Huỳnh Ngọc Chiến
Huỳnh Ngọc Chiến

08.Phật giáo như một “giả thuyết hữu hiệu”

Mỗi người với thế giới quan riêng cảu mình, đức tin cũng như khoa học, sẽ là những đại biểu cho một loại kiến thức.

Đức tin đại diện cho một loại “kiến thức tự nó”, nghĩa là một loại kiến thức mang tính chất thần linh. Khoa học vạch con đường tới loại kiến thức nằm trong các định luật; một công việc nặng nhọc mà chắn chắn sẽ giúp nó luôn “trên đường tìm kiếm”. Đức Phật, trái lại, đem lại một thế giới quan không phải bằng cách tạo ra một loại kiến thức mới mẻ mà bằng cách chấm dứt Vô minh từ vô thủy.

Ngày nay, những con người hiện đại chúng ta thường có thói quen xem khoa học giữ vai trò trung gian giữa chúng ta và chân lý; có thể nói đó là vị thầy tư tế tối cao phán quyết về chân lý, đã đưa tay ra tiếp đón chúng ta như một vị chủ nhân thiêng liêng. Cùng với thái độ của khoa học đối với Tự nhiên, sự phủ nhận về nguyên lý tất cả những gì bất khả tri đối với giác quan, do đó bao hàm tính khả tri tiền ẩm của mọi hiện tượng trong cuộc sống, thì phương pháp của khoa học cũng được xác định rõ ràng- đó là những phương pháp quy nạpdiễn dịch. Cả hai phương pháp đều đi đến chỗ tìm hiểu một hiện tượng một cách gián tiếp thông qua các hiện tượng khác; hoặc bởi cách tương tự, đi đến chỗ tìm ra căn nguyên túc lý của một hiện tượng trong cuộc sống thông qua một hiện tượng khác trong cuộc sống.

Bây giờ có một điều duy nhất trong thế giới này mà không thể áp dụng cách này được, cái mà không bao giờ tôi có thể tiếp cận bằng những con đường vòng vo gián tiếp, đó là Thức của chính tôi. Bởi vì đối với sự kiện tôi là gì và tôi đang ở đâu thì không có cách nào tôi tiếp cận được, cho dù tôi có dùng đủ mọi cách tinh vi nhất của bộ môn tâm-sinh-lý học.

Toàn bộ tư tưởng Phật giáo đặt nền tảng trên sự phân biệt bản tính tinhyếu của Thức. Sự phân biệt này, tuy nhiên, tự thân nó là một dạng của thức, do đó không thể nào tiếp cận bằng bất kỳ con đường nào hay phương pháp nào; nó không thể đóng vai trò trung gian.

Tại đây, nhà khoa học sẽ nói : “”Nếu sự phân biệt này không thể đóng vai trò trung gian, nghĩa là được rút ra từ kinh nghiệm, thì nó phải có tính trực tiếp. Nhưng nếu vậy thì điều đó có nghĩa rằng nó là một thứ thần khải, một dạng của đức tin. Và như thế thì so với những tôn giáo dựa trên sự mặc khải, toàn bộ Phật giáo cùng giáo lý về Nghiệp chỉ khác với chúng trên danh từ chứ không phải trong bản chất“.

Một kết luận như thế, tuy nhiên, sẽ sai lầm. Sẽ còn có khả năng thứ ba.

Khoa học dấu mình trong lĩnh vực mà mối quan tâm đến nó giống như mối quan tâm của chúng ta đối với vấn đề sinh hoạt tình dục hằng ngày. Chúng ta tự hào hãnh diện về con cái mình, nhưng chúng ta lại xấu hổ về hành động để cho chúng được chào đời. Thái độ của khoa học cũng như vậy đối với những đứa con nào không được hình thành như những đứa trẻ tí hon trong ống nghiệm, mà được sinh ra hẳn hoi- đó là các trực giác của khoa học. Người ta tự hào về chúng, song người ta không bao giờ thấy yên lòng cho đến khi nào hệ thống hóa được chúng, tròng được lên chúng cái áo choàng quy nạp để khiến chúng hòa hài hợp điệu với cung bậc bảo toàn của khoa học. Định luật Galileo về các vật thể rơi, định lý Newton, định luật bảo toàn năng lượng của Robert Mayer đều là các trực giác. Song vẫn có nhiều kiến giải lóe sáng khác, mà khoa học lại phủ nhận tình trạng của những đưa con hợp pháp này, xem chúng như là những đưa con hoang, lại là những trực giác, chẳng hạn như khoa não tướng học của Gall, ý tưởng similia similibus curantur [1] của Hahnemann vốn đã phát triển mạnh mẽ qua nhiều phương pháp xử lý đem lại bao ơn ích cho con người trong phương pháp vi lượng đồng căn và bao thứ khác.

Những trực giác này đều có một điểm chung là chúng không hề được rút ra từ một số thí nghiệm đúng đắn. Chúng đều là từng kinh nghiệm vụt đến với lý trí bởi một tác động duy nhất. Chúng đều là từng tiến trình của sự tăng trưởng và phát triển tinh thần vốn được kích hoạt bởi tác động của một cá tính đặc biệt. Giống như sự phát triển của rau quả đòi hỏi phải có một tác động, một sự kích thích, thì sự phát triển của tinh thần mà khoa học gọi là “trực giác” cũng thế. Không bao giờ chúng ta đạt đến trực giác bằng những con đường của quy nạp và diễn dịch; mà chúng ta dần trở thành trực giác. Cho dù năng lực lĩnh hội sự vật được hình thành đến trình độ có thể nắm bắt và đồng hóa một tác động cụ thể, thì rốt cuộc vẫn nảy sinh ra một hậu quả mà không bao giờ con đường thực nghiệm nào có thể đạt đến được. Một tác động duy nhất, dòng máu nhạt màu trong tĩnh mạch ở những miền nhiệt đới đã đem lại cho Robert Mayer trực giác. Một tác động duy nhất, một lời ghi chú trên cuốn Materia Medico của Cullen về Trung Quốc và đặc điểm của chứng sốt từng cơn đã đem lại cho Hahnemann trực giác[2]. Cũng có thể nói rằng hiện tượng trái táo rơi là tác động duy nhất đã đem lại cho Newton trực giác.

Tư tưởng đức Phật cũng mang tính trực giác như thế. Cảnh tượng lão bệnh tử – như theo truyền thuyết – đã tác động không ngừng đến đức Phật cho đến khi chín mùi, khiến Ngài quyết định rời bỏ cung điện của vua cha để sống cuộc đời khổ hạnh và cuối cùng chứng thành chánh quả. Giáo lý của đức Phật là trực giác thuần túy, và đó là trực giác mà mọi nỗ lực nghiên cứu theo những phương pháp khoa học để hòng lĩnh hội được nó bằng phương pháp quy nạp đều bất khả.

Dù tôi có đặt giáo lý đức Phật trước mặt một nhà khoa học tài năng nhất đã từng sống, thì đối với ông ta, hẳn nó vẫn mãi mãi là thứ hoàn toàn vô vị, nếu như khả năng nhận thức của nhà khoa học này chưa ở trong tình trạng tương xứng để cộng hưởng hòa thanh với giáo lý đó, để phản ứng lại “sự kích thích” đưa ra đó, để thấy hưng phấn và đồng hóa với nó.

Ví dụ đối với thức ăn nuôi dưỡng tôi, nó chỉ được bày ra đấy và tôi phải ăn, song nó có thể cung cấp được chất dinh dưỡng hoặc chỉ là thứ vô giá trị; thì cũng thế đối với chân lý trong tư tưởng Phật giáo, nó chỉ có thể được bày ra đấy và tôi phải thử nghiệm với nó, song nó có thể là dưỡng chất cho tinh thần hoặc bị chối bỏ như một thứ hoàn toàn vô giá trị. Tại đây, có thể dẫn chứng câu ngạn ngữ : “Sapere aude!”[3].

Tư tưởng Phật giáo bất lực vô năng đối với những đầu óc không thể đồng hóa được nó, và các đầu óc đó cũng thế đối với tư tưởng Phật giáo.

Giáo lý đức Phật đối với những đầu óc như thế cũng giống như những mảnh đất sa mạc khô cằn đối với cơn mưa : hết năm này qua năm khác mặt đất quá nóng đó cứ ngăn không cho những đám mây tạo mưa bay qua để cất đi gánh nặng của mình. Chúng không nhận các cơn mưa không phải vì chúng đã sũng nước mà chỉ vì chúng quá đỗi nứt nẻ, khô cằn. Điều này diễn ra theo định luật của circulus vitiosus[4]. Vì không có mưa nên cây cối không mọc được và vì không có cây cối nên không có cơn mưa nào đến được. Tại đây, không cần phải làm gì ngoài việc cứ ngồi chờ đợi một cách kiên nhẫn cho đến một thời điểm nào đó, trong tấn tuồng thế giới bất ngờ và vô thủy, có một hạt mầm nảy lên, một hạt mưa rơi xuống và diễn ra cái vòng lẫn quẩn tốt đẹp hơn, cây đâm chồi nẩy lộc vì mưa, còn mưa thì rơi nhiều hơn nhờ cây đâm chồi nầy lộc. Với những đầu óc “quá nóng” không tiếp thu được các giáo lý, thì điều này cũng diễn ra tương tự, nghĩa là không cần phải làm gì ngoài việc cứ ngồi kiên nhẫn chờ đợi mãi cho đến một ngày nào đó, trong tấn tuồng thế giới bất ngờ và vô thủy, vài hạt mầm giáo lý đầu tiên sẽ đâm chồi và vài hạt mưa chánh trí sẽ rơi xuống.

Nghiêm túc mà nói, trực giác không thể chứng minh được, cho dù đó là trực giác của đức Phật hay của khoa học. Tất cả cái gọi là bằng chứng đều là sự mê tín, giống như ta thấy khá rõ ràng trong trường hợp định luật bảo toàn năng lượng. Giá trị của một trực giác chỉ chấp nhận để được đo lường bởi tính hữu dụng của nó như là một giả thuyết hữu hiệu.

Bởi vậy, đối với tư tưởng đức Phật, điều duy nhất cần làm là hỏi : “Một giả thuyết hữu hiệu như thế thì có ích lợi gì, dùng được vào việc gì?”.

Nếu tại đây người ta dùng được nó vào một việc gì đó thì người ta mới tin ở nó. Khi đã tin ở nó rồi thì người ta mới suy tư về nó. Khi đã suy tư về nó rồi thì người ta mới mới cưu mang nó trong tâm trí. Khi đã cưu mang nó trong tâm trí rồi thì người ta càng dễ có khả năng nhận ra được tính chân thực, không hư vọng trong giáo lý này, “Té ra là vậy!”

Mọi sinh hoạt tinh thần đều đặt nền tảng trên tính-tất-yếu-cho-tư-duy của căn nguyên túc lý. Song không một bộ môn khoa học nào có thể giải thích được nền tảng của tính tất yếu này là cái gì.

Đức Phật đem lại lời giải thích bằng cách chỉ ra rằng Thức – hay Nghiệp – chính là căn nguyên túc lý này. Từ đó dẫn đến một điều tất yếu rằng dù cuộc sống có trôi chảy đến đâu chăng nữa dưới sự định hình của Thức, thì câu hỏi về căn nguyên túc lý vẫn được đặt ra cho nó. Chừng nào không nắm bắt được sự kiện rằng Thức chính là lực, nghĩa là căn nguyên túc lý, thì chúng ta vẫn cứ đi tìm trong hiện tượng cái mà mình là, tức cái tự tánh của mình, cái chỉ có thể đạt đến được trong chính mình mà thôi.

Đây là cái làm điểm tựa cho triết học hoài nghi, chẳng hạn như với Hume, cho rằng không hề có quan hệ nhân quả gì cả; bởi các căn nguyên túc lý của những hiện tượng không thể được chứng minh do vì, giống như lực, các căn nguyên túc lý đó không thể được cảm nhận bởi giác quan. Từ đó dẫn đến khả năng truy nguyên được một tiến trình đến bất kỳ một mức độ nào tùy chọn, mà không gặp phải bất cứ điều gì để biện minh cho khái niệm nhân quả. Trước hết, hẳn người ta phải hiểu rằng ý thức của tôi, tức ý thức của người truy nguyên, chính là quan hệ nhân quả này, nếu như ta buộc phải hiểu rằng trong đó chứa tính tất yếu thấy được quan hệ nhân quả khắp nơi –mà lại không nhìn thấy nó!

 Đạt đến khái niệm nhân quả bằng kinh nghiệm là điều hoàn toàn bất khả. Hume đã chỉ ra điều này với trình độ bậc thầy. Nhưng ông ta lại tránh vấn nạn này bằng cách tuyên bố rằng khái niệm này là sản phẩm của thói quen, thì điều đó cũng bị ngộ nhận giống như khi tuyên bố rằng nó là cái tiên nghiệm, nghĩa là cái được đưa ra trước tất cả mọi kinh nghiệm. Còn một khả năng thứ ba nữa nằm ở giữa và ở trên hai đối cực này.

Giống như từ một hình đa giác ta không bao giờ tiến đến được khái niệm về hình tròn, dù ta có gia tăng số góc lên nhiều đến đâu đi nữa thì ta vẫn cứ ở trong khái niệm về hình đa giác; cũng thế, từ những dữ liệu đơn giản, từ hai biến cố xảy ra liên tiếp nhau, ta không bao giờ tiến đến được khái niệm mối quan hệ nhân quả cho dù ta có tăng số lần quan sát nhiều đến vô cùng. Người ta chỉ có thể hiểu hình tròn từ hình đa giác khi hình tròn được xem là khái niệm giới hạn (Grenzbegriff). Cũng vậy, người ta chỉ có thể hiểu được mối quan hệ nhân quả từ sự tiếp nối của các biến cố khi mà mối quan hệ nhân quả được xem là giá trị giới hạn (Grenzwert). Điều này, tuy nhiên, lại không có nghĩa là nó là cái tiên nghiệm, mà chỉ có nghĩa rằng Thức chính là giá trị giới hạn này. Tất cả những kẻ vô tâm đều cố gắng hướng đến điều đó, khi họ thấy được mối quan hệ nhân quả trong các biến cố mà không có cách nào giải thích được.

Đó là ẩn ngữ của tính tất yếu luận lý của định luật về căn nguyên túc lý như đã được đức Phật giải đáp.

Lại nữa : mọi sinh hoạt tinh thần đều tự chẻ đôi mình thành hai phần : đức tin và khoa học. Đức tin nói : “Hiện tại phải có một cái gì đó bất khả tri đối với giác quan ”. Khoa học lại lên tiếng : “Chúng ta không thể tìm thấy bất cứ một điều gì bất khả tri đối với giác quan, và do đó, về nguyên tắc, phải loại bỏ một khái niệm như thế”.

Tại điểm này, bậc Đạo sư đã hòa giải sự mâu thuẫn và chỉ ra rằng cả hai đều đúng, bởi vì cả hai đều sai, do bởi cả hai đều không biết cách giải thích “thức”, nghĩa là chính bản thân của đức tin lẫn khoa học.

Thức, như là Nghiệp, là cái bất khả tri đối với giác quan, là nội lực cố hữu, song nó lại khả tri đối với tôi, cho riêng tôi, trong dòng vận hành tự tác động từ vô thủy. Đó là cách giải thích được đức Phật đưa ra để tạo sự điều hòa cho sinh hoạt tinh thần giữa hai đối cực là đức tin và khoa học.

Lai nữa : có thể nói là khoa học đã đắm tàu trong những đại dương mênh mông của các kết quả. Hãy thử tạo một điểm khởi đầu tại vị trí khoa học muốn, thì vị trí nào cũng mở ra trước nó một loạt vô số các sự kiện mới mẻ, mà mỗi sự kiện đến lượt nó lại là khởi điểm cho một loạt vô số các sự kiện khác. Trong chính bản thân khoa học không hề có khởi điểm, mà chỉ là sự tiến hành từ sự kiện mà nó có thể giải thích được căn do. Khoa học không thể khẳng định liệu loạt các sự kiện này có cùng hội tụ về cùng một điểm kết thúc hay không, và ngược lại.

Tại đây, một lần nữa, tư tưởng đức Phật lại chứng minh giá trị của nó như là một giả thuyết hữu hiệu.

Toàn bộ thế giới hiện thực chứa vô số các tiến trình tự duy trì.

Các nội lực cố hữu, mà nhờ đó những tiến trình này tự duy trì được, thì bất khả tri đối với giác quan, trừ phi đối với chính mỗi cá thể như là Thức.

Điều này đưa đến sự khẳng định rằng tôi không thể hiểu được điều gì ngoại trừ chính bản thân tôi, rằng tôi không thể tác động được gì lên thế giới ngoại tại ngoài vô vàn những phản ứng lại với nó không hề mệt mỏi. Tuy vậy, mặc dù có vô số sự sai thù khác biệt trong những triệu chứng gắn chặt một cách tất yếu với cùng một hiện tượng, thì sự lĩnh hội đứng đắn về thế giới vẫn mãi mãi là cái gì đó vừa rất gần mà cùng vừa rất xa.

Như vậy thì do đâu mà có những định luật khoa học? Do vì khoa học có được những định luật đúng đắn, mà điều đó được chứng minh bởi khả năng tiên lượng của khoa học. Tuy nhiên, nếu tôi có thể tiên lượng được thì điều này phải có nghĩa rằng tôi không chỉ phản ứng lại, mà còn có thể hiểu một cách đúng đắn nữa.

Chính dựa vào những định luật khoa học mà tư tưởng đức Phật đã chiếu rọi vô vàn ánh sáng lên cách giải thích về tấn tuồng thế giới.

Nởi nào mà vũ trụ chỉ là vô số những tiến trình đốt cháy thì ở nơi đó toàn bộ tấn tuồng thế giới chỉ là sự chuyển tiếp từ tiến trình này sang tiến trình kế tiếp, nghĩa là sự tự thích nghi giữa các tiến trình.

 Tấn tuồng thế giới chính là định luật.

 Tuy nhiên, đối với một đầu óc quan sát thì điều này cũng bao hàm luôn khả năng lĩnh hội tấn tuồng thế giới như là cái gì đó các định luật. Giống như ngọn lửa ánh sáng và nhiệt, bởi vì nó chính ánh sáng và nhiệt; thì cũng thế, tấn tuồng thế giới những định luật vì tự thân nó định luật. Các định luật khoa học chỉ đơn giản là kết quả của sự tự thích nghi, tự điều hòa với hiện thực. Có thể minh họa như vầy : trong mối tương quan với tự nhiên, khoa học giống như một người lão bộc suốt đời phụng sự chủ nhân nên có thể đoán được gần chính xác ý muốn của người chủ trong những hoàn cảnh cụ thể, miễn sao trong các trường hợp đó vị chủ nhân chỉ cần đừng làm gì khác đi là được!

Đó cũng là vị trí của khoa học đối với những diễn biến vô tận trong tấn tuồng thế giới. Càng quan sát, khoa học càng có thể tiên lượng với độ chính xác cao những gì mà chủ nhân của nó, tức giới Tự nhiên, muốn làm tại thời điểm này hoặc tại thời điểm khác trong những điều kiện thế này hay thế nọ, miễn sao thế giới tự nhiên đừng có gạt bỏ đi hoặc làm một điều gì khác!

Mọi định luật, ngay cả những định luật có vẻ như được thiết lập một cách chắc chắn, trong mọi trường hợp đều chỉ áp dụng tốt với cái “bây giờ”, còn tại mọi thời điểm khác chúng có thể là đồ vất đi đối với cái “bây giờ” tiếp theo. Ngay cả sự tiên đoán trong lĩnh vực thiên văn học – niềm tự hào của khoa học- cũng chỉ luôn luôn chính xác trong những điều kiện khi toàn bộ hệ thống trong phạm vi tiên đoán, đến thời điểm đó, chưa xảy ra một một sự va chạm nào; hay nói một cách nôm na là đến thời điểm đó vẫn chưa xảy ra ngày tận thế. Rốt cuộc, sự tiên đoán trong lĩnh vực thiên văn học chỉ chính xác khi không có điều gì khác xảy ra; mọi việc cũng thế đối với những sự tiên lượng trong lĩnh vực sinh học, điều trị học vân vân…

Và như thế là khoa học cứ tấp tểnh theo đuôi tấn tuồng thế giới, luôn tìm cách thích nghi với nó, khi chắp vá các “định luật” của mình. Và khi khoa học tìm cách thuyết phục chúng ta rằng cuối cùng con người sẽ đăng quang lên ngôi chúa tể cả thế giới thì nó chỉ giống như thành ngốc trong câu ngạn ngữ Ấn Độ vung cây gậy về phía mặt trời lặn và huyên hoang nghĩ rằng anh ta đã làm mặt trời rơi xuống.

Nếu một người đã hiểu Phật pháp thì anh ta sẽ hiểu rằng tâm trí con người không thể làm được gì ngoài những vô vàn phản ứng. Xuyên qua tiến trình đốt cháy, trong mọi chuyển động tâm lý hay thân xác, tôi chính là phản ứng này. Toàn thể vũ trụ không là gì khác ngoài sự tự thích nghi vĩnh viễn giữa các tiến trình.

Khoa học, trong mọi hình thức không có ngọai lệ, chỉ là sự mô tả có phương pháp về các hiện tượng. Tất cả sự “giải thích” của khoa học đều chỉ là vô vàn các hình thức mô tả khéo léo mà thôi.

Trong những lúc tuyệt vọng, đôi khi khoa học cũng tự thú nhận, chẳng hạn như Kirchhoff[5] trong câu nói nổi tiếng của mình, thì điều này chỉ có nghĩa rằng khoa học đang làm một điều chẳng đặng đừng. Và khi E.Mach, trong tác phẩm Analyse der Empfindungen (Phân tích cảm xúc) nói : “Người ta có thể tưởng tượng rằng mối quan tâm của vật lý là những nguyên tử, các lực và định luật, mà trong một chừng mực nào đó tạo nên phần cốt lõi cho các dữ kiện khả giác. Không hề có loại này! Mọi yêu cầu về tri thức và thực tiễn đều được đáp ứng ngay khi tư tưởng chúng ta có thể giả mạo hoàn toàn những dữ kiện khả tri đối với giác quan”. Mach giả định về giới tự nhiên bằng tinh thần mô tả vô tư thuần túy, và trên thực tế đã nói lên điều giống như Kirchhoff.

Có thể nói như vầy :

 “Miễn sao cho sự mô tả đủ phong phú, không lẽ rốt cuộc không thể nào đạt đến sự nhận thức đúng đắn bằng sự mô tả hay sao?”

Và đây là câu trả lời :

Bằng cách mô tả, dù kéo dài đến vô biên, tôi không đạt đến điều gì ngoài việc luôn luôn nhận biết một hiện tượng như thế xảy ra trong những điều kiện như thế và trong trạng thái ngụy trang. Nhưng hành động nhận thức này không liên quan gì đến kiến thức chân chính. Có thể hết năm này sang năm khác tôi luôn gặp một người trên đường phố, nhận ra ông ta trong bộ quần áo mà tôi hình dung được, có thể mô tả ông ta tỉ mĩ đến từng chi tiết, nhưng mà tôi vẫn hoàn toàn không biết gì về ông ta cả. Tương tự như thế với tư tưởng đức Phật : ngay cả một ngày kia người ấy tự giới thiệu với tôi tên ông ta là thế này thế nọ, ông ta là mẫu người thế này thế khác, thì điều này vẫn không có ý nghĩa gì ngoài việc mở rộng quá trình mô tả. Hiểu hiết và lĩnh hội thực sự một đối tượng có nghĩa là biết được các nguồn năng lượng đang hoạt động trong đối tượng đó. Tuy nhiên, những nguồn năng lượng này chi được lĩnh hội bởi chính bản thân người đó, trong ý thức. Mọi sự giao tiếp giữa tôi và thế giới ngoại tại chỉ là sự phản ứng mà thôi. Tôi có thể mô tả song tôi lại không thể giải thích, mặc dù tôi theo đúng tinh thần khoa học một cách triệt để. Mặc dù có thể rằng chưa bao giờ sự giao tiếp giữa tôi và đối tượng khác lại mật thiết đến thế, thì hai cái-thế-giới- của- cái-Tôi vẫn vĩnh viễn bị chia cắt hoàn toàn.

Bằng cách tự giác tự ngộ, mỗi người sẽ đi theo con đường riêng biệt của chính mình xuyên qua cõi vô biên vô thủy – một tư tưởng khủng khiếp khi được lĩnh hội một cách trọn vẹn. Nhưng sự thật là như vậy đó : hiện thực rất khủng khiếp và kẻ nào không nhận thức được nó như thế thì sẽ không hiểu gì về nó cả.

Ở đây lại có một câu hỏi được đặt ra:

“Nếu mỗi người không thể làm được gì ngoài việc phản ứng lại thế giới ngoại tại theo thể cách riêng của mình, thì làm sao ta có thể đạt đến sự thống nhất trong cảm xúc, ý tưởng và khái niệm như lâu nay?”

Câu trả lời như sau :

-Nhờ vào ngôn ngữ mà ta có thể đạt đến sự thống nhất đó. Ngôn ngữ luôn luôn khiến chúng ta suy tưởng sai lầm rằng có những chiếc cầu vững chắc bắt từ cái Tôi này sang cái Tôi khác. Nhưng khi tôi nói : “Cái kia màu xanh”, “Kia là cái cây” và những câu đại loại như vậy thì người khác cũng nói điều tương tự, song thực ra, theo ý nghĩa chặt chẽ nhất, chúng ta chỉ thống nhất với nhau trên bình diện ngôn ngữ. Mỗi người đều phản ứng lại theo cách riêng của mình, nhận thức “màu xanh” hay “cái cây” theo cách riêng của mình. Đức Phật chỉ ra rằng thọ, tưởng chỉ là những hình thức của tiến trình đốt cháy của từng cá thể – hay là tiến trình thực dưỡng. Điều này cũng giống như vị giác đối với cái lưỡi. Chúng ta đều ăn chung một món ăn song người nào cũng cảm nhận theo cách riêng và ăn cho chính mình.

“Nếu vậy thì do đâu mà nảy sinh ra sự thống nhất trong ngôn ngữ của chúng ta?”

Câu trả lời như sau :

Âm thanh chỉ là những giá trị bởi ký hiệu. Khi tôi nói : “Cái kia màu xanh”, thì câu phát biểu đó không chuyển tải nội dung tri thức xác định mang tính tích cực nào cả; để thực hiện điều này tôi chỉ cần nói : “Cái kia không phải màu đỏ, màu vàng v.v.. ”. Và nếu tôi nói : “Cái kia màu đỏ” bằng một phát biểu như thế thì tôi chỉ cần nói : “Cái kia không phải màu xanh, màu vàng v.v.. ”. Như thế, giống như trong một phương trình đại số, một ký hiệu luôn luôn được dùng như một định thức với ký hiệu khác, và không hề chứa một giá trị tích cực nào trong tự thân. Mỗi người chỉ nói được rằng tôi phản ứng, nghĩa là tôi đang bốc cháy. Tôi không nhận ra được một cây anh đào trong tự thể, mà chỉ nhận ra trong mức độ nó không phải là cây mận, cây lê hoặc cây táo v.v… Và tôi nhận ra cây mận cũng chỉ vì nó không phải là cây anh đào, cây lê hay cây táo v.v… Đó là Tổng công ty Quan Hệ Hỗ Tương trong đó mỗi thành viên đều đưa được thẻ tín dụng cho nhau, mà không một ai sở hữu được một xu trong số vốn của nó; rốt cuộc đó là cổ phần lừa đảo mà một người suy tư thẳng thắn và trung thực phải để mắt tới để xem mình có bị lừa hay không.

 “Vậy thì rốt cuộc ngôn ngữ từ đâu mà có?”

Câu trả lời như sau : Từ nơi mà từ đó tôi đã đến, từ nơi mà từ đó bạn đã đến, nghĩa là từ cõi vô thủy không có khởi đầu.

Phép mầu của ngôn ngữ ít được giải thích như phép mầu của Tiến-trình-Tự-ngã. Giờ đây có một dữ kiện được ban cấp từ vô thủy, đó là thế giới. Và dữ kiện này không chỉ hiển thị như một khả năng thuần túy, như khoa học buộc chúng ta phải tin như thế — một khả năng mà nhờ đó khoa học tự đưa mình vào một vấn nạn là buộc phải giải thích tất cả những năng lực của chúng ta đã hình thành như thế nào, — mà khoa học còn hiển thị năng lực tự thân bao hàm năng cả lực nói như là năng lực từ vô thủy, cùng các năng lực nhìn, nghe, suy tư v.v…

Tôi xin trở lại chủ đề chính.

Mọi cách giải thích mà khoa học đưa ra chỉ là những hình thức mô tả đặc biệt và tài tình được thiết lập trên sự mô phỏng khéo léo, và chỉ có thế thôi chứ không hơn không kém. Chúng giả định sự tương đồng trong giải thích từ sự kiện rằng cảm giác về tính tương tục được tạo ra do bởi một loạt các các khoảng thơi gian rất nhỏ nối tiếp nhau. Tuy nhiên, tính tương tục như thế giống như tính tương tục của một vòng tròn được tạo nên bởi số lượng các thành phần cực nhỏ : sự biểu hiện của tính tương tục càng lớn thì trên thực tế tính bất tương tục cũng càng lớn. Xung lực tạo nên sự kết nối giữa các biến cố trong hiện thực, năng lượng đang hoạt động trong các hiện tượng, quy luật cấu thành thực sự, những thứ đó không bao giờ bị chạm đến, vâng, người ta đã cố tình bỏ qua chúng.

Về phần khoa học, những nỗ lực tự thích nghi luôn tái diễn không ngừng này được so sánh với sự du hành của con tàu xuyên qua các cổng giang khẩu[6]. Khi đến một điểm dừng trong cổng giang khẩu, — nghĩa là khi đã hoàn tất một hành động thích nghi — con tàu phải chờ cho đến khi có đủ nước — nghĩa là có đủ chất liệu mới trong hình dạng một dữ kiện — để giúp nó tiến đến một cổng giang khẩu mới, — nghĩa là một hành động thích nghi mới.

Tiến trình thích nghi này tự phô bày trong một hình dạng đặc biệt của nó khi nó giả định một hình thức mang tính khai sáng kỷ nguyên mới, được biết đến như là “sự đảo ngược quan điểm”

Một ví dụ về hình thức thích nghi mang tính khai sáng kỷ nguyên mới đối với chất liệu cho dữ kiện mới, đó là sự đảo lộn quan điểm thiên văn học của thế giới khi Copernicus lật đổ quan điểm của của Ptolemy[7]. Một sự đảo lộn tương tự, nhưng diễn ra trong lĩnh vực nhận thức, được thực hiện bởi Kant[8], theo đó thì sự thích nghi với quy luật, mà con người quan sát trong các hiện tượng, được gỡ bỏ ra khỏi các biến cố và đặt vào trong trí não của người quan sát. Một sự đảo lộn tương tự khác, nhưng lại diễn ra trong lĩnh vực sinh học, là sự chuyển tiếp từ quan điểm mục đĩch luận cho rằng “Con mắt dẫn đến việc nhìn ” đến quan điểm cơ học hiện đại cho rằng “Con mắt là kết quả của việc nhìn”.

Đó là những bằng chứng nổi bật nhất cho thấy khoa học vẫn còn xa lạ với bản chất của nó như thế nào, đến nỗi phải ca ngợi các sự đảo lộn quan điểm này như là những thành tựu vĩ đại nhất. Xa lìa điều đó, chúng không còn là gì ngoài những biểu hiện rõ ràng nhất về sự kiện rằng trí não con người không thể làm được gì ngoài việc tấp tễnh theo đuôi để canh chừng các biến cố.

Ngay cả sự đảo lộn thành công nhất cũng chỉ là một nỗ lực điều chỉnh mà thôi. Sự đảo lộn do Copernicus gây ra cũng chỉ là khả năng “đọc” các sự kiện trong thế giới thiên văn. Một khi chất liệu mới về dữ kiện đã tích lũy đầy đủ thì con người tất yếu phải bị quét ra khỏi hệ thống Ptolemy, rồi sẽ đến lượt con người bị quét ra khỏi hệ thống Copernicus.

Cái mà nhờ đó khoa học tự buộc mình phải điều chỉnh hoài hoài, chính là thí nghiệm. Trong mối tương quan với thí nghiệm, khoa học giống như kẻ nhập môn mới học pháp thuật trong bài thơ của Goethe, hăm hở với cái chỗi trên tay. Kẻ đó có nguy cơ bị đắm chìm trong đại dương tư liệu khổng lồ, và không biết câu thần chú để làm ngừng cái dòng chảy cuồn cuộn không sao cưỡng nỗi đó.

Cho dù những dữ kiện mới mẻ, mà khoa học không ngừng trưng ra, là những giai đoạn thực sự trên con đường tiến đến tri thức, thì đến lúc lâm chung chúng ta cũng chỉ cảm thấy mình như con vật kiệt sức trong đoàn lữ hành trên sa mạc cố dõi mắt nhìn theo đoàn lữ hành đang tiến dần đến cái mục tiêu khao khát chờ đợi, mà giờ đây đối với nó đã vĩnh viễn mất đi. Đối với người suy tư thì cái chết là một biến cố khủng khiếp, một tai họa khổng lồ. Song khoa học lại không vạch ra được con đường đi đến bất kỳ mục tiêu nào. Vấn đề mà khoa học không bao giờ giải đáp được là liệu xem những chuỗi dài vô tận của khoa học có hướng đến một mục tiêu nào không, vấn đề đó đã tìm thấy lời giải đáp trong giáo lý đức Phật : Chúng ta không thể làm được gì ngoài những phản ứng với thế giới ngoại trần, và khi phản ứng như vậy chúng ta mãi mãi vừa gần lại vừa xa chân trí.

Khoa học bận tâm với những bài toán về biến thiên và hoán vị. Làm thế nào chúng ta có thể biết rằng liệu chúng ta có thực sự biết được gì không? Bộ môn khoa học chính xác chỉ bận tâm đến các mối quan hệ. Nó không muốn biết đến bất cứ điều gì về bản thân sự vật. Một kiến thức như thế gây bất tiện cho nó cũng như một lời thú tội đi quá xa của thân chủ gây bất tiện cho một luật sư. Chỉ có sự vắng mặt hoàn toàn mối nghi ngại đối với bản thân sự vật mới có thể thực sự khiến cho các phương pháp khoa học trở nên khả thi.

Chính các khoa học gia là những người phải chịu trách nhiệm – một phần cố tình và một phần vô ý – về những ý tưởng sai lầm và khoa trương đối với giới tự nhiên và giá trị khoa học đang lưu hành giữa những người thế tục. Người ta hoàn toàn không muốn để mọi người dòm trộm vào các hủ lọ, mà rất muốn xuất hiện trước một đám đông đang sững sờ kinh ngạc với những thành quả gây ấn tượng về sự hoàn hảo của chúng. Với một đôi chút rụt rè – một sự rụt rè đủ cảm nhận được đối với những ai có thể nhìn thấy phía sau những màn trình diễn, song lại được chế ngự khéo léo đến nỗi cùng với một âm chủ đạo đơn giản có đến hàng nửa tá âm bồi rung động hòa theo – niềm hy vọng, sự ám chỉ đến tương lai – người ta trao quà tặng cho thế giới, song lại chẳng hề quan tâm đến việc để cái thế giới đó làm quen với sự kiện rằng : từ nền tảng món quà đó là sản phẩm đơn giản của trò chơi “bịt mắt bắt dê” trong khoa học, và “Nào! Hãy bịt mắt lại mà gõ cho trúng cái bình!” Nếu nó không thích nghi được theo cách này thì có thể sẽ thích nghi theo cách khác. Mọi lý thuyết đều là kết quả của sự dò dẫm thử nghiệm. Chính nhờ thế mà Galileo đã điều chỉnh được trực giác của mình về định luật rơi của các vật thể. Cũng chính nhờ thế mà Kepler[9], suốt một đời, đã “chơi” ngược lại với tự nhiên và cuối cùng ông đã thắng trong cuộc chơi đó; và cái trò “chơi” ngược này, cùng với các nỗ lực điều chỉnh, vẫn cứ sẽ tiếp tục diễn ra cho đến thiên thu vô tận. Cũng thế, những sự mô tả dưới hình thức giải thích sẽ cứ mãi mãi được đưa ra cho đến thiên thu vô tận – những sự giải thích, nói một cách nghiêm túc, cũng chẳng chuyển tải được gì hơn những bon mot [10] của hãng Reuter nói về cảnh thiếu thốn cơ cực, cho rằng đó là hậu quả của “sự đói nghèo”.

Tôi có thể mô tả sự rơi của một vật thể với độ chính xác cao và lập ra những quy chi phối điều tương tự. Song mọi chi tiết mô tả này chỉ thừa nhận đặc điểm của cách giải thích thông qua con người, trong từng trường hợp, suy diễn rằng lực hút của trái đất là căn nguyên túc lý. Lực hút của trái đất, tuy nhiên, cũng chỉ là sáng tạo thuần túy của tư tưởng, một giả thuyết đơn giản và hữu hiệu, được đưa ra với một mục đích duy nhất là giúp chúng ta có thể hiểu được nguyên nhân của mọi sự rơi. Từ quan điểm nhận thức luận thuần túy, tôi hoàn toàn có quyền nói rằng lực hấp dẫn gây nên sự rơi; bởi vì chỉ chính từ điều này, từ một số lượng hữu hạn các trường hợp tương tự mà lý thuyết về “lực hấp dẫn của trái đất” đã hình thành.

Cùng với giả thuyết hữu hiệu của mình, khoa học đã hành xử như một người, vì muốn trút bỏ những khoản chi tiêu phiền toái hằng ngày, đã dốc ra một số tiền lớn để thanh toán những khoản tiền lặt vặt. Cũng thế, đối với những điều bất khả tri diễn ra liên tục từng giờ từng phút trong cuộc sống hằng ngày — vâng, nói theo ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này — khoa học cũng dốc ra một điều bất khả tri to lớn và duy nhất dưới hình dạng của lực trung tâm, nguyên tử, ê-te, mà từ đó có thể đáp ứng được mọi yêu cầu vụn vặt đời thường – tức những khoản chi tiêu, có thể nói vậy. Kiến thức mà khoa học cung cấp cho chúng ta là sự biểu hiện phong phú nhất về sự ngu dốt của chúng ta. Cho dẫu sự nhận thức chân chính có được đặt ra đi nữa, thì người ta lại đầu tư vào nó như một người mua sạch tất cả các tấm vé số để chắc được trúng giải độc đắc.

Từ thái độ của khoa học đối với tấn tuồng thế giới — tức là tấn tuồng của tính khả tri còn tiềm ẩn — khoa học buộc phải đương đầu với tất cả sự vật nào muốn cưỡng lại tính khả tri còn tiềm ẩn đó. Từ đó, đã diễn ra cuộc chiến đắng cay trên các tiên đề toán học. Khoa học, nếu muốn còn là khoa học, chỉ có thể khoan dung với những gì nảy sinh từ kinh nghiệm. Thế nhưng những gì nảy sinh từ kinh nghiệm lại cũng có thể bị quét sạch bởi kinh nghiệm. Như vị thần Kronos[11] nuốt chửng các con mình, thì cũng thế mỗi kinh nghiệm mới mẻ, theo cách ngược lại, đều nuốt chửng các vị tiền bối của mình. Nhưng chính sự linh động uyển chuyển này, chính tính tương đối hoàn toàn trong các kết quả đã đem lại khoa học sự an toàn. Cho dù không ở nơi nào khoa học phải tranh đấu với nền tảng vững chắc, với những gì không nảy sinh từ kinh nghiệm, song vẫn giống như một con thuyền đã ra khơi : nó có thể bị những cơn ba đào hiện thực đập cho vỡ tan tành. Dĩ nhiên sẽ không có một mối nguy hiểm nào như thế xảy ra, chừng nào khoa học còn ở trong lãnh địa của riêng mình, nghĩa là thế giới tái tạo hiện thực.

Đây là lời giải thích về sự kiện “khoa học” trong tư tưởng đức Phật : chúng ta không thể làm được gì ngoài việc phản ứng lại cái thế giới, mà chính nó lại là quy luật, trong mọi vận động của mình, và do đó đem đến cho chúng ta khả năng đọc được nó theo quy luật, song phần bản chất tinh yếu của nó thì mãi mãi nằm ngoài sự lĩnh hội của chúng ta.

Như vậy thì do đâu mà tâm trí con người có được khả năng luôn thích nghi với sự thiên diễn vô tận trong tấn tuồng thế giới? Bởi vì tư tưởng chính là năng lượng, do đó nó không cái năng lực, không cái sức mạnh thích nghi, mà nó chính là cái sức mạnh đó. Trong mọi hình thức, cho dù đó là hình thức thô thiển nhất, thì tư tưởng chỉ là sự tự thích nghi; và hình thức tư duy khoa học được phân biệt với hình thức suy nghĩ thông thường chỉ là do ở điểm này, nghĩa là nó được định hướng để tiến đến những kết quả cụ thể; do đó những gì gây nên phiền toái đều bị bỏ qua một cách khôn khéo; và trong khi làm như thế thì mọi khả năng thích nghi của khoa học mới được thiết lập. E.Mach đã nói trong tác phẩm Erhaltung der Arbeit (Bảo toàn công) của mình : “Khoa học hầu như đã thực hiện được những bước tiến vĩ đại hơn thông qua những gì nó biết cách bỏ qua hơn là những gì nó tập trung nghiên cứu ”

Đây là dịp đầu tiên mà tôi muốn chỉ trích về những cái cứ thường xuyên lặp đi lặp lại trong khoa học khi xử lý những vấn đề : đó là khoa học tước đoạt mất khỏi chúng ta sự nhận thức về hiện thực; hay đúng hơn, nó bắt chúng ta nhận thức một đối tượng giả, tức sự tái tạo hiện thực; do đó nó đem gây tai hại quá nhiều cho nếp suy tư chân thực, giống như việc đức tin bắt chúng ta phải nhận thức một cái phi hiện thực, tức cái siêu việt.

 Chỉ có một hiện thực duy nhất trong thế giới – tức là cái mà tôi trải nghiệm như là thế. Tước đoạt mất của chúng ta cái hiện thực thuần túy, hướng sự chú ý của chúng ta đến cái thế giới có thể được “đọc” dưới hình thức của công việc đã rồi, tôi gọi cái đó là sự biến đối những nhà tư tưởng chân chính thành những con buôn, mà mối quan tâm duy nhất là xây dựng nên những mối quan hệ thuận lợi với thế giới bên ngoài.

Dần lấy lại được khả năng nhận thức hiện thực đã bị đánh mất, dần phát khởi lại được cái cảm nhận rằng hiện giờ đang có một dữ kiện không thể được chứng minh, không phải vì bản thân nó bất khả chứng minh mà chỉ vì bản thân nó đã tự chứng minh cho chính nó — một dữ kiện hiển thị không chỉ là khả năng, mà còn là sức mạnh — đây sẽ là nhiệm vụ đầu tiên của một thời điểm mà tự thân nó, trong từng tế bào thần kinh, cảm nhận được rằng có một cái gì đó bị thối rữa băng hoại. Đó là sự lao vào tất cả những sự kiện của cuộc sống một cách mù quáng, là sự can đảm của cơn điên rồ thuần túy luôn bị kích thích và được nâng đỡ bởi sự tưởng tượng khoa học quá đỗi nhiệt tình thiếu tự chủ — chính điều này là cái mà chúng ta phải bỏ lại đàng sau, nếu muốn được xem là những người trưởng thành về mặt tinh thần.

 Khoa học không thể đem lại lời giải thích thực sự nào, điều đó nó đã tự thú nhận một mặt qua môn xác suất thống kê, và mặt khác qua triết học về xác suất. Cả hai bộ môn đó đều yêu cầu sự thỏa hiệp với hiện thực, bỏ qua những giá trị nhỏ nhất, và sự đánh đồng một xác suất lớn với bản thân chân lý; rốt cuộc thì đó là hành động cưỡng bức về phương diện tri thức. Người nào thấy nhu cầu về thế giới luận của mình được thỏa mãn với học thuyết của Herbert Spencer[12], thì tôi tưởng tượng người đó cũng cảm thấy được giải thoát với học thuyết của Thomas Aquinas[13]. Và nếu một người nào đó luôn kiêu hãnh cho rằng thế giới của mình dựa trên những tiên đề khoa học chặt chẽ thì anh ta đang tự nguyện gánh chịu gông cùm, bởi anh ta nói rằng thế giới của mình dựa trên bộ môn xác suất thống kê chính xác; do vì khi mọi sự đã được nói và thực hiện cả rồi, thì điều chính xác duy nhất về khoa học là bộ môn xác suất thống kê đó, nghĩa là sự tự do mà khoa học đảm nhận lấy để được xem là chính xác.

Câu hỏi như vầy có thể được đặt ra : “Thế còn toán học thì sao? ”.

Nhưng bộ môn toán cao cấp, được xét đến trước mọi thứ khác trong việc nhìn nhận thế giới từ quan điểm vật lý, cũng chỉ là bộ môn xác suất thống kê. Trong những vấn đề mà các bộ môn hình học, đại số xử lý, hoàn toàn không có gì liên quan đến hiện thực mà chỉ là những giá trị giới hạn, nghĩa là những giá trị không mang tính hiện thực mà cũng chẳng tái tạo hiện thực mà chỉ được đưa ra cùng với hiện thực, chẳng hạn như chân trời và mặt bằng lý tưởng giữa bầu khí quyển và mặt nước không là hiện thực, cũng không phi hiện thực, mà chỉ là những sự việc được đưa ra cùng với hiện thực.

Đây là điểm quan trọng nhật trong nhận thức luận, mà theo tôi biết, đã không được quan tâm đến ở bất cứ nơi nào; tuy nhiên ở đây mà đi sâu vào vấn đề này lại trờ thành lạc điệu mất. Cái công cụ của hình học Euclide – điểm, đường thẳng, mặt phẳng cũng chỉ là những giá trị giới hạn kiểu đó; do đó chúng không là hiện thực cũng không phi hiện thực. Để ứng xử với những giá trị giá trị giới hạn như thế tại những nơi mà vấn đề cuộc sống, tức hiện thực, được quan tâm đến, và trong sự ứng xử như thế lại đặt ra được những chân lý toán học như triết học Kant đã làm, điều đó chỉ có nghĩa là con người đã thất bại trong việc nhận thức hiện thực.

Toán học chỉ có thể tồn tại ở những nơi có những đồng nhất thể. Điều này, tuy nhiên, chỉ được tìm thấy trong lĩnh vực của những giá trị giới hạn. Hiện thực không hề có các đồng nhất thể. Nơi nào chỉ có những tiến trình đốt cháy thì ở đó, mỗi giây phút tồn tại đều là điều đặc thù duy nhất vô tiền khoáng hậu.

Người nào đã nhận thức được tấn tuồng thế giới theo cách của đức Phật thì sẽ hiểu rõ rằng khoa học, trong kỳ vọng muốn cung cấp cho chúng ta một thế giới quan chân chính vào một ngày nào đó, chỉ giống như kẻ ưa khôi hài không một xu dính túi lại đi treo ngoài cửa bản thông báo : “Ngày mai tôi sẽ trả nợ”. Khoa học, đối với câu hỏi khi nào nó sẽ trả được món nợ cho nhân loại, nghĩa là một thế giới quan chân thực, chỉ luôn luôn có một trả lời duy nhất : “Ngày mai!”.

Khoa học có thể dễ dàng đạt đến một ý tưởng sáng sủa về bản chất của chính nó, nếu như nó dám đánh liều suy tư để đưa dòng tư tưởng của mình đến chỗ rốt ráo.

Bản chất của mọi thế giới quan khoa học nằm trong sự lĩnh hội toàn bộ tấn tuồng thế giới như là những giá trị quan hệ. Do đó, nó gắn bó vô cùng chặt chẽ với cái mà ta có thể gọi là sự lĩnh hội không có chung cuộc. Đức Phật giải thích sự kiện này theo cách đã trình bày, còn khoa học đối mặt với sự kiện mà hoàn toàn không hiểu gì về nội dung của nó cả, do đó có thể biện minh bởi giọng điệu như sau :

 “Rõ ràng chúng ta đã có những tiến bộ trong nhận thức, điều đó có thể được thấy rõ trong việc gia tăng trong khả năng tiên đoán của chúng ta. Từ đó, chúng ta được biện minh trong việc giả định được mối kiên kết cuối cùng trong luồng tư tưởng của chúng ta – nghĩa là tấn tuồng thế giới hiểu theo nghĩa là tống số của những mối quan hệ thuần túy – và trong việc xây dựng cho mình một thế giới quan, mà chúng ta chắc chắn sẽ đạt đến trong tương lai.”

Đó là thế giới quan mà khoa vật lý hiện đại gọi là vũ trụ luận năng lượng học (cosmogony of nergetics), nghĩa là cái thế giới lý tưởng đó hoàn toàn đáp ứng với định luật bảo toàn năng lượng, và do đó được quan niệm như chứa toàn bộ những tiến trình thuận nghịch không phụ thuộc vào thời gian. Dĩ nhiên, hiện nay cũng có những nhà vật lý sắc sảo hơn nhận thấy rằng định luật bảo toàn năng lượng chỉ biểu thị cho cách đọc tấn tuồng thế giới theo quan điểm của một số nhỏ các nhà vật lý. Nếu người ta quên điều đó, nếu người ta cố gắng đem quan điểm đó phủ trùm lên các tiến trình hiện thực, cố gắng biến nó thành một thế giới luận, thì không chỉ bản chất thực của định luật bảo toàn năng lượng, mà ngay cả bản chất của toàn bộ nền khoa học, cũng bị đưa ra ánh sáng. Bởi vì :

Định luật bảo toàn năng lượng chỉ có ý nghĩa trong một hệ thống đóng. Chỉ trong sự kiện này thì bản chất mang tính giả thuyết thuần túy của nó mới được phát lộ; bởi vì không bao giờ có được một hệ thống kín trong thực tế, dù trong bất kỳ điệu kiện nào.

Như thế, ngày từ lúc bắt đầu, điều mà người ta phải làm là tạo sự thỏa hiệp với hiện thực, một thủ tục chỉ được biện minh tại nơi mà định luật này đạt được một vài kết quả thực tế

Nếu người ta biến định luật bảo toàn năng lượng thành một định luật phổ quát, và trên đó dựng lên một thế giới luận thì người ta buộc lòng phải thừa nhận bản thân vũ trụ là một hệ thống đóng; nếu không thế thì nói về một vũ trụ, trong đó tổng số năng lượng tồn tại luôn là hằng số, là điều vô nghĩa.

Tuy nhiên với điều này thì khoa học lại tự đặt mình vào một vị trí mà ngay khi nó dám đánh liều suy tư để sự vật đến chỗ rốt ráo, thì nó lại tự tước bỏ khả năng tồn tại của chính mình, như sẽ được chứng minh ở dưới đây.

Một vũ trụ như thế, một vũ trụ chỉ hoàn toàn chứa các giá trị tương quan, chỉ có thể là một tiến trình bù trừ khổng lồ, là sự rơi diễn ra vô tận, bằng vô vàn cách thức, từ những vị trí có trương độ cao hơn xuống những vị trí có trương độ thấp hơn. Chỉ bằng cách biểu hiện như thế, các nhà vật lý mới có thể tiên lượng và xác định trước được những hiện tượng. Ông ta không thể khởi đầu công việc của mình cho đến khi nào đưa ra được cách lý giải mới về tấn tuồng thế giới, cũng theo cách như thế. Ông ta cũng phải, bằng cách tương tự, cơ giới hóa cả phần vật chất vô hình của các phân tử trước khi có thể nắm vững những gì xảy ra bên trong, theo tính toán. Trong tư tưởng, người ta phải nới lỏng mối quan hệ đang hiện hữu giữa các phân tử để có thể thiết lập được các sự rơi bên trong. Ở đây cũng như trong điệu vũ minuet[14] : người ta bước lùi một bước để có thể bước tới hai bước!

Song đây lại là điều mà một nhà vật lý dám làm. Điều ông ta quan tâm là tiên đoán, tiên lượng. Như một quy luật tổng quát, ông ta không chỉ nói “Après nous, le deluge” mà còn có thể nói “Avant nous, le déluge.”[15] Ông ta vui sướng với khả năng có thể giải thích và sử dụng tấn tuồng của thế giới tái tạo hiện thực sao cho phù hợp với các mục đích của mình và không thèm bận tâm đến việc khả năng này từ đâu đến và trong tương lai sẽ đi về đâu. Ông ta không suy tưởng mà chỉ làm.

Giờ đây, chừng nào ông ta, với tư cách là một nhà vật lý, còn giữ được thái độ công chính nghiêm minh với vũ trụ, thái độ của một nhà quan sát thuần nhiên, thì ông ta có thể đạt đến bằng tính toán, bằng kỹ thuật, tất cả những gì có thể đạt đến được. Ông ta đứng trước vũ trụ của mình như đứng trước một cỗ máy đồng hồ mở toang, mà ông ta có thể quan sát tỷ mỷ được phương thức vận hành bên trong của nó, và xây dựng nên các quy luật tương tự. Tuy nhiên, nếu ông ta cứ để mình sa đà vào việc xây dựng nên một thế giới quan và đặt câu hỏi : “Cỗ máy đồng hồ này sẽ đi về đâu?” thì ông ta đã tự cắt mất mặt đất dưới chân mình.

Bởi vì trong một vũ trụ như thế, thì cái còn lại như một xung lực kích thích thật ra không gì khác là sự phân biệt đi kèm với các tiến trình riêng lẻ. Nó giống như quả lắc đồng hồ luôn tiến về trạng thái dừng. Bởi vì trong giả định nêu ra – nghĩa là một vũ trụ như một hệ thống đóng – thì dòng chảy của các ngoại lực từ bên ngoài vào bị loại trừ, cái chúng ta có ở đây là sự vay mượn lẫn nhau, có thể nói như vậy, và sự phá sản của vũ trụ chỉ còn là vấn đề thời gian. Tính tất yếu luận lý được khoa học quan tâm xét đến trong khái niệm entropy – một khái niệm cho rằng toàn bộ vũ trụ như một tiến trình có xu hướng đến trạng thái cân bằng, mặc dù để hoàn thành được điều đó phải mất đến hằng triệu năm. Vì vậy, giả sử rằng khoa học là trung thực thì nó vẫn phải đối mặt với vấn đề sau :

Mọi sự khác biệt về trương độ đều đòi hỏi phải có một cái gì đó đã tạo nên sự khác biệt này. Hễ có quả lắc đồng hồ dao động thì nó phải nhận lực đẩy ban đầu. Tuy nhiên, nếu toàn bộ vũ trụ chỉ là một khối các sự khác biệt về trương độ thì lực đẩy có thể nằm bên ngoài vũ trụ. Nói khác đi : lực đẩy đó chỉ có thể là từ ngón tay của Thượng Đế. Chính Ngài — Đức Chúa Cha — đã đặt toàn bộ vốn liếng — là các lực — vào trong vũ trụ. Trên đống vốn liếng đó, mọi sự vật cứ việc ăn tiêu và tiếp tục ăn tiêu cho đến khi tiêu sạch sẽ vốn liếng và cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết của vũ trụ, mà chỉ có “Ngài” mới có thể tạo ra lại được sự chuyển động mới — nếu như Ngài cảm thấy sẵn sàng làm việc đó.

Dĩ nhiên khoa học không nói : “”Năng lượng biến mất”, mà thay vì vậy nó lại nói : “Năng lượng chỉ biến thành lực quán tính, và như vậy thì nó vẫn được bảo toàn”. Tuy nhiên, điều này cũng dễ hiểu như khi người ta nói : “Nhiệt không biến mất mà nó chỉ bị lạnh đi, và như vậy thì nó vẫn được bảo toàn” — đây là điều phi lý đã bị những bộ óc khoa học như E.Mach thẳng thừng phản bác.

Và thì kết luận cuối cùng về toàn bộ vật chất sẽ ra sao?

Những thành tựu khổng lồ của khoa học, mà trên đó nó đã xây dựng nên vũ trụ luận năng lượng học, không nhằm mục đích nào khác ngoài việc tìm kiếm những mối quan tâm của đức tin, mà bản thân đức tin lại không dám đi tìm, nếu như nó muốn duy trì được khả năng tồn tại. Trong nỗ lực đầy dũng cảm muốn giải thích “cái bất khả tri”, tức ý tưởng về Thượng Đế —, như là phần lai tạp trong giai đoạn sơ kỳ, khoa học đã bị đắm tàu một cách đáng thương. Bằng nỗ lực đó, khoa học cho thấy rằng bản thân nó chỉ là sự bội giáo với ý tưởng về Thượng Đế; và để cứu vãn danh dự, khoa học không còn cách nào khác ngoài việc, như con tàu ăn năn hối cải, quay trở về với chủng tộc quyền uy và cổ sơ “của đấng Jehovah”.

Tuy nhiên, cho dù khoa học có nỗ lực giải thích tấn tuồng thế giới không phải là sự rơi, mà thay vì vậy lại cố gắng nội suy thành các lực, thì tất yếu nó vẫn phải nhờ đến một giả thuyết về các lực trung tâm; và giống như ở trên nó đã dọn đường cho độc thần giáo bên ngoài vũ trụ, thì ở đây nó lại mở lối cho phiếm thần giáo bên trong vũ trụ; bởi vì lực trung tâm này, nếu được tin tưởng thực sự chứ không chỉ là một giả thuyết có hiệu lực, sẽ không là gì khác ngoài tinh thần-thế giới của phiếm thần giáo được diễn dịch sang các thuật ngữ vật lý.

Cả đức tin và khoa học, từ nguồn gốc, đều chia sẻ một bản chất chung, bởi vì thực ra cả hai đều trình bày hình thức cộng sinh vĩ đại nhất, trong đó phơi bày bản năng tự tồn của vũ trụ — một vũ trụ được xét như bao gồm toàn bộ vạn hữu. Khi đức tin suy tư để khám phá vạn hữu thì nó lại rơi vào lòng khoa học; còn khoa học, khi suy tư để khám phá vạn hữu thì lại rơi vào lòng đức tin. Và cả hai, bằng sự hiện hiện thuần nhiên của mình, đã chứng minh một chân lý của Phật pháp rằng mọi sinh hoạt tinh thần đều vận hành dưới gánh nặng của Vô minh. Hãy để khoa học, hay hơn thế nữa, hãy để một nhà khoa học tự đặt mình, dù chỉ tạm thời và chỉ vì mục đích cụ thể, tại lập trường giả tạo của một thế giới quan cơ giới, thì chẳng bao lâu ông ta sẽ thực sự bắt đầu nghĩ rằng ông ta đã đem đến cho quan điểm khoa học của mình một sự dối trá, bởi vì đâu đâu ông ta cũng làm việc với khái niệm về sự đồng nhất. Mà còn hơn thế nữa, thậm chí ông ta còn không bao giờ ở trong lập trường duy trì sự khác biệt rõ ràng giữa hai quan điểm. Điều này được chứng minh bởi các vấn đề khoa học vốn đều mang bản chất biện chứng thuần túy, bởi vì chúng đều giả lập khái niệm sai lầm về vạn hữu như là các đồng nhất thể.

 Công việc của chúng ta ở đây là đem ánh sáng của tư tưởng đức Phật soi rọi lên những vấn đề này, và tập trung cả vào việc này.


[1] Tiếng La tinhh trong nguyên tác, có nghĩa là “Những cái tương tự sẽ được điều trị bằng những cái tương tự”.

[2] Năm 1917, khi dịch tác phẩm Materia Medío của Cullen, Hahnemann (1755-1843) gặp một đoạn ghi chú về cỏ cây canh-ki-na. Cullen ghi rằng kí ninh được chiết xuất từ vỏ cây canh-ki-na có thể dùng để trị bệnh sốt rét rất tốt. Hahnemann nghiên cứu sâu hơn và tìm ra phương pháp điều trị vi lượng đồng căn.

[3] Tỉềng La tinhh trong nguyên tác có nghĩa là “Dám biết”; đây là câu nói của Horace, với hàm ý “hãy mạnh dạn sử dụng trí tuệ của bạn”. Nguyên văn như sau : “Dimidium facti quy coepit habet: sapere aude” (Kẻ nào đã bắt đầu việc gì thì xem như đã hoàn thành một nửa : Dám biết). Câu này thường được sử dụng trong các trường đại học sau khi triết gia Kant dùng nó để chỉ chung cả thời đại Khai Sáng (Enlightment) ở Tây phương, khi con người bắt đầu dùng lý trí để tìm hiểu thế giới.

[4] Tiếng La tinh trong nguyên tác, có nghĩa là “vòng lẫn quẫn quái ác”.

[5] Gustav Robert Kirchhoff (1824 –1887) là một nhà vật lý lỗi lạc người Đức, đã đóng góp những kiến thức nền tảng trong các lĩnh vực điện học, quang phổ học, nối tiếng với định luật Kirchhoff.

[6] Nguyên văn là lock tức một đoạn cửa sông hoặc cửa kênh đào, có cổng khóa; trong đó các tàu bè quá cảnh được nâng lên hoặc hạ xuống bằng cách nâng hoặc hạ mực nước của đoạn này.

[7] Copernicus (1473-1543) là nhà thiên văn học Ba Lan đã đưa ra thuyết hệ nhật tâm cho rằng mặt trời nằm ở trung tâm của thái dương hệ, để bác bỏ thuyết hệ địa tâm của Ptolemy (khoảng 85-165) đang thống trị thời bấy giờ, cho rằng trái đất là trung tâm và mặt trời quay chung quanh trái đất.

[8] Immanuel Kant (1724-1804) :  triết gia duy tâm vĩ đại người Đức, chủ trương rằng lý trí là phương tiện, nhờ đó các hiện tượng của kinh nghiệm đựoc diễn dịch thành  tri thức. Các rác phẩm chủ yếu của ông như  Kritik Der Reinen Vernunft (Phê phán lý trí thuần túy) , Kritik der praktischen Vernunft (Phê phán lý trí thực tiễn) dã được nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn  dịch sang tiếng Việt.

[9] Johannes Kepler (1571 – 1630 là một nhà toán học, nhà chiêm tinh học, nhà thiên văn học. Ông nổi tiếng nhất về định luật chuyển động của các thiên thể.

[10] Tiếng Pháp trong nguyên tác, có nghĩa là “lời nói sắc sảo”.

[11] Tên một vị thần trong thần thoại Hy Lạp đã giết cha để giành quyền lực tối cao. Do đó, Kronos luôn lo sợ sẽ bị các con mình truất phế nên mỗi khi vợ là thần Rhea sinh ra đứa con nào, Kronos cũng đều nuốt hết chúng vào bụng. Tuy nhiên, thần Rhea đã đánh lừa được Kronos khi bà sinh ra đứa con cuối cùng là thần Zeus. Sau này thần Zeus soán ngôi của Kronos

[12] Herbert Spencer (1820 –1903) là triết gia và nhà lý thuyết xã hội học Anh. Ông chấp nhận thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin cùng học thuyết của Lamarck, và mở rộng ý nghĩa của sự tiến hóa sang các lĩnh vực xã hội học và đạo đức học.

[13] Thomas Aquinas (1225-1274) là tu sĩ dòng Dominican, nhà thần học và triết  học lỗi lạc. Ông là đại biểu xuất sắc của nền triết học kinh viện, đã áp dụng triết học Aristotle vào thần học. Ông để lại kiệt tác Summa Theologica  (1266-1273).

[14] Một điệu nhảy đôi theo nhịp 3/4, ra đời từ thế kỷ 17 ở Pháp.

[15] Tiếng Pháp trong nguyên bản. “Après nous le déluge!” nghĩa là “sau chúng ta là cơn hồng thủy”. Đây là câu nói nổi tiếng được xem của Madame Marquise de Pompadour, tình nhân của vua Pháp là Louis 15, nói với Louis khi ông này đau buồn sau sự kiện liên quân Pháp -Áo do Soubise cầm đầu bị đội quân phổ của vua Frederick đệ nhị đánh bại tại Rossbach, dù liên quân có quân số đông gấp 3 lần. . Nguyên văn như sau : “Il ne faut point s’affliger. Vous tomberiez malade. Après nous, le déluge!”. (Chăng có gì phải buồn lo cả. Không khéo hoàng thượng sẽ ngã bệnh mất. Sau chúng ta là cơn hồng thủy!”. “Avant nous le déluge!” có nghĩa là “Trước chúng ta là cơn hồng thủy”.

Thảo luận