Có ba loại sách. Thứ nhất là loại sách không đem lại cho ta điều gì cả, mà ta cũng không đòi hỏi gì ở chúng cả. Trên đời này, sách loại đó nhiều vô số, chỉ thuần dùng để giải trí cho những người nhàn rỗi. Thứ hai là loại sách đem đến cho chúng ta điều mới mẻ và đòi hỏi chúng ta phải ghi nhớ. Đó loại sách sổ tay dạy việc. Thứ ba là loại sách tự thân cống hiến và đòi hỏi sự cống hiến của chính chúng ta. Đó là loại sách đem lại món ăn tinh thần theo đúng nghĩa của từ này, và đem lại sự kích thích cho toàn bộ quá trình phát triển của tinh thần, giống như sự kích thích dành cho một thân cây đang tăng trưởng và sẽ không bao giờ mất đi. Cuốn sách này mong muốn được thuộc vào loại đó. Những điều tôi đã trải nghiệm qua cũng sẽ được trải nghiệm bởi người khác.
Sự nghèo nàn trong đời sống tinh thần trong thời đại chúng ta biểu hiện rõ nét nhất trong sự thiếu vắng những kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Chúng ta bị tác động sâu xa tại những điểm mà lẽ ra chúng ta không nên để bị tác động, bởi vì chúng ta tự để cho mình bị tác động bởi những điều chẳng thực sự gây được một ấn tượng nào. Chúng ta đã lầm lẫntrong mối quan tâm của mình rồi. Điều gây hứng thú phải là điều mà chúng ta thấy quan tâm và mong muốn được chia sẻ. Song đã có một sự đảo lộn như thế, khi chúng ta cứ đứng trơ ra như những kẻ bàng quan ngốc nghếch trước những điều cần quan tâm thực sự, trong khi lại luôn sẵn sàng xông qua giông bão để tìm hiểu những chuyện tầm phào. Đối với một người bình thường ngày nay, thì việc tìm tòi soi mói một cách chi ly vấn đề Ki tô giáo có phải là một tông phái của Phật giáo hay không, hoặc Phật giáo có phải là một tông phái của Ki tô giáo hay không, dường như lại đáng quan tâm hơn việc phải tư duy và sống theo những lời giảng dạy của hai tôn giáo đó, từ xưa và bây giờ.
Điều đó đã thành căn bệnh trầm kha trong những điều kiện xã hội mà chúng ta đang sống.
Tư tưởng không hề phải đối chọi với cuộc sống, mà đối chọi với câu hỏi đã trở thành điều thực tế một cách thiết yếu trong tôi, với tư cách là một người suy tưởng. Giống như một ngọn nến thắp sáng được một vùng không gian nào đó, và trước tiên là nó sẽ kêu gọi đến những cây nến khác, thì tư tưởng cũng vậy, nó thắp sáng được một vùng không gian nào đó và trước tiên là nó sẽ kêu gọi đến những đối tượng khác, những đối tượng gợi lên những vấn đề. Cái Tôi là khởi điểm tự nhiên của mọi thế giới quan, nó vừa là khởi điểm khách quan lẫn chủ quan. Bởi vì triết học, trong nỗ lực xây dựng một thế giới quan từ tư tưởng thuần túy, đã tự lụi tàn trong cõi hư không trống rống, thì khoa học tự nhiên đã biến mình thành một sứ giả của thế giới quan; và trong sự đối lập với triết học, nó đã ra sức thực hiện điều đó mà không thèm đếm xỉa đến cái Tôi. Có thể nói rằng : dù có vẻ hoằng đại to tát, song đó là một nỗ lực đã vĩnh viễn chịu thất bại và rốt cuộc vẫn không giải quyết được vấn đề. Từ đó rút ra một sự kiện, đó là chúng ta không còn có được những nền triết học như các bậc hiền nhân và triết gia thời xưa nữa, và cũng không có được một nền khoa học tự nhiên có thể đem lại cho chúng ta sự trợ giúp chân chính.
Ngày nay, tất cả các nhà tư tưởng, tất cả những người tìm kiếm –mà tất cả những nhà tư tưởng đều là những nhà tìm kiếm – đều ở trong một trạng thái quá độ về tinh thần. Và cuốn sách này hy vọng rằng, giống như một khối lượng không khí ở trong trạng thái cân bằng bấp bênh dễ biến thành một cơn lốc xoáy khi có một xung động nhẹ nhàng nhất, cũng thế, tinh thần của thời đại chúng ta trong trạng thái tương tự có thể tự chứng minh được rằng nó còn nhạy cảm hơn nữa trước các xung động, và sẽ đáp ứng được với, nếu không chính xác là cơn bão tố tinh thần, thí ít ra cũng là một cơn gió nhẹ hiu hiu.
Có ba hạng người. Thứ nhất là hạng người vô cảm, giống như loại vật thể trơ trong hóa học. Có thể đánh giá hạng người này bằng câu nói của đức Khổng Tử : “Gỗ mục không đun được”. Thứ hai là hạng có đức tin, có thể so sánh với các vật thể thỏa mãn các ái lực trong hóa học. Đối với hạng người này, chừng nào họ còn sống thì suốt đời họ, ta có thể áp dụng ẩn dụ người ăn mày Lazarus trong lòng của Abraham[1]. Hạng người thứ ba là tầng lớp các nhà tư duy thiếu đức tin, có thể so sánh với các vật thể mới được phát sinh trong hóa học. Có thể dùng câu nói của đức Phật để áp dụng cho hạng người này : “Đời là bể khổ”.
Cuốn sách của chúng tôi chỉ có giá trị đối với hạng người thứ ba, tức hạng người cuối cùng. Tôi gọi những nhà tư duy thiếu đức tin là những người, đối với ý tưởng về cõi vô tận vô biên mà không ai có thể lẫn tránh được, họ không hề muốn phản kháng lại bằng sự khắc khoải tâm lý, sự khắc khoải có thể so sánh với sự trăn trở tinh thần khi chúng ta đã từng trải nghiệm khi đối đầu với một nghịch lý tóan học.
Độc giả của cuốn sách này có thể xem như những người đã được đăng ký trước. Song nó chỉ được viết dành cho một số ít người, và số người đó vẫn rất hiếm hoi.
Có ba câu hỏi luôn luôn ám ảnh con người. Đó là :
Ba câu hỏi này là những chủ thể cứ tranh cãi mãi trong đời sống tinh thần của con người. Đâu phải ai cũng có thể, như vua August thời cổ, rút ra được câu nói plaudite amici [2] từ tấn trò đời. Đối với nhiều người, cuộc đời còn hơn là một vở kịch và còn phù du hơn cả một biểu tượng.
Mặt tiêu cực của cuốn sách này là chỉ ra rằng không hề có một đức tin hay một khoa học nào có thể đưa ra những giải đáp thỏa đáng làm thỏa mãn được những kẻ tư duy. Mặt tích cực của nó là cho thấy các vấn đề trên đã được giải đáp trong tư tưởng Phật giáo, song lại được giải đáp dưới một hình thức lạ lùng đến nỗi, mãi cho tới hôm nay nó vẫn chưa đạt được những thành tựu quan trọng nào[3]. Do được đào tạo để cố gắng quy nạp mọi thứ vào khái niệm theo kiểu một chiều, chúng ta không biết cách diễn dịch các ẩn ngữ của tư tưởng thành văn xuôi hiện đại. Chúng ta không hề biết điều gì tạo ra Niết Bàn (Nirvana)– bản tóm lược của mọi sự Vĩnh Phúc mà không phải là Thiên Đường. Chúng ta cũng không hề biết điều gì tạo nên Nghiệp (Kamma) là thứ đã trói buộc con người vào cõi sinh tử luân hồi từ vô thủy, mà không hề có linh hồn. Và thế là chính pháp, vốn không được các triết gia am hiểu và không được khoa học tự nhiên lưu tâm, đã bị đánh mất đi, trong khi đó lại là những lời dạy chân chính rất cần thiết cho thời đại chúng ta.
Câu hỏi được đặt ra : Như thế nào mà đạo Phật, một cách thiết yếu về phương diện tinh thần, hãy mãi còn xa lạ với chúng ta như là một điều kỳ lạ?
Đối với vấn đề này, tôi xin đưa câu trả lời ngắn gọn. Đó là do chúng ta chưa hiểu được đạo Phật. Hiển nhiên đây cũng là điều đáng buồn trong các tác phẩm về Phật giáo đã được xuất bản. Ở đây, tôi không muốn ám chỉ đến những công trình biên khảo nông cạn đầy đẫy những sai lầm. Chính những tác phẩm ưu việt nhất về chủ đề này mới cho thấy đạo Phật vẫn vượt quá xa tầm lĩnh hội của chúng ta như thế nào.
Tôi đã chuẩn bị để nghe những lời chỉ trích : thứ nhất, tôi đã nêu lên vấn đề tranh luận tại nhiều nơi; thứ hai, tôi đã không học hỏi đầy đủ tính khiêm tốn giả vờ như thường thấy trong những cuốn sách của chúng ta, khi chúng đề cập về vấn đề thế giới quan.
Về điểm thứ nhất, tôi có thể khẳng định rằng không bao giờ tôi tranh luận chỉ để tranh luận suông; tôi chỉ tranh luận vì tư tưởng Phật giáo, mà sự vĩ đại của nó giống như một tòa lâu đài nổi bật lên khi so sánh với những công trình kiến trúc khác. Giống như những kim tự tháp của Gizeh soi bóng trên cát, mà nền sa mạc mênh mông không đưa ra được một tiêu chuẩn đo lường tương thích nào để so sánh với sự vĩ đại của chúng; thì cũng thế đối với tư tưởng Phật giáo, khi được phóng chiếu trên cõi vô tận vô biên thì không có gì có thể so sánh được với sự hoằng đại của nó cả. Người ta phải đặt bên cạnh tư tưởng Phật giáo những kiến trúc tinh thần khác, nếu như người ta có thể khai mở được tư tưởng đó trong những sự tương xứng diệu kỳ. Thật dễ hiểu trong trường hợp này, sự so sánh đơn giản sẽ sẵn sàng đưa đến sự tranh luận.
Về điểm thứ hai, ý kiến tôi như vầy : hoặc người ta
phải đóng góp được một điều gì đó, trong trường hợp này thì không cần phải giả
bộ khiêm tốn; hoặc người ta không có gì để đóng góp cả, và trong trường hợp này
thì cũng chẳng nên viết lách làm gì. Tôi dám nói như thế vì tôi không đưa ra
điều gì từ bản thân tôi cả mà nhân danh một đấng Vĩ Đại hơn. “Chúng ta không
biết nhưng không có lý do chắc chắn nào để nghi ngờ điều này điều nọ” cùng
những câu nói đại loại như thế, dầu được che giấu song luôn tìm mọi cách lén
lút để len lỏi vào chen chân ngang hàng với chân lý, những câu nói đó không bao
giờ tìm thấy trong lời dạy của đức Phật. Chỉ có đấng biết được “Như thị” mới
nói được một cách đơn giản “Như thị”.
[1] Điển tích trong kinh Thánh : “Lại có một người nghèo, trên là La-xa-rơ, nằm ngoài cửa người giàu đó, mình đầy những ghẻ. Người ước ao được ăn những đồ ở trên bàn người giàu rớt xuống; cũng có chó đến liếm ghẻ người. Vả, người nghèo chết, thiên sứ đem để vào lòng Áp-ra-ham; người giàu cũng chết, người ta đem chôn. Người giàu ở nơi âm phủ đang bị đau đớn, ngước mắt lên, xa thấy Áp-ra-ham, và La-xa-rơ trong lòng người” (Tân ước, Lu-ca 16:20-23, bản tiếng Việt). Thành ngữ “trong lòng Abraham (Abraham’s Bosom) có nghĩa là được hưởng lạc phúc trên Thiên đường. (Chú thích của người dịch. Các chú thích trong nguyên tác của tác giả Paul Dahlke sẽ ghi thêm [P.D])
[2] Tiếng La tinh trong nguyên bản. Nguyên câu đầy đủ là “Plaudite, amici, Comoedia finita est” (Hãy vỗ tay đi các bạn, vỡ tuồng đã diễn xong rồi). Tương truyền đây là câu nói của vị hoàng đế La Mã đầu tiên là August, trước khi băng hà văo ngày 19 tháng 78 năm 14 trước Công nguyên. Trước khi nhắm mắt, ông cho gọi vợ con bạn bè lại để từ giã và bảo: “Nào các bạn hãy vỗ tay đi, ta đã diễn xong vai của mình trong tấn trò đời rồi”
[3] Sách này viết đã lâu, hiện nay Đức là một trong những quốc gia nghiên cứu Phật giáo vào bậc nhất thế giới.
Thảo luận