
Những luận chứng khác, luận chứng từ ký ức, cũng yếu. Nếu tính đồng nhất trong sự tồn tại của tôi lại được biểu hiện bởi ký ức thì nhiều điều mà tôi đã lãng quên sẽ bị lạc mất khỏi tính đồng nhất đó. Và ta biết rằng, trong một số tình huống nào đó, con người quên sạch quá khứ của mình. Có nhiều trường hợp, người mắc bệnh tâm thần ngỡ mình là tấm kính, hoặc là một con vật. Nếu sự tồn tại của người đó tùy thuộc vào ký ức thì anh ta hẳn đã được cấu tạo từ thủy tinh rồi – nếu không thế thì chúng ta không thể bắt tính đồng nhất của tự ngã phải tùy thuộc vào một sự vật mong manh như ký ức. Từ đó, ta thấy rằng linh hồn – hiểu theo nghĩa là sự đồng nhất tương tục, dù bị giới hạn nhưng hoàn chỉnh – không thể được xác lập tách biệt với các phẩm tính được. Ta không thể xác lập một sự tồn tại giới hạn và thu hẹp mà lại gắn với một lô các phẩm tính. Mặt khác, lập luận của những luận sư Phật giáo thời cổ có vẻ mạnh mẽ hơn, đó là : ta không biết và không thể biết được bất cứ điều gì nằm bên ngoài các phẩm tính đó. Theo họ, linh hồn chứa một lô các phẩm tính được gọi cảm thọ. Sự kết hợp những thứ đó[46] tạo thành linh hồn hay sinh mệnh, và biến đổi vô thường.
Thuyết linh hồn của nhất nguyên luận Advaita dung hòa được những lập trường này. Lập trường của những nhà triết gia Advaita là : chúng ta không thể tư duy về bản thể tách lìa với phẩm tính, chúng ta không thể tư duy cùng lúc về biến dịch và bất biến, điều đó không khả thi. Cái mà ta gọi là bản thể thì chính cái đó là phẩm tính, bản thể và phẩm tính không phải là hai thực thể riêng biệt. Chính cái bất khả biến lại biểu hiện như là cái khả biến. Bản chất bất khả biến của vũ trụ không phải là cái gì đó tách lìa nó.Nguyên thể không phải là cái gì đó tách biệt với hiện tượng, mà chính nguyên thể đã biến thành hiện tượng. Có một Linh Hồn bất biến, và những thứ mà ta gọi là cảm thọ, thậm chí cả thể xác đều chính là Linh Hồn đó, khi nhìn từ một quan điểm khác. Chúng ta có thói quen tư duy rằng mình có một thể xác và một linh hồn v.v… nhưng trên thực tế thì chúng chỉ là một. Khi tôi tư duy về bản thân tôi như một thể xác thì tôi chỉ là thể xác; thật vô nghĩa khi nói tôi là thứ gì khác. Khi tôi tư duy về bản thân tôi như một Linh Hồn thì thể xác biến mất, và sự nhận thức về thể xác không còn nữa. Không một ai có thể nhận thức được Linh Hồn trừ phi sự nhận thức về thể xác tan biến mất; và không một ai có thể nhận thức được bản thể trừ phi sự nhận thức về phẩm tính không còn.
Tôi có thể dùng lại một lần nữa minh họa cũ xưa của triết học Advaita về việc nhận lầm sợi dây thừng là con rắn, để giải minh cho điểm này. Khi một người nhận lầm sợi dây thừng là con rắn thì sợi dây thừng biến mất; nhưng khi anh ta nhận ra đó là sợi dây thừng thì con rắn biến mất, mà chỉ còn lại sợi dây thừng. Những ý tưởng về sự tồn tại hai lớp hay ba lớp này phát sinh từ lập luận dựa trên dữ liệu không dầy đủ; chúng ta đọc những điều này trong sách vở hoặc nghe nói về chúng, cho đến khi ta sa vào ngộ nhận khi nhận thức rằng thực có Linh Hồn và thể xác cùng tồn tại song đôi; nhưng một nhận thức như thế thực ra không bao giờ tồn tại. Nhận thức là nhận thức về thể xác hoặc về Linh Hồn. Không cần đến luận cứ để chứng minh điều này, các bạn có thể xác minh nó ngay trong tâm trí mình.
Hãy cố gắng tư duy về bản thân các bạn như là Linh Hồn, như là cái gì đó đã thoát khỏi thể xác. Các bạn sẽ thấy điều đó hầu như bất khả; một số rất ít người, khi thực hiện được điều đó, sẽ thấy rằng ngay khi thực chứng được bản thân là Linh Hồn thì họ không còn ý tưởng về thể xác nữa. Các bạn đã nghe nói đến, hoặc đã nhìn thấy có những người – trong một số trường hợp đặc biệt – đã sống trong trạng thái tinh thần đặc biệt như nhập định, tự thôi miên, hay trạng thái hưng phấn bất thường, hoặc dùng thuốc gây nghiện. Từ kinh nghiệm của họ, các bạn có thể đúc kết được một điều là : họ đang cảm nhận một cái gì đó từ thế giới nội tâm, thế giới tự nhiên đã biến mất với họ. Điều đó chứng minh rằng bất cứ cái gì tồn tại đều là một. Tính thống nhất này xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, và tất cả những hình thức này làm phát sinh tương quan nhân quả. Tương quan nhân quả là một tương quan tiến hóa – cái này biến thành cái kia, và cứ tiếp tục như thế. Có lúc thì nhân biến mất, có thể nói như vậy, và chỉ để lại quả. Nếu Linh Hồn là nhân của thể xác thì có thể nói là Linh Hồn tạm thời biến mất, chỉ còn lại thể xác; và khi thể xác biến mất thì chỉ còn lại Linh Hồn. Thuyết này phù hợp với lập trường của các luận sư Phật giáo, lập trường này phủ nhận quan niệm nhị nguyên giả định giữa thể xác và Linh Hồn bằng cách phủ nhận tính nhị nguyên, và chứng minh rằng bản thể và phẩm tính là một, là cùng một sự thể nhưng được biểu hiện trong nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta cũng đã thấy rằng khái niệm bất biến chỉ có thể được xác lập trong mối tương quan với toàn thể, chứ không bao giờ với thành phần. Ngay cả khái niệm thành phần cũng xuất phát từ khái niệm biến dịch hay chuyển động. Mọi sự vật nào bị giới hạn thì chúng ta đều có thể hiểu và nhận biết, bởi vì nó biến dịch; còn cái toàn thể thì bất biến, bởi vì không có một sự vật nào khác bên cạnh để dựa vào đó mà thấy có sự biến dịch. Biến dịch phải luôn luôn nằm trong mối tương quan với một cái bất biến, hoặc với một cái tương đối ít biến dịch hơn. Bởi vậy theo triết học Advaita thì khái niệm Linh Hồn là cái phổ quát, bất biến và bất tử; trong mức độ có thể, ta không thể chứng minh được khái niệm đó được. Vấn nạn này liên quan đến cái đặc thù. Chúng ta sẽ làm gì với những thuyết nhị nguyên cổ xưa mà tất cả chúng ta đều phải trải qua – những thuyết tin vào những linh hồn cá thể, nhỏ nhoi và giới hạn?
Chúng ta đã thấy rằng xét như là toàn thể thì chúng ta bất tử; nhưng điểm khó khăn vẫn nằm ở điểm này : chúng ta khao khát được bất tử với tư cách là những thành phần của toàn thể đó. Chúng ta đã thấy rằng chúng ta là Cái Vô Biên, và Cái Đó chính là bản sắc cá nhân chân chính của ta, nhưng chúng ta lại muốn biến những linh hồn nhỏ bé đó thành bản sắc cá nhân. Các linh hồn đó sẽ ra sao, khi mà, bằng kinh nghiệm đời thường, ta tìm ra rằng chúng là những cá nhân, chỉ với một đôi chút dè dặt là : chúng là những cá nhân liên tục phát triển? Chúng như nhau, mà lại không như nhau. “Tôi” của ngày hôm qua là “Tôi” của ngày hôm nay, tuy nhiên không phải hoàn toàn như vậy, nó đã ít nhiều thay đổi.
Bây giờ, bằng cách thoát khỏi quan niệm nhị nguyên cho rằng giữa lòng vạn hữu biến chuyển có một cái không biến chuyển, và bằng cách dựa vào những quan niệm hiện đại nhất, tức thuyết tiến hóa, chúng ta thấy rằng cái “Tôi” đó là một thực thể liên tục biến chuyển, liên tục khoáng trương. Nếu quả thực là con người tiến hóa từ loài động vật thân mềm thì mỗi cá thể động vật thân mềm cũng tương tự như con người, nó chỉ việc khoáng trương thật nhiều. Từ loài động vật thân mềm đến con người là một quá trình bành trướng liên tục hướng đến Cái Vô Biên. Do đó, linh hồn hữu hạn có thể được định hình như một cá nhân đang bành trường liên tục hướng đến một Cá Thể Vô Biên [Infinite Individual]. Bản sắc cá nhân chỉ đạt đến sự toàn hảo khi nó đạt đến Cái Vô Biên, nhưng khi còn ở phía bên này của Cái Vô Biên thì nó là một tính cách liên tục phát triển và biến đổi. Một trong những nét nổi bật của triết học nhất nguyên Vedānta là dung hòa được những hệ thống triết học trước đó. Trong nhiều trường hợp, nó hỗ trợ cho triết học rất nhiều; trong một số trường hợp nó lại làm tổn thương triết học. Các triết gia cổ đại của chúng tôi đã biết đến mà các bạn gọi thuyết tiến hóa; sự tiến hóa đó diễn ra từ từ theo từng bước một, và khi nhận thức được thuyết này thì ta có thể dung hòa với tất cả những hệ thống triết học trước đó. Sai lầm của tín ngưỡng Phật giáo là nó không có khả năng nhận thức được sự khoáng trương liên tục này, vì vậy, nó không bao giờ cố gắng tìm cách tự dung hòa mình với những bước đi đã tồn tại từ trước, trên đường hướng về lý tưởng đó. Tín ngưỡng Phật giáo phủ nhận những bước đi đó vì cho là vô ích và nguy hiểm.
Khuynh hướng này trong tôn giáo thật vô cùng nguy hiểm. Một người có được quan niệm mới tốt hơn, anh ta bèn quay nhìn lại những quan niệm cũ mà anh ta đã từ bỏ, rồi lập tức quyết định chúng là tai hại và không cần thiết. Anh ta không bao giờ nghĩ rằng, dù những quan niệm đó có thô thiển đến đâu chăng nữa, khi xét từ lập trường của anh ta, thì chúng cũng đã rất cần thiết để anh ta đạt đến trình độ tư tưởng như bây giờ; và mỗi người trong chúng ta đã phát triển theo cách thức giống nhau, trước hết là dựa vào những quan niệm thô thiển, vận dụng chúng để đạt đến chuẩn mực cao hơn. Do đó, với những giáo lý tối cổ, Advaita là một triết học thân thiện. Thuyết nhị nguyên và mọi hệ thống triết học trước nó đều được triết học Advaita đề huề dung nạp, không phải theo thói chủ nhân trịch thượng, mà bằng niềm tin chắc rằng chúng đều là sự biểu hiện của cùng một chân lý, và tất cả những giáo lý đó đều đưa đến những kết luận tương tự như triết học Advaita đã từng đạt đến.
Xin đừng nguyền rủa mà hãy cầu phúc để cho tất cả những bước đi khác nhau, mà nhân loại đã phải trải qua. Do đó, không bao giờ nên khước từ hay vất bỏ tất cả những hệ thống triết học nhị nguyên mà hãy gìn giữ chúng nguyên vẹn trong triết học Vedānta; và quan niệm nhị nguyên về linh hồn cá thể, dù còn nhiều hạn chế và bất toàn, vẫn tìm được chỗ đứng trong triết học Vedānta. Theo thuyết nhị nguyên thì khi chết đi, con người sẽ đến một thế giới khác hoặc đại loại như thế; những quan niệm đó vẫn được gìn giữ trọn vẹn trong triết học Vedānta. Với sự nhận thức về sự phát triển trong triết học Vedānta, những thuyết đó được xếp vào những vị trí phù hợp bằng cách xem chúng chỉ là những kiến giải phiến diện về Chân Lý.
Xét từ quan điểm nhị nguyên thì vũ trụ này chỉ có thể xem như được tạo ra từ vật chất hay lực, chỉ có thể được xem như một trò chơi của ý chí, và ý chí đó lại được xem như tách biệt với vũ trụ. Do đó, người đứng trên lập trường này chắc chắn phải thấy bản thân mình được cấu tạo từ bản chất nhị nguyên, gồm phần hồn và phần xác; và phần hồn này, dù bị hạn chế thì tự thân nó vẫn hoàn hảo xét về phương diện cá nhân. Đối với một người như thế thì những quan niệm về bất tử và cuộc sống kiếp sau tất yếu phải ăn khớp với quan niệm của anh ta về linh hồn. Những giai đoạn này đã được gìn giữ trong triết học Vedānta, và do đó, tôi thấy cần phải trình bày cho các bạn một vài quan niệm về thuyết nhị nguyên.
Theo thuyết này thì chúng ta có một thể xác, điều đó hiển nhiên; và đàng sau thể xác đó là cái mà họ gọi là thể xác tế vi. Cái thể xác tế vi này cũng được cấu tạo bằng vật chất, chỉ có điều là bằng vật chất rất tế vi. Nó là nơi tích lũy tất cả những thân nghiệp và ý nghiệp của chúng ta, và tất cả những thứ đó đều sẵn sàng xuất hiện dưới dạng hữu hình. Mọi ý tưởng ta nghĩ và mọi hành động ta làm, sau một thời gian cụ thể, sẽ trở nên tế vi, biến thành hạt giống – có thể nói như vậy – và sống trong thể xác tế vi kia dưới dạng tiềm năng; rồi sau một thời gian, chúng sẽ lộ diện và mang lại quả. Những quả này chi phối cuộc đời con người. Anh ta đã định hình cuộc đời của mình như thế đó. Con người không bị trói buộc bởi bất kỳ quy luật nào ngoại trừ những gì anh ta tự tạo ra cho chính mình. Mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói và từng hành động của ta, bất kể là tốt hay xấu, đều là những sợi lưới dệt nên tấm lưới mà ta tung ra để bọc quanh mình. Mỗi khi ta khởi động một nguồn năng lượng nào đó thì ta phải gánh trọn vẹn kết quả. Đó là quy luật Karma.
Đằng sau cái thể xác tế vi đó là sự tồn tại của jiva, tức sinh mệnh hay linh hồn cá biệt của mỗi người. Có nhiều cuộc tranh luận về hình tướng và kích thước của linh hồn cá biệt này. Trường phái này thì cho rằng nó nhỏ như một nguyên tử, trường phái kia thì cho rằng nó không nhỏ như vậy, trường phái khác nữa thì cho rằng nó rất lớn v.v…. Jiva này là một phần của bản thể vũ trụ và vĩnh hằng trường cửu, nó tồn tại vô thủy vô chung. Nó kinh qua mọi hình tướng để tự hiển lộ thực tính của nó là cái thuần tịnh. Hành động hay tư tưởng nào làm trì hoãn sự hiển lộ đó thì bị gọi là xấu; còn những hành động hay tư tưởng giúp cho jiva khoáng trương, hiển lộ được thực tính của nó thì được xem là tốt. Ở Ấn Độ, có một thuyết rất phổ biến trong giới những người nhị nguyên thô thiển nhất cũng như những người phi nhị nguyên tiến bộ nhất, đó là : mọi khả tính cùng năng lực của linh hồn đều hàm ẩm bên trong tự thân của nó chứ không đến từ bên ngoài. Tất cả những thứ đó đều nằm ở bên trong linh hồn dưới dạng tiềm năng, và toàn bộ hoạt động của cuộc sống chỉ đơn giản là hướng về sự hiển lộ những năng lực tiềm ẩn đó.
Những người theo thuyết nhị nguyên cũng có thuyết tái sinh, họ chủ trương rằng khi thể xác tan rã thì jiva sẽ mang một thể xác khác, rồi khi thể xác đó lại tan rã thì nó lại mang tiếp một thể xác khác, và việc đó cứ tiếp tục diễn ra như thế ở cõi thế này hay tại một thế giới nào đó khác; nhưng cõi thế này được ưa chuộng hơn, bởi vì nó được xem là thế giới tuyệt hảo nhất trong mọi thế giới dành cho mục đích này. Những cõi khác được xem là những cõi ít khổ đau, nhưng, họ lập luận, chính vì thế mà con người lại ít có cơ hội nghĩ đến những điều cao siêu hơn. Bởi vì thế giới này chứa ít hạnh phúc và nhiều khổ đau nên jiva đôi lúc thức tỉnh và nghĩ đến chuyện giải thoát bản thân. Những cũng giống như những người giàu trong thế giới này rất ít có cơ hội để nghĩ đến những điều cao xa, thì cũng thế, những jiva ở nơi cõi trời cũng ít có cơ hội tiến bộ, bởi vì tình cảnh của họ cũng giống như những người nhà giàu, chỉ khác là với cường độ mạnh hơn; jiva có một thể xác cực kỳ tế vi không hề biết đến bệnh tật, nó cũng không có nhu cầu ăn uống, và ước gì được nấy. Jiva sống nơi đó, hưởng thụ hết lạc thú này đến lạc thú khác, nên quên mất bản tính thực của mình.
Vẫn còn có một vài cõi trời cao hơn, mặc dù nơi đó cũng có đủ tất cả thứ những lạc thú, những jiva vẫn có thể tiến hóa thêm. Một vài triết gia nhị nguyên hình dung cứu cánh là cõi trời tối cao, nơi đó những linh hồn được sống với Thượng Đế đời đời. Linh hồn sẽ mang những thể xác đẹp đẽ, không hề biết đến ốm đau già chết, không hề biết đến điều xấu ác, ước gì được nấy. Thỉnh thoảng có một vài người nơi cõi trời đó quay lại trần gian, mang một thân xác khác để dạy cho loài người con đường dẫn đến Thượng Đế; đó chính là các bậc chân sư vĩ đại. Họ đã được giải thoát, và đang sống với Thượng Đế trên cõi trời cao nhất; nhưng tình yêu mà họ dành cho chúng sinh đang chịu trầm luân đau khổ lớn đến mức họ phải giáng thế để dạy cho loài người con đường dẫn đến thiên đàng.
Dĩ nhiên, chúng ta biết triết học Advaita chủ trương rằng đó không thể là mục tiêu hay lý tưởng. Mà lý tưởng phải phi hình thể, phi sắc tướng. Lý tưởng không thể là cái hữu hạn. Bất cứ thứ gì thiếu tính Vô Biên đều không thể là lý tưởng, và không thể có một thể xác vô biên vô hạn. Đó là điều bất khả, bởi vì thể xác xuất phát từ sự giới hạn. Không thể có tư tưởng vô biên vô hạn, bởi vì tư tưởng cũng xuất phát từ sự giới hạn. Triết học Advaita bảo rằng chúng ta cần phải vượt qua bên kia thể xác, và vượt qua bên kia tư tưởng. Khi đã liễu ngộ được điều đó thì, theo triết học Advaita, ta đạt đến giải thoát, nó đã có sẵn trong ta. Chỉ tại chúng ta lãng quên nó và phủ nhận nó mà thôi. Sự hoàn hảo không phải là cái gì cần phải đạt được, mà nó đã có sẵn trong ta rồi. Sự bất tử và lạc phúc không phải là cái gì cần phải đạt được, mà chúng ta đã có sẵn chúng rồi; chúng đã là của chúng ta từ vô thủy. Nếu các bạn bảo các bạn được tự do thì các bạn được tự do kể từ lúc đó. Nếu các bạn bảo các bạn bị trói buộc thì các bạn sẽ chịu cảnh trói buộc. Đây là điều mà triết học Advaita mạnh dạn tuyên bố. Tôi đã nói cho các bạn nghe quan điểm của những triết gia nhị nguyên cũng những trường phái triết học khác. Các bạn có thể tự chọn cho mình quan điểm mà bạn thích.
Lý tưởng tối cao của triết học Vedānta rất khó hiểu, và mọi người cứ luôn tranh cãi về nó; và điều gây khó khăn nhất là mỗi khi họ nắm bắt được một số ý tưởng nào đó thì họ lại phản bác và chống đối những ý tưởng khác. Hãy chọn những gì phù hợp với mình và cứ để những người khác chọn cái họ cần. Nếu các bạn thích bám vào cá nhân nhỏ bé này, bám vào phận người hạn hẹp này thì hãy cứ làm thế, hãy cứ khát khao và thụ hưởng tất cả những điều đó. Nếu các bạn nghiệm thấy cái phận người này là điều hay ho, tốt đẹp thì hay giữ lấy nó, chừng nào các bạn thích. Các bạn có thể làm thế, vì các bạn là người tạo ra số phận mình; không có gì có thể thúc đẩy các bạn từ bỏ phận người. Chừng nào còn thích thì các bạn sẽ cứ làm người, không có gì có thể ngăn cản được các bạn. Nếu các bạn muốn làm thiên thần thì các bạn sẽ là thiên thần, đó là quy luật. Nhưng lại có người không hề muốn làm thiên thần chút nào. Các bạn lấy quyền gì để cho rằng quan niệm của họ là đáng kinh tởm? Các bạn có thể hoảng kinh khi mất một trăm bảng Anh, nhưng vẫn có những người khác không hề chớp mắt khi đánh mất tất cả số tiền họ kiếm được trong đời này. Đã từng có và sẽ còn có những con người như thế. Sao các bạn dám phán xét họ theo chuẩn mực của mình? Các bạn khư khư bám vào những giới hạn của mình, và những tư tưởng nhỏ mọn lẩn quẩn trong trần gian này có lẽ là lý tưởng tối cao của các bạn. Các bạn hãy hân hoan chào đón chúng. Các bạn cứ làm thế nếu thấy thích. Nhưng vẫn có những người khác đã thấy được chân lý và họ không chịu yên nghỉ trong những giới hạn này, những người đó đã dứt bỏ những hết thứ đó và muốn đi xa hơn. Cõi thế này cùng với tất cả những lạc thú trần gian đối với họ chỉ là một vũng lầy. Sao các bạn lại muốn trói buộc họ để kéo họ xuống ngang tầm với những quan niệm của mình? Các bạn cần phải thoát khỏi khuynh hướng đó ngay lập tức. Hãy để cho mỗi người có một chỗ phù hợp. Tôi có lần đọc câu chuyện về những chiếc tàu bị kẹt trong một cơn bão tại quần đảo trên biển Thái Bình dương, và trên tạp chí ở London có hình minh họa về nó. Tất cả những chiếc tàu đều bị đắm, trừ một chiếc của nước Anh sống sót qua cơn bão. Hình minh họa cho thấy những người sắp bị chìm đều đứng trên boong tàu để reo hò cổ vũ cho những người đang lái chiếc tàu vượt qua cơn bão. Hãy can đảm và khoan dung như những con người đó. Đừng có kéo người khác chìm cùng với bạn. Một quan niệm điên rồ khác nữa, đó là : nếu chúng ta đánh mất bản sắc cá nhân thì cả nhân loại không còn sự bất tử hay niềm hy vọng gì nữa. Làm như từ xưa đến nay ai nấy cũng đều đang hy sinh vì nhân loại! Cầu Thượng Đế ban phúc cho các bạn! Nếu tại mỗi quốc gia mà có được hai trăm người thực tâm muốn làm việc thiện cho nhân loại thì sẽ có đến một triệu người trong vòng năm ngày. Chúng ta biết rõ chúng ta đang hy sinh cho nhân loại như thế nào rồi. Toàn là những lời rỗng tuếch nói suông, chứ chẳng có gì khác. Lịch sử thế giới đã cho thấy những người không bao giờ nghĩ đến bản sắc cá nhân nhỏ bé của mình đều là những ân nhân vĩ đại nhất của nhân loại, con người hễ càng nghĩ đến cá nhân mình thì càng ít có khả năng làm điều tốt cho người khác. Một bên là lòng vị tha, một bên là thói ích kỷ. Bám vào những lạc thú thấp hèn, khao khát được kéo dài và lặp lại tình trạng đó, đó là sự biểu hiện của tâm trí hoàn toàn ích kỷ. Nó không phát sinh từ lòng khát khao chân lý; nó không được hình thành từ lòng thương yêu đối với người khác, mà từ thói hoàn toàn ích kỷ trong thâm tâm của nhân loại. Qua quan niệm như vầy : “Ta phải có được tất cả mọi thứ, và không thèm quan tâm đến bất kỳ ai”. Tôi thấy quan niệm này biểu hiện như vậy đó.
Tôi mong ước được nhìn thấy có nhiều thêm nữa những con người đạo đức trong thế gian này, những người sẵn sàng hy sinh hàng trăm lần mạng sống, nếu như có thể đem lại lợi ích cho một con vật bé nhỏ, giống như những nhà tiên tri vĩ đại hay những nhà hiền triết thời cổ đại! Hãy nói đến đạo đức và làm việc tốt cho người khác! Câu chuyện ngớ ngẩn thời hiện đại! Tôi mong ước được nhìn thấy những con người đạo đức như đức Phật, Ngài không tin vào một Thượng Đế Nhân Thể hay một linh hồn nhân thể, không bao giờ tra vấn về chúng, mà làm một nhà bất khả tri hoàn hảo; tuy nhiên Ngài lại sẵn sàng hy sinh vì bất cứ người nào, và hoạt động suốt đời vì lạc phúc cho tất cả chúng sinh, và chỉ tư duy về những điều tốt đẹp cho tất cả chúng sinh. Các nhà nghiên cứu tiểu sử của Ngài đã ghi chép rất rõ ràng rằng Ngài đản sinh là để đem lại lạc phúc cho vô số chúng sinh. Ngài không đi vào rừng ngồi thiền để mong cầu giải thoát, Ngài cảm thấy rằng cả thế gian này đang bừng cháy, và Ngài phải tìm cho được một lối thoát ra ngoài. “Do đâu mà thế gian này có quá nhiều đau khổ?”, câu hỏi đó đã chi phối trọn cuộc đời của đức Phật. Các bạn có cho rằng mình đạo đức như đức Phật không?
Con người hễ càng ích kỷ thì càng phi đạo đức. Một dân tộc cũng thế. Một dân tộc chỉ khư khư biết lấy mình thì đó là dân tộc tàn nhẫn nhất và độc ác nhất trên thế giới. Không một tôn giáo nào cố chấp vào thuyết nhị nguyên như Hồi giáo, và cũng không có một tôn giáo nào làm đổ nhiều máu và tàn nhẫn với con người như nó. Trong kinh Koran có đoạn dạy rằng kẻ nào không tin vào những lời giảng trong kinh đều phải bị giết; giết người lại được ban phép lành! Và cách an toàn nhất để lên đến thiên đàng – nơi có toàn tiên nữ và mọi thú vui nhục dục – là giết những người ngoại đạo. Thử nghĩ đến cảnh đổ máu từ hậu quả của một đức tin như thế!
Trong tôn giáo của đấng Christ, vẫn có một ít điều thô thiển, có đôi chút khác biệt giữa tôn giáo thuần khiết của đấng Christ và triết học Vedānta. Các bạn tìm thấy trong đó ý tưởng về Nhất Thể Tính. Nhưng đấng Christ cũng truyền giảng những quan niệm nhị nguyên cho mọi người, trao cho họ một giáo lý cụ thể dễ hình dung, dễ nắm bắt để dẫn dắt họ đến lý tưởng tối cao. Chính Nhà Tiên Tri đã thuyết giảng : “Cha chúng ta ở trên thiên đàng” lại thuyết giảng : “Ta và Cha Ta là một”, và cũng chính Nhà Tiên Tri đó biết rằng con đường dẫn đến “Ta và Cha Ta là một” nằm trong lời giảng “Cha chúng ta ở trên thiên đàng”. Trong tôn giáo của đấng Christ chỉ có lạc phúc và yêu thương, nhưng ngay khi sự thô thiển len lỏi vào thì nó thoái hóa và suy đồi thành một tôn giáo không khá hơn tôn giáo của Nhà Tiên Tri xứ Á Rập bao nhiêu. Sự thô thiển đó nằm trong cuộc đấu tranh cho cái tự ngã nhỏ bé, đấu tranh cho sự chấp trước vào “Cái Tôi”, không chỉ trong đời này, mà cả trong khát vọng được tiếp tục tồn tại trong kiếp sau. Họ tuyên bố điều đó là lòng vị tha, là nền tảng của đạo đức! Xin Thượng Đế hãy cứu giúp chúng ta nếu điều đó nền tảng của đạo đức! Và thật là lạ lùng khi nam nữ – những người lẽ ra phải nên tư duy chín chắn hơn rằng mọi nền đạo lý đều sẽ bị sụp đổ nếu như những cái tôi nhỏ bé này tiếp tục tồn tại – lại kinh hãi trước ý tưởng cho rằng nền đạo lý chỉ có thể đứng vững dựa trên sự hủy diệt họ.
Khẩu hiệu mang lại mọi sự bình yên an lạc và mọi điều thiện hảo là “bạn” chứ phải “tôi”. Ai quan tâm làm chi chuyện có thiên đàng, địa ngục hay không? Ai quan tâm làm chi chuyện có linh hồn hay không? Ai quan tâm làm chi chuyện có một Thực Thể Bất Biến hay không? Cõi thế là đây, đầy cảnh khốn cùng khổ não. Hãy nhập thế như đức Phật, và cố gắng làm dịu sự khổ đau hoặc chết đi trong sự nỗ lực đó. Hãy quên mình đi; đó là bài học đầu tiên cần phải học, không kể bạn là người có tín ngưỡng hay là kẻ vô thần, không kể bạn là người theo thuyết bất khả tri hay là người theo triết học Vedānta, không kể bạn là tín đồ Cơ Đốc giáo hay Hồi giáo. Bài học duy nhất được giảng dạy cho tất cả mọi người là phá bỏ tự ngã nhỏ bé này, và bồi đắp nên Thực Ngã.
Có hai thế lực luôn hoạt động song song bên cạnh nhau. Một cái bảo : “tôi”, cái kia bảo : “không phải tôi”. Hai thế lực này hiển lộ không chỉ nơi con người, mà cả nơi loài vật; không chỉ nơi loài vật, mà cả nơi loài sâu bọ nhỏ bé nhất. Con cọp cái đang cắm những chiếc nanh vào dòng máu nóng hổi của con người, con cọp đó sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bầy con. Con người nghèo khổ nhất, kẻ không nghĩ đến điều gì khác ngoài việc lấy đi mạng sống của những người anh em, có thể sẽ không ngần ngại hy sinh để cứu vợ con đang chết đói. Xuyên suốt qua toàn thể tạo vật, hai thế lực đó vẫn luôn hoạt động bên cạnh nhau; khi các bạn tìm thấy cái này thì cũng tìm thấy cái kia. Cái này là tính ích kỷ, cái kia là lòng vị tha. Một cái là chiếm hữu, một cái là buông xả. Cái này lấy, cái kia cho. Từ những loài thấp nhất cho đến những loài cao nhất, toàn thể vũ trụ là sân chơi cho hai thế lực này. Điều đó không yêu cầu phải chứng minh gì cả, mà nó hiển lộ ra cho tất cả mọi người.
Bất kỳ bộ phận nào của cộng đồng nhân loại lấy quyền gì để nói rằng sự vận hành và tiến hóa của vũ trụ chỉ được dựa trên hai sự kiện này – cạnh tranh và đấu tranh? Họ lấy quyền gì để nói rằng toàn bộ sự vận hành của vũ trụ chỉ được dựa trên dục vọng và chiến đấu, dựa trên cạnh tranh và đấu tranh? Sự tồn tại của những thứ đó là điều ta không thể phủ nhận, nhưng ai có quyền phủ nhận sự vận hành của những thế lực khác? Ai có thể phủ nhận rằng tình yêu – tức cái “không tôi” này, cái “vô ngã” này, sự từ bỏ này – là sức mạnh tích cực duy nhất trong vũ trụ? Những thứ khác chỉ là sự vận dụng sai lệch sức mạnh tình yêu này; sức mạnh tình yêu này mang đến sự cạnh tranh; sự cạnh tranh được thực sự sinh ra trong tình yêu. Còn điều ác được thực sự sinh ra từ lòng vị tha. Kẻ tạo ra điều ác là điều tốt, và chung cục của nó cũng tốt. Đó chỉ là sức mạnh của điều thiện bị hướng dẫn sai đường. Kẻ sát nhân có thể bị kích động phải giết người bởi tình yêu đối với đứa con mình. Tình yêu của hắn đã bị giới hạn vào một đứa bé, và loại bỏ hàng triệu sinh linh khác trong vũ trụ. Tuy nhiên, dù bị giới hạn hay vô hạn thì đó cũng là một tình yêu như nhau. Như thế, sức mạnh khởi phát của toàn thể vũ trụ, trong mọi thể cách mà nó hiển lộ tự thân, là điều rất diệu kỳ, là lòng vị tha, sự buông xả, là tình yêu, là thế lực sinh động, chân thực, duy nhất trong vũ trụ. Do đó, triết gia Vedānta khẳng định vạn hữu là nhất thể. Chúng ta cũng khẳng định cách lý giải này, vì chúng ta không thể chấp nhận có hai nhân [cause] trong vũ trụ. Nếu chúng ta cho rằng cùng một tình yêu tuyệt diệu và đẹp đẽ đó, nhưng khi bị giới hạn thì có vẻ xấu xa độc ác thì ta sẽ thấy toàn thể vũ trụ được lý giải bằng thế lực của một tình yêu duy nhất. Nếu không thì phải mặc nhiên chấp nhận vũ trụ có hai nhân: một thiện, một ác; một yêu thương, một hận thù. Cách lý giải nào hợp lý hơn? Dĩ nhiên là thuyết một thế lực.
Bây giờ ta hãy chuyển sang những vấn đề có thể không liên quan gì đến thuyết nhị nguyên. Tôi không thể nán lại lâu hơn với những triết gia nhị nguyên. Tôi sợ. Quan điểm của tôi là chứng minh rằng lý tưởng cao nhất của đạo đức và lòng vị tha luôn song hành với quan niệm siêu hình học tối cao, rằng các bạn không cần phải hạ thấp quan niệm của mình xuống để có được nền đạo lý, mà trái lại, để đạt đến nền tảng thực sự của một nền đạo lý thì các bạn phải có những quan niệm khoa học và siêu hình học cao siêu nhất. Tri thức loài người không gây trở ngại cho sự an lạc của loài người. Trái lại, chỉ có tri thức mới cứu giúp chúng ta trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Tri thức là tín ngưỡng. Chúng ta biết càng nhiều càng tốt.
Triết học Vedānta cho rằng căn nguyên của mọi điều tưởng là xấu xa độc ác đều là do sự hạn chế của cái vô giới hạn. Tình yêu – bị giới hạn trong những suy nghĩ hạn hẹp và tưởng chừng như xấu xa –rốt cuộc cũng thoát ra khỏi ở cực bên kia, và tự thân hiển lộ như là Thượng Đế. Triết học Vedānta cũng cho rằng căn nguyên của mọi điều tưởng là xấu xa độc ác đều ở trong tâm ta. Đừng đổ lỗi cho bất kỳ một đối tượng siêu nhiên nào, cũng đừng có tuyệt vọng hay ngã lòng, cũng đừng nghĩ rằng ta đang ở tại một nơi không sao thoát ra được, trừ phi có ai đó đến và đưa tay cứu giúp. Triết học Vedānta bảo rằng không thể có điều đó. Chúng ta như con tằm; ta rút ruột ra để làm tổ kén, rồi dần dần theo thời gian, ta bị cầm tù trong đó. Song điều đó không phải là vĩnh viễn.Trong tổ kén đó, chúng ta sẽ phát triển sự thực chứng tâm linh, rồi thoát ra ngoài như con bướm tự do. Ta dệt nên mạng lưới Nghiệp (Karma) bao quanh mình, và do vô minh ta ngỡ rằng mình đang bị trói buộc, nên khóc than và kêu gào giúp đỡ. Nhưng sự giúp đỡ đó không đến từ bên ngoài, mà từ chính bên trong của chúng ta.
Hãy kêu gọi tất cả chư thần trong vũ trụ. Tôi đã kêu gọi bao năm, cuối cùng tôi thấy mình được giúp đỡ. Nhưng sự giúp đỡ đó đến từ chính bên trong tôi. Và tôi đã phải xóa bỏ hết những gì đã làm do nhầm lẫn. Đó là con đường duy nhất. Tôi phải cắt bỏ hết tấm lưới mà tôi đã giăng quanh mình, và sức mạnh để mà được điều đó xuất phát từ nội tâm. Từ đó, tôi tin chắc rằng không một cảm hứng nào – dù được hướng dẫn tốt hay tồi trong đời tôi – lại hoàn toàn vô ích, mà tôi là kết quả của quá khứ mình, cả thiện lẫn ác. Tôi đã phạm nhiều sai lầm trong đời nhưng tôi xin các bạn lưu ý là nếu không có những sai lầm đó thì tôi không thể được như ngày hôm nay, cho nên tôi hoàn toàn hài lòng là đã phạm phải những sai lầm đó. Tôi không có ý muốn nói rằng các bạn hãy quay về nhà và tha hồ phạm sai lầm; xin đừng ngộ nhận tôi theo cách đó. Nhưng đừng có ủ rũ sầu bi vì những sai lầm đã phạm phải, mà hãy biết rằng rốt cuộc rồi mọi chuyện cũng đâu vào đấy. Không thể khác đi được, bởi vì bản tính chúng ta vốn thiện hảo và thuần tịnh, và bản tính đó không bao giờ bị hủy diệt. Bản tính tinh yếu của chúng ta luôn tự như.
Cái mà ta cần phải hiểu là điều này : những thứ mà ta gọi là lầm lẫn hay xấu xa, sở dĩ ta phạm phải là do ta yếu đuối, mà ta yếu đuối bởi vì ta ngu muội. Tôi thích gọi chúng là những điều lầm lẫn hơn. Danh từ tội lỗi – mặc dù khởi thủy là một từ rất tốt đẹp – lại mang một sắc thái khiến ta phải kinh hãi. Ai làm cho chúng ta ngu muội? Chính chúng ta. Chúng tay lấy tay che mắt rồi than khóc sao mà tối quá. Hãy lấy bàn tay ra thì tự nhiên ánh sáng sẽ xuất hiện; ánh sáng vẫn muôn đời ở đó vì chúng ta, nó là bản tính tự ngời sáng của linh hồn con người. Các bạn há không nghe các nhà khoa học hiện đại của các bạn nói gì sao? Nguyên nhân tiến hóa là gì? Khát vọng. Con vật muốn làm một điều gì đó, nhưng thấy môi trường không thuận lợi, do đó, nó phát triển thành một thể xác mới. Ai đã phát triển nó? Chính bản thân nó, ý chí của nó. Các bạn đã tiến hóa từ loài động vật nguyên sinh thấp kém nhất. Hãy tiếp tục triển khai ý chí đó, rồi nó sẽ đưa các bạn đến một cảnh giới cao hơn nữa. Ý chí là toàn năng. Nếu nó là toàn năng, các bạn có thể nói thế, vậy thì tại sao tôi không thể làm được tất cả mọi điều tôi thích? Là vì các bạn chỉ nghĩ đến cái tự ngã nhỏ bé của mình. Hãy nhìn ngược lại quá trình tiến hóa của các bạn từ loài động vật nguyên sinh đến con người hiện nay, ai đã tạo nên tất cả những điều đó. Chính ý chí của các bạn. Các bạn có thể phủ nhận để cho là nó không toàn năng chăng? Cái gì đã làm cho các bạn tiến hóa cao hơn thì cái đó sẽ còn làm cho các bạn tiến hóa cao hơn nữa. Cái các bạn thiếu là cá tính, là sự củng cố mạnh mẽ cho ý chí.
Bởi vậy, nếu tôi dạy cho các bạn rằng bản tính các bạn vốn ác, rằng các bạn nên về nhà mặc áo tang, bôi tro lên người và khóc than cho đến khi chết vì các bạn đã phạm những sai lầm nào đó thì điều đó chẳng giúp ích gì có các bạn cả, mà còn làm cho tất cả các bạn càng yếu đuối hơn nữa, như vậy là tôi lại sẽ tiếp tục chỉ ra cho các bạn một con đường dẫn đến nhiều điều xấu ác hơn là điều tốt đẹp. Nếu căn phòng này đã chìm trong bóng tối hàng ngàn năm qua, các bạn đi vào và than khóc : “Ôi, sao mà tối mịt mùng thế này!” thì liệu bóng tối có biến mất hay không? Hãy dùng một que diêm đánh lửa lên, và ánh sáng sẽ đến ngay lập tức. Có ích gì nếu suốt đời các bạn cứ nghĩ : “Ôi, mình đã làm điều xấu, mình đã phạm sai lầm”. Chúng ta không cần đến bóng ma để nói cho ta biết điều đó. Hãy mang ánh sáng vào, và điều xấu ác sẽ lập tức tan biến. Hãy bồi đắp cho cá tính của các bạn, hãy hiển lộ bản tính thực của mình – tức cái Bản Tính Quang Minh Rạng Rỡ, cái Bản Nhiên Thuần Tịnh –, và hãy đánh thức nó dậy nơi tâm hồn của bất cứ người nào bạn gặp.
Tôi mong sao mỗi người trong chúng ta đều đạt đến cảnh giới dù sống giữa những người tồi tệ xấu xa nhất, ta vẫn có thể thấy được Thực Ngã bên trong họ, và thay vì nguyền rủa họ, ta hãy nói : “Hãy đứng lên! Bạn, đấng Quang Minh Rạng Rỡ! Hãy đứng lên! Bạn, đấng Vĩnh Viễn Thuần Tịnh! Hãy đứng lên! Bạn, đấng Vượt Thoát Tử Sinh! Hãy đứng lên! Bạn, đấng Toàn Năng! Và hãy hiển lộ chân tính của mình. Những biểu hiện nhỏ nhoi thấp kém này không thích hợp với bạn đâu”. Đó là lời cầu nguyện tối cao mà triết học Advaita đã dạy. Đó là lời cầu nguyện duy nhất để nhớ đến chân tính của chúng ta – vị Thượng Đế luôn ở trong tâm ta –, hãy luôn nghĩ đến nó như là cái vô biên, toàn năng, vốn luôn luôn toàn thiện, luôn luôn từ tâm, vô ngã, xóa bỏ mọi giới hạn. Vì bản tính vốn vô ngã, nên nó kiên cường và không sợ hãi; bởi vì sự sợ hãi chỉ xuất phát từ lòng ích kỷ. Người không còn tham vọng nào cho riêng mình thì còn sợ ai, và cái gì có thể khiến anh ta kinh hãi? Cái chết có gì khiến anh ta phải sợ? Điều xấu ác có gì khiến anh ta phải sợ? Do đó, nếu là những triết gia Advaita thì chúng ta phải tư duy rằng kể từ lúc này, các tự ngã cũ kỹ của chúng ta đã chết và biến mất cả rồi. Ông X., bà Y., cô Z. đều đã biến mất hết rồi, chúng chỉ thuần là những điều mê tín, cái còn lại sự bản nhiên thuần tịnh, bản nhiên kiên cường, là cái toàn năng, toàn tri – chỉ cái đó mới còn lại trong ta. Tất cả những nỗi sợ hãi đều biến sạch khỏi tâm trí ta, và công việc duy nhất của chúng ta là khai phá được tri thức đó nơi những người đồng loại của mình. Chúng ta thấy rằng họ cũng là chính là cái Chân Ngã Thuần Tịnh đó, chỉ có điều là họ không hay biết; chúng ta phải dạy cho họ biết, chúng ta phải giúp họ khải phát được bản tính vô biên đó. Đây là điều mà tôi thấy tuyệt đối khẩn thiết trên khắp thế giới.
Đó là giáo lý cổ xưa, có lẽ còn cổ xưa hơn nhiều ngọn núi
nữa. Tất cả chân lý đều vĩnh cửu. Chân lý không phải là tài sản của bất kỳ một
ai; không một giống nòi nào, không một cá nhân nào có thể độc quyền tuyên bố
nó. Chân lý là bản tính của mọi linh hồn. Ai có thể tuyên bố là có quyền đặc
biệt đối với chân lý? Ngược lại, chân lý đã được tạo ra theo tính thực tiễn,
đơn giản (bởi vì những chân lý tối cao luôn đơn giản), cho nên nó có thể thẩm
thấu vào mọi ngóc ngách của xã hội loài người, và trở thành tài sản của những
người tài năng ưu tú nhất và những tâm trí bình thường nhất, đồng thời của tất
cả nam phụ lão ấu. Tất cả những diễn dịch lôgic này, tất cả các đống siêu hình
học này, tất cả những thần học và nghi thức này có thể tốt đẹp trong thời đại
của chúng, nhưng chúng ta hãy cố gắng biến những thứ đó trở nên đơn giản hơn và
tạo ra thời đại hoàng kim, trong đó mỗi người là một người sùng bái, và Thực
Tại Tính nơi mỗi người là đối tượng để sùng bái.
(Diễn thuyết tại Nhà thờ Universalist,
Pasadena
California, 28 tháng 1 năm 1900)
Không sự tìm tòi nào lại thân thiết với tâm trí con người cho bằng sự tìm tòi ánh sáng từ Thượng Đế. Không một việc nghiên cứu nào, cho dù là ở quá khứ hay hiện tại, lại làm cho con người hao tâm tổn trí cho bằng việc nghiên cứu linh hồn, Thượng Đế và số phận con người. Dù chúng ta có đắm chìm mải mê đến đâu đi nữa trong công việc hàng ngày, trong tham vọng, trong những cuộc đấu tranh vĩ đại nhất thì thỉnh thoảng vẫn có lúc chúng ta tạm dừng, tâm trí ngưng lại để tìm hiểu về thế giới bên kia. Đôi khi tâm trí thoáng thấy được cảnh giới bên kia giác quan, và kết quả là nó cố gắng vươn đến cảnh giới đó. Điều đó đã diễn ra xuyên suốt qua bao thời đại, tại mọi quốc gia. Con người muốn nhìn qua thế giới bên kia, muốn khoáng trương bản thân; và tất cả những gì mà ta gọi là tiến bộ, tiến hóa đều được đo lường bằng công cuộc tìm tòi này : tìm kiếm số phận con người, và tìm kiếm Thượng Đế.
Những cuộc đấu tranh trong xã hội chúng ta giữa các quốc gia khác nhau được biểu hiện qua những tổ chức khác nhau như thế nào, thì cuộc đấu tranh tâm linh của con người cũng được biểu hiện qua nhiều tôn giáo khác nhau như thế ấy. Và các tổ chức xã hội đó tranh cãi với nhau như thế nào, thì các tổ chức tôn giáo cũng thường xuyên gây chiến, thường xuyên tranh cãi với nhau như thế ấy. Người của một tổ chức xã hội cụ thể nào đó tuyên bố rằng quyền sống chỉ thuộc về họ, và trong chừng mực có thể, họ áp dụng quyền đó để đàn áp những người yếu đuối với bất cứ giá nào. Chúng ta biết rằng, hiện nay, cuộc đấu tranh khốc liệt kiểu đó đang diễn ra tại Nam Phi[47]. Tương tự như vậy, giáo phái nào cũng đều tuyên bố quyền sống độc tôn. Bởi vậy, ta thấy rằng không có gì đem lại lạc phúc cho con người nhiều như tôn giáo, mà cũng không có gì mang đến kinh hoàng cho con người nhiều như tôn giáo. Không có gì đã tạo ra hòa bình và thương yêu nhiều hơn tôn giáo, mà cũng không có gì làm nảy sinh lòng căm hờn khốc liệt hơn tôn giáo. Không có gì biến tình huynh đệ trở nên cụ thể hơn tôn giáo, mà cũng không có gì nuôi dưỡng lòng hận thù giữa người với người nhiều hơn tôn giáo. Không có gì xây dựng nên nhiều cơ sở từ thiện, nhiều bệnh viện cho con người, thậm chí cho cả loài vật, nhiều hơn tôn giáo, mà cũng không có gì nhận chìm thế giới này vào máu nhiều hơn tôn giáo.
Đồng thời, chúng ta cũng biết rằng từ trước đến nay vẫn luôn có dòng tư tưởng đối kháng ngầm, vẫn luôn có những nhóm người, những triết gia, những học giả nghiên cứu về tôn giáo đối chứng, những người này đã và đang cố gắng mang lại sự hòa hợp cho tất cả những giáo phái mâu thuẫn và xung khắc nhau. Tại một số quốc gia nào đó, những nỗ lực này đã thành công, nhưng xét trong phạm vi toàn thế giới thì chúng đã thất bại. Có những tôn giáo được truyền lại chúng ta từ thời thượng cổ, quan niệm rằng tất cả những giáo phái đều được quyền tồn tại, mỗi giáo phái đều có một ý nghĩa, một tư tưởng vĩ đại bên trong nó; và do đó, giáo phái nào cũng đều cần thiết cho sự tốt đẹp của thế giới và cần được hỗ trợ. Trong thời hiện đại, ý tưởng tương tự cũng rất phổ biến, và người ta nỗ lực biến nó thành thực tiễn. Những nỗ lực này không phải lúc nào cũng thỏa mãn được sự kỳ vọng của chúng ta, hoặc mang lại hiệu quả như mong đợi. Nói cho đúng thì điều khiến chúng ta cực kỳ thất vọng là đôi khi chúng ta thấy mình tranh cãi với nhau càng lúc càng nhiều.
Bây giờ, gác chuyện nghiên cứu mang tính giáo điều qua một bên, và nhìn sự vật theo cách thông thường, ta thấy rằng lúc khởi thủy thì mọi tôn giáo lớn trên thế giới đều có một sức sống mãnh liệt phi thường. Một số người nói rằng họ không hay biết gì về điều này, nhưng sự ngu dốt đó không phải là lời bào chữa. Nếu một người nói : “Tôi không biết về những gì đang diễn ra trong thế giới bên ngoài, do đó, tất cả những gì đang diễn ra trong thế giới bên ngoài đều không tồn tại” thì không có cách gì biện minh cho anh ta được. Giờ đây, những ai trong số các bạn quan sát trào lưu tư tưởng tôn giáo trên toàn thế giới sẽ hoàn toàn hiểu rằng không một tôn giáo lớn nào trên thế giới lại lụi tàn, không những thế mà mỗi tôn giáo đều đang phát triển. Tín đồ Cơ Đốc giáo đang gia tăng, tín đồ Hồi giáo cũng đang gia tăng, tín đồ Ấn giáo phát triển đông đảo, tín đồ Do Thái giáo cũng không ngừng lớn mạnh, và khi họ đi khắp thế giới và gia tăng nhanh chóng thì số lượng tín đồ Do Thái giáo cũng thường xuyên lớn mạnh theo.
Trên thế giới, chỉ có một tôn giáo vĩ đại và cổ xưa bị lụi tàn, đó là Bái Hỏa giáo [Zoroastrianism] – tôn giáo của những người Ba Tư cổ đại. Sau khi người Hồi giáo chinh phục Ba Tư, khoảng một trăm ngàn lưu dân Ba Tư đã đến định cư tại Ấn Độ, còn một số họ còn ở lại xứ Ba Tư cổ đại. Những người còn ở lại xứ Ba Tư chịu sự bức hại thường xuyên của quân xâm lược Hồi giáo nên suy thoái dần, cho đến khi chỉ còn lại khoảng mười ngàn người; ở Ấn Độ thì số lưu dân lên đến tám mươi ngàn, nhưng họ cũng không phát triển thêm được nữa. Dĩ nhiên là có những khó khăn ban đầu; họ không cải đạo được những người khác theo tôn giáo họ. Và rồi, nhúm người sống tại Ấn Độ đó, do anh em họ hàng lấy nhau theo tập quán độc hại, nên không sao phát triển thêm được. Đây là ngoại lệ duy nhất, còn ngoài ra thì tất cả những tôn giáo lớn đều lớn mạnh, truyền bá khắp nơi và phát triển.
Chúng ta phải nhớ rằng tất cả những tôn giáo lớn trên thế giới đều rất cổ xưa, không một tôn giáo nào trong số đó được hình thành trong thời hiện đại; và mọi tôn giáo trên thế giới đều phát tích tại vùng đất nằm giữa sông Ganges và Euphrates. Không có một tôn giáo lớn nào xuất phát tại châu Âu hay châu Mỹ, hoàn toàn không có. Tất cả các tôn giáo đều có nguồn gốc từ châu Á, và thuộc về phần đất đó của thế giới. Nếu lời của các khoa học gia hiện đại là đúng, nghĩa là chỉ có những gì thích nghi tốt nhất mới tồn tại được[48] thì những tôn giáo này, do vẫn còn tiếp tục tồn tại, đã chứng tỏ được rằng chúng thích hợp với một số người. Chúng vẫn có lý do để tồn tại, vì chúng mang lại lợi ích cho nhiều người. Hãy nhìn các tín đồ Hồi giáo, họ phát triển tại một số nơi tại vùng Nam Á, rồi tỏa ra như một ngọn lửa hoang dại tràn lan khắp châu Phi như thế nào. Tín đồ Phật giáo vẫn đang tiếp tục phát triển khắp cả vùng Trung Á, từ trước đến giờ. Tín đồ Ấn giáo, giống như người Do Thái, không bắt người khác cải đạo theo mình, nhưng dần dần theo kiểu mưa dầm thấm lâu, những người thuộc dân tộc khác gia nhập Ấn giáo, và bắt chước theo phong tục tập quán của người Ấn, rồi theo đạo lúc nào chẳng hay. Cơ Đốc giáo, như các bạn đã biết, đang phát triển khắp nơi – nhưng tôi không dám chắc là những kết quả đó có giống như một nguồn năng lượng tuôn trào hay không. Nỗ lực truyền đạo của tín đồ Cơ Đốc giáo có một nhược điểm trầm trọng – và đó là nhược điểm chung của mọi thế chế phương Tây : cỗ máy truyền đạo này tiêu thụ hết chín mươi phần trăm năng lượng, có quá nhiều hành vi máy móc. Truyền đạo luôn là công việc của những người châu Á. Người phương Tây rất hoành tráng trong tổ chức, trong thể chế xã hội, quân đội, chính quyền v.v… nhưng sang lĩnh vực truyền đạo thì họ không thể nào tiếp cận được người châu Á, vì người châu Á xem truyền đạo là công việc thường xuyên – họ biết điều đó và không sử dụng quá nhiều các hành vi máy móc.
Đây là một sự kiện trong lịch sử loài người hiện nay : tất cả những tôn giáo vĩ đại nhất đều tồn tại và đang phát triển lớn mạnh. Và có một điều đầy ý nghĩa cho sự kiện này : nếu ý muốn của đấng Tạo Hóa toàn trí và vô cùng nhân ái là một trong những tôn giáo này cần phải chết đi, còn những tôn giáo khác cần phải tồn tại, thì điều đó hẳn đã phải xảy ra từ lâu lắm, rất lâu lắm rồi. Nếu như thực tế chỉ có một tôn giáo là chân, còn những tôn giáo còn lại là giả, thì đến thời điểm này tôn giáo đó hẳn đã bao trùm cả thế giới rồi. Nhưng sự thật không phải vậy, không một tôn giáo nào giành được hết tất cả đất đứng. Tôn giáo nào cũng có lúc hưng thịnh, có lúc suy vi. Bây giờ, thử nghĩ đến điều này : đất nước các bạn có hơn sáu chục triệu dân, mà chỉ có hai mươi mốt triệu người là thực sự theo đủ các loại tôn giáo. Như vậy, đâu phải lúc nào cũng là sự tiến bộ. Có thể là tại mỗi quốc gia, nếu như thống kê thì các bạn sẽ thấy rằng các tôn giáo lúc thì tiến bộ, lúc thì tụt hậu. Các giáo phái luôn luôn gia tăng không ngừng. Nếu một tôn giáo tuyên bố rằng nó nắm được tất cả chân lý, và Thượng Đế đã ban chân lý đó cho nó trong một cuốn kinh sách nào đó thì tại sao lại có nhiều giáo phái đến vậy? Trong vòng không quá năm mươi năm mà đã có đến hai mươi giáo phái được xây dựng trên một cùng một cuốn kinh. Nếu Thượng Đế đã đặt trọn vẹn chân lý trong những cuốn kinh nào đó thì Ngài hẳn đã không ban cho chúng ta những cuốn kinh khác để chúng ta phải tranh cãi ồn ào về kinh điển. Điều đó tựa hồ như là sự thật. Vì sao vậy? Thậm chí nếu một cuốn kinh nào đó – được Thượng Đế ban cho – chứa đựng trọn vẹn chân lý về tôn giáo thì nó vẫn không phục vụ được mục tiêu này, vì sẽ không một ai hiểu được nó cả. Hãy lấy Kinh Thánh cùng tất cả những giáo phái của Cơ Đốc giáo làm ví dụ; cũng một kinh văn nhưng mỗi giáo phái đều có cách giải thích riêng, và giáo phái nào cũng nói rằng chỉ có mình mới hiểu đúng kinh văn, còn những giáo phái khác đều hiểu bậy. Có nhiều giáo phái trong tín đồ Hồi giáo và tín đồ Phật giáo, còn trong tín đồ Ấn giáo thì có đến hàng trăm.
Bây giờ, tôi đặt những sự kiện thực tế trước mặt các bạn để chứng minh cho các bạn thấy rằng bất kỳ nỗ lực nào muốn đưa toàn thể nhân loại đến một phương pháp tư duy chung về tâm linh đều đã thất bại, và sẽ tiếp tục thất bại. Bất cứ người nào khởi xướng một học thuyết, thậm chí ngay cả hiện nay, sẽ thấy rằng : khi ông ta đi cách xa môn đồ hai mươi dặm thì những môn đồ đó sẽ lập nên hai mươi tông phái. Các bạn thấy điều đó vẫn cứ luôn diễn ra. Các bạn không thể dung hợp tất cả thành một ý tưởng chung; đó là sự thật, và tôi cảm tạ Thượng Đế vì nó là vậy. Tôi không hề chống đối bất kỳ giáo phái nào. Tôi vui mừng vì tất cả các giáo phái đều cùng tồn tại, và tôi ước mong sao cho các giáo phái ngày càng tiếp tục phát triển nhiều thêm nữa. Vì sao vậy? Chỉ đơn giản là như vầy : Nếu bạn và tôi, cùng tất cả những thính giả đang có mặt tại đây đều có cùng một tư tưởng, vậy thì sẽ không có tư tưởng nào để chúng ta tư duy đến nữa. Chúng ta biết rằng hai hoặc nhiều lực phải va chạm vào nhau mới sinh ra chuyển động. Chính sự va đập của tư tưởng, sự khác biệt của tư tưởng, mới làm cho tư tưởng thức tỉnh. Bây giờ, nếu tất cả chúng ta đều suy nghĩ giống nhau thì chúng ta chẳng khác gì những xác ướp Ai Cập trong viện bảo tàng đang nhìn nhau bằng ánh mắt vô hồn, không hơn không kém! Những con nước xoáy và nước cuốn chỉ xảy ra trong dòng nước lưu chuyển sinh động. Không bao giờ có xoáy nước trong dòng nước tù đọng, lặng lờ.
Khi những tôn giáo chết đi thì sẽ không còn các giáo phái nữa, đó sẽ là sự yên tĩnh và điều hòa của một nấm mồ. Hễ chừng nào con người còn tư duy thì sẽ còn những giáo phái. Biến động là dấu hiệu của sự sống, và nó phải như vậy. Tôi cầu nguyện rằng các giáo phái sẽ gia tăng nhiều đến mức cuối cùng số các giáo phái sẽ nhiều bằng dân số, và mỗi người sẽ có một pháp môn riêng của mình, một phương pháp tư duy riêng về tôn giáo.
Tuy nhiên, tình huống này đã tồn tại sẵn rồi. Mỗi người chúng ta đều tư duy theo cách riêng của mình. Nhưng cách tư duy tự nhiên lúc nào cũng bị cản trở, và vẫn đang tiếp tục bị cản trở. Nếu người ta không trực tiếp dùng đến lưỡi gươm thì lại phải sử dụng đến những phương tiện khác. Chúng ta thử nghe một trong những nhà truyền giáo lỗi lạc nhất ở New York nói : ông ta giảng rằng cần phải chinh phục người Philippines, vì đó là cách duy nhất để dạy đạo Cơ Đốc cho họ! Họ đã là những tín đồ Thiên Chúa giáo, nhưng ông ta lại muốn biến họ thành những tín đồ theo giáo phái Trưởng Lão [Presbyterianism]; và để thực hiện cho được điều này, ông sẵn sàng phạm mọi tội ác đẫm máu khủng khiếp đối với nòi giống của mình. Thật là kinh khủng! Vậy mà đây là một trong những nhà truyền giáo lỗi lạc nhất của đất nước này, một trong người am hiểu nhất. Hãy thử nghĩ đến tình trạng của thế giới khi một người như thế lại trơ tráo đứng lên để tuyên bố những điều cùng cực nhảm nhí như thế; và hãy thử nghĩ đến tình trạng của thế giới khi những thính giả lại hoan hô cổ vũ cho ông ta! Văn minh là vậy đấy ư? Đó chỉ là thói khát máu cổ xưa của loài cọp dữ, của kẻ ăn thịt người, của lũ người man rợ được tái hiện dưới một danh từ mới, một hoàn cảnh mới. Nếu không phải thế thì đó có thể là cái gì cơ chứ? Nếu tình trạng của sự vật là vậy thì hãy thử nghĩ đến những cảnh tượng kinh hoàng mà thế giới đã phải trải qua trong những thời đại xa xưa. Lịch sử chứng minh con cọp trong ta chỉ đang ngủ, chứ nó không chết. Khi thời cơ đến thì, như thường lệ, nó lại nhảy chồm lên, và nhe nanh giương vuốt. Tách xa khỏi lưỡi gươm, tách xa khỏi những loại vũ khí bằng vật chất, còn có những loại vũ khí đáng sợ hơn nữa, đó là sự khinh bỉ, sự hận thù trong xã hội và sự tẩy chay của xã hội.
Sự thống khổ đang đổ ập lên đầu những người không suy nghĩ giống hệt như chúng ta là sự thống khổ khủng khiếp nhất trong tất cả những sự thống khổ. Và tại sao mọi người lại phải suy nghĩ giống hệt như chúng ta? Tôi chẳng thấy có lý do nào cả. Nếu tôi là người duy lý thì tôi hẳn phải vui mừng là họ không suy nghĩ giống hệt như tôi. Tôi không muốn sống trong một xứ sở tựa nấm mồ. Tôi muốn được là một con người trong thế giới loài người. Những người biết tư duy phải khác biệt nhau; sự khác biệt là dấu hiệu của tư tưởng. Nếu tôi là người ưa trầm tư suy tưởng thì chắc chắn tôi phải sống giữa những người ưa trầm tư suy tưởng có những ý kiến khác biệt nhau.
Bây giờ lại nảy sinh một câu hỏi : làm thế nào để tất cả những tư tưởng đa dạng đó có thể đúng cả? Một điều được xem là đúng thì phủ định của nó phải sai. Làm thế nào để những ý kiến mâu thuẫn có thể đồng thời đúng cả? Đây là vấn đề mà tôi định giải đáp. Nhưng trước hết, tôi xin hỏi các bạn : tất cả những tôn giáo trong đời này có thực sự mâu thuẫn nhau không? Tôi không muốn nói đến những hình thức bề ngoài che lấp mất những tư tưởng vĩ đại. Tôi không muốn nói đến sự khác biệt giữa những tự viện, đền thờ, ngôn ngữ, nghi thức, kinh điển v.v… được sử dụng trong nhiều tôn giáo khác nhau, mà tôi chỉ muốn nói đến phần linh hồn sâu thẳm bên trong mọi tôn giáo. Tôn giáo nào cũng có phần linh hồn đằng sau nó; linh hồn của tôn giáo này có thể khác với linh hồn của tôn giáo kia, nhưng chúng có mâu thuẫn với nhau không? Chúng mâu thuẫn nhau hay bổ sung cho nhau? Đó mới là vấn đề.
Tôi đã nêu ra câu hỏi này khi chỉ là một đứa bé, và đã nghiên cứu nó suốt đời. Vì nghĩ rằng kết luận của mình có thể giúp ích được cho các bạn, nên tôi đặt nó trước các bạn đây. Tôi tin rằng các tôn giáo không mâu thuẫn nhau, mà chúng bổ sung cho nhau. Mỗi tôn giáo, có thể nói như vậy, nêu lên một phần của chân lý phổ quát vĩ đại, và dồn toàn bộ sinh lực để thể hiện cho phần chân lý đó trở nên cụ thể. Do đó, chỉ có thêm vào, chứ không loại trừ. Đó là ý tưởng. Hết hệ thống này đến hệ thống khác cứ nối tiếp nhau trỗi dậy, mỗi hệ thống đều thể hiện một ý tưởng vĩ đại; những lý tưởng phải được thêm vào những lý tưởng. Và cả nhân loại đều tiến bước như thế đó.
Con người không bao giờ tiến triển từ sai lầm đến chân lý, mà từ chân lý đến chân lý; từ chân lý thấp hơn đến chân lý cao hơn, chứ không bao giờ giờ từ sai lầm đến chân lý. Đứa con có thể phát triển nhiều hơn người cha, vậy có phải là người cha ngu ngốc hơn? Đứa con chính là người cha cộng thêm một cái gì đó. Nếu tình trạng kiến thức của các bạn hiện nay nhiều hơn xa so với khi còn nhỏ thì các bạn sẽ khinh thường giai đoạn trước đó chăng? Các bạn sẽ nhìn ngược lại quá khứ, và gọi đó là sự ngu ngốc chăng? Tình trạng kiến thức của các bạn hiện nay chính là kiến thức hồi con bé được cộng thêm một cái gì đó.
Vậy thì, chúng ta biết rằng có những quan điểm hầu như mâu thuẫn, xung khắc nhau về cùng một sự vật, nhưng tất cả chúng đều chỉ ra chung một thứ. Giả sử có một người đi về hướng mặt trời, trong quá trình đi, anh ta cứ chụp ảnh mặt trời tại từng giai đoạn. Khi quay về, anh ta có nhiều tấm ảnh về mặt trời, mà anh ta bày ra trước chúng ta. Chúng ta thấy không có hai tấm nào giống nhau, thế nhưng ai có thể phủ nhận rằng tất cả đều là những tấm ảnh của cùng một mặt trời, được nhìn từ những điểm quan sát khác nhau? Hãy thử chụp bốn tấm ảnh cho ngôi nhà thờ này từ bốn góc khác nhau, ta sẽ thấy chúng khác nhau biết là chừng nào, thế nhưng tất cả bốn tấm ảnh đó đều mô tả ngôi nhà thờ này. Tương tự như vậy, chúng ta nhìn chân lý từ nhiều quan điểm khác nhau, tuỳ thuộc theo nơi sinh, giáo dục, môi trường, hoàn cảnh v.v…. Chúng ta quán sát chân lý, thu hoạch tối đa từ nó trong mức độ hoàn cảnh cho phép, đem tâm hồn điểm tô cho nó, dùng trí năng để hiểu nó và nắm bắt nó bằng tâm trí của mình. Chúng ta chỉ có thể biết được chân lý trong mức độ liên quan với ta, trong mức độ chúng ta có thể đón nhận được nó. Điều này đã tạo nên sự khác biệt giữa người này với người khác, thậm chí đôi lúc còn làm nảy sinh những quan niệm trái ngược nhau. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều thuộc về cùng một chân lý phổ quát, và vĩ đại.
Bởi vậy, theo quan niệm của tôi thì mọi tôn giáo đều là những lực lượng khác nhau trong nền kinh tế của Thượng Đế, hoạt động vì lợi ích của nhân loại; không một tôn giáo nào có thể chết đi, cũng không một tôn giáo nào có thể bị hủy hoại. Cũng như các bạn không thể nào hủy hoại bất kỳ một sức mạnh nào trong thế giới tự nhiên thì cũng vậy, các bạn không thể nào hủy hoại được bất kỳ một sức mạnh nào trong thế giới tâm linh. Các bạn đã thấy rằng mọi tôn giáo đều đang sinh tồn. Thỉnh thoảng, nó có thể hưng thịnh hoặc suy vi. Vào thời điểm này, nó có thể gần như bị lột sạch mọi lễ phục; nhưng vào thời điểm khác, nó lại có thể khoác đầy đủ mọi thứ lễ phục; nhưng lúc nào cũng vậy, linh hồn vẫn luôn ở đó, không bao giờ có thể bị mất đi. Lý tưởng mà mọi tôn giáo mô tả không bao giờ bị mất đi, và do đó, mọi tôn giáo đều đang tiến bước một cách thông minh.
Tôn giáo phổ quát mà các triết gia và bao người khác tại mọi quốc gia hằng mơ tưởng tới đã có sẵn rồi. Nó ở ngay đây. Tình huynh đệ đại đồng giữa con người đã tồn tại sẵn như thế nào thì tôn giáo phổ quát cũng tồn tại như thế ấy. Ai trong số các bạn, những người đi đây đó khắp nơi, lại không tìm thấy những người anh em, chị em tại mọi quốc gia? Tôi đã thấy họ ở khắp nơi trên thế giới. Tình huynh đệ đó đã có sẵn khắp nơi, chỉ vì nhiều người không nhận ra điều đó, nên họ mới làm đảo lộn mọi thứ bằng cách kêu gọi những tình huynh đệ mới. Tôn giáo phổ quát cũng đã tồn tại sẵn rồi. Nếu giới tăng lữ cùng những người khác – những người tự cho rằng mình có trách nhiệm phải truyền giảng những tôn giáo khác nhau – chỉ cần ngưng truyền giảng trong một vài phút thôi thì chúng ta sẽ thấy tôn giáo phổ quát đó ở ngay đây. Họ luôn khuấy rối nó vì quyền lợi của mình.
Các bạn thấy rằng ở bất kỳ quốc gia nào, giới tăng lữ cũng đều rất bảo thủ. Vì sao thế? Có rất ít tu sĩ lãnh đạo được quần chúng; còn phần đông họ đều bị quần chúng dẫn dắt, và trở thành nô lệ và tôi tớ cho quần chúng. Nếu các bạn nói cái này khô thì họ sẽ bảo rằng nó khô; nếu các bạn nói vật này đen thì họ sẽ bảo rằng nó đen. Nếu quần chúng tiến tới thì giới tăng lữ cũng phải tiến theo. Họ không thể lẽo đẽo ở đằng sau. Bởi vậy, trước khi đổ lỗi cho các tu sĩ – trách cứ, đổ lỗi cho các tu sĩ hiện đang là vấn đề thời thượng – thì các bạn nên tự trách mình. Các bạn đón nhận những gì đáng phải nhận. Một vị tu sĩ muốn tặng cho các bạn những tư tưởng tiến bộ mới mẻ và dẫn dắt các bạn tiến lên phía trước thì số phận người đó sẽ ra sao? Con cái ông ta có lẽ sẽ phải chết đói[49], còn bản thân ông ta hẳn phải rách rưới tả tơi. Ông ta cũng bị chi phối bởi cùng một luật lệ thế gian như các bạn. “Nếu các bạn tiếp tục đi”, ông ta bảo, “thì chúng ta hãy cũng nhau cất bước”.
Dĩ nhiên là có những tu sĩ ngoại lệ, không chịu khuất phục trước dư luận. Họ đã thấy được chân lý, và họ chỉ xem trọng chân lý đó. Chân lý đã bao trùm lấy họ, đã chiếm hữu trọn vẹn tâm hồn họ, có thể nói như vậy, nên họ chỉ không thể làm gì ngoài việc tiến lên phía trước. Họ không bao giờ ngoái nhìn lại đằng sau, và không có quần chúng nào đi theo họ. Thượng Đế chỉ tồn tại đối với những con người đó, Ngài là ánh sáng soi đường cho họ, và họ đi theo ánh sáng đó.
Tôi đã gặp một quý ông đa thê ở xứ sở này, ông ta cố thuyết phục tôi theo tín ngưỡng của ông. Tôi bảo :
– Tôi rất tôn trọng ý kiến của ông, nhưng có vài điểm chúng ta không hợp nhau. Tôi thuộc về tăng đoàn, còn ông thì tin vào chế độ đa thê. Vậy sao ông không đến Ấn Độ để truyền đạo nhỉ?
Ông ta sửng sốt, rồi nói :
– Sao! Ông không tin vào bất kỳ cuộc hôn nhân nào, còn chúng tôi thì tin vào chế độ đa thê, vậy là ông lại bảo tôi đến xứ sở của ông!”
Tôi đáp :
– Vâng, người dân xứ tôi sẵn lòng lắng nghe mọi tư tưởng tôn giáo, bất kể nó từ đâu đến. Tôi muốn ông đi Ấn Độ một chuyến, trước hết vì tôi có niềm tin mãnh liệt vào các giáo phái. Thứ hai, có nhiều người Ấn Độ không hề thỏa mãn với bất kỳ giáo phái nào đang có, do sự bất mãn này mà họ không hề quan tâm gì đến tôn giáo, biết đâu ông lại tranh thủ được đức tin của họ”.
Càng có nhiều giáo phái thì càng có nhiều cơ hội để quần chúng tập nhiễm tinh thần tôn giáo. Trong một khách sạn mà có đầy đủ các món ăn thì người khách nào cũng đều có cơ hội tìm được món ăn hợp khẩu vị. Do đó, tôi muốn các giáo phái cứ sinh sôi nẩy nở ở khắp mọi quốc gia, để con người có cơ hội tiếp cận thế giới tâm linh.
Đừng cho là con người không thích tôn giáo. Tôi không tin điều đó. Những nhà truyền giáo đã không thể đem lại cho quần chúng cái mà họ cần. Một người, dù có thể bị gán nhãn hiệu là kẻ vô thần, là kẻ theo thuyết duy vật, hay một thứ gì đại loại như thế, nhưng nếu gặp được người mang đến cho anh ta chân lý cần thiết thì anh ta vẫn có thể trở thành một người sống có đạo tâm nhất trong cộng đồng. Chúng ta chỉ có thể ăn theo cách của riêng mình. Chẳng hạn, người Ấn chúng tôi ăn bằng ngón tay. Ngón tay chúng tôi uyển chuyển hơn ngón tay các bạn, các bạn không thể nào sử dụng các ngón tay theo cách của chúng tôi được. Con người không những cần phải được cung cấp thức ăn tinh thần, mà còn phải biết sử dụng thức ăn đó theo cách riêng của mình. Các bạn không những cần phải có những ý tưởng tâm linh, mà những ý tưởng đó phải đến với các bạn theo phương pháp riêng của từng người. Những ý tưởng đó phải nói bằng ngôn ngữ riêng của các bạn, ngôn ngữ của linh hồn các bạn, và chỉ có chúng mới làm cho các bạn thỏa mãn. Khi có người đến đây và nói bằng ngôn ngữ của tôi, đem lại chân lý trong ngôn ngữ của tôi thì tôi lập tức hiểu ngay, và đón nhận nó mãi mãi. Đó là một sự kiện to tát.
Bây giờ, từ điều này, chúng ta thấy được rằng căn cơ và tâm trí của con người vô cùng sai biệt, nên trách nhiệm của tôn giáo thật quá đỗi nặng nề! Một người đề xướng dăm ba giáo lý, và tuyên bố rằng tôn giáo của anh ta đáp ứng được cho toàn thể nhân loại. Anh ta đi vào thế giới, tức cái chuồng thú của Thượng Đế, với cái lồng nhỏ trên tay, và nói : “Thượng Đế, con voi hay bất kỳ người nào cũng phải chui vào cái lồng này. Thậm chí nếu cần thì chúng ta phải cắt nhỏ con voi ra, để cho nó chui lọt vào trong đó”. Có thể có một giáo phái với dăm ba ý tưởng, tín đồ giáo phái đó nói : “Mọi người ai nầy đều phải vào đây!”. “Nhưng không có chỗ cho họ”. “Đừng bận tâm! Cứ cắt nhỏ họ ra; tìm cách nhét họ vào; nếu họ không chịu vào thì sẽ bị đày xuống địa ngục.” Không một nhà truyền giáo nào, không một giáo phái nào tôi từng gặp lại không đặt câu hỏi : “Tại sao mọi người lại không lắng nghe tôi?” Thay vào đó, họ nguyền rủa quần chúng và bảo : “Quần chúng là lũ ác độc”. Họ không bao giờ hỏi : “Vì sao mọi người lại không lắng nghe lời tôi nói? Vì sao tôi không thể giúp họ nhìn thấy được chân lý? Vì sao tôi không thể nói bằng ngôn ngữ của chính họ? Vì sao tôi không thể mở mắt cho họ?”. Chắc chắc những người đó nên hiểu biết thêm, và khi thấy quần chúng không nghe mình mà họ nguyền rủa bất kỳ ai trong số đó thì họ đang nguyền rủa chính mình. Họ cứ luôn xem đó là lỗi của quần chúng! Họ không bao giờ cố gắng mở rộng giáo phái mình cho đủ lớn, để có thể ôm trọn tất cả mọi người.
Bởi vậy, chúng ta thấy ngay vì sao có những người đầu óc quá nông cạn, hẹp hòi; vì sao một phần vẫn cứ luôn luôn tuyên bố là toàn thể; vì sao cái hữu hạn nhỏ bé vẫn cứ luôn luôn tuyên bố là cái vô tận vô biên. Thử nghĩ đến những giáo phái nhỏ bé, ra đời trong vòng vài trăm năm này từ những bộ não dễ phạm sai lầm của con người, lại dương dương tự đắc tuyên bố là hiểu biết trọn vẹn chân lý vô biên của Thượng Đế! Thử nghĩ đến thói khoác lác vênh váo đó! Nếu nó chứng tỏ được điều gì thì đó là điều này : con người thật huyên hoang rỗng tuếch biết là ngần nào. Chẳng có gì phải ngạc nhiên khi những lời tuyên bố như thế luôn thất bại, và nhờ ơn Thượng Đế nhân từ, số phận của chúng được định sẵn là phải luôn luôn thất bại. Về mặt này, không có ai nổi trội hơn tín đồ Hồi giáo. Mỗi bước tiến của họ đều được thực hiện với một thanh gươm, kinh Koran trên tay này, và thanh gươm trên tay kia : “Hãy tin kinh Koran, nếu không mi phải chết, không có chọn lựa nào khác!” Lịch sử đã cho các bạn thấy họ đã thành công một cách phi thường như thế nào; trong vòng sáu trăm năm, không có gì ngăn cản nổi bước chân của họ, rồi đến một lúc họ phải hô ngừng lại. Số phận các tôn giáo khác cũng thế, nếu như chúng cứ đi theo phương pháp này.
Chúng ta thật là trẻ con! Ta luôn quên mất bản tính người. Khi mới khởi đầu cuộc sống, chúng ta nghĩ rằng số phận mình phải là cái gì đó rất đỗi phi thường, và không có gì có thể khiến ta đánh mất đi niềm tin ấy. Nhưng khi về già, chúng ta lại suy nghĩ khác. Đối với tôn giáo cũng thế. Trong những giai đoạn đầu, khi mới truyền bá được chút đỉnh thì chúng đã có ý tưởng là sẽ thay đổi được tâm trí của toàn bộ nhân loại chỉ trong vòng một vài năm, chúng tiếp tục chém giết và tàn sát để bắt con người phải cải đạo bằng bạo lực, rồi chúng thất bại và bắt đầu hiểu biết hơn[50]. Chúng ta thấy rằng những giáo phái đó không thành công trong những gì họ làm lúc khởi đầu, đó là ơn phước lớn lao. Thử nghĩ nếu như một trong các giáo phái cuồng tín đó thành công trên toàn thế giới thì ngày nay con người sẽ ra sao? Xin cảm tạ Thượng Đế là chúng đã không thành công được! Tuy nhiên, mỗi tôn giáo đó đều đại diện cho một chân lý vĩ đại, mỗi tôn giáo đều đại diện cho cái gì đó tuyệt hảo đặc thù – đó chính là linh hồn của nó.
Một câu chuyện cổ hiện ra trong đầu tôi. Ngày đó, có những mụ yêu tinh chuyên giết người và gây nên đủ thứ tai họa, nhưng không một ai có thể giết được họ, cho đến khi có người phát hiện ra rằng linh hồn họ nằm trong một loài chim. Và khi những con chim này còn bình an vô sự thì không một ai có thể hủy diệt được những mụ yêu tinh này. Có thể nói là mỗi người chúng ta cũng có những con chim như thế đang cưu mang linh hồn của mình; chúng ta cũng có một lý tưởng, một sứ mệnh để thực hiện trong đời. Cho dù các bạn có đánh mất bất cứ thứ gì đi nữa, nhưng chừng nào lý tưởng kia còn chưa bị mất, sứ mệnh kia còn chưa bị tổn thương thì không có gì có thể giết được các bạn. Tài sản có thể đến rồi đi, tai họa có thể chất chồng cao như núi, nhưng nếu các bạn giữ cho lý tưởng được nguyên vẹn thì không có gì có thể giết được các bạn. Các bạn có thể già đi, thậm chí già đến một trăm tuổi, nhưng nếu sứ mệnh đó vẫn còn tinh khôi và tươi trẻ trong tâm hồn các bạn thì có gì có thể giết được các bạn? Nhưng khi lý tưởng đã bị mất, sứ mệnh đã bị lãng quên thì không có gì có thể cứu được các bạn. Tất cả tài sản trên thế gian có đổ ra tràn lan như suối cũng không thể cứu được các bạn.
Quốc gia là gì, nếu không phải là các cá nhân nhân bội lên? Do đó, mỗi quốc gia đều có sứ mệnh riêng để thực hiện nhằm tạo nên sự hòa hợp của giống nòi; và chừng nào quốc gia đó còn giữ được lý tưởng đó thì không có gì có thể hủy diệt được nó cả. Nhưng nếu quốc gia đó từ bỏ sứ mệnh của mình trong đời sống để chạy theo một thứ gì khác thì sự sống của nó sẽ trở nên ngắn ngủi, và nó sẽ bị tiêu diệt.
Đối với tôn giáo cũng thế. Sự kiện các tôn giáo còn tồn tại mãi cho đến tận ngày nay cho thấy chúng còn giữ được nguyên vẹn sứ mệnh đó. Mặc dù có những sai lầm, mặc dù có những khó khăn, mặc dù có những tranh cãi, mặc dù tất cả những hình thức và hình tượng có bị khô cứng đi chăng nữa thì trái tim của mỗi tôn giáo vẫn còn tráng kiện – nó là trái tim đang co bóp, đang đập và tràn đầy sinh lực. Không một tôn giáo nào trong số đó đánh mất đi sứ mệnh mà chúng có nhiệm vụ thực hiện. Nghiên cứu sứ mệnh đó là điều tuyệt vời. Thử lấy Hồi giáo làm ví dụ. Tín đồ Cơ Đốc giáo không ghét tôn giáo nào cho bằng Hồi giáo. Họ cho đó là một thứ tôn giáo cực kỳ tồi tệ từ trước đến nay. Nhưng ngay khi một người trở thành tín đồ Hồi giáo thì toàn thể thế giới Hồi giáo đều dang rộng vòng tay để đón chào anh ta như một người anh em, chẳng có mảy may phân biệt, một điều mà không có tôn giáo nào làm được. Nếu một người da đỏ châu Mỹ của các bạn mà trở thành tín đồ Hồi giáo thì vị Sultan[51] của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ cũng chẳng ngần ngại gì để ăn tối cùng anh ta. Nếu anh ta có thêm đầu óc thông minh nữa thì không một chức vụ nào có thể ngăn căn được bước chân thăng tiến của anh ta. Tại đất nước này, tôi chưa bao giờ thấy một người da trắng và một người da đen lại có thể quỳ cầu nguyện bên nhau. Thử nghĩ đến điều này : Hồi giáo biến tất cả tín đồ đều bình đẳng, như vậy các bạn cũng thấy đó là điều tuyệt hảo của Hồi giáo. Nhiều chỗ trong kinh Koran, các bạn thấy những ý tưởng vô cùng dâm dục về đời sống. Đừng bận tâm đến thứ đó. Điều mà Hồi giáo muốn rao giảng cho thế giới là tình huynh đệ thực tế giữa tất cả những tín đồ của nó. Đó là phần cốt yếu của Hồi giáo; còn những thứ khác như quan niệm về thiên đàng, về đời sống v.v… không phải của Hồi giáo. Chúng là phần thêm thắt về sau.
Với người Ấn giáo, các bạn sẽ tìm thấy một ý tưởng mang tính quốc gia – đó là tâm linh tính [spirituality]. Không có một tôn giáo nào khác, không có kinh điển thiêng liêng nào khác trên thế giới này, mà trong đó các bạn lại thấy định nghiã quan niệm về Thượng Đế lại tiêu hao nhiều năng lực đến thế. Họ cố gắng mô tả linh hồn thanh khiết đến mức không một va chạm nào của thế gian có thể làm ô nhiễm được nó. Tâm Linh phải được xem là mang thần tính, và Tâm Linh – hiểu như là Tâm Linh – thì không thể được đồng hóa với con người vật chất. Ý tưởng về nhất thể, về sự thực chứng Thượng Đế – tức đấng Vô Sở Bất Tại – được thuyết giảng khắp nơi trong nước. Họ quan niệm rằng bảo Thượng Đế sống ở trên thiên đàng, cùng tất cả những điều đại loại như thế thì thật là nhảm nhí. Đó chỉ là ý tưởng mang thuần tính người theo thuyết nhân hình. Tất cả những thiên đàng từng tồn tại từ xưa đến nay đều ở ngay đây và ngay bây giờ. Một phút giây trong cõi thời gian vô tận cũng hoàn toàn tốt đẹp như bất kỳ một phút giây nào khác. Nếu các bạn tin vào Thượng Đế thì các bạn có thể thấy Ngài ngay bây giờ. Người Ấn chúng tôi cho rằng tôn giáo bắt đầu khi các bạn thực chứng được một điều gì đó. Đó không phải là niềm tin vào giáo lý, cũng không phải là sự chấp thuận bằng trí năng, hay là tuyên bố điều này điều nọ. Nếu như có Thượng Đế thì các bạn đã thấy được Ngài chưa? Nếu bảo là “không” thì các bạn có quyền gì để tin nơi Ngài? Còn nếu các bạn còn hoài nghi không biết có Thượng Đế hay không thì sao các bạn lại không phấn đấu để thấy được Ngài? Tại sao các bạn không từ bỏ thế gian, và tận hiến cả cuộc đời cho đối tượng duy nhất này? Xả ly và tâm linh tính là hai ý tưởng vĩ đại của Ấn Độ, và nhờ đất nước Ấn Độ bám chặt vào hai ý tưởng này mà những sai lầm của nó xem như không đáng kể.
Với tín đồ Cơ Đốc giáo thì tư tưởng trọng tâm mà họ truyền giảng cũng tương tự : “Hãy lưu tâm và cầu nguyện, vì cõi thiên đàng đã ở trong tay”; điều đó có nghĩa là : “Hãy giữ tâm thanh tịnh và hãy sẵn sàng”. Và tinh thần đó không bao giờ chết. Các bạn nhớ rằng các tín đồ Cơ Đốc giáo, ngay trong thời buổi đen tối nhất, ngay trong những xứ sở Cơ Đốc giáo mê tín nhất, vẫn luôn sẵn sàng dọn mình để đón Chúa, bằng cách cố gắng giúp đỡ người khác, xây dựng bệnh viện v.v… Chừng nào mà các tín đồ Cơ Đốc giáo còn duy trì được lý tưởng này thì tôn giáo họ vẫn còn sống.
Lúc này, một lý tưởng hiện ra trong tâm trí tôi. Có thể nó chỉ là một giấc mơ. Tôi không biết lý tưởng này đã từng được thực hiện trên đời này chưa, nhưng đôi lúc mơ một giấc mơ cũng tốt hơn là chết vì sự thật đắng cay. Những chân lý vĩ đại, ngay cả trong giấc mơ, vẫn tốt đẹp hơn những sự thật phũ phàng. Bởi vậy, chúng ta hãy cùng mơ một giấc mơ.
Các bạn biết rằng có rất nhiều loại căn cơ và tâm trí. Các bạn có thể là người duy lý có óc thực tế và có lương tri; các bạn không quan tâm gì đến hình thức, lễ nghi; mà các bạn cần đến những sự kiện tri thức rắn rỏi và dứt khoát; và chỉ những sự kiện đó mới làm các bạn thỏa mãn. Rồi còn có những tín đồ Thanh giáo [Puritan] và Hồi giáo không bao giờ cho phép đặt một bức tranh hay một pho tượng nào tại nơi họ thờ cúng. Hay lắm! Nhưng cũng có người khác có máu nghệ sĩ hơn. Anh ta cần rất nhiều đến nghệ thuật – vẻ đẹp của đường nét, của màu sắc, của hoa và hình thể; anh ta cần đến những cây nến, những ngọn đèn cùng tất cả những nghi thức và nghi tiết trong lễ cúng bái để có thể thấy được Thượng Đế. Tâm trí anh ta nhận dạng Thượng Đế qua những nghi thức đó, còn các bạn lại dùng trí năng để hình dung Ngài. Lại có những tín đồ sùng đạo, luôn kêu khóc cầu xin Thượng Đế; họ không có ý nghĩ nào khác ngoài việc sùng bái và tôn vinh Thượng Đế. Rồi lại đến lượt triết gia, đứng bên ngoài tất cả những người này, và chế diễu họ. Vị triết gia đó suy nghĩ : “Những người này thật nhảm nhí! Quan niệm về Thượng Đế là thế đấy!”.
Những người đó có thể cười nhạo lẫn nhau, nhưng ai cũng có một vị trí trong thế giới này. Mọi tâm trí, mọi căn cơ thiên sai vạn biệt đó đều quan trọng. Nếu như có được một tôn giáo lý tưởng thì nó phải đủ sức bao quát để cung cấp đầy đủ thức ăn tinh thần cho mọi loại tâm trí, căn cơ. Nó phải cung cấp được sức mạnh triết học cho triết gia, cung cấp tâm hồn ngoan đạo cho người sùng tín; còn đối với người coi trọng lễ nghi thì nó phải cung cấp những thứ mà nghi thức và nghi tiết lộng lẫy nhất có thể có được; đối với nhà thơ, nó phải đem lại nhiều cảm xúc tối đa cho tâm hồn mà anh ta có thể cảm thụ, bên cạnh nhiều thứ khác. Để tạo ra được một tôn giáo bao quát như thế, chúng ta phải quay ngược lại điểm khởi nguyên của tôn giáo và đón nhận tất cả.
Khẩu hiệu của chúng ta là chấp nhận chứ không phải loại trừ. Không chỉ là khoan dung, vì cái gọi là sự khoan dung chỉ là sự bất kính, và tôi không tin điều đó. Tôi tin vào sự chấp nhận. Tại sao tôi phải tỏ ra khoan dung? Khoan dung có nghĩa là tôi nghĩ rằng bạn sai, nhưng tôi cho phép bạn được sống. Nghĩ rằng các bạn và tôi cho phép người khác được sống, đó chẳng phải là sự bất kính hay sao? Tôi chấp nhận mọi tôn giáo trong quá khứ, và sùng kính tất cả tôn giáo đó; tôi tôn thờ Thượng Đế như tất cả mọi tín đồ trong đó, tuân theo bất kỳ nghi thức nào mà họ sùng bái Thượng Đế. Tôi sẽ đường đi vào thánh đường Hồi giáo; tôi sẽ đi vào nhà thờ Cơ Đốc giáo và quỳ xuống trước hình tượng Chúa Jesus bị đóng đinh; tôi sẽ vào một ngôi chùa Phật giáo, xin quy y theo Phật và Pháp. Tôi sẽ đi vào rừng, và ngồi thiền với một tu sĩ Ấn giáo – người đang cố gắng nhìn thấy Ánh Sáng giác ngộ nơi tâm của mọi người.
Không những làm những điều đó, mà tôi còn mở rộng lòng ra để
đón nhận mọi tôn giáo có thể có trong tương lai. Cuốn sách của Thượng Đế đã
chấm dứt chưa? Hay là sự khai thị vẫn còn đang tiếp diễn? Nó là cuốn kỳ thư
huyền diệu, chứa đựng sự khai thị tâm linh cho thế giới. Kinh Thánh, kinh Veda,
kinh Koran cùng tất cả những thánh thư khác cũng chỉ là nhiều trang kinh trong
cuốn kỳ thư đó, còn vô số những trang kinh khác đang chờ được mở ra. Tôi muốn
mở rộng tâm hồn ra để đón nhận tất cả những trang kinh đó. Chúng ta đang đứng ở
hiện tại, nhưng hãy mở rộng tâm hồn ra trước tương lai vô tận. Chúng ta dung
nạp tất cả những gì trong quá khứ, hưởng thụ ánh sáng hiện tại, và mở rộng mọi
cánh cửa lòng để chào đón tất cả những gì sẽ đến trong tương lai. Xin đón chào
tất cả những nhà tiên tri trong quá khứ, xin đón chào tất cả những bậc vĩ nhân
thời hiện tại, và xin đón chào tất cả những vị sẽ đến trong tương lai!
(Diễn thuyết tại New York, ngày 12 tháng 1 năm 1896)
Bất cứ nơi nào mà giác quan ta có thể đạt tới được, bất cứ thứ gì mà tâm trí ta có thể tưởng tượng ra thì ta đều thấy trong đó có sự hoạt động và phản động của hai lực; lực này đối kháng với lực kia và tạo nên tấn tuồng muôn thuở của hiện tượng lộn xộn mà ta thấy quanh ta, và của những gì ta cảm nhận được trong tâm trí. Trong thế giới ngoại tại, hoạt động của những lực đối kháng tự biểu hiện như là lực hút và lực đẩy, hay là lực hướng tâm và lực ly tâm; còn trong thế giới nội tâm thì chúng biểu hiện như là tình yêu và hận thù, thiện và ác. Chúng ta khước từ sự vật này, nhưng lại cuốn hút sự vật khác. Chúng ta bị sự vật này khước từ, nhưng lại bị sự vật khác lôi cuốn. Sống trong đời, ta thấy rằng nhiều khi ta bị cuốn hút về người này rất vô duyên vô cớ – có thể nói như vậy; nhưng rồi vào những lúc khác, ta lại bị người khác khước từ, cũng tương tự như vậy. Đây là điều hiển nhiên với tất cả mọi người; và khi lĩnh vực hoạt động càng cao thì ảnh hưởng của những lực đối kháng càng mạnh mẽ, càng sâu sắc.
Tôn giáo là cấp độ cao nhất của tư tưởng và đời sống con người, và trong đó, chúng ta thấy tác động của hai lực đối kháng đó rõ rệt nhất. Tình yêu mãnh liệt nhất mà nhân loại từng biết đến được xuất phát từ tôn giáo; hận thù kinh khiếp nhất mà nhân loại từng biết đến cũng xuất phát từ tôn giáo. Những ngôn từ cao nhã nhất về hòa bình mà thế giới từng nghe đến xuất phát từ những người trong lĩnh vực tôn giáo, mà những lời lăng mạ cay nghiệt nhất cũng được phát biểu bởi những người mang tinh thần tôn giáo. Đối với bất kỳ tôn giáo nào, hễ mục tiêu càng cao siêu, và tổ chức càng tế vi thì những hoạt động của nó càng đáng kể. Không một động cơ nào của loài người lại nhận chìm thế giới vào máu nhiều như tôn giáo; đồng thời cũng không có gì lại xây dựng nhiều bệnh viện và nhà tế bần như nó. Không một hoạt động nào của con người lại chăm lo không chỉ con người, mà cả đến những con vật hèn mọn nhất, như tôn giáo. Không có gì khiến chúng ta tàn ác như tôn giáo, mà cũng không có gì khiến chúng ta nhân hậu như tôn giáo. Trong quá khứ đã thế, và chắc chắn trong tương lai cũng không khác.
Tuy nhiên, từ cảnh tượng nhiễu nhương hỗn loạn, từ sự xung đột và đấu tranh ác liệt, từ sư hận thù và ghen tỵ giữa các tôn giáo và giáo phái, thỉnh thoảng vẫn trỗi dậy những tiếng nói mạnh mẽ, nhận chìm tất cả những tiếng ầm ĩ huyên náo kia đi; những tiếng nói đó vang vọng từ cực này sang cực khác, có thể nói như vậy, để tuyên bố về hòa bình và hòa hợp.
Điều đó sẽ đến chăng? Trên bình diện đấu tranh khốc liệt giữa các tôn giáo, có thể có một sự hài hòa miên tục ngự trị nơi đó chăng? Trong nửa sau của thế kỷ này[52], thế giới chịu sự tác động của vấn đề hòa hợp; trong xã hội, người ta đề ra nhiều kế hoạch và nỗ lực biến chúng thành hiện thực; nhưng chúng ta biết thực hiện được những kế hoạch đó là điều khó khăn như thế nào rồi. Mọi người thấy rằng hầu như không thể làm giảm bớt cơn cuồng nộ trong cuộc đấu tranh sinh tồn, cũng không thể làm dịu đi sự căng thẳng thần kinh khiếp nơi con người. Vậy đó, nếu như đem lại được sự hòa hợp và hòa bình ở mức độ vật chất trong cuộc sống –tức phần thô thiển bên ngoài– đã là điều quá khó thì đem lại sự hòa hợp và hòa bình để thống trị bản tính nội tại của con người còn khó gấp ngàn lần.
Ngay lúc này, tôi muốn yêu cầu các bạn bước ra khỏi mạng lưới ngôn từ. Ngay từ hồi còn nhỏ, tất cả chúng ta đều đã nghe nói đến những điều như tình yêu, hòa bình, nhân ái, bình đẳng và tứ hải giai huynh đệ, nhưng những từ đó đến với chúng ta chỉ toàn là chữ chứ không có nghĩa; những từ đó được chúng ta lập đi lặp lại như những con vẹt, và ta làm thế là điều hoàn toàn tự nhiên. Chúng ta không thể làm gì khác hơn. Các bậc vĩ nhân cảm nhận được những ý tưởng vĩ đại này trong trái tim mình, và đã tạo ra những từ đó; và đến lúc đó thì nhiều người hiểu được ý nghĩa của chúng. Về sau, quần chúng ngu muội đã chọn lấy những từ này và đùa bỡn với chúng, rồi biến tôn giáo thành một một trò chơi chữ thuần túy, không có một chút gì được đưa vào thực tế. Trò chơi chữ đó biến thành “tôn giáo của cha tôi”, “tôn giáo của đất nước tôi”, “tôn giáo của quê hương tôi” v.v… Theo một tôn giáo nào đó trở thành một phần nào của lòng yêu nước, mà lòng yêu nước thì luôn luôn thiên vị.
Đem lại sự hài hợp cho tôn giáo luôn là điều khó khăn. Tuy vậy, chúng ta sẽ xem xét vấn đề hòa hợp tôn giáo.
Chúng ta thấy trong tôn giáo nào cũng có ba phần – ý tôi chỉ muốn nói đến mọi tôn giáo lớn đã được công nhận.
1. Phần thứ nhất là triết học, trình bày toàn bộ nội dung của tôn giáo đó, đề xướng những nguyên lý cơ bản, mục tiêu và những phương tiện để đạt đến mục tiêu đó.
2. Phần thứ hai là thần thoại, đó là phần triết học được cụ thể hóa. Phần này bao gồm những truyền thuyết liên quan đến hành trạng của con người hay của những siêu nhân v.v…Đó là bản tóm tắt của triết học đã được cụ thể hóa trong hành trạng, ít nhiều đều mang tính tưởng tượng, về những con người hay những siêu nhân.
3. Phần thứ ba là nghi thức. Phần này còn cụ thể hơn nữa, nó được tạo ra từ những nghi thức và nghi lễ, từ nhiều điệu bộ thân xác đa dạng, từ hoa quả, hương đèn cùng nhiều thứ khác lôi cuốn được giác quan.
Các bạn sẽ thấy rằng tất cả những tôn giáo được công nhận đều có ba yếu tố đó. Tôn giáo này thì nhấn mạnh yếu tố này, tôn giáo khác thì lại nhấn mạnh yếu tố kia.
Bây giờ, chúng ta hãy xét đến phần đầu tiên là triết học. Đã có được một triết học phổ quát chưa? Chưa có. Mỗi tôn giáo đều đề xướng những giáo lý riêng của mình, và khăng khăng khẳng định chỉ có chúng mới là chân. Có phải chỉ làm thế mà thôi đâu, nó còn cho rằng những ai không tin vào giáo lý đó sẽ phải đọa vào một nơi khủng khiếp. Thậm chí có người còn tuốt gươm ra để bắt người khác phải tin như họ. Điều đó không phải là do bản tính hung ác, mà do một cơn bệnh đặc biệt nơi não trạng con người, gọi là cuồng tín. Những kẻ cuồng tín đó rất chân thành, họ là những kẻ chân thành nhất trong loài người; song họ lại hoàn toàn vô trách nhiệm như những kẻ điên rồ loạn trí trên thế gian này. Bệnh cuồng tín là một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất. Tất cả sự tàn ác nơi bản tính con người đều bị nó kích động. Khi sự giận dữ bị khuấy động, thần kinh bị căng thẳng thì con người trở thành cọp dữ.
Có sự tương đồng nào trong thần thoại, có sự hòa hài nào trong thần thoại, có một thần thoại phổ quát nào được mọi tôn giáo chấp nhận hay không? Chắc chắn là không. Tôn giáo nào cũng có thần thoại riêng, và mỗi tôn giáo đều nói : “Những câu chuyện của chúng tôi đâu chỉ là thần thoại”. Chúng ta hãy cố hiểu vấn đề bằng các minh họa. Tôi chỉ có ý muốn minh họa, chứ có có ý chỉ trích bất kỳ tôn giáo nào.
Tín đồ Cơ Đốc giáo tin rằng Thượng Đế mang hình một con chim bồ câu mà giáng thế; đối với anh ta thì đó là lịch sử chứ không phải là thần thoại. Tín đồ Ấn giáo thì tin rằng Thượng Đế hóa thân thành con bò cái. Các tín đồ Cơ Đốc giáo nói rằng tin như thế thì chỉ là thần thoại, chứ không phải là lịch sử; đó là mê tín. Người Do Thái thì cho rằng nếu có một hình tượng nào được làm thành dạng cái hộp, hay cái tủ, có hai thiên thần đứng hai bên thì hình tượng đó có thể được đặt tại nơi Tối Linh : đó là hình tượng thiêng liêng của đức Jehovah. Nhưng nếu hình tượng đó mang hình thức một nam hay nữ xinh đẹp thì họ bảo : “Đó là ngẫu tượng đáng tởm, hãy đập vỡ nó đi!”. Đó là sự thống nhất của chúng ta về thần thoại! Nếu một người nào đứng lên và nói : “Vị tiên tri của tôi đã làm chuyện kỳ diệu như thế này, như thế khác” thì những kẻ khác lại bảo : “Đó chỉ là mê tín”, nhưng đồng thời họ lại bảo rằng vị tiên tri của họ đã làm chuyện còn kỳ diệu hơn thế nữa, và họ cho đó là lịch sử. Không một ai trong thế gian này, theo như tôi thấy, có đủ năng lực để phát hiện được sự khác biệt tế vi giữa lịch sử và thần thoại, giống như nó đang tồn tại trong đầu óc họ. Tất cả những câu chuyện như thế, dù chúng có thuộc về bất kỳ tôn giáo nào, thực sự đều chỉ là thần thoại, đôi khi có thể được pha trộn với một ít lịch sử.
Kế đến là phần nghi thức. Mỗi giáo phái đều có nghi thức riêng, và đều cho rằng nghi thức đó là thiêng thiêng, còn nghi thức của giáo phái khác chỉ là trò mê tín vớ vẩn. Nếu một giáo phái sùng bài một biểu tượng nào đó thì giáo phái khác lại kêu “Ôi! Thật đáng tởm!”. Thử lấy một hình thức thông dụng làm ví dụ. Biểu tượng phallus (dương vật) chắc chắn là biểu tượng của tính dục, nhưng dần dần khía cạnh tính dục bị lãng quên, và nó trở thành biểu tượng của đấng Sáng Tạo. Những quốc gia dùng phallus làm biểu tượng không bao giờ nghĩ nó là phallus; họ xem nó chỉ là một biểu tượng, có thế thôi. Nhưng một người thuộc một dân tộc khác hoặc một tín ngưỡng khác đến thì thấy nó không có chi khác ngoài cái dương vật, và bắt đầu lên án nó; nhưng đồng thời anh ta có thể làm một điều gì đó, mà những người được gọi là “tín đồ sùng bái phallus” cho là ghê tởm. Tôi xin dùng hai điểm minh họa, đó là biểu tượng phallus và phép Thánh thể của Cơ Đốc giáo. Đối với tín đồ Cơ Đốc giáo thì phallus thật đáng kinh tởm, còn đối với tín đồ Ấn giáo thì phép Thánh thể thật đáng ghê sợ. Họ bảo rằng phép Thánh thể của Cơ Đốc giáo, giết một người rồi ăn thịt và uống máu người đó để có được những phẩm chất tốt đẹp của anh ta, thì đó là ăn thịt người. Một số bộ lạc man rợ vẫn làm điều đó; nếu có người nào đó gan dạ thì họ giết anh ta để ăn trái tim, vì họ tin rằng trái tim đó sẽ đem lại những đức tính can trường, quả cảm của người đó. Ngay cả một tín đồ Cơ Đốc giáo sùng đạo như ngài John Lubbock[53] cũng thừa nhận điều này, và bảo rằng biểu tượng này trong Cơ Đốc giáo bắt nguồn từ ý tưởng man rợ đó. Dĩ nhiên là các tín đồ Cơ Đốc giáo không thừa nhận quan điểm đó về khởi thủy của phép Thánh thể, và những gì mà quan điểm đó có thể bao hàm thì không bao giờ đến trong tâm trí họ. Nó đại diện cho những thánh sự, và đó là tất cả những gì họ muốn biết. Thậm chí trong những nghi thức cũng không có một biểu tượng phổ quát nào được mọi người nhận biết và công nhận.
Vậy thì tính phổ quát nằm ở đâu? Làm thế nào để có thể có một hình thức tôn giáo phổ quát? Tuy vậy, điều đó đã có sẵn rồi. Và chúng ta hãy xem nó là gì.
Tất cả chúng ta đều nghe nói đến tình huynh đệ đại đồng, và đặc biệt có nhiều đoàn thể đã đứng lên để truyền bá nó ra sao. Tôi nhớ đến một câu chuyện cũ. Ở Ấn Độ, uống rượu bị xem là điều rất tồi tệ. Một đêm kia, có hai anh em muốn lén uống rượu; nhưng người chú của họ – một người rất nghiêm khắc theo khuôn phép – lại ngủ trong phòng sát bên. Bởi vậy, trước khi uống rượu, họ bàn với nhau : “Mình phải giữ yên lặng, không thì chú sẽ thức dậy mất”. Khi đang uống rượu, họ cứ tiếp tục nhắc nhở cho nhau : “Yên lặng! Coi chừng chú thức dậy”, người nào cũng cố la lớn để át tiếng người kia. Rồi khi tiếng la lối cứ lớn dần thì người chú thức giấc, ông đi vào phòng và phát hiện toàn bộ sự việc.
Chúng ta giờ đây cũng đang la lối như những kẻ say rượu kia, “Tình huynh đệ đại đồng! Tất cả chúng ta đều bình đẳng, bởi vậy chúng ta hãy lập nên một giáo phái”. Nhưng ngay khi thành lập được giáo phái thì các bạn lại phản đối sự bình đẳng, và sự bình đẳng không còn nữa. Tín đồ Hồi giáo giảng về tình huynh đệ đại đồng, nhưng trên thực tế thì thuyết đó đem tới điều gì? Vì sao bất kỳ người nào không phải là tín đồ Hồi giáo đều không được chấp nhận vào trong tình huynh đệ đó, có khi còn bị cắt cổ nữa là khác? Tín đồ Cơ Đốc giáo cũng rao giảng về tình huynh đệ đại đồng, nhưng vì sao những ai không phải là tín đồ Cơ Đốc giáo đều phải đi đến một nơi để chịu cảnh thiêu đốt đời đời? Chúng ta đi vào thế gian để tìm tình huynh đệ đại đồng và sự bình đẳng như thế đó.
Khi nghe những lời nói như thế trong thế gian này, tôi xin các bạn hãy dè dặt đôi chút, vì đằng sau tất cả những lời nói đó thường là thói ích kỷ tồi tệ nhất. “Giữa mùa đông, đôi khi có mây giông ùn ùn kéo đến, bầu trời gầm thét ầm ầm nhưng không có mưa; còn vào mùa mưa, những đám mây lặng lẽ lại làm cho thế giới ngập chìm trong nước”. Bởi vậy, những người nào thực sự làm, và thực sự cảm nhận được tình huynh đệ đại đồng trong trái tim mình thì không nói nhiều, không lập một giáo phái nhỏ nào về tình huynh đệ đại đồng; nhưng những việc làm của họ, những hoạt động của họ, và trọn cuộc đời họ chứng minh một cách rõ ràng rằng họ thực sự cưu mang cảm thức về tình huynh đệ đại đồng cho toàn thể nhân loại, rằng họ yêu thương và đồng cảm với tất cả mọi người. Họ không hề nói, họ làm và sống[54]. Thế giới này đầy những lời ba hoa khoác lác. Chúng ta cần một ít nhiệt tình để làm việc, và bớt nói đi.
Cho đến nay, chúng ta thấy khó mà tìm cho được những yếu tố phổ quát trong tôn giáo, tuy nhiên chúng ta biết rằng chúng vẫn tồn tại. Tất cả chúng ta đều là con người, nhưng tất cả chúng ta có bình đẳng không? Chắc chắn là không. Ai nói rằng chúng ta bình đẳng? Chỉ có kẻ loạn trí. Tất cả chúng ta có bình đẳng về trí lực, thể lực và thể xác không? Người này có thể lực khỏe hơn người kia, người nọ có trí lực tốt hơn người khác. Nếu như tất cả chúng ta đều bình đẳng thì do đâu lại có sự bất bình đẳng trên thế gian này? Ai đã tạo ra nó? Chính chúng ta. Bởi vì mỗi người chúng ta đều có thể lực, trí lực ít nhiều khác nhau nên điều đó đã tạo ra sự bất bình đẳng. Thế nhưng chúng ta lại biết rằng thuyết bình đẳng luôn vang động đến tận tâm hồn ta. Tất cả chúng ta đều là con người; nhưng có người là nam, có người là nữ. Đây là người da đen, kia là người da trắng; nhưng tất cả đều là con người, tất cả đều thuộc về một nhân loại duy nhất. Gương mặt chúng ta rất khác nhau; tôi chưa bao giờ thấy có hai gương mặt giộng hệt nhau, thế nhưng tất cả chúng ta đều là con người. Tính nhân loại duy nhất này nằm ở đâu? Tôi nhận ra một nam hay một nữ, hoặc đen đúa hoặc xinh đẹp; và trên tất cả những gương mặt đó, tôi nhận ra tính nhân loại trừu tượng chung cho tất cả mọi người. Có thể tôi không nhận ra tính nhân loại này khi tôi cố nắm bắt lấy nó, cố cảm nhận được nó và cố biến nó thành hiện thực; tuy nhiên tôi biết chắc rằng nó có ở đó. Nếu tôi tin chắc về một điều gì thì đó là tính nhân loại chung cho tất cả chúng ta. Nhờ vào chính thực thể phổ quát hóa này mà tôi thấy được các bạn, như là người nam hay người nữ.
Tôn giáo phổ quát cũng thế, nó xuyên suốt qua tất cả những tôn giáo khác nhau trên thế giới dưới hình thức Thượng Đế; nó phải tồn tại và chắc chắn tồn tại mãi mãi. “Ta là sợi chỉ xuyên suốt qua những hạt châu”, và mỗi hạt châu là một tôn giáo, hoặc thậm chí là một giáo phái, trong sợi chỉ đó. Các hạt châu khác nhau như thế đó, và Thượng Đế là sợi chỉ xuyên suốt qua tất cả, chỉ có điều là phần đông nhân loại đều hoàn toàn không ý thức về điều này.
Thống nhất trong sai biệt đa thù là kế hoạch của vũ trụ. Tất cả chúng ta đều là con người, vậy mà tất cả chúng ta lại khác biệt với nhau. Với tư cách là một thành phần của nhân loại thì tôi với các bạn là một; với tư cách là ông X., bà Y. thì tôi khác với các bạn. Với tư cách là một người nam thì bạn khác với một người nữ; nhưng với tư cách là một con người thì bạn với người nữ là một. Với tư cách là con người thì các bạn khác với con vật; nhưng với tư cách là một sinh vật thì nam, nữ, thú vật, cỏ cây đều là một; và với tư cách là sự tồn tại thì các bạn với toàn thể vũ trụ này là một. Sự tồn tại phổ quát đó là Thượng Đế – tức Nhất Thể tối hậu trong vũ trụ. Tất cả chúng ta đều là một trong Ngài. Đồng thời, trong sự hiển lộ bên ngoài thì vẫn luôn có những điểm khác biệt. Trong hoạt động của chúng ta, trong năng lực của chúng ta, khi chúng hiển lộ ra bên ngoài thì luôn luôn tồn tại những điểm khác biệt.
Vậy thì chúng ta thấy rằng nếu ý tưởng về một tôn giáo phổ quát có nghĩa là toàn thể nhân loại sẽ cùng tin vào một giáo lý duy nhất thì điều đó hoàn toàn bất khả. Nó không bao giờ xảy ra, cũng như sẽ không bao giờ có lúc mọi gương mặt sẽ giống hệt nhau. Cũng thế, nếu chúng ta mong đợi sẽ có một thần thoại phổ quát duy nhất thì điều đó cũng hoàn toàn bất khả, không bao giờ có được. Cũng không thể có được một nghi thức phổ quát. Những tình trạng bình đẳng như thế của sự vật sẽ không bao giờ thành hình; nếu điều đó xảy ra thì toàn bộ thế giới này sẽ bị hủy diệt, bởi vì tính đa thù sai biệt là nguyên lý đầu tiên của sự sống.
Cái gì đã khiến cho chúng ta trở thành những sinh thể được phú bẩm một hình hài? Sự khác biệt. Tình trạng quân bình tuyệt đối sẽ khiến chúng ta bị hủy diệt. Thử lấy nhiệt lượng trong phòng này làm ví dụ, xu hướng của nó là khuếch tán trọn vẹn và đồng đều; giả sử nó đạt đến trạng thái khuếch tán đó thì nhiệt lượng đó sẽ không còn tồn tại vì những mục tiêu cụ thể nào nữa. Cái gì làm vũ trụ này có thể luôn vận động? Tình trạng mất quân bình. Nhất thể tính của sự đồng dạng chỉ xảy đến khi vũ trụ này bị hủy diệt, bằng không thì điều đó không bao giờ có thể xảy ra. Không những thế, đạt đến trạng thái đó còn là điều nguy hiểm. Chúng ta không được mong muốn ai nấy trong chúng ta cũng đều suy nghĩ như nhau. Nếu vậy thì sẽ không còn tư tưởng nào để tư duy nữa. Tất cả chúng ta đều sẽ giống hệt nhau, nhìn nhau như những xác ướp Ai Cập trong viện bảo tàng, mà trong đầu hoàn toàn rỗng tuếch, không có một tư tưởng nào[55]. Chính sự khác biệt và sai biệt này, chính tình trạng mất quân bình giữa chúng ta, đã trở thành linh hồn của sự tiến bộ, linh hồn của mọi tư tưởng trong chúng ta. Phải luôn luôn là như thế.
Ý tôi muốn nói gì khi bàn về lý tưởng của tôn giáo phổ quát? Tôi không có ý nói đến một triết học phổ quát, một thần thoại phổ quát hay một nghi thức phổ quát được mọi tôn giáo đều công nhận; vì tôi biết rằng thế giới này phải tiếp tục vận hành, như bánh xe lồng trong một bánh xe, cái cỗ máy rắc rối này, phức tạp nhất và kỳ diệu nhất. Vậy thì chúng ta có thể làm được gì? Chúng ta có thể làm cho cỗ máy chạy trơn tru, giảm bớt lực ma sát, bôi thêm dầu mỡ vào các bánh xe, có thể nói như vậy. Bằng cách nào? Bằng cách nhận biết tính tất yếu tự nhiên của sự dị biệt đa thù. Chúng ta phải học biết rằng có hàng trăm ngàn cách để diễn đạt chân lý, và cách nào cũng là chân, dù nó có dẫn đi xa đến đâu chăng nữa. Chúng ta phải học biết rằng cùng một sự vật nhưng ta có thể nhìn từ hàng trăm quan điểm khác nhau, nhưng cũng chỉ là một vật. Thử lấy mặt trời mà ví dụ. Giả sử có một người đứng trên mặt đất để nhìn mặt trời vào buổi sáng, anh ta sẽ thấy mặt trời như trái bóng tròn. Nhưng giả sử anh ta du hành về phía mặt trời, và dùng máy anh để chụp ảnh mặt trời tại mỗi giai đoạn trong suốt đường đi, cho khi anh ta đến được mặt trời. Tấm ảnh chụp tại giai đoạn này có thể khác với những tấm ảnh chụp tại giai đoạn khác; trên thực tế, khi quay về mặt đất, anh ta có thể mang theo rất nhiều tấm ảnh tưởng chừng như khác nhau về mặt trời; tuy nhiên chúng ta đều biết rằng đó chỉ là một mặt trời duy nhất, được chụp bởi một người duy nhất, tại nhiều thời điểm khác nhau trong lộ trình của mình.
Đối với Thượng Đế cũng vậy. Dù thông qua triết học cao siêu hoặc bình dân, dù thông qua thần thoại cao nhã hay thô thiển, dù thông qua những nghi lễ tinh tế nhất hay hình thức bái vật thì mọi giáo phái, mọi quốc gia, mọi tôn giáo, dù có ý thức hay vô thức cũng đều đang phấn đấu để vươn lên, hướng đến Thượng Đế; mọi khải tượng về chân lý mà con người có được về đều là khải tượng về Thượng Đế, ngoài ra không có gì khác. Ví dụ tất cả chúng ta cùng mang vật chứa để đi lấy nước tại một cái hồ. Kẻ mang cốc, người cầm bình, kẻ mang hũ v.v… và tất cả chúng ta đều múc đầy nước. Nước trong mỗi vật chứa sẽ có hình dạng giống như vật chứa mà chúng ta mang theo. Người mang theo cái cốc thì nước có hình cái cốc, người mang theo cái bình thì nước có hình cái bình v.v…, nhưng dù vật chứa có là dạng gì đi nữa thì trong vật chứa cũng chỉ là nước chứ không phải là thứ gì khác. Trường hợp tôn giáo cũng không khác. Tâm trí chúng ta giống như những vật chứa đó, và mỗi người trong chúng ta đều cố gắng thực chứng được Thượng Đế. Thượng Đế giống như nước chứa đầy bên trong những vật chứa khác nhau, và khải tượng về Thượng Đế trong vật chứa nào sẽ mang hình thức của vật chứa đó. Tuy nhiên, Ngài vẫn là đấng Duy Nhất. Trong trường hợp nào Ngài cũng là Thượng Đế. Đó là sự nhận biết duy nhất về tính phổ quát mà chúng ta có thể đạt được.
Cho đến nay thì tất cả đều đúng về mặt lý thuyết. Nhưng trên thực tế, liệu có cách nào tìm ra được sự hòa hợp cho tôn giáo? Chúng ta thấy rằng việc nhận biết mọi quan điểm khác nhau của tôn giáo đều đúng đã có từ thời rất xa xưa. Tại Ấn Độ, tại Alexandria, tại châu Âu, tại Trung Quốc, tại Nhật Bản, tại Tây Tạng, và gần đây nhất là tại Mỹ, người ta đã thực hiện hàng trăm cuộc thử nghiệm nhằm định hình nên một tín điều tôn giáo hòa hài, để mọi tôn giáo đều hòa hợp lại trong tình yêu thương. Tất cả những nỗ lực đó đều thất bại, bởi vì chúng không vận dụng một kế hoạch thực tế nào. Có nhiều người thừa nhận rằng mọi tôn giáo trên thế giới đều đúng, nhưng họ không đưa ra được một giải pháp thực tế nào để đưa tất cả các tôn giáo đó lại bên nhau, khả dĩ giúp mỗi tôn giáo đều giữ được bản sắc riêng, khi thống hợp tất cả lại với nhau. Một kế hoạch chỉ được xem là thực tế khi nào nó không phá hủy bản sắc cá nhân của bất cứ người nào trong tôn giáo, đồng thời chỉ ra cho họ thấy được điểm hòa hợp với tất cả những người khác. Nhưng cho đến nay, mọi kế hoạch cho sự hòa hợp tôn giáo – những kế hoạch vốn đã được mang ra thử nghiệm – khi đề nghị dung nạp mọi quan điểm của tôn giáo thì trên thực tế lại tự trói buộc chúng vào một số giáo lý nào đó, và như thế lại tạo ra thêm những giáo phái mới nữa; rồi những giáo phái này lại đánh nhau, đấu tranh và đả kích lẫn nhau.
Tôi cũng có kế hoạch nhỏ của tôi. Tôi không biết nó có khả thi không, và tôi muốn trình bày cùng các bạn để cùng nhau thảo luận. Kế hoạch của tôi là gì? Trước hết, tôi muốn yêu cầu nhân loại chấp nhận câu châm ngôn này : “Đừng phá hủy”. Những nhà cải cách bài trừ thánh tượng chẳng đem lại điều gì tốt đẹp cho thế giới. Đừng đập phá, đừng đạp đổ bất cứ thứ gì, mà hãy xây dựng. Hãy giúp đỡ, nếu các bạn có thể; còn nếu không thì hãy tụ thủ bàng quan, khoanh tay đứng nhìn sự việc diễn tiến. Nếu các bạn không ra tay giúp đỡ được thì đừng làm tổn thương. Đừng nói một lời nào nghịch lại đức tin của bất cứ một ai, chừng nào họ còn chân thành. Thứ hai là hãy nắm lấy tay con người tại nơi họ đứng, và từ nơi đó hãy nâng họ lên cao. Nếu quả thực Thượng Đế là tâm điểm của mọi tôn giáo, và mỗi người chúng ta đều đang di chuyển hướng đến Ngài dọc theo một trong những đường bán kính này thì chắc chắn tất cả chúng ta đều phải đạt đến tâm điểm đó. Và tại tâm điểm này, nơi mọi được bán kính đều đồng quy, tất cả những sự khác biệt giữa chúng ta đều sẽ tan biến. Nhưng trước khi đạt đến được tâm điểm đó thì chắc chắn vẫn còn những điểm bất đồng. Tất cả những được bán kính đều đồng quy tại cùng một tâm. Người này, tùy theo căn cơ, đi theo những đường này; người kia lại đi theo những đường khác; nhưng nếu như tất cả chúng ta đều lao nhanh theo con đường của mình thì chắc chắn sẽ đi đến tâm điểm, bởi vì “Đường nào cũng dẫn đến La Mã”.
Ai trong chúng ta cũng đều phát triển tự nhiên theo bản tính; tất cả mọi người sớm muộn gì cũng đều lần lượt biết được chân lý tối thượng; bởi vì, cuối cùng thì con người đều phải tự dạy mình. Các bạn và tôi có thể làm được gì? Các bạn có nghĩ rằng các bạn có thể dạy thậm chí cho một đứa bé hay không? Các bạn không thể. Đứa bé tự dạy nó. Nhiệm vụ của các bạn là tạo cơ hội và loại bỏ những trở ngại cho nó. Một cái cây phát triển. Các bạn có làm cho cây đó phát triển không? Nhiệm vụ của các bạn là rào quanh cây đó, và xem chừng không để thú vật đến ăn nó, thế là xong nhiệm vụ. Cái cây tự nó phát triển. Đối với sự phát triển tâm linh của mỗi người cũng thế. Không một ai có thể dạy các bạn, không một ai có thể biến các bạn thành con người sống có đạo tâm. Các bạn phải tự dạy cho chính mình; sự phát triển của các bạn phải xuất phát từ nội tâm. Một vị thầy bên ngoài có thể dạy cho được gì? Ông ta có thể gỡ bỏ một ít trở ngại, nhiệm vụ ông ta chấm dứt tại đó. Bởi vậy, nếu có thể thì hãy giúp đỡ, chứ đừng phá hủy. Hãy từ bỏ mọi ý nghĩ rằng các bạn có thể khiến cho người khác có được đạo tâm. Điều đó không thể. Không có một thầy nào khác cho các bạn, ngoại trừ chính linh hồn các bạn. Hãy nhận biết điều đó.
Điều gì xuất phát từ thế giới tâm linh? Trong xã hội, ta thấy quá nhiều căn cơ sai biệt, quá nhiều bản tính khác nhau. Có hàng ngàn, hàng vạn tâm trí và thiên hướng khác nhau. Khái quát hóa toàn bộ những tâm trí và thiên hướng này là điều không thể, nhưng đối với mục tiêu thực tế của chúng ta thì phân chia chúng thành bốn loại theo đặc điểm là đủ.
1. Thứ nhất là những người thích hoạt động, ham làm việc; cơ bắp và bộ não họ chứa nguồn năng lượng khổng lồ. Mục tiêu của họ là làm việc –xây bệnh viện, hoạt động từ thiện, làm đường xá, lập kế hoạch và tổ chức công việc.
2. Kế đến là những người đa cảm, họ yêu thích những điều cao nhã và cái đẹp đến mức thái quá. Họ ưa tư duy về cái đẹp, thích thưởng thức khía cạnh thẫm mỹ của thiên nhiên; họ yêu thương và tôn thờ vị Thượng Đế của Tình Thương. Họ yêu quý những vĩ nhân của mọi thời đại, những nhà tiên tri tôn giáo cùng những Hóa Thân của Thượng Đế trên trần gian bằng cả trái tim. Họ không quan tâm đến việc lý trí có thể chứng minh được đức Phật hay đấng Christ có tồn tại hay không. Họ cũng không quan tâm Bài giảng trên núi của Chúa Jesus được giảng đích xác vào ngày nào, hoặc thần Krishna đản sinh vào ngày nào. Đều họ quan tâm là nhân cách của những vị đó, là hình ảnh của những nhân vật họ kính yêu. Lý tưởng của họ là vậy. Đó là bản chất của một người có lòng yêu thương, của một người đa cảm.
3. Tiếp theo là những người thần bí, tâm trí họ muốn tự phân tích chính nó, muốn hiểu những hoạt động của tâm trí con người, muốn hiểu những năng lực nào đang hoạt động bên trong và muốn biết làm cách nào để điều khiển và chế ngự được chúng. Đây là những tâm trí có khuynh hướng thần bí.
4. Cuối cùng là những triết gia. Những người này muốn cân nhắc vạn sự, và vận dụng trí năng vượt quá những khả tính của triết học loài người.
Một tôn giáo muốn thỏa mãn được một bộ phận lớn nhất của nhân loại phải có đủ khả năng cung cấp thức ăn tinh thần cho đủ loại tâm trí, đủ loại căn cơ; và khi thiếu khả năng này thì mọi giáo phái đang hiện hữu đều trở nên phiến diện, một chiều. Giả sử các bạn đến thăm một giáo phái giảng thuyết về tình yêu thương và cảm xúc. Họ ca hát, khóc lóc và giảng thuyết về tình yêu thương. Nhưng khi các bạn nói : “Này các bạn, tất cả những điều này đều chính đáng; nhưng tôi cần đến một cái gì đó mạnh mẽ hơn thế – một chút lý trí và triết học. Tôi muốn hiểu những sự việc này theo từng bước một theo cách hợp lý hơn” thì họ sẽ bảo : “Ra khỏi đây ngay”, họ không chỉ bắt các bạn biến đi cho khuất mắt, mà còn muốn tống khứ các bạn đến một nơi khác, nếu họ có thể làm được điều đó. Kết quả là giáo phái đó chỉ giúp ích cho những người đa cảm, dễ bị cảm xúc. Họ không những không giúp đỡ kẻ khác, mà còn cố tìm cách tiêu diệt những người đó nữa. Phần hiểm ác nhất trong sự việc này là không những họ không muốn giúp đỡ kẻ khác, mà còn không tin vào sự chân thành của những người đó nữa. Lại còn có những triết gia giảng thuyết về minh triết và phương Đông, dùng những ngôn từ đao to búa lớn của môn tâm lý học dài đến năm mươi âm tiết, nhưng nếu một người tầm thường như tôi đến hỏi họ : “Ông có thể nói cho tôi điều gì đó để tôi trở thành người sống có đạo tâm hay không?” thì điều trước tiên mà họ làm là mỉm cười, và bảo : “Này, lý trí của bạn còn quá thấp kém so với chúng tôi. Làm sao bạn có thể hiểu được thế giới tâm linh?”. Đó là những triết gia thuộc “cõi trên”. Họ chỉ việc tống các bạn ra khỏi cửa. Rồi đến những giáo phái thần bí thuyết giảng đủ điều, nào là những cảnh giới sống khác nhau, nào là những căn cơ khác biệt của tâm trí, nào là năng lực tâm trí có thể làm được gì v.v… Nếu các bạn là người tầm thường và nói : “Hãy chỉ cho tôi điều gì đó tốt đẹp mà tôi có thể làm được. Tôi không mặn mà lắm với cái lối học tư biện, các ông có thể chỉ ra cho tôi một cái gì đó phù hợp với tôi hay không?” thì họ sẽ tủm tỉm cười và bảo : “Hãy nghe gã khùng này nói nè, hắn chẳng biết gì cả, hắn sống thiệt là vô tích sự”. Và điều này vẫn đang diễn khắp nơi trên thế giới. Tôi muốn đem những kẻ phát ngôn cực đoan của tất cả những giáo phái khác nhau này nhốt vô một căn phòng kín, và chụp ảnh những nụ cười nhạo báng xinh đẹp của họ! Đây là tình trạng tôn giáo hiện nay, tình trạng của sự việc hiện nay.
Điều tôi muốn truyền bá là một tôn giáo được tất cả mọi người cùng chấp nhận như nhau. Nó phải bình đẳng cho tất cả mọi người về các phương diện triết học, cảm xúc, thần bí, và bình đẳng về lợi ích khi thực hiện. Các vị giáo sư đại học – hoặc là những nhà khoa học hay các triết gia – đến thì họ sẽ ve vãn lý trí. Hãy để họ có được tất cả những thứ họ cần. Sẽ có một điểm nằm ở cõi bên kia mà họ sẽ khám phá ra là họ không thể nào vươn đến, nếu không đoạn tuyệt với lý trí. Nếu họ bảo : “Những quan niệm về Thượng Đế và cứu rỗi đều là trò mê tín, hãy từ bỏ chúng đi!” thì tôi sẽ đáp : “Này ngài Triết gia, thể xác của ngài là trò mê tín còn lớn hơn nữa đấy. Hãy từ bỏ nó đi, đừng về nhà ăn tối, hay ngồi trên cái ghế triết học của ngài. Hãy từ thể xác đi, còn nếu không làm được thì hãy kêu gọi người giúp đỡ và ngồi xuống”. Bởi vì tôn giáo phải có khả năng chỉ ra được phương pháp thực chứng triết học, nền triết học dạy cho chúng ta biết rằng thế giới này là một, và chỉ có một Tồn Tại duy nhất trong vũ trụ. Cũng tương tự như thế, nếu một nhà thần bí đến thì chúng ta phải hoan nghênh chào đón, sẵn sàng trao cho ông ta bộ môn khoa học về phân tích tinh thần, và bày nó ra một cách thực tế trước mặt ông ta. Nếu một người đa cảm đến thì chúng ta phải ngồi, và khóc cười cùng họ nhân danh Thượng Đế; chúng ta phải “uống cạn chén thương yêu và trở nên rồ dại”. Nếu một người ham hoạt động đến thì chúng ta cùng làm việc với họ bằng tất cả năng lực của mình. Sự kết hợp những yếu tố này sẽ là lý tưởng cho việc tiếp cận gần gũi nhất đến một tôn giáo phổ quát.
Xin Thượng Đế hãy cho tâm trí của tất cả mọi người đều được cấu tạo đầy đủ bởi bốn yếu tố : triết học, thần bí, cảm xúc và hoạt động! Đó là lý tưởng, lý tưởng của tôi về một người hoàn hảo. Bất cứ người chỉ có một hoặc hai yếu tố trên trong tính cách thì tôi đều xem là người “phiến diện, một chiều”. Và thế gian này hầu như đầy những người “phiến diện, một chiều” như thế; họ chỉ biết con đường mình đang theo đuổi, còn đối với mọi thứ khác họ đều cho nguy hiểm và đáng kinh tởm. Quân bình được cả bốn yếu tố này một cách hài hòa, đó là lý tưởng của tôi về tôn giáo. Và ta có thể đạt đến lý tưởng này bằng cái mà ở Ấn Độ chúng tôi gọi là yoga – nghĩa là sự hợp nhất. Đối với người thích hoạt động thì đó là sự hợp nhất giữa con người với toàn thể nhân loại, đối với người thần bí thì đó là sự hợp nhất giữa tiểu ngã bé nhỏ với Đại Ngã Tối Cao, đối với người yêu thương thì đó là sự hợp nhất giữa tự thân với Thần Tình Yêu, còn đối với triết gia thì đó là sự hợp nhất của tất cả vạn hữu. Đó là ý nghĩa của yoga. Yoga là một từ Sanskrit, và yoga được chia làm bốn pháp môn với bốn tên gọi khác nhau bằng tiếng Sanskrit. Người đi tìm sự hợp nhất theo pháp môn này được gọi là hành giả yogi. Người đi tìm sự hợp nhất qua hoạt động được gọi là karma-yogi. Người đi tìm sự hợp nhất qua tình yêu được gọi là bkhati-yogi. Người đi tìm sự hợp nhất qua điều thần bí được gọi là rāja-yogi. Người đi tìm sự hợp nhất qua triết học được gọi là jnāna-yogi. Bởi vậy, từ yogi bao hàm cả bốn loại người này.
Trước tiên, tôi xin nói về rāja-yoga. Rāja-yoga, hay sự kiểm soát tâm trí, là gì? Ở xứ sở này, các bạn gán cho từ yoga đủ chuyện yêu ma quái đản. Bởi vậy, tôi e rằng mình phải mở đầu bằng cách nói với các bạn nói rằng yoga hoàn toàn không có liên quan gì đến những thứ đó. Không một pháp môn yoga nào từ bỏ lý trí, không một pháp môn yoga nào bắt các bạn phải bịt mắt lại và giao phó lý trí các bạn vào tay của đám tu sĩ thuộc bất cứ loại nào. Không một pháp môn yoga nào bắt các bạn phải tuân phục theo một vị sứ giả siêu nhiên nào hết. Pháp môn yoga nào cũng bắt các bạn phải bám chặt vào lý trí, và giữ nó cho thật chắc.
Chúng ta sẽ thấy trong mọi sinh thể đều có ba công cụ nhận thức. Thứ nhất là bản năng, mà ta thấy phát triển rất cao nơi loài vật; đó là công cụ nhận thức thấp kém nhất. Công cụ nhận thức thứ hai là gì? Là suy luận. Các bạn sẽ thấy nó phát triển rất cao nơi loài người. Trước hết, bản năng là công cụ nhận thức chưa đầy đủ; đối với loài vật thì phạm vi hoạt động rất giới hạn, và bản năng hoạt động trong giới hạn đó. Khi đến với con người thì các bạn sẽ thấy bản năng đó được phát huy phong phú thành lý tính. Phạm vi hoạt động cũng được mở rông thêm ra. Tuy nhiên lý tính vẫn còn rất nhiều khiếm khuyết. Lý tính chỉ có thể đi một đoạn đường ngắn rồi ngừng lại, nó không thể đi xa thêm nữa; và nếu các bạn cứ ra sức đẩy nó đi tới thì hậu quả là tình trạng lộn xộn vô phương cứu chữa; bản thân lý tính sẽ trở nên phi lý. Lôgic trở thành một loại lập luận lẩn quẩn lòng vòng. Thử lấy ngay vật chất và lực – là những thứ làm nền tảng cho nhận thức của chúng ta – để làm ví dụ. Vật chất là gì? Đó là cái chịu tác động của lực. Vậy thì lực là gì? Là cái tác động lên vật chất. Các bạn thấy ngay sự phức tạp mà những nhà lý luận gọi là “cái bập bênh”; đó là ý tưởng A phụ thuộc vào ý tưởng B, rồi ý tưởng B đó lại tùy thuộc vào ý tưởng A. Các bạn sẽ thấy một rào chắn kiên cố dựng lên trước lý tính, mà khả năng suy luận không sao vượt qua nổi; thế nhưng nó lại nôn nóng đi vào Cõi Vô Biên ở Bên Kia. Cái thế giới, cái vũ trụ mà giác quan chúng ta cảm nhận được, hay tâm trí ta suy tưởng được có thể nói chỉ là một nguyên tử của Cõi Vô Biên, được chiếu rọi trên bình diện của ý thức; và lý tính chúng ta chỉ hoạt động trong phạm vi hạn hẹp được xác định bởi mạng lưới của ý thức, chứ nó không thể vượt qua giới hạn đó. Bởi vậy, phải có một công cụ nào khác đưa được chúng ta đến cõi bên kia, và công cụ đó được gọi là linh cảm.
Bởi vậy, bản năng, lý tính và linh cảm là ba công cụ nhận thức. Bản năng thuộc về loài vậy, lý tính thuộc về con người, còn linh cảm thuộc về các vị thánh triết. Tuy nhiên, nơi mỗi người thì hạt giống của cả ba công cụ nhận thức đó đều có đủ, trong trạng thái phát triển ít hay nhiều. Để các công cụ nhận thức tinh thần này tiến hóa thì những hạt giống phải có sẵn nơi đó rồi. Cần phải nhớ rằng công cụ này là sự phát triển của công cụ kia, do đó, không mâu thuẫn với nó. Chính lý tính phát triển thành linh cảm, nên linh cảm không mâu thuẫn với lý tính mà tựu thành cho lý tính. Những sự vật mà lý tính không sao lĩnh hội được lại được đưa ra ánh sáng nhớ linh cảm, và những sự vật đó không hề mâu thuẫn với lý tính. Người già không mâu thuẫn với trẻ con, mà tựu thành cho đứa trẻ.
Do đó, các bạn phải luôn ghi nhớ rằng điều đại nguy hiểm nằm ở chỗ nhận lầm công cụ nhận thức thấp kém thành công cụ nhận thức cao siêu. Đã nhiều lần, bản năng được thế giới xem như là linh cảm, do đó mà có những lời tuyên bố sai lầm về năng khiếu tiên tri. Một gã khờ hoặc một người nửa điên nửa tỉnh luôn nghĩ rằng những thứ hổ lốn trong đầu mình là linh cảm, và muốn người khác phải nghe theo. Điều nhảm nhí phi lý nhất và mâu thuẫn nhất từng được thuyết giảng trong thế gian chỉ là một thứ biệt ngữ[56] mang tính bản năng của những đầu óc điên khùng rối loạn, đang cố cho đó là ngôn ngữ linh cảm. Trắc nghiệm đầu tiên cho lời giao huấn chân thực là nó phải không mâu thuẫn với lý tính.
Các bạn sẽ thấy rằng đây là nền tảng của tất cả những pháp môn yoga. Chúng ta hãy xem rāja-yoga, tức pháp môn yoga tâm lý, hay phương thức hợp nhất bằng tâm lý. Đây là một chủ đề rộng lớn, và tôi chỉ có thể chỉ ra cho các bạn thấy ý tưởng trọng tâm cả pháp môn yoga này. Chúng ta chỉ có một phương thức thu hoạch tri thức. Từ những người thấp kém nhất đến hành giả yogi cao siêu nhất, tất cả đều sử dụng một phương pháp như nhau, phương pháp đó là tập trung tư tưởng. Nhà hóa học, khi làm việc trong phòng thí nghiệm, tập trung toàn bộ năng lực của tâm trí vào một tiêu điểm, rồi phóng chiếu chúng lên các nguyên tố và phân tích chúng; thế là ông ta đạt được tri thức mới. Nhà thiên văn học cũng tập trung toàn bộ năng lực của tâm trí vào một tiêu điểm, rồi phóng chiếu chúng lên các đối tượng, thông qua một kính viễn vọng; các vì sao cùng những thiên hà cuồn cuộn kéo về phía trước, và hé lộ cho ông ta thấy những điều bí ẩn. Tất cả các trường hợp khác cũng y như vậy với vị giáo sư ngồi trên ghế giảng, với anh sinh viên cầm cuốn sách, hay với tất cả những ai đang làm việc để tìm tri thức. Các bạn đang lắng nghe tôi, nếu như lời tôi nói làm cho các bạn thấy hứng thú thì tâm trí các bạn sẽ tập trung vào đó; giả sử chuông đồng hồ có điểm đi chăng nữa thì các bạn cũng không nghe thấy, do mê mãi tập trung. Các bạn càng tập trung tâm trí thì càng hiểu rõ tôi hơn; còn phần tôi, tôi càng tập trung tình yêu và năng lực của mình thì càng có khả năng diễn đạt những gì cần chuyển tải đến các bạn.
Năng lực tập trung càng mạnh thì thu thập tri thức càng nhiều, bởi vì đây là phương pháp duy nhất để thu thập tri thức. Ngay cả anh thợ đánh giày hèn kém nhất, nếu anh ta tập trung nhiều hơn thì đánh giày sẽ bóng hơn; người đầu bếp tập trung nhiều hơn thì sẽ nấu ăn ngon hơn. Trong việc kiếm tiền hay sùng bái Thượng Đế, hay làm bất cứ việc gì, hễ năng lực tập trung càng mạnh thì kết quả càng tốt đẹp. Đây là tiếng gọi duy nhất, tiếng gõ cửa duy nhất mở ra những cánh cửa thiên nhiên, và để cho ánh sáng tuôn trào ra ngoài như thác lũ. Cái này đây – tức năng lực tập trung tư tưởng – là chìa khóa duy nhất để mở kho tàng tri thức.
Pháp môn rāja-yoga hầu như chỉ chuyên về việc tập trung tư tưởng. Trong tình trạng hiện nay của thể xác của chúng ta, chúng ta đã bị phân tâm quá nhiều; và tâm trí cứ phung phí năng lực vào hàng trăm thứ công việc. Ngay khi tôi cố gắng định tâm và tập trung tâm trí vào một đối tượng tri thức thì hàng ngàn xung động không mong muốn khác cứ ào ạt tràn vào bộ não, hàng ngàn tư tưởng khác cứ ngập tràn trong tâm trí và làm nó rối loạn cả lên. Làm thế nào để kiểm soát và chế ngự tâm trí, đó là toàn bộ chủ đề nghiên cứu trong pháp môn rāja-yoga.
Bây giờ, ta hãy nói về karma-yoga, tức pháp môn đạt đến Thượng Đế bằng hoạt động. Rõ ràng là trong xã hội có nhiều người dường như sinh ra là đã có thiên hướng muốn hoạt động, bằng cách này hay cách khác; tâm trí họ không thể chỉ tập trung vào một bình diện tư tưởng, mà họ cần phải có một ý tưởng được cụ thể hóa thành công việc, thấy được và sờ chạm được. Cũng cần phải có một khoa học cho loại tâm trí này. Mỗi người chúng ta đều tham gia vào một công việc, nhưng phần đông chúng ta đều hoang phí quá nhiều năng lực, bởi vì ta không biết được bí quyết làm việc. Karma-yoga giải thích điều bí ẩn này, đồng thời dạy cho chúng ta biết làm việc ở đâu và làm như thế nào, làm thế nào để vận dụng được tối đa năng lực của chúng ta vào công việc trước mắt.
Nhưng cùng với bí quyết này, chúng ta cũng phải xét đến sự phản kháng to lớn chống lại công việc, đó là : công việc là nguyên nhân gây nên đau khổ. Mọi điều khốn khổ và đau khổ đều xuất phát từ tâm luyến cảm. Tôi muốn làm việc, tôi muốn làm điều tốt cho mọi người, nhưng có đến chín mươi phần trăm hoặc tất cả những người tôi giúp đỡ đều tỏ ra vô ơn bạc nghĩa và chống đối lại tôi, kết quả là tôi đau khổ. Những chuyện như thế làm con người nản chí không muốn làm việc, nỗi sợ hãi khổ đau và khốn khổ làm lãng phí một phần lớn công việc và năng lực của con người. Karma-yoga dạy cho ta cách làm việc chỉ vì công việc, không luyến cảm, không quan tâm ai được giúp đỡ và giúp để làm gì[57]. Một karma-yogi làm việc chỉ vì đó là bản tính hoạt động của họ, bởi vì họ cảm thấy làm thế là tốt, và họ không nhắm đến một mục đích nào khác. Vị trí của họ trong thế gian này là làm người ban phát, và họ không bao giờ quan tâm đến chuyện nhận bất cứ thứ gì. Họ biết rằng họ đang cho đi mà không đòi hỏi có gì đáp lại, do đó, họ vượt qua được mọi khốn khổ. Khổ đau, bất kể nó đến lúc nào, đều là kết quả của tâm luyến cảm.
Kế đó là bhakti-yoga dành cho những người mang bản tính đa cảm, dễ xúc động, những người có lòng yêu thương. Họ muốn yêu thương Thượng Đế; họ tin tưởng và vận dụng đủ mọi thứ nghi thức, hương hoa, đền thờ tráng lệ, hình thức xinh đẹp, cùng tất cả những điều như thế. Các bạn có ý muốn nói rằng họ sai chăng? Có một điều tôi phải nói cho các bạn biết. Các bạn nên nhớ rằng, đặc biệt là ở xứ sở này, tất cả những bậc đạo sư tâm linh vĩ đại của thế giới đều chỉ được sản sinh ra từ những giáo phái có thần thoại và nghi lễ vô cùng phong phú. Tất cả những giáo phái nào cố gắng sùng bái Thượng Đế không cần đến nghi thức cũng đều dày xéo không thương tiếc những điều cao đẹp và tôn nghiêm trong tôn giáo. Tôn giáo của họ là sự cuồng tín –một thứ cực kỳ khô cằn. Lịch sử thế giới đã là chứng nhân thường xuyên cho sự kiện này. Bởi vậy, xin đừng chê bai, chỉ trích những nghi lễ và thần thoại này. Cứ để dân chúng có những thứ đó; ai thích thì cứ để cho họ có những thứ đó. Đừng có phô ra nụ cười chế nhạo rẻ tiền, và nói : “Họ là một lũ khùng, cứ để mặc họ có cái đó đi”. Bởi vì không phải thế. Những bậc vĩ nhân mà tôi gặp trong đời mình, những vị có đời sống tâm linh phát triển kỳ diệu nhất, tất cả đều đã trải qua thanh quy giới luật của những nghi lễ này. Tôi thấy mình không xứng ngồi dưới chân các vị đó, phê phán các vị thật là điều xấu hổ cho tôi! Làm sao tôi biết được những ý tưởng này đã ảnh hưởng đến tâm trí nhân loại ra sao? Tôi phải chấp nhận tư tưởng nào và từ bỏ tư tưởng nào? Chúng ta cứ ưa phê phán mọi thứ trên đời, mà chẳng có lý do xác đáng nào. Cứ để mọi người có tất cả mọi thứ thần thoại mà họ cần, với những linh cảm đẹp đẽ; vì các bạn phải luôn luôn ghi nhớ rằng những bản tính đa cảm không hề quan tâm gì đến những định nghĩa trừu tượng về chân lý. Đối với họ thì Thượng Đế phải là cái gì đó cụ thể, là một sự vật duy nhất có thực. Họ cảm nhận được, nghe được, thấy được Ngài và yêu thương Ngài. Hãy để họ có Thượng Đế của riêng mình. Đối với họ thì con người duy lý của các bạn giống như một kẻ ngốc, hễ nhìn thấy một pho tượng đẹp là muốn bẻ ra để xem nó được làm bằng chất liệu gì.
Bhakti-yoga dạy cho họ thương yêu mà không cần đến bất kỳ một động cơ kín đáo nào; họ thương yêu Thượng Đế và thích làm việc thiện vì thấy đó là điều tốt, chứ không phải để lên thiên đàng, để cầu con cái, của cái hay bất cứ thứ gì. Bhakti-yoga dạy cho họ rằng bản thân sự thương yêu đã là phần thưởng tối cao của thương yêu rồi – chính Thượng Đế là Tình Thương. Pháp môn này dạy cho họ dâng đủ mọi thứ lễ vật lên Thượng Đế như là đấng Tạo Hóa, đấng Vô Sở Bất Tại, đấng Toàn Trí, đấng Cai Trị Toàn Năng, là Cha Mẹ.
Thành ngữ tối thượng để diễn tả Ngài, quan niệm tối cao mà tâm trí nhân loại có thể hình dung được Ngài, đó là : Ngài là Thượng Đế của Tình Thương. Bất cứ nơi đâu có tình thương yêu thì đó là Ngài. “Hễ nơi nào có tình thương thì đó là Ngài; đấng Chúa Tể ngự trị nơi nơi ấy”. Nơi nào chồng hôn vợ thì Ngài ở trong nụ hôn đó; nơi nào mẹ hôn con thì Ngài ở trong nụ hôn đó; nơi nào bè bạn nắm tay nhau thì Ngài, đấng Chúa Tể, hiện hữu tại nơi ấy như là Thượng Đế của Tình Thương. Khi nào một bậc vĩ nhân yêu thương và muốn giúp đỡ loài người thì Ngài hiện hữu ở đó, hào phóng ban phát Thương Yêu cho toàn thể loài người. Bất cứ nơi nào cõi lòng rộng mở thì Ngài hiện hữu ở nơi đó. Đó là lời dạy của pháp môn bhakti-yoga.
Cuối cùng, ta đến với các hành giả jnāna-yogi, đó là những triết gia, những nhà tư tưởng, những người muốn vượt cao hơn cõi hữu hình này. Họ là người không thỏa mãn với những sự vật vụn vặt, nhỏ bé trong thế gian này. Quan niệm của họ là vượt qua thói quen ăn uống, cùng những sinh hoạt thường ngày. Thậm chí lời giảng dạy của hàng ngàn cuốn sách cũng không làm họ thỏa mãn. Thậm chí tất cả những nền khoa học cũng không làm họ thỏa mãn, giỏi lắm thì chúng chỉ giải thích được cái thế giới nhỏ bé này cho họ. Vậy thì cái gì sẽ làm họ thỏa mãn? Cho dẫu hằng hà sa số cõi thế này cũng không làm họ thỏa mãn, họ xem chúng chỉ là một giọt nước trong cõi đại dương bao la của tồn tại. Linh hồn họ muốn vượt qua tất cả để đi sâu vào tận bản tâm của vạn hữu bằng cách thấy được Thực Tại y như thực – bằng cách thể ngộ được Thực Tại đó, biến thành Nó và hợp nhất với Hằng Hữu Phổ Quát. Đó là triết gia. Nói rằng Thượng Đế là Cha Mẹ, là đấng Sáng Tạo vũ trụ, là đấng Bảo Vệ và đấng Dẫn Đạo vũ trụ thì đối với họ cũng chưa phải là cách diễn tả tương xứng. Đối với các hành giả jnāna-yogi thì Ngài là Sự Sống của đời sống họ, Linh Hồn của linh hồn họ. Thượng Đế là Chân Ngã của họ. Tất cả đều là Thượng Đế, không có gì chẳng phải là Ngài. Tất cả những thành phần mang bản chất phù du tử diệt của họ đều bị những cú đấm trầm trọng của triết học đánh cho tan nát và quét sạch đi. Cái thực sự còn lại cuối cùng chính là Thượng Đế.
Có hai con chim đậu trên cùng một cây, một con đậu trên ngọn, một con đậu dưới thấp. Con chim trên ngọn thì trầm lặng và oai vệ, đắm chìm trong ánh hào quang rực rỡ của mình; con chim ở dưới thấp lúc thì ăn nhằm trái ngọt, lúc thì ăn nhằm trái đắng, nó nhảy nhót từ cành này sang cành kia, lúc thì thấy hạnh phúc, lúc thì thấy đau khổ. Sau một thời gian, con chim ở dưới thấp ăn nhằm một trái cực kỳ đắng và thấy kinh tởm. Nó ngước lên nhìn và thấy con chim kia, diệu kỳ trong bộ lông vàng rực rỡ, không ăn trái ngọt mà cũng chẳng ăn trái đắng, không hạnh phúc cũng chẳng khổ đau, cứ trầm tĩnh, tập trung vào Chân Ngã, không thấy gì ngoài Chân Ngã của mình. Con chim ở dưới thèm muốn trạng thái đó, nhưng chẳng bao lâu nó quên đi mất, rồi lại bắt đầu ăn trái cây. Được một hồi, nó lại ăn nhằm một trái cực kỳ đắng khác và thấy đau khổ, nó lại ngước lên nhìn và cố gắng đến gần con chim trên ngọn. Lần nữa, nó lại quên bẵng đi, rồi sau một lúc, nó lại ngước nhìn lên, rồi nó cứ lặp đi lặp lại như thế, cho đến khi nó đến gần con chim xinh đẹp kia, và thấy ánh hào quang từ bộ lông vàng kia phản chiếu chung quanh người nó, nó cảm nhận được sự chuyển hóa và tựa hồ như tan biến đi. Nó càng đến gần thêm nữa, mọi vật chung quanh nó tựa hồ như tan biến mất, rồi cuối cùng nó hiểu được hiện tượng kỳ diệu này. Có thể nói con chim ở dưới thấp chỉ là cái bóng trông như thật, hay chỉ là sự phản chiếu của con chim trên ngọn; tự bản chất, nó lúc nào cũng chính là con chim trên ngọn. Chuyện con chim dưới thấp cứ lần lượt ăn nhằm trái cây ngọt hoặc đắng, hưởng hạnh phúc hoặc chịu khổ đau, chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ mà thôi, con chim chân thực vẫn mãi mãi ở nơi đó, trầm lặng an nhiên, rực rỡ và oai vệ, vượt ngoài mọi ưu sầu, khổ não.
Con chim ở trên ngọn cây là Thượng Đế, đấng Chúa Tể của vũ trụ, còn con chim ở dưới thấp là linh hồn con người, ăn những trái cây ngọt, đắng của trần gian. Thỉnh thoảng, con người phải chịu một cú đấm nặng nề. Họ liền ngừng ăn trong một thời gian và hướng đến một đấng Thượng Đế xa lạ, rồi cơn lũ ánh sáng tràn đến. Họ nghĩ rằng thế gian này chỉ là một tấn tuồng hư huyễn. Thế nhưng giác quan lại lôi họ xuống, và họ lại tiếp tục ăn những trái cây ngọt, đắng của trần gian như trước. Rồi họ lại bị một cú đấm như trời giáng. Tâm hồn họ lại mở rộng ra trước ánh linh quang. Cứ như thế, họ dần dần tiếp cận được với Thượng Đế, và khi càng đến gần thì họ thấy cái tự ngã cố hữu của mình tan biến mất. Khi đến đủ gần thì họ thấy mình chính là Thượng Đế chứ không gì khác, rồi tuyên bố : “Đấng mà tôi đã mô tả cho các bạn như là Sự Sống của vũ trụ này, đấng đang hiện hữu trong nguyên tử, trong mặt trời, mặt trăng – thì Ngài chính là nền tảng cho sự sống của chúng ta, là Linh Hồn của mọi linh hồn. Nói cho đúng hơn thì các bạn chính là Ngài”.
Đây là lời dạy của pháp môn jnāna-yoga. Nó bảo cho con người biết rằng bản chất họ chính là thần linh. Nó chỉ cho con người thấy nhất thể chân thực của tồn tại, đó là : mỗi người chúng ta đều chính là Thượng Đế Tối Cao đang hiển thị trên thế gian này. Tất cả chúng ta – từ loài sâu bọ thấp kém nhất đang bò dưới chân ta, cho đến những nhân vật tối cao mà chúng ta ngưỡng mộ và kính sợ – đều là những sự hiển lộ của cùng một Thượng Đế.
Cuối cùng, điều khẩn yếu là cần phải thực hành được tất cả
những pháp môn yoga này, cứ lý thuyết suông thì cũng chẳng đem lại lợi ích gì.
Trước tiên, chúng ta phải nghe thuyết giảng về chúng, rồi chúng ta phải tư duy
về chúng. Chúng ta phải suy diễn những tư tưởng đó, khắc trong chúng trong trí
não, chúng ta phải quán tưởng về chúng, thực chứng được chúng, cho đến lúc cuối
cùng, khi chúng trở thành toàn bộ đời sống của chúng ta[58].
Tôn giáo không còn là một mớ ý tưởng hay lý thuyết nữa, cũng chẳng phải là sự
chấp thuận bằng trí năng, mà nó đi sâu vào chính tự ngã của chúng ta. Khi dùng
trí năng để chấp thuận thì hôm nay chúng ta có thể tán đồng nhiều chuyện điên
rồ, để rồi hôm sau lại đổi ý hoàn toàn. Nhưng tôn giáo chân thực thì không bao
giờ thay đổi. Tôn giáo là tu tập, là thực chứng, chứ không phải là những lời
nói suông, cũng chẳng phải là giáo lý hay lý thuyết, cho dù những thứ đó có đẹp
đẽ đến mấy đi chăng nữa. Tôn giáo là hiện hữu và chuyển hóa, chứ không phải là
chuyện nghe theo rồi chấp nhận. Đó là sự chuyển hóa của toàn bộ linh hồn thành
đức tin. Đó là tôn giáo.
[1] The Light of Asia là bài trường thi của Sir Edwin Arnold, thuật lại cuộc đời đức Phật từ khi đản sanh cho đến lúc giác ngộ. Hiện đã có ít nhất là hai bản dịch tiếng Việt, một của Đoàn Trung Còn dịch theo bản tiếng Pháp, một của Trần Phương Lan theo nguyên tác tiếng Anh.
[2] Utilitarianism : một học thuyết phương Tây, quan niệm rằng giá trị của một sự vật hay hành động được xác định bởi lợi ích do nó đem lại.
[3] Tôi chưa tra cứu được nguyên văn của câu này, có lẽ là câu “Vị tri sinh, an tri tử?” 未 知 生, 焉 知 死 (Sống còn chưa biết rõ thì làm sao biết được chết? Luận Ngữ, XI,11)
[4] Vivekananda dùng từ nature theo cả hai nghĩa : chỉ thế giới tự nhiên, và bản tính tự nhiên của con người.
[5] Real Nature
[6] Như vậy, bằng trực giác, đại sư Vivekananda cũng nhận ra sự tương quan giữa năng lượng và vật chất, mà về sau nhà vật lý thiên tài Einstein đưa ra trong công thức lừng danh E=mc2.
[7] Chữ Tự Ngã [Self] (viết hoa) mang ý nghĩa giống như chữ linh hồn [Soul]. Xem cước chú ở trang 189. [Vivekananda]
[8] Phật giáo gọi là “ngã” và “ngã sở”
[9] Khoảng năm 1857, Công ty Đông Ấn của bọn thực dân Anh làm cho miền Đông Bắc Ấn trở nên bần cùng khốn khổ; dân chúng căm phẫn tột độ nên vùng lên khởi nghĩa. Chính quyền Anh trấn áp dã man, rồi tiếp quản toàn bộ đất đai cướp được, biến thành thuộc địa của Hoàng gia Anh.
[10] Tác giả muốn nói đến khái niệm “tội nguyên thủy” trong kinh Thánh.
[11] Ête [ether] là một khái niệm thuộc vật lý học, trước đây nhiều nhà vật lý tin rằng đó là môi trường vật chất không khối lượng lấp đầy toàn bộ không gian, để làm môi trường cần thiết cho sóng điện từ có thể lan truyền đi được. Thí nghiệm Michelson-Morley năm 1887 đã bác bỏ giả thuyết về sự tồn tại của môi trường ête này. Vào giai đoạn đại sư Vivekananda thuyết giảng bài này thì lý thuyết ê-te rất thịnh hành trong giới khoa học phương Tây.
[12] Theo thần thoại Hy Lạp, Phrixus đã tế lễ Con Cừu Vàng để tạ ơn thần Zeus và tặng bộ lông cừu cho vua Aeetes. Ông vua này đem treo bộ lông Cừu Vàng tại khu rừng thiêng Colchis, được một con rồng canh giữ. Con rồng này không không bao giờ ngủ. Theo truyền thuyết thì quốc gia nào được sở hữu được Bộ Lông Cừu Vàng sẽ trở nên hùng mạnh.
[13] Nghĩa là những người phụ nữ góa có chồng chết phải sống vậy suốt đời, không được tái giá.
[14] Ý tác giả muốn nói các quốc gia châu Âu thời đó giàu mạnh là nhờ bóc lột các thuộc địa phương Đông; như Anh bóc lột Ấn Độ, Pháp bóc lột Đông Dương ….
[15] Đọc đoạn văn này khiến ta liên tưởng đến một giai thoại Thiền tông. Có một vị tăng tên Đạo Tín đến thỉnh cầu tam tổ Tăng Xán dạy pháp môn giải thoát. Tăng Xán hỏi: “Ai trói buộc ông?”. Đạo Tín thưa: “Dạ, không ai trói buộc.” Tổ bảo: “Không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì?” Đạo Tín liền hoát nhiên đại ngộ, và trở thành tổ thứ tư Thiền tông Trung Quốc.
[16] Tên một ông vua trong thần thoại Hy Lạp. Tantalus muốn kiểm tra quyền năng của các vị thần, nên đã giết con trai mình là Pelops, làm thành thức ăn dâng cúng để đánh lừa chư thần. Để trừng phạt tội ác của Tantalus, chư thần đày y xuống địa ngục, tại một biển nước cao đến thắt lưng với một quả trái cây luôn lơ lửng trên đầu. Mỗi khi Tantalus quỳ xuống để uống, thì mực nước lại rút xuống; còn mỗi lần y vói người lên lấy trái cây, thì cành cây lại nâng cao lên, khiến Tantalus phải chịu sự đói khát bất tận.
[17] Tên một nhân vật nữ trong vở kịch của Thomas Morton, chỉ những người thủ cựu, khó tính.
[18] Khái niệm tuyệt đối hay tương đối không phải hiểu theo cách thông thường. Tuyệt đối có nghĩa là tự tại, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào bất kỳ một đối tượng nào, còn tương đối có nghĩa là phụ thuộc lẫn nhau.
[19] Theo Darwin, cha đẻ của thuyết tiến hóa, thì sự tiến hóa tùy thuộc vào hai yếu tố : 1. Biến thể (variation) và 2.thích nghi với môi trường.
[20] Đây cũng chính là tư tưởng trang nghiêm quốc độ, biến cõi Ta Bà thành Niết Bàn trong tư tưởng Phật giáo.
[21] Chỉ mặt trời.
[22] Quan điểm của Vivekananda cũng tương tự như triết gia Spinoza: “Tôi tin rằng nếu như hình tam giác mà biết nói thì có lẽ nó sẽ bảo rằng Thượng Đế chắc chắn phải là hình tam giác, và một vòng tròn sẽ bảo bản chất thần linh phải là hình tròn; như thế đó, ai nấy cũng đều đem những thuộc tính của riêng mình mà gán cho Thượng Đế” (I believe that a triangle, if it could speak, would … say that God is eminently triangular, and a circle that the divine nature is eminently circular; and thus would every one ascribe his own attributes to God – Dẫn theo Will Durant, The story of philosophy, Time Incorporated- New York, 1962 p.165).
[23] Có lẽ Đại sư vivekananda muốn nói đến những người Ba Tư cổ đại, đã tạo nên một nhánh người Āryan. [G.c trong nguyên tác]
[24] Có nghĩa là hãy tận hưởng cuộc đời.
[25] Tức nước Anh.
[26] Tức Ấn Độ.
[27] Công thực hiện khi nâng một pount lên cao một foot.
[28] Sách Đại Học của Nho gia cũng nói : “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị.” 心不在焉, 視而不見, 聽而不聞, 食而不知其味。(Tâm không đặt vào đó thì nhìn mà không thấy, nghe mà không hay, ăn mà không biết mùi vị).
[29] So sánh với câu nói của Khổng Tử : “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân 上 不 怨 天, 下 不 尤 人 (Trên không oán Trời, dưới không trách người. Trung Dung,XIV)
[30] Bánh xe đu quay đầu tiên được dựng trong Hội chợ Triển lãm Colombia tại Chicago năm 1893 [G.c. trong nguyên tác]
[31] Phật giáo gọi là hòa hợp pháp.
[32] Lập luận này giống với phương pháp suy luận quy nạp trong toán học.
[33] Tức tiếng Mỹ.
[34] Tức khái niệm danh và tướng trong tư tưởng Phật giáo.
[35] Đó là “tính” theo tinh thần Nho giáo : ” Năng tận kỳ tính tắc năng tận nhân chi tính. Năng tận nhân chi tính, tắc năng tận vật chi tính. Năng tận vật chi tính, tắc khả dĩ tán Thiên địa chi hóa dục. Khả dĩ tán Thiên địa chi hóa dục, tắc khả dĩ dữ Thiên địa tham hĩ. 能 盡 其 性 則 能 盡 人 之 性. 能 盡 人 之 性 則 能 盡 物 之 性. 能 盡 物 之 性 則 可 以 贊 天 地 之 化 育. 可 以 贊 天 地 之 化 育 則 可 以 與 天 地 參 矣. Có thể thấu triệt được trọn vẹn bản tính của mình thì mới có thể thấu triệt được trọn vẹn bản tính của người; có thể thấu triệt được trọn vẹn bản tính của người thì mới có thể thấu triệt được trọn vẹn bản tính của muôn vật; có thể thấu triệt được trọn vẹn bản tính của muôn vật thì mới có thể giúp vào việc hóa sinh của trời đất; có thể giúp vào việc hóa sinh của trời trời thì mới có thể cùng tham dự với trời đất”. (Trung dung, XXII)
[36] Co lẽ đại sư ám chỉ cái đèn chiếu [magic latern] [G.c trong nguyên tác]
[37] Đây cũng chính là tư tưởng “Tận kỳ tính” của Nho gia.
[38] Tức cuốn Noi gương đấng Christ (The Imitation of Christ) của Thomas à Kempis (1380 –1471).
[39] Ta như nghe lại câu nói của Khổng Tử “Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân” (Người có thể làm cho đạo lớn mạnh, chứ không phải đạo làm cho người lớn mạnh).
[40] Tôi dịch “Caste” là “chủng cấp”, vì đây là cách phân loại mọi người trong xã hội Ấn Độ theo chủng tính, nghĩa là theo dòng dõi, huyết thống chứ không phải căn cứ theo thân phận xã hội và tài sản như giai cấp (class).
[41] Vì nước Anh là xứ sở sương mù.
[42] Lời dạy của Chúa Jesus : “Đừng chống cự người làm ác, nếu bị ai tát má bên phải thì hãy đưa luôn má bên trái cho họ” (Tân Ước, Ma-thi-ơ, 5:39).
[43] “Bản thể và phẩm tính” (substance và qualities) hay thường được dịch là “bản thể và thuộc tính”
[44] noumenon là cái “nguyên thể” của sự vật, tức là cái mà qua đó sự vật được tri nhận mà không cần đến các ý nghĩa,. Trong triết học phương Tây thì thuật ngữ này được dùng đối lập với “phenomenon” (hiện tượng) dùng để chỉ cái ngoại biểu hay cái biểu hiện bên ngoài, tức đối tượng của ý nghĩa.
[45] Auguste Comte (1798–1857) là triết gia Pháp, người sáng lập triết học thực chứng (positivism).
[46] Tức năm uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[47] Chỉ cuộc chiến tranh Boer. [G.C trong nguyên tác]
[48] Tức quan điểm “Survival of the fittest” của các nhà chủ trương thuyết tiến hóa thời bấy giờ, trong cơ chế chọn lọc tự nhiên (natural selection).
[49] Tác giả muốn nói đến những tôn giáo mà tu sĩ được phép lập gia đình.
[50] Không riêng gì tôn giáo, mà ngay cả những triết thuyết muốn cải tạo thế giới bằng bạo lực cũng đi theo vết xe đổ đó. Sau những trận tàn sát đẫm máu cùng cực phi lý và phi nhân tính, thì xã hội đổ nát, văn hóa băng hoại, con người sống vô cảm, nhân cách bị hủy diệt… là hậu quả tất yếu của những quan điểm ấu trĩ này.
[51] Hoàng đế Hồi giáo.
[52] Tức giai đoạn 1850-1900.
[53] Nước Anh thời đó có nhiều nhân vật nổi tiếng đều mang tên John Lubbock, nên không rõ đại sư Vivekananda muốn nói đến ai.
[54] Lịch sử chứng minh cho ta thấy những triết thuyết hô hào xây dựng một “Thế giới đại đồng” với tình huynh đệ trên toàn thế giới bằng những ngôn từ đao to búa lớn thực chất chỉ là những lời rỗng tuếch, và nó chỉ đem lại cho nhân loại vô vàn tang tóc. Nó đẩy lịch sử nhân loại vào một mô hình xã hội mang tính hủy diệt văn hóa còn hơn những xã hội mà nó muốn xóa bỏ bằng bạo lực.
[55] Đây là hình ảnh “bình đẳng” đáng sợ của những mô hình “thế giới đại đồng” được xây dựng bằng những tư duy ấu trĩ duy ý chí, trong đó mọi người ai nấy đều có cuộc sống và tư duy rập khuôn giống hệt như nhau.
[56] Biệt ngữ [jargon] là thuật ngữ do một nhóm người nào đó dùng riêng, mà người khác không sao hiểu được.
[57] Đây là tinh thần “Vô công dụng hạnh” của Phật giáo.
[58] Đây cũng chính là pháp môn “văn, tư, tu” của Phật giáo. Nghe thuyết pháp hoặc học hỏi từ kinh điển là văn; nghiên cứu, trầm tư quán tưởng về những điều đã tiếp thu là tư; tu tập để thực chứng được điều đã học là tu.
Thảo luận